QUI NHƠN[1] – THỊ NẠI TRONG CHIẾN LƯỢC VỆ QUỐC VÀ KIẾN QUỐC

Trương Đình Hiền

Vào chuyện:

Ngày nay, khi bàn đến các lãnh vực kinh tế chính trị trên thế giới, người ta thường sử dụng thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics)[2] hay “địa kinh tế” (Geo-economics)[3] để chỉ những mối tương quan, những ảnh hưởng, giao thoa, những sức mạnh và điều kiện tương tác, áp lực… lên nhau và lẫn nhau của các quốc gia, các châu lục, các vùng lãnh thổ, các khối kinh tế-văn hoá-tôn giáo, các hệ thống chính trị…

Vì thế, chương trình “vệ quốc và kiến quốc” của bất cứ quốc gia dân tộc nào cũng đều liên quan mật thiết đến “địa chính trị”; nói cách khác, sự ổn định và phát triển, tồn tại hay biến mất của một quốc gia luôn kèm theo vấn đề “lãnh thổ” hay “không gian sống” và những vị trí chiến lược trên đó, như Klaus Dods phát biểu: “Một nhà nước mạnh mẽ và thành công sẽ không bao giờ thoả mãn với những giới hạn đang có, và sẽ tìm cách bành trướng về lãnh thổ và bảo đảm “không gian sống” (living space)…Tìm kiếm không gian sống là một quy luật Địa chính trị cơ bản và không thể thay đổi – theo đúng nghĩa đen, là một thực tế của cuộc sống trên trái đất”[4].

Nhờ được hội tụ các yếu tố chủ lực rất thuận lợi về phương diện “địa chính trị” cũng như “địa kinh tế” như: sở hữu nhiều vị trí chiến lược về giao thương (đường bộ, đường hàng không cũng như đường biển), cường quốc dân số, ổn định chính trị, ngôn ngữ và văn hoá mang tính hội nhập cao, truyền thống kiến quốc và vệ quốc thành công, trình độ dân trí phát triển…, trải qua nhiều thế kỷ, đặc biệt, kể từ thế kỷ 21 nầy, Việt Nam trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều thế lực trong bang giao quốc tế.

Thật vậy, không phải chỉ thời nay, giải đất hình chữ S với Biển Đông bao bọc nầy, mà suốt chặng đường 20 thế kỷ qua, đã là vùng “địa chính trị” từng diễn ra những cuộc tranh chấp, binh biến, xâm lăng, đô hộ; những cuộc chiến tranh sinh tử, một mất một còn, giữa các quốc gia Trung Quốc, Việt Nam, Champa, Chân Lạp Khmer, Xiêm….

Vào đầu thế kỷ 19, sau khi tiêu diệt Nhà Tây Sơn (1802), thu giang sơn về một mối, cơ bản Triều Nguyễn Gia Long đã kiến tạo nên một đất nước Việt Nam thống nhất như chúng ta đang thấy hôm nay. Tuy nhiên, để có được một giải đất hình chữ S duyên dáng bên bờ Biển Đông, một đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập, phồn thịnh hoà bình như hôm nay, muôn thế hệ người Việt chúng ta đã phải trả cái giá máu xương và mồ hôi nước mắt không nhỏ cho công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” lẫy lừng trải qua “những ngàn năm lịch sử”.

Nếu đặt công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” nầy trong lăng kính “địa chính trị” hôm nay, chúng ta sẽ thấy hiện lên những địa danh, vị trí chiến lược, có thể nói được, là yếu tố quyết định cho một triều đại, một hệ thống chính trị một thời của Việt Nam. Trong số đó phải kể đến THỊ NẠI - QUI NHƠN, một địa danh, một vị trí chiến lược, mà nếu đế quốc Champa giữ được trong trận nam tiến của vua Lê Thánh Tôn năm 1471 thì “Đồ Bàn sẽ không bị xoá tên” và sẽ không có BÌNH ĐỊNH-QUY NHƠN của Việt Nam như hôm nay. Cũng vậy, nếu nhà Tây Sơn không bị đại bại trong trận hải chiến kinh hoàng với hạm đội của Nguyễn Ánh trong đêm “Thị Nại đẫm máu năm 1801”, thì liệu Bắc, Trung, Nam đã về một mối hay chưa; hoặc giả, diện tích Việt nam có thể rộng gấp đôi bây giờ?

Chính trong cái nhìn đó, xin đóng góp vài gợi ý suy tư trong chủ đề “QUI NHƠN-THỊ NẠI TRONG CHIẾN LƯỢC VỆ QUỐC VÀ KIẾN QUỐC”.

I. ĐỒ BÀN - THỊ NẠI: YẾU HUYỆT VÀ CƠ ĐỒ

Trong vòng 200 năm, từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 15, dãi đất dọc theo bờ Biển Đông mang dáng hình chữ “S” mà hôm nay chính là vùng lãnh thổ của nước Việt Nam ta đã từng là vùng đất của ba quốc gia lúc thịnh lúc suy mà “tương quan chiến tranh” chiếm thời gian gần như nhiều hơn “tương quan hoà bình”:

- Phía bắc là Đại Việt với các vua triều Lê mà mạnh nhất là triều đại của vị minh quân Lê Thánh Tôn (1460-1497)[5].

- Phía trung là Champa, cực thịnh thời vua Chế Mân (Jaya Sinhavarman IV trị vì từ năm 1285 đến năm 1305), suy yếu dần thời Chế Bồng Nga (Po Binnosuor, khoảng từ năm 1328 đến năm 1373)[6], và bị suy vong thời Trà Toàn (? – 1741)[7].

- Phía nam là Chân Lạp (Khmer), một đế quốc hùng mạnh với một lãnh thổ bao la, rực rỡ vào các triều vua Jayavarman VIII (trị vì 1243-1295), Srindravarman (trị vì 1295-1309) )…, để rồi suy tàn sau khi người Thái (Ajutthaya) chiếm thánh địa Angkor và người Champa giành lại những vùng đất phía nam trù phú[8].

Tuy nhiên, “bản đồ của 3 vương quốc bên bờ Biển Đông” đó gần như đã được vẽ lại hoàn toàn sau biến cố lịch sử: chiến dịch “Bình Chiêm năm 1471” của quốc vương Đại Việt, Lê Thánh Tôn; và thời điểm đó cũng là cột mốc ghi nhận vương quốc Champa hùng mạnh một thời ở Đông Nam Á đã trở thành một “nhược quốc” khiêm tốn trấn thủ vùng Panduranga (Phan Rang, Bình Thuận) cho đến khi chính thức bị xoá tên trên bản đồ thế giới vào thế kỷ 17 dưới triều các vua nhà Nguyễn của Việt Nam[9].

1. Từ bài học chiến dịch “Bình Chiêm 1471”:

1.1. Một thoáng nguyên nhân:

Như đã nói trên, vương quốc Champa thời Trà Toàn tương ứng với Đại Việt thời vua Lê Thánh Tôn; và tương quan chính trị giữa vương triều Đại Việt phương bắc và Chiêm Thành phía nam, vốn đã xấu đi từ thời Chế Bồng Nga[10], đã trở thành hai thế lực đối đầu “một mất một còn” kể từ khi Trà Toàn thay thế bào huynh Trà Duyệt lên ngôi vương đế.

Ngoài yếu tố “con người” như cách nhận định của sử liệu “ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ” đã dẫn (Ghi chú 7), cuộc chiến sống còn của hai vương quốc kề nhau Việt – Chiêm, như cách nhận định của Graham Allison, “Đó là cuộc chiến được dẫn dắt và thúc đẩy bởi những yếu tố mang tính ‘định mệnh’, hầu như không thể tránh khỏi”[11]; và đây cũng là ý kiến mà tác giả trên đã căn cứ nơi tác phẩm của một văn hào thời Hy Lạp cổ: Cuốn “Lịch sử chiến tranh Peloponnese” của Thucydides, trong đó, có một câu phát biểu đã trở thành một biểu ngữ “bẫy Thucydides”: “Chính sự trỗi dậy của Athens và nỗi sợ hãi mà nó gây ra ở Sparta đã khiến chiến tranh trở thành điều cốt yếu”[12].

Và tất cả những điều trên gần như bàng bạc trong “Sắc chiếu bình Chiêm” của vua Lê Thánh Tôn mà chúng ta có thể đọc thấy qua vài trích dẫn: “Khi Nhân Miếu lên ngôi cả, thì giống loài chúng đã rất đông. Nương chốn Cổ Luỹ như hang cầy, cậy thành Chà Bàn như tổ kiến. Điên cuồng mất trí, nó xưng bừa là cha chú, gọi đức vua ta là cháu con; mất đức ra oai, lại nhận liều là trời phật, coi nước ta là tôi tớ. Tội ác chất chồng, giấu sao cho nổi? Những lời lăng nhục không thể nêu tường… Trẫm thể lòng thượng đế, nối chí vua cha. Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân thu, định mưu kế vạn toàn cho yên đất nước. Cứu muôn dân thoát khỏi vòng điêu đứng, dẹp nước loạn đã trái đạo lâu năm. Đánh phản nghịch, cứu sinh dân, thánh triết phải tỏ bày uy vũ; trồng mầm nhân, nhổ cội ác, đất trời cũng lấy đó làm lòng…”[13].

Và cả hai đã rơi vào cái “bẫy Thucydides”[14] mà chiến trường quyết định lại là chính đế đô của vương quốc Champa lừng lẫy một thời !



1.2. Đồ Bàn: viễn tượng “địa chính trị”

1.2.1. Quốc đô của hai vương quốc:

Từ thế kỷ thứ 10 đến 15, có thể nói được vương quốc Champa đã trải qua những thăng trầm dâu bể mà dấu ấn lịch sử ghi đậm qua ba tên gọi cũng là ba “quốc danh” hay “quốc đô”: Indrapura (Đồng Dương) phía bắc (Quảng Nam tới Quảng Bình); Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn) miền trung (Bình Định tới Quảng Ngãi); và Panduranga (Phan Rang tới Bình Thuận). Riêng kinh đô Vijaya (Đồ Bàn) là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị quan trọng nhất và tồn tại xuyên suốt năm thế kỷ, cho đến khi thất thủ và thuộc về Đại Việt trong trận đại chiến năm 1471[15]. (x. Đồ Bàn. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_B%C3%A0n).

Chắc chắn, cũng vì chiếm vai trò quan yếu trong vị thế “địa chính trị” đó, nên hơn 300 năm sau, Nhà Tây Sơn đã quyết chọn chính vùng lãnh địa nầy để phát khởi cơ đồ và xây dựng quốc đô mang tên “Hoàng Đế Thành”, như nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang ghi nhận: “Trên cùng một địa điểm, lần lượt hiện diện hai toà thành của hai vương triều, hai tộc người cách nhau hơn 300 năm, với hai tên gọi: Đồ Bàn (Champa), Hoàng Đế (nhà Tây Sơn), cùng giữ vai trò kinh đô trong mỗi giai đoạn lịch sử…”[16].

Nhưng để có một khái niệm tổng quát nhưng cũng khá đầy đủ về “vị thế chiến lược” của “Đồ Bàn”, chúng ta có thể đọc lại cách mô tả của tác giả Nguyễn Thanh Quang, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về “Qui Nhơn-Bình Định học”:

“Việc xây dựng kinh thành Đồ Bàn cho thấy rằng: người Chăm xưa rất giỏi trong việc sử dụng và kiến tạo địa hình. Một tài liệu viết thời vua Thành Thái “Thành Chà Bàn (Đồ Bàn), dựa vào núi Long Cốt để làm thế vững. Thành hình vuông rộng hơn 10 dặm, mở 4 cửa, xây bằng gạch, rào gỗ, tuy không có hào rãnh mà vẫn kiên cố…”.

H. Parmentier – một kiến trúc sư người Pháp, sau khi khảo sát nghiên cứu, viết về thành Đồ Bàn như sau: “Trên đường cái quan cách thành Bình Định mươi cây số, thấy vết tích một khu thành Chàm, mà kích thước được xếp hàng đầu trong số những công trình quân sự của dân tộc này… Một nhánh sông Bình Định bảo vệ phía Bắc… Tường bằng đất ốp đá ong… tòa thành được tạo bởi những gò đất có tính toán…”. Mặt khác, thành Đồ Bàn còn có tấm lá chắn vững chắc bảo vệ mặt biển, trấn giữ cảng Thị Nại (một thương cảng lớn lúc bấy giờ), cách thành Đồ Bàn khoảng 10km, đó là thành Thị Nại.

Địa thế kinh đô Đồ Bàn cũng chính là địa thế của thành Hoàng Đế được Nguyễn Văn Hiển nhận xét: “Thành Đồ Bàn được xây dựng vào trung tâm của nước, tựa vào thế vững của núi Long Cốt, non xanh bày hàng trước mặt, nước biếc uốn réo xung quanh… bên hữu lấy núi Phong làm lũy, bên tả lấy bể làm hào; núi Cù Mông như rồng cuộn khúc ở phía trước; bến Thạch Tân như cọp hùng cứ ở mặt sau, quả là nơi hiểm trở thiên nhiên vậy”.

Thành Hoàng Đế có quy mô lớn nhất trong hệ thống thành cổ Việt Nam còn đến nay (có chu vi 7.575m). Được coi là nơi “thắng địa”, vị trí cao thoáng, lấy núi Mò O làm tiền án phía Đông, núi Tam Sơn làm lá chắn phía Nam, phía Tây là những dải đồi thấp nối tiếp nhau trải dài tạo tấm lá chắn giăng trước lũy. Ba mặt thành, phía xa là các dòng sông uốn lượn như hào tự nhiên che chắn. Thành được xây dựng trên thế đất hội tụ núi sông liền kề, liên kết điệp trùng, vừa có thế công vừa có thế thủ…”[17].

1.2.2. Miền đất định hình:

Đồ Bàn, thực ra, không chỉ dừng lại ở tầm mức “giá trị chiến lược quân sự” mà, theo cách đánh giá chuyên môn về “địa lý”, còn là “miền đất định hình” toàn bộ cấu trúc xã hội: “Miền đất chúng ta sống vẫn luôn định hình chúng ta. Nó định hình những cuộc chiến tranh, quyền lực, những phát triển về chính trị và xã hội của những dân tộc hiện giờ đang cư trú trên mọi phần của địa cầu (…); không chỉ là cảnh quan tự nhiên – như những rào cản tự nhiên của núi non hoặc sự kết nối của mạng lưới sông ngòi – mà còn cả về khí hậu, nhân khẩu, các khu vực văn hoá và khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nhân tố như vậy có thể tác động quan trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau của nền văn minh, từ chiến lược chính trị và quân sự cho đến sự phát triển xã hội con người, bao gồm cả ngôn ngữ, thương mại và tôn giáo”[18].

Nhận xét trên quả thật không ngoa, khi 200 năm sau, chính vùng đất nầy, đúng hơn, vùng ngoại biên phía đông, đã được các vị tiên vương triều Nguyễn chọn cảng biển Nước Mặn là trung tâm giao thương chiến lược ở tuyến đầu biên giới phía nam; riêng các nhà truyền giáo Kitô giáo phương Tây, cũng đã chọn nơi đây là trung tâm truyền giáo chính thức và cũng là cư sở đầu tiên để kiến tạo chữ Quốc ngữ[19]. Và sau đó một thế kỷ nữa, những “anh hùng áo vải Tây Sơn” đã chọn miền “phế tích Đồ Bàn” để xây dựng “Thành Hoàng Đế”[20], trung tâm của một vương triều, cho dù chỉ tồn tại có mấy chục năm (1771-1802), nhưng đã làm nên một “đế chế oai hùng” của dân tộc Việt vào thế kỷ 18, với những cuộc chiến thắng lẫy lừng quân Thanh phía bắc và quân Xiêm phía nam[21].

1.3. Thị nại thành: Hệ thống phòng thủ đắc địa:

Nếu nhắc đến địa danh Đồ Bàn, quốc đô của vương quốc Champa và sau đó, trên phế tích của “Đồ Bàn” là “Hoàng Đế Thành” của vua Thái Đức nhà Tây Sơn, thì không thể không đề cập tới Thị Nại, một thương cảng[22] và quân cảng quan trọng bậc nhất của cả hai triều đại trên; đây cũng là “vị trí chiến lược”, một bức “phên dại thiên nhiên” cũng là yếu huyệt để che chắn cho thành Đồ Bàn thời Champa hay Hoàng Đế thành, Qui Nhơn thành thời Tây Sơn.

Chúng ta có thể đọc lại đôi dòng giới thiệu về vị trí chiến lược của Thị Nại trong một khảo luận khá chuyên sâu về của tác giả Đào Đức Chương: “Vào cuối thế kỷ thứ 10, vua Chăm là Hari Varman II (988- 998), dời đô đến miền Bắc Vijaya, lập kinh thành Đồ Bàn, nay là thôn Bắc Thuận và Nam Tân (tức thôn Nam An cũ thuộc phạm vi thành, hợp nhất với Tân Ninh) thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Kinh đô mới có địa thế phòng thủ tốt. Ba mặt Tây, Nam, Bắc đều được núi non che chở, phía Đông là đồng bằng có núi Long Cốt (cao 43 mét) làm tiền án ngó ra đầm Thị Nại. Vì vậy, muốn chiếm Đồ Bàn phải tiến quân vào Thị Nại, yết hầu của kinh đô. Nơi đây kín đáo, có thể chứa cả ngàn chiến thuyền, thuận tiện cho việc đổ bộ cùng lúc hàng vạn quân. Bởi ưu thế đó, Thị Nại đã gắn liền với lịch sử qua những trận đánh lớn, một mất một còn. Theo Việt Sử Tân Biên và các tài liệu sử khác, ngót 10 thế kỷ qua, đầm Thị Nại ít nhất cũng đã 12 lần có mặt trong quân sử”[23].



1.4. Tan yếu huyệt, mất cơ đồ.

Trong thời vương quốc Champa, cảng Thị Nại trải qua bốn cuộc đại thuỷ chiến; trong số đó có hai lần chiến thắng nghiêng về Champa[24] và hai lần Champa đại bại[25]. Riêng lần sau cùng khai diễn vào năm Canh Dần (1470) và kết thúc vào năm Tân mão (1471) trong chiến dịch “Bình Chiêm sách” của vua Lê Thánh Tôn, khi tiền đồn Thị Nại vỡ trận cũng là lúc Đồ Bàn thất thủ sau đó không lâu[26]. (x. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)[27].

Có thể nới được, vương quốc Champa một thời lừng lẫy với kinh đô Đồ Bàn và quân cảng Thị Nại bị xoá tên từ năm 1471. Vùng đất nầy chính thức trở thành Thừa Tuyên Quảng Nam thuộc Đại Việt. Vua Champa là Trà Toàn bị bắt mang về kinh; sau mấy tháng lâm bệnh chết và bị chém bêu đầu như một tên tội phạm. Một bộ tướng của Trà Toàn là Bô Trì Trì mang theo một nhóm tàn quân vào cát cứ tại Phan Rang tái lập quốc và xin triều cống nhà Lê như một tiểu quốc ngang tầm với Nam Bàn và Hoa Anh lúc bấy giờ[28].

Phải chăng vì biết vận dụng hiệu quả các “yếu điểm chiến lược” của Thị Nại mà người Champa đã hai lần chiến thắng cuộc xâm lược của nhà Minh (1284) và nhà Trần (1377), giữ vững kinh đô Đồ Bàn. Trong khi đó, với sự chủ quan và sơ hở nhiều mặt, triều đình Champa của Trà Toàn đã để mất Thị Nại, dẫn đến “Đồ Bàn thất thủ”; từ đó, coi như vương quốc hùng mạnh Champa điêu tàn. Đúng là: khi “yếu huyệt đã tan” thì “cơ đồ cũng diệt vong” !

2. Đến kinh nghiệm “Hải chiến 1801”:

Như đã nêu trên, triều đình Trà Toàn của vương quốc hùng mạnh Champa, khi để mất Thị Nại – Đồ Bàn, đã vĩnh viễn làm sụp đổ cơ đồ của một vương quốc mà theo dấu chứng của “Văn hoá Sa Huỳnh”, đã xuất hiện và tồn tại cả ngàn năm lịch sử[29]. Và lịch sử đã lặp lại sau đó 300 năm với triều đại Tây Sơn mà cuộc “hải chiến kinh hoàng đêm 16 tháng Giêng năm Tân Dậu” (28.02.1801)[30] tại quân cảng Thị Nại như là một “hồi chuông báo tử” cho một vương triều ngắn ngủi nhưng lẫy lừng và hùng mạnh vào hạng bậc nhất của các triều đại Phong kiến Việt Nam[31].

2.1. Một thoáng Tây Sơn:

Chuyên đề “lịch sử về Triều đại Tây Sơn” được biên soạn và nghiên cứu rất nhiều và phong phú, cả xưa và nay, cả nội địa lẫn hải ngoại, của tác giả người Việt lẫn người ngoại quốc, với nhiều thể loại: biên niên sử liệu, chuyên đề nghiên cứu, hồi ký, tường trình, tiểu thuyết, truyện ngắn…. Riêng tác giả George Dutton, Giáo sư Ngôn ngữ và Văn hoá châu Á thuộc trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA), Hoa Kỳ, chỉ trong một tác phẩm “Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn” (The Tây sơn uprising) đã liệt kê tới 218 tác phẩm và tài liệu tham khảo liên quan; trong đó có 117 danh mục Việt ngữ và 101 danh mục ngoại ngữ[32].

Ở đây, trong bài nhận định mang tính “gợi ý suy tư” nầy, chỉ xin dừng lại một số sự kiện liên quan đến biến cố mang tính “bước ngoặc” dẫn tới sự sụp đổ của triều đại Tây Sơn: cuộc thảm bại trong trận hải chiến Thị Nại 1801 của hải quân Tây Sơn.

Tuy nhiên, để có một kết luận khách quan và tương đối chuẩn xác cho sự kiện trên, có lẽ chúng ta nên dừng lại để tìm thêm: lý do nào khiến cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đã có những thành công vang dội: chỉ trong một thời gian ngắn đã đánh đổ hai triều đại Trịnh, Nguyễn từng tồn tại mấy trăm năm để thống nhất toàn bộ đất nước Bắc, Trung, Nam, đại thắng hai cuộc xâm lược: quân Xiêm ở miền nam và quân Thanh ở miền bắc; và lý do nào khiến họ thất bại mau chóng trước một Nguyễn Ánh mà trước đó 20 năm, đã bị họ đánh cho không còn manh giáp, phải bỏ nước lưu vong !

2.2. “Nhà Tây Sơn”: bước đầu thành công trong viễn tượng “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà”:

2.2.1. Thiên thời: Khi “mệnh trời” đã điểm:

Để hiểu được vị thế và sự xuất hiện khá đặc biệt của Nhà Tây Sơn trên vũ đài chính trị Việt Nam, các nhà nghiên cứu thường cho rằng phải đặt nó trong toàn bộ bối cảnh chính trị và xã hội Việt nam vào thế kỷ XVIII, một thế kỷ mà theo giáo sư George Dutton, là “một trong những thời kỳ quan trọng vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam”. Xin trích:

“Cách tốt nhất để bắt đầu tìm hiểu về “đoàn quân ó” xuất phát từ ấp Tây Sơn là đặt chúng vào khuôn khổ thời gian và địa lý của thời kỳ được gọi là thế kỷ XVIII kéo dài ở xứ sở Đại Việt. Khuôn khổ thời gian xác định thời kỳ này kéo dài từ năm 1672, khi cuộc chiến kéo dài nửa thế kỷ giữa các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã dừng lại trên thực tế, đến năm 1802, khi cuộc xung đột giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn đã kết thúc. Đây là một trong những thời kỳ quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam, biểu thị bằng sự mở rộng dân số về phía nam cùng những thay đổi về mô hình kinh tế, sự tham gia ngày càng nhiều của các thương nhân, lính đánh thuê và giáo sĩ châu Âu, sự bất mãn của dân chúng dâng cao, bùng nỗ và được làm cho tồi tệ hơn bởi các thế lực chính trị và tự nhiên”[33] (Hết trích).

Riêng tại Đàng Trong, vương triều chúa Nguyễn, sau cái chết của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765, đã rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị tại nơi chóp bu quyền lực với sự chuyên quyền và cai trị thất đức của quyền thần Trương Phúc Loan, nguyên nhân chính dẫn tới cuộc nổi dậy của Tây Sơn: “Các nhà chép sử đương thời và về sau đều cho rằng chính những mưu đồ của Trương Phúc Loan và nhân cách đáng khinh của ông ta là nguyên nhân gây ra sự bất mãn của dân chúng và làm gia tăng các cuộc nổi dậy chống chính quyền. Sử biên niên thế kỷ XIX của nhà Nguyễn đưa tiểu sử chính thức của Loan vào phần “Nghịch thần, gian thần đối với triều đình”. Khi miêu tả về vị phụ chính này, sử đã nhấn mạnh đến những khiếm khuyết cá nhân và chính trị của ông ta: ‘… Dẫu được chúa thân yêu, nhưng chỉ say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước. Loan thấy thế bèn không kiêng nễ gì, bán quan, buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ. Trong khoảng 4,5 năm, tai dị hiện ra luôn, đất động, núi lở, sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp tứ tung’…”[34].

Đó chính là “thời cơ thuận tiện” để anh em Nhà Tây Sơn “phất ngọn cờ đào”, thực thi thiên mệnh mà vị “quân sư” là thầy giáo Trương Văn Hiến đã cố tình hiện thực hoá lời tiên tri đang được kháo láo trong dân tại vùng đất Qui Nhơn “Tây khởi nghĩa, bắc thu công”[35]; và đây cũng là những tư tưởng chủ đạo của các “danh sĩ Bắc Kỳ” và là “cựu thần nhà Lê” về quy phục Tây Sơn như Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm[36]… dùng để biện minh cho sự hợp tác của chính mình và tính chính danh của vương triều Tây Sơn sau khi các vương triều Nguyễn, Trịnh thi nhau sụp đổ.

2.2.2. Địa lợi: Non bao thuỷ bọc:

Không cần phải lặp lại “vị trí mang tầm mức chiến lược” của Thị Nại và Đồ Bàn mà nhà Tây Sơn trong thuở đầu khởi nghĩa đã chọn làm căn cứ địa chính thức để từ đó “đánh nam dẹp bắc”, định đô (Hoàng Đế thành) và “thu giang sơn về một mối. Ở đây, xin nhấn mạnh vị trí đặc biệt của vùng đất mang tên “Tây Sơn ấp”, bao gồm cả “Tây Sơn thượng, trung và hạ” mà những bức tường thành thiên nhiên của dãy Trường sơn như luỹ hào che chắn và điểm tựa an toàn của một cứ điểm quân sự[37], và là vị trí chiến lược thích hợp cho một cuộc khởi nghĩa, xây dựng cơ đồ[38] của nhà Tây Sơn trong những năm tháng đầu tiên. (Xem thêm: tính chất đặc trưng của vùng đất cao dọc Trường Sơn gọi là Zomia trong tác phẩm “NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA DÒNG MEKONG HÙNG VĨ” của Brian Eyler)[39].



2.2.3. Nhân hoà: Nghĩa quân và ghĩa sĩ:

Kể từ khi Nguyễn Hoàng mang kiếm vào trấn thủ Thuận Hoá (Mậu Ngọ 1558) cho đến khi Nguyễn Phúc Thuần (đời chúa Nguyễn thứ 9) tử trận tại Long Xuyên năm 1777 trong chiến dịch “bình Nam” của Tây Sơn, vương triều chúa Nguyễn đã kiến lập được một dãi đất dài rộng từ sông Gianh tới Miền Tây Nam Bộ, giáp giới Chân Lạp. Chính sự mở rộng biên giới về phương nam nầy đã khiến chính quyền trung ương của chúa Nguyễn tại Phú Xuân không thể kiểm soát và quản lý hiệu quả các vùng đất mới, trong đó có Qui Nhơn, nơi dung thân của đủ mọi thành phần: di dân, tù binh Đàng Ngoài, dân Chăm sống sót, sứ quân nổi loạn, băng nhóm giang hồ…. Đây là những nhóm người sẵn sàng quy tụ chung quanh những ai có gan và có chí “xưng hùng xưng bá”, để có cơ may “đổi đời”; hay theo tâm lý thông thường, để “thoả chí tang bồng hồ thỉ” như câu ca dao đã có tự ngàn xưa: “Làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài, đoài yên”. (x. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn)[40].

Và anh em nhà Tây Sơn đã đáp ứng được khát vọng đó, như chứng từ của một giáo sĩ người Tây ban Nha là cha Diego de Jumilla mà tác giả George Dutton đã trích dẫn: “Không làm tổn hại người hay tài sản. Trái lại, có vẻ như họ muốn mọi người Đàng Trong đều được bình đẳng; họ vào nhà của người giàu, và nếu như họ được tặng một món quà biếu nào đó, họ không làm hại gì. Nhưng nếu họ bị kháng cự, họ tịch thu những món đồ xa xỉ nhất rồi mang chia cho người nghèo, chỉ giữ lại cho họ gạo và thức ăn… (vì thế, người dân) bắt đầu tôn xưng họ là những kẻ cướp nhân từ và bác ái, được nghèo khổ kính trọng”[41].

Nói cách khác, Nhà Tây Sơn đã vận dụng triết lý chính trị “chính danh, chính nghĩa” của Khổng Giáo để định hướng và biện minh cho cuộc khởi nghĩa và chấp chính của mình, nên “quân đội Tây Sơn gồm không chỉ đơn thuần là lính, mà là nghĩa quân, được chỉ huy bởi các nghĩa sĩ”[42].

Trong yếu tố “Nhân hoà” nầy, không thể không kể đến vai trò mang tính “chủ công” và kiệt xuất của Nguyễn Huệ, một trong hai người em của “thủ lĩnh Nguyễn Nhạc”, và sau nầy là Hoàng đế Quang Trung, nhân vật mà sử Việt gọi là “xuất quỷ nhập thần”[43], “giảo, kiệt, thiện chiến”[44]… và những người Âu Châu không ngần ngại gán cho danh xưng “Attila khác” hay “Alexandre Đại đế”[45]. Và cũng từ nhân vật kiệt xuất nầy, nhà Tây Sơn đã quy tụ được những viên tướng tài ba như “tứ kiệt”: Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Dũng và các danh tướng khác như Nguyễn Văn Tuyết, Phan Văn Lân, Đô Đốc Bảo, Đô đốc Mưu, Đô Đốc Lộc…; cùng các võ tướng và văn thần khác đến từ hàng ngũ của chúa Trịnh, vua Lê như Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Hửu Chỉnh, Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm (Thời Nhiệm), Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Thiếp, …[46].

2.3. Thuỷ chiến Thị Nại 1801: Hồi chuông báo tử:

Trước khi dẫn đến cuộc “thảm bại Thị nại” năm 1801, chắc chắn nhà Tây Sơn đã phải đối diện với những “thách đố bất lợi” hay những nguyên nhân xa gần như sau:

2.3.1. Những “bất lợi chung” hay “nguyên nhân xa:

Nếu như vào buổi đầu khởi nghĩa, Tây Sơn đã tranh thủ được ba yếu tố quan trọng để “dựng nước”: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì vào buổi “thoái trào”, gần như họ cũng đã đánh mất ba yếu tố then chốt đó:

- Thời đã hết: Suốt trong 24 năm kể từ ngày vua Thái Đức Nguyễn Nhạc Đăng quang (1778) cho đến khi vua Quang Toản bị Nguyễn Ánh xé xác năm 1802, triều đại Tây Sơn như chìm ngập trong những cuộc chiến liên tu bất tận: cuộc chiến từ Phú Xuân ra Thăng Long để thu phục Bắc Hà của Chúa Trịnh, vua Lê (1786); cuộc chiến từ Qui Nhơn tới Gia Định để đập tan ý đồ khôi phục của Nguyễn Ánh. Trong những cuộc chiến mang tính “nội chiến” đó, phải kể đến hai trận chiến lớn với quân Xiêm ở miền Nam (1785) và quân Thanh ở miền Bắc (1789). Khi chiến tranh kéo dài thì một đàng hao binh tổn tướng, máu chảy thây phơi; gia tăng cảnh vợ goá con côi, gắt gao truy tìm quân dịch; một đàng thì sưu cao thuế nặng, đói kém lan tràn…. Và hiệu quả tất yếu là lòng dân ly tán, ý chí quân binh mệt mỏi; cùng với nạn kiêu binh, nhũng lạm, chia rẽ, hiếp đáp…. Tất cả những yếu tố đó khiến, không chỉ triều đại Tây Sơn, mà bất của thể chế chính trị nào cũng lung lay, thoái trào mạt vận. Thời đã hết là vậy. (x. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn)[47].

- Địa không thuận: Trong khi đó, một khi thống nhất sơn hà, việc quản lý một dãi non sông từ “Nam quan” tới “Cà Mau” đâu có dễ dàng như trông coi, canh phòng một vùng nhỏ hẹp Qui Nhơn. Đó là chưa kể, việc phân chia ba miền: Phú Xuân – Bắc Hà thuộc Bắc Bình vương Nguyễn Huệ; Quảng Nam – Qui Nhơn của Trung ương Hoàng Đế Thái Đức Nguyễn Nhạc; Nam Bộ thuộc Đông Định vương Nguyễn Lữ. Nếu đất “Bắc Hà”, “Phú Xuân” của Nguyễn Huệ lòng dân chưa quy thuận, sĩ phu còn xem thường phong cách “quân phiệt, mường mán” của đạo quân “sắt máu” Tây Sơn cọng với những tàn dư bất mãn, hoài cổ, phản động của Trịnh, Mạc, Lê nổi lên như nấm sau mưa…, thì đất Qui Nhơn, Gia Định của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lại lõng lẽo, thiếu kế hoạch cai trị và phòng thủ hửu hiệu, để mất những vị trí chiến lược của toàn bộ miền Nam từ Phú Yên đến Gia Định (Cuộc hành quân năm 1793 của Nguyễn Ánh[48]), không làm chủ hải đạo từ Nam ra Bắc… Tất cả những yếu tố đó cho thấy rõ ràng “địa không còn thuận lợi cho nhà Tây Sơn” trước một Nguyễn Ánh kiên trì, có chiến lược hợp lý cùng sự hỗ trợ của người Âu Châu... !

- Nhân hết hoà: Chính việc phân chia quyền hành cùng với những sự kiện “nồi da xáo thịt”, tranh đất, tranh quyền giữa các anh em[49], đã khiến Tây Sơn lui về thế thủ, dè chừng lẫn nhau, thậm chí bỏ mặc nhau…, không có được một “quyền lực mạnh mẽ thống nhất từ trung ương”, một quân đội tập trung các tướng tài. Thêm vào đó là sự bất tài và nhu nhược của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ, cùng với những cuộc thanh trừng và hiềm khích nội bộ khiến một số tướng lãnh cao cấp tài giỏi bị sát hại như Nguyễn Hữu Chỉnh, Võ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Lê Trung…; một số khác trở thành đối địch như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng…; một số phản bội về đầu quân cho chúa Nguyễn Ánh: Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương…

Vâng, khi dân tình mỏi mệt vì chiến tranh liên miên, nạn kiêu binh, óc bè nhóm tranh công tranh quyền, nhân tài tổn hao…, tất cả đã góp phần đẩy nhanh tiến độ tan rã của nhà Tây Sơn.

2.3.2. Nguyên nhân gần:

Cùng với những nguyên nhân mang tính “tổng thể chiến lược” trên, sau đây là một chuỗi những sự kiện cũng là những lý do gần khiến triều đại Tây Sơn sụp đổ một cách nhanh chóng:

- Tây Sơn để mất cứ điểm Gia Định-Sài Gòn (1788), sau đó Diên Khánh-Bình Khang (1793), khiến cả một dãi đất miền Nam thuộc về Nguyễn Ánh[50].

- Cuộc thảm bại trong cuộc hải chiến Thị Nại (lần 1) năm 1792. Thuỷ quân Tây Sơn bắt đầu mất thế thượng phong[51].

- Cái chết đột ngột của Nguyễn Huệ (16.9.1792), khiến cuộc hành quân lớn vào Gia Định của Quang Trung Hoàng đế, vị tướng bách chiến bách thắng nầy phải dừng lại[52]; cùng với bao chương trình kiến quốc táo bạo và thông minh của một đấng minh quân.

- Cái chết của Nguyễn Nhạc năm 1793 và sự chấm dứt vương triều mang tính “trung ương” của hoàng đế Thái Đức, kéo theo những rạn nứt, chia rẽ nội bộ trầm trọng (Giữa Bắc Hà của Nguyễn Quang Thuỳ, Phú Xuân của Nguyễn Quang Toản và Qui Nhơn của con cháu Nguyễn Nhạc, nhất là cuộc thanh trừng Bùi Đắc Tuyên, Ngô Văn Sở và hục hặc giữa hai tướng Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu (1795)[53] cùng với cuộc nổi loạn của Nguyễn Bảo năm 1798[54]).

- Thành Qui Nhơn thất thủ (tháng 6 Âm lịch 1799) bị cải tên thành Bình Định. Toàn bộ quân chủ lực nơi được gọi là “nôi” của khởi nghĩa Tây Sơn tan rã[55].

2.3.3. Đêm Thị Nại đẩm máu (28.2.1801):

Trong chiến dịch năm 1799, có thể nói được Nguyễn Ánh đã “bước đầu” thu lại gần hết cõi giang sơn mà nhà Nguyễn đã có công gầy dựng; nhất là khi “thủ phủ Qui Nhơn”, cứ điểm đầu tiên nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa, đã đổi chủ và trở thành Bình Định, cũng đồng nghĩa “ngày tàn của triều đại Tây Sơn” đã điểm. Và sau đây là một vài diễn tiến dẫn đến trận chiến quyết định đêm 28.2.1801:

- Chiến dịch Bắc tiến: Vào giữa năm 1800, sau gần một năm ròng thành Bình Định (do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn giữ) bị quân Tây Sơn vây chặt (Trần Quang Diệu vây thành Qui Nhơn; Võ Văn Dũng án ngữ Thị Nại với đại thuỷ quân chủ lực)[56], quân chúa Nguyễn quyết định xuất quân thuỷ bộ, vừa để giải cứu Qui Nhơn, vừa quyết tâm thu Thuận Hoá, Phú Xuân và Bắc tiến, như lời khuyến dụ: “thành Qui Nhơn chỉ Bắc, đạp phá trùng vi; đô Thuận Hoá rụng cờ, dẹp yên đảng nguỵ”[57]. Đây là cuộc hành quân tổng lực, có cả sự tham gia của các sĩ quan Pháp, đặc biệt trong đội hình thuỷ quân mạnh mẽ, với các chiến thuyền được biên chế theo kỷ thuật và chiến thuật châu Âu lúc bấy giờ[58].

- Sau một loạt các chiến thắng trên bộ, tiêu diệt các cứ điểm bao quanh Thị Nại, Qui Nhơn, khống chế đường biển, triệt đường tiếp viện từ Phú Xuân (chiếm cảng Đề Di với 150 thuyền vận lương)[59] và nắm được “mật khẩu của hải quân Tây Sơn”, cuộc tấn công tổng lực bằng thuỷ quân vào cảng Thị nại bắt đầu vào đêm 28.2.1801 (16 tháng Giêng năm Tân Dậu)[60]. Bằng cuộc tấn công bất ngờ và táo bạo, toàn bộ thuỷ quân Tây Sơn do tướng Võ Văn Dũng chỉ huy gần như bị tiêu diệt: mất 50.000 lính, 1.800 chiến thuyền cùng với khoảng 6.000 khẩu đại bác[61].

- Võ Văn Dũng dẫn tàn quân tháo chạy lên bộ nhập với quân của tướng Trần Quang Diệu đang vây thành Qui Nhơn; để rồi sau đó, cho dù có bức bách được Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự vận giao thành, Tây Sơn vẫn lần lượt mất Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh cùng triều đình tháo chạy ra Bắc Hà[62], để cuối cùng, Thăng Long bị thất thủ ngày 15.7.1802, Nguyễn Ánh đặt chân vào Thăng Long ngày 20.7.1802, khai mở “triều đại quân chủ phong kiến cuối cùng”[63] của Việt Nam; và đó cũng là thời điểm Triều đại Tây Sơn chính thức bị “khép lại” giữa những trang dài lịch sử “nội chiến” của dân tộc Việt Nam ![64].

Thay lời kết: Chiến bại Thị Nại: một tiếc nuối!

Như vậy, có thể nói được rằng: trận “hải chiến Thị Nại” đêm 28.2.1801 là trận đánh quyết định của cuộc đối đầu Tây Sơn – Nguyễn Ánh; và “chiến lược điều động thuỷ quân” chính là “nhân tố quyết định. Thật không may mắn cho phe Tây Sơn thiếu mất nhà cầm quân vĩ đại Quang Trung. Chắc chắn, nếu còn vị tướng tài ba kiệt xuất nầy, hải quân Nguyễn Ánh không dễ gì làm mưa làm gió dọc Biển Đông, từ Gia Định tới Sơn nam, Bắc Hà; và chiến thắng dễ dàng thuỷ quân Tây Sơn tại chiến trường Thị Nại, một vùng đất mà Nguyễn Huệ chắc chắn nắm vững địa thế địa hình, đường đi lối bước.

Thật vậy, so với cuộc đối đầu với thuỷ quân chúa Nguyễn và Xiêm trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785, hải quân Tây Sơn của tướng Võ Văn Dũng tại Thị Nại năm 1801 có nhiều điểm thuận lợi hơn quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ lúc đó rất nhiều. Hồi đó (1785), dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, đạo quân Tây Sơn chỉ với 20 vạn, phải di chuyển từ miền Trung xa xôi, tại một vùng sông nước xa lạ đã bị quân Xiêm – Nguyễn chiếm trước. Tuy nhiên, với 10 ngày chuẩn bị đầy mưu trí và chuẩn xác, chỉ trong một ngày, ngày 19.01.1875, 5 vạn quân Xiêm – Nguyễn bị đánh tan tành, 300 chiến thuyền bị đánh đắm, hơn 4 vạn binh Xiêm – Nguyễn bị giết chết…[65].

Với một lực lượng gần như vượt trội về quân số cũng như khí tài, cùng với địa hình địa thế xung yếu của đầm Thị Nại và vùng biển Qui Nhơn với bán đảo Phương Mai và nhiều hải đảo và vị trí tiền tiêu thuận lợi…, nếu tướng Võ Văn Dũng có được tầm nhìn chiến lược, không chủ quan khinh suất, biết ém quân tạo thế, giăng bẫy, đón hờ… như Quang Trung trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút, chắc chắn Nguyễn Ánh “không có cơ” xuôi buồm Bắc tiến.

Vâng, tan Thị Nại thì mất cả Phú Xuân, Thăng Long, tiêu tan cả chiến lược, chiến thuật…; và nhất là “mất nước”, như nhận định của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường: “Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng Tư âm lịch khi Đông Hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thị Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trân Qang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thẻ nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thuỷ quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thị Nại này vậy”[66].

(Còn tiếp một kỳ)

Trương Đình Hiền



[1] QUI NHƠN “I ngắn” dành cho khái niệm về một “QUI NHƠN LỊCH SỬ”, một địa danh xuất hiện trong lịch sử Việt Nam kể từ năm 1602, khi Chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Qui Nhơn. Đây là tên đơn vị hành chánh chính thức của “danh mục thành phố” theo Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg ngày 8.7.2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bảng danh mục và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam, tỉnh Bình Định có đơn vị hành chính là TP.Qui Nhơn. Đây cũng là danh xưng được sử dụng lâu đời trong hệ thống mục vụ của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam: Địa phận (hay Giáo phận) Qui Nhơn, nhà thờ Chính Toà Qui Nhơn…. Trong khi đó, Quy Nhơn “Y dài” dành để chỉ “Thành phố Quy Nhơn”, một trong những “đơn vị hành chánh” thuộc tỉnh Bình Định, mới chính thức được thành lập năm 1986.

[2] PGS TS PHAN VĂN RÂN-TS NGÔ CHÍ NGUYỆN: Mối quan hệ giữa địa chính trị và địa kinh tế: Lý luận và thực tiễn: “thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics) mới lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà khoa học chính trị người Thụy Điển John Rudolf Kjellén vào năm 1899 trong tác phẩm “Nhà nước như một cơ thể sống” (The State as a Living Form). Trong đó, J. R. Kjellén cho rằng, các yếu tố địa lý và môi trường tự nhiên sẽ quy định các đặc điểm về chính trị, kinh tế và quân sự của mỗi quốc gia theo nghĩa chúng có thể tạo thuận lợi hoặc kìm hãm các quá trình phát triển chính trị, kinh tế - xã hội, đồng thời góp phần định hình văn hóa chính trị, bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia. Từ sau đó, thuật ngữ “địa chính trị” được bàn luận nhiều trong các lý thuyết về chính trị và quan hệ quốc tế cũng như được vận dụng phổ biến trong hoạch định và thực thi chiến lược, chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, nhất là của các cường quốc”. Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2920-moi-quan-he-giua-dia-chinh-tri-va-dia-kinh-te-ly-luan-va-thuc-tien.html

[3] Ibid.: “…Theo quan điểm của Luttwak, địa kinh tế là hình thức mới của sự cạnh tranh sức mạnh giữa các quốc gia sau chiến tranh lạnh. Ông cho rằng, chính trị quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mặc dù vẫn bị chi phối bởi cạnh tranh sức mạnh giữa các nhà nước nhưng chiến trường chủ yếu là kinh tế thay vì quân sự, phương tiện ưa thích được các nhà nước sử dụng để theo đuổi các mục tiêu đối kháng nhau sẽ là kinh tế hơn là quân sự. Theo Luttwak, sức mạnh quốc gia trong kỷ nguyên địa kinh tế xuất phát từ vốn tư bản thay vì sức mạnh hỏa lực, đổi mới dân sự thay cho tiến bộ kỹ thuật quân sự và thâm nhập thị trường thay cho các đồn bốt và căn cứ…”

[4] KLAUS DODS, nguyên tác “Geopolitics”, bản dịch Việt ngữ: Địa chính trị. Dịch giả: Nguyễn Nguyên Hy, nxb. Tri Thức 2019, tr. 60.

[5] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ TRỌN BỘ, Cao Huy Du dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng. Nhà Xuất Bản Thời Đại 2013. Đại Việt sử ký Bản kỷ thực lục, Quyển XII, Kỷ Nhà Lê (Tiếp theo), tr. 610: (Vua huý là Tư Thành, lại huý là Hạo, con thứ tư của Thái Tôn, ở ngôi 38 năm, thọ 56 tuổi, chôn ở Chiêu Lăng. Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dù Vũ đế nhà Hán, Tái Tôn nhà Đường cũng không hơn được…).

[6] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV. Nguồn: http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html

[7] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466: “Trước đó, Người Chiêm Thành ở Thị Nại là Bàn La Trà Duyệt là con người vú nuôi, giết chúa hắn là Bí Điền, rồi cướp lấy nước mà truyền cho người em là Trà Toàn. Trà Toàn là đứa hung bạo làm càn, dối thần ngược dân, người Chiêm mưu phản, Toàn cũng không nghĩ chi đến, lại còn ngạo mạn kiêu căng, không sửa lễ tiến cống, lăng nhục sứ thần của triều đình, quấy nhiễu dân biên giới, lừa gạt người Minh để xin viện trợ mà sang ăn cướp…”

[8] Xem: Đế quốc Khmer. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_Khmer

[9] Xem: Panduranga – Champa: Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Panduranga-Ch%C4%83m_Pa

[10] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV. Nguồn: http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html: “Chế Bồng Nga ra sức xây dựng quân đội, dồn tất cả nguồn lực cho hàng chục cuộc tiến công lên hướng Bắc. Trong 30 năm đã tiến hành trên 15 trận đánh lớn, và có khi chỉ trong 8 năm năm nào cũng đánh, có hai lần đến tận Thăng Long cướp phá, và trở về, lúc này ở Đại Việt đang là lúc mà nhà Trần suy yếu…”

[11] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch. NXB Hà Nội 2019. Lời Giới thiệu, tr. 8.

[12] Ibid. 02. Athens và Sparta, tr. 64.

[13] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466-467.

[14] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch. NXB Hà Nội 2019. Dẫn Nhập, tr. 25: “Bẫy Thucydides nhắc tới một sự xáo trộn mang tính tự nhiên và không thể tránh khỏi xảy ra khi một thế lực đang trỗi dậy đe doạ thế chỗ thế lực đang thống trị. Điều nầy có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, những tác động của nó trở nên đặc biệt nguy hiểm trong quan hệ quốc tế…”.

[15] “Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa lánh nạn vào phương Nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay. Ở phía Nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô và kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005. Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông”. Nguồn:

https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_B%C3%A0n

[16] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người. NXB Văn Hoá – Văn Nghệ 2020. Bài 004: THÀNH HOÀNG ĐẾ MỘT ĐỊA ĐIỂM HAI LẦN KINH ĐÔ. Tr. 194.

[17] Ibid. Bài 005: KHÔNG GIAN “TỬ THÀNH” HOÀNG ĐẾ VẪN CÒN LÀ ẨN SỐ. Tr. 212-213.

[18] TIM MARSHALL, Những tù nhân của địa lý (Prisoners of Geography), PHAN LINH LAN dịch. NXB Hội Nhà Văn 2020, Lời Giới Thiệu, tr. 12-13.

[19] NGUYỄN THANH QUANG, LM. GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề về chữ Quốc Ngữ, nxb. Khoa Học Xã Hội 2020. Tr. 20: Chữ Quốc ngữ ở Nước Mặn. “Nước Mặn là một trong những trung tâm ra đời sớm nhất của chữ Quốc ngữ. Nước Mặn là một cảng thị phát triển nhất của phủ Qui Nhơn (Pulo Cambi, Bình Định) trong thế kỷ XVII – XVIII và là một trong những cảng thị hưng thịnh nhất của dinh Quảng Nam. Do vị trí giao thương thuận lợi, Nước Mặn là nơi quy tụ các sản phẩm của vùng đồng bằng và núi rừng Qui Nhơn, cả vùng Tây nguyên, qua sông Côn chuyển về, để giao thương trực tiếp với các thuyền buôn nước ngoài đến đây hoặc từ đây chuyển qua Hội An. Nước Mặn cũng là một trong những cơ sở quan trọng của các giáo sĩ phương Tây, nhất là Dòng Tên đến truyền giáo và học tiếng Việt, dùng chứ cái Latin ghi âm tiếng Việt. Từ năm 1618 tại Nước Mặn đã có mặt các giáo sĩ: Cristoforo Borri (1583-1632) người Ý (có người cho là người Bồ), Francisco de Pina (1585-1625) người Bồ, Francesco Buzomi (1576-1639) người Ý, trong đó Borri ở lại từ năm 1618 đến năm 1622, Pina từ năm 1618 đến năm 1620, Buzomi từ năm 1618-1623 (Theo Roland Jacques, sđd, tr.29, sau đó còn ở Đàng Trong). Tháng 7 năm 1618, Nước Mặn trở thành cư sở đầu tiên của các giáo sĩ Dòng Tên ở Đàng Trong”.

[20] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người. NXB Văn Hoá – Văn Nghệ 2020. Bài 002: Đàn Nam Giao đầu tiên của triều Tây Sơn, tr. 186: “…Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 37, nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc bèn nhân nơi đó mà đóng đô, mở rộng cửa đông kéo dài tới 15 dặm, tường thành được đắp cao rồi xây bằng đá ong, bể cao tới 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm một cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, bên hữu là cửa Vệ Môn… Phía tây thành có đắp con đê Đỉnh Nhĩ để phòng nước lụt, phía tây nam có đàn Nam Giao để tế trời đất…”.

[21] Ibid., Phần III TÂY SƠN TAM KIỆT, tr. 179: “Năm 1771, anh em Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa phát triển thành một cuộc chiến tranh nông dân chiếm phủ thành Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Diên Khánh (Phú-Khánh), Bình Khang (Ninh Thuận), Bình Thuận, Quảng Nam… Năm 1785, từ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ đem quân vào Nam, bằng chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, quân đội Tây Sơn đánh tan 5 vạn quân Xiêm. Cuối năm 1788, Tôn sĩ Nghị đem 29 vạn quân Thanh xâm lược nước ta. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung, xuất quân ra Bắc… Trưa ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu – 1789, Quang Trung với chiếc áo bào nhuộm đen khói súng, trên mình voi chiến, dẫn đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long giữa sự hân hoan đón mừng của nhân dân 36 phố phường. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh là một trong những chiến công chống ngoại xâm vào loại hiển hách nhất của dân tộc ta”.

[22] Ibid. Phần IV. HOÀI NHƠN – BÌNH ĐỊNH ĐẤT VÀ NGƯỜI, Bài 043. Vị trí, vai trò, tiềm năng cảng Qui Nhơn xưa và nay, tr. 491: “Thương cảng Thị Nại của vương quốc Champa đã trở thành một điểm đến quen thuộc của các thương thuyền trên tuyến hải thương khu vực, là trung tâm liên khu vực, kết nối các trung tâm thương mại lớn của khu vực và quốc tế. Trong không gian duyên hải với điểm nhấn là cảng Thị Nại, đầm Thị Nại, còn có hệ thống thuỷ lộ, dòng sông Côn được coi như một sợi dây liên kết, một con đường chuyển vận văn hoá cũng như các mối giao thương về kinh tế giữa miền ngược và miền xuôi của vùng Vijaya (Bình Định)”.

[23] ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại. Phần VI: Thị Nại trong lịch sử. Nguồn: trang web giáo phận Qui Nhơn: https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html

[24] Ibid.:

Ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284), 50 vạn quân Nguyên dưới quyền tổng chỉ huy của Thái tử Mông Cổ là Thoát Hoan (Tuo Huan), chia quân làm hai đạo: bộ binh do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy, tiến vào Lạng Sơn, giả tiếng mượn đường Đại Việt đi đánh Champa. Thủy quân do Toa Đô (Suo Du) dẫn đầu, gồm 1000 chiến thuyền và 10 vạn quân, từ Quảng Châu tiến thẳng vào đầm Thị Nại của Chăm quốc. Vị trí tiền tiêu bảo vệ kinh đô Đồ Bàn là thành Thị Nại nằm bên bờ sông Gò Tháp, thuộc Nam Phái [16] sông Côn, ở địa phận xã Phước Hoà, túc trực 1 vạn quân, có trang bị voi chiến, chặn các đường hiểm yếu không cho quân Nguyên tiến vào kinh đô. Toa Đô đánh mãi không được, đành phải bỏ Thị Nại, theo đường bộ vào Đại Việt, đến Nghệ An, rồi rút ra Bắc, định họp quân với Thoát Hoan, nhưng bị bao vây ở Tây Kết (một làng nhỏ ở bờ sông Hồng), trúng tên, bỏ thây ở chiến trường.

Năm Đinh Tỵ (1377), vua Trần Duệ Tông (1373-1377) đem 12 vạn quân đi đánh Champa. Ngày 23 tháng giêng, đại quân tiến vào cửa Thị Nại, lấy đồn Thạch Kiều, chiếm động Kỳ Man (động cát ở chân núi Xuân Quang, gần Gành Ráng và Qui Hoà). Quân ta đang đắc thắng thì vua Chăm là Chế Bồng Nga giả kế trá hàng. Đại tướng Đỗ Lễ biết mưu gian của địch, can vua Duệ Tông, nhưng vua không nghe, bảo rằng: “Dụng binh quý như thần tốc. Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà không lấy, để nó lại cơ mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi chính là hạng đàn bà.” [17]. Rồi nhà vua cho tiến quân ào ạt đến Đồ Bàn. Quân Chăm phục kích sẵn ở chỗ hiểm yếu, bất thần bốn mặt giáp công, khép chặt vòng vây. Quân ta tuy đông nhưng không phòng bị nên thua to. Vua Trần Duệ Tông tử trận, quân sĩ chết hai phần còn một, phải mở đường máu mới thoát được.

[25] Ibid.:

Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông (1054-1072) thân chinh đi đánh Champa. Từ Thăng Long, đại quân ta đi ngót 26 ngày đường biển mới đến đầm Thị Nại. Viên Tổng tư lệnh Chăm là Bố-bì-đà-la dàn trận trên bờ sông Tu Mao (một nhánh của sông Côn). Lý Thường Kiệt đánh tan lực lượng tiền phương và giết được Bố-bì-đà-la, rồi vượt thêm hai sông nữa (cũng thuộc sông Côn) để tới Đồ Bàn. Vua Chăm là Chế Củ (Rudravarman IV) bỏ kinh đô chạy về miền Nam. Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo suốt một tháng trời, đến tận biên giới Chân Lạp. Vua Chăm và 5 vạn quân dân bị bắt. Tháng 7 năm ấy, Lý Thánh Tông về đến Thăng Long với ca khúc khải hoàn, giải theo vua Chăm và quyến thuộc. Sau Chế Củ dâng 3 châu: Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh [15] mới được tha cho về nước. Đây là lần đầu tiên đầm Thị Nại có tên trong quân sử Đại Việt.

[26] Ibid.:

Năm Canh Dần (1470), Hồng Đức nguyên niên (洪 德), vua Chiêm là Trà Toàn sai sứ sang cầu viện nhà Minh, rồi cho quân ra cướp phá đất Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu huy động 26 vạn tinh binh và tự cầm quân chinh phạt Champa. Sau trận đại thắng ở Sa Kỳ (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), hạ tuần tháng 2 năm Tân Mão (1471) thủy quân ta tiến vào đầm Thị Nại. Ngày 27 tháng 2, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm thành Thị Nại. Ngày 28, kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa bị vây hãm, đến mùng 1 tháng 3 thì hạ thành, bắt sống Trà Toàn và hoàng gia. Từ đấy, đầm Thị Nại và cả miền đất Vijaya đến đèo Cù Mông, vĩnh viễn thuộc về Đại Việt.

[27] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 469-472.

[28] Ibid. Tr. 471-472.

[29] “… Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng…”.

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Ch%C4%83m_Pa

[30] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 323-325.

[31] HÀ VĂN THƯ – TRẦN HỒNG ĐỨC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, nxb. Văn Hoá Dân tộc 2016, tr. 210 – 224: “… Như vậy, triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh (1778 – 1802) tồn tại được 24 năm”.

[32] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Mục “TÀI LIỆU THAM KHẢO”, tr. 421 – 439.

[33] Ibid. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt. Tr. 55.

[34] Ibid., tr. 91 (x. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, tr.173)

[35] Ibid., tr. 94-95: “Trong quá trình hành động nầy, ông ta nhận được sự khích lệ của một người thầy giáo cũ tên Trương văn Hiến, vốn là một người tị nạn khỏi chính quyền nhà Nguyễn do Trương Phúc Loan chế ngự. Hiến thúc dục Nhạc tự xem như mình được sinh ra để thực hiện lời tiên tri lâu năm tại địa phương: tây khởi nghĩa, bắc thu công. Ông thầy gợi ý rằng từ “tây” trong lời tiên tri có liên quan đến Tây Sơn là tên ngôi làng của ba anh em Nguyễn Nhạc.”

[36] Ibid., tr. 137: Danh sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiếp vào thế kỷ XVIII khi ông nhận định rằng: “sự huỷ diệt đất nước và gia đình xảy ra do sự bại hoại của đạo đức làm người, do những nhà cai trị tầm thường, và do những quan lại chỉ biết xu nịnh họ…”; … Ngô Thì Nhậm thì nhận xét rằng: “Trời trông, trời nghe do ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay chuyển”.

[37] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định – Đất và Người, nxb. Văn Hoá – Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 2020; Phần III TÂY SƠN TAM KIỆT, Bài 001: Tây Sơn – Vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, tr. 182-183: “… đoạn núi trường sơn nầy nằm chính hướng tây, cho nên mệnh danh là dãy Tây Sơn. Vì núi mệnh danh là Tây Sơn, nên những vùng sơn cước ở quanh núi và vùng bình nguyên ở dưới núi cũng mệnh danh Tây Sơn. Người xưa gọi là Tây Sơn ấp… Trong dãy có nhiều ngọn cao lớn, trông đồ sộ hiên ngang và liên hệ mật thiết với nhau chẳng những về phương diện địa lý vì cùng một sơn mạch mà còn liên hệ về lịch sử - lịch sử nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn, trước khi khởi nghiệp đã dùng dãy núi Tây Sơn làm căn cứ quân sự. Và đạo quân tiên phong hầu hết người miền núi… Ba dãy núi ảnh hưởng với nhau, hỗ trợ lẫn nhau về mặt khí thế, hoà hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau về màu sắc đường nét. Dãy này bổ trợ dãy kia, dãy kia bổ trợ dãy nọ, tương y tương ỷ, tạo Bình Định thành một nơi thiên hiểm về mặt quân sự, thành một bức tranh tú vĩ hùng kỳ của đất nước…”

[38] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt, tr. 95 – 96: “Vùng An Khê mà ba anh em Tây Sơn lui về là một địa điểm lý tưởng cho những người cầm đầu một cuộc khởi loạn khi họ tìm cách giành lấy sức mạnh và người ủng hộ. Nó tương đối xa, chỉ có thể tiếp cận được bằng một con đường nhỏ hẹp và nguy hiểm, dễ dàng chống lại các cuộc tấn công của quân nhà Nguyễn. Vùng cao nguyên nầy nằm giữa những con đường thương mại quan trọng trải dài từ cảng biển Qui Nhơn ở phía tây đến lãnh thổ của Chân Lạp và vùng nam Lào, mở đường cho hàng hoá chuyên chở dọc theo chúng. An Khê cũng là một khu vực giàu tài nguyên có thể cung cấp cho anh em Tây Sơn các thứ gỗ, sắt, sulphur, ngựa và voi… Ưu thế của vị trí của họ giúp ba anh em đạt được vài thắng lợi ban đầu ở các vùng phụ cận, rút kinh nghiệm chiến đấu, tăng cường uy tín, trong khi ít nguy cơ hơn. Tuy nhiên, cuối cùng thì Nguyễn Nhạc quyết định là đạo quân của ông ta đã sẵn sàng đi xuống đồng bằng và thách thức trực tiếp quân nhà Nguyễn…”.

[39] BRIAN EYLER, Những ngày cuối của dòng Mekong hùng vĩ, Nguyễn Đình Huỳnh dịch, nxb. Phụ Nữ Việt Nam 2020, tr. 16-17: “Trong tác phẩm quan trọng năm 2009 The Art of Not Being Governed (Nghệ thuật để không bị trị), Scott đặt tên cho vùng cao nầy của Trung Quốc và Đông Nam Á là Zomia. Quân đội đồng bằng bạo ngược không thể đưa xe cộ và vũ khí lên đồi núi tấn công những người ẩn náu ở đó. Rừng có nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể làm thức ăn và việc giao dịch mua bán giúp duy trì sinh kế và bản sắc của những người này. Điều này giúp cho các nhóm sắc tộc ở Zomia giao dịch độc lập và ình đẳng với các vương quốc đồng bằng theo điều kiện của họ và phần nào giữ được khoảng cách…”.

[40] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt, tr. 77: “Thêm vào đó, sự mở rộng quyền lực chính trị về phía nam có nghĩa là các chúa Nguyễn ở một chừng mực nào đó đã bị cô lập về mặt vật chất với các phần lớn vương quốc của họ, một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam đèo Hải Vân, thuộc đất Quảng Nam. Những vùng đất mới do chúa Nguyễn Công bố chủ quyền là nơi cư trú của những nhóm người pha tạp, hay đổi đời, có mối quan hệ lỏng lẻo với kinh đô Phú Xuân. Như chúng ta đã biết, khu vực quanh Qui Nhơn được dành làm nơi cư trú của những tù nhân chính trị phía bắc cũng là quê hương của những người còn sót lại của vương quốc Chăm, trong khi có nhiều nhóm người vùng cao sống sát cạnh trung tâm của cuộc nổi dậy ở ấp Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn tìm cách nới rộng ảnh hưởng trong khu vực, họ tác động đến quyền lợi chính trị của người Chăm và người vùng cao tại địa phương, song cả hai nhóm người nầy sẽ sớm thành những nhóm ủng hộ cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn”.

[41] Ibid., tr. 97 (x. P. Lorenzo Perez, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les franciscains Espagnols de Cochichine”, tr.74)

[42] Ibid., tr. 155.

[43] NGÔ THÌ CHÍ, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Tất Tố dịch, Tự Do tái bản, 1958, tr. 252: “Nguyễn Huệ là bậc lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất quỷ nhập thần. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét…”. (x.

[44] Đại nam Chính Biên Liệt truyện sơ tập, quyển 30, tờ 17b: “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến, ai cũng phải sợ… Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh”.

[45] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Phần Dẫn Nhập, tr. 32.

[46] BAN CHỦ BIÊN TẬP SAN SỬ ĐỊA, Đặc khảo về Quang Trung Nguyễn Huệ. NXB. Hồng Đức – Tạp chí Xưa và Nay 2016. Bài: Những điểm đặc biệt về Nguyễn Huệ của Phạm Văn Sơn, tr. 440

[47] SĐD (GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương III: Giới nông dân - Đời sống dưới chính quyền Tây Sơn. tr. 226-311.

[48] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 256-263.

[49] Ibid., tr. 145-147.

[50] Ibid., tr. 190-191.

[51] Ibid., tr. 254-255.

[52] Ibid., tr. 255-256.

[53] Ibid., tr. 280-281.

[54] Ibid., tr. 305.

[55] Ibid., tr. 309-311.

[56] Ibid., tr. 321: “Đường nước bên trong đầm đã hẹp mà Vũ Văn Dũng đem hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền chở từ 50 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa với dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ, 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa sông đưa vào Nước Mặn. Ông còn đặt đại bác trên núi Tam Toà, tên đất liền, bãi Nhạn (phía thành phố Quy Nhơn bây giờ) dựa vào núi cao chĩa xuống bảo vệ đoàn thuyền trấn giữ. Trên bộ còn hơn 60 voi với quân lính”.

[57] Ibid., tr. 315-316.

[58] Ibid. (x. Việc xây dựng thuỷ quân của Nguyễn Ánh: (SĐD) tr. 230 – 232)

[59] Ibid., tr. 319.

[60] Ibid., tr. 323.

[61] Ibid., tr. 324 (Phần ghi chú).

[62] Ibid., tr. 328-338.

[63] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016, tr. 121

[64] Ibid., tr. 414. (x. Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802 của Tạ Chí Đại Trường, tr. 332-339).

[65] PHAN HUY LÊ, BÙI ĐĂNG DŨNG, PHAN ĐẠI DOÃN, PHẠM THỊ TÂM, TRẦN BÁCH, Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, nxb. Hồng Đức 2019. Chương V Chiến tháng Rạch Gầm – Xoài Mút, tr. 215-241.

[66] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 324-325.