Canada đang bước vào mùa thu, đồi cây phong cuối vườn báo cho tôi biết thế. Tôi thật may mắn, năm xưa khi mua căn nhà bé nhỏ này nào tôi có ngờ là ở cuối vườn nó ăn thông với một đồi cây phong dẫn sang công viên High Park, một công viên nổi tiếng nhất Toronto. Nơi đây vào đầu xuân thì đầy du khách tới ngắm hoa anh đào. Cũng nơi này vào mùa thu thì cũng đầy du khách tới ngắm các đồi phong đổi màu. Các cụ có biết cây phong ở xứ Canada này có gì đặc biệt không cơ? Thưa lạ lắm, nó tiết ra một loại nhựa tạo thành đường ngọt, dân Canada lấy nhựa ngọt này chế ra được một loại syrup nổi tiếng khắp thế giới. Có lẽ vì có chất nhựa ngọt này mà vào mùa thu, lá cây phong đổi màu đẹp lạ lùng, từ màu xanh biến ra màu vàng, rồi từ vàng nó biến ra màu hồng đỏ tươi rực rỡ. Canada dùng lá cây phong đỏ tươi này đặt vào giữa lá quốc kỳ.

Vì làng An Lạc của tôi gồm toàn các vĩ nhân nên các vĩ nhân quân tử chúng tôi vừa mới họp làng ở công viên High Park này. Trong công viên có rất nhiều thảm cỏ xanh và có sẵn một số bàn gỗ lộ thiên cho dân chúng tới cắm trại. Ôi, vừa cười vừa nhậu, vừa bàn chuyện thế sự, vừa ngắm các cây phong đang đổi màu chung quanh, sao mà sung sướng thế này.
Trong các chuyện thời sự, chúng tôi chỉ nói phớt qua các đề tài đã cũ như Dịch Covit đang tàn, như chuyện vua Putin đang ban hành lệnh động viên lấy thêm quân xâm chiếm Ukraine, và lệnh này đang khiến nhiều người Nga trốn chạy. Rồi chúng tôi điểm qua các chuyện mưa lũ lụt động đất bão cát bên Tàu khiến vua Tập đang lo đập Tam Hiệp vỡ, đập này mà vỡ thì một nửa nước Tàu sẽ trôi ra biển, và nước Tàu sẽ biến khỏi bàn cờ thế giới.

Rồi các nhà quân tử chúng tôi bàn tới chuyện cựu vương Nga Gorbachev băng hà ngày 30/8, thọ 91 tuổi vàng. Cựu vương vừa nằm xuống thì bao nhiêu bài báo kể công kể tội của vua ầm lên. Tôi thấy đa phần là khen vua. Làng tôi ai cũng thích vua Gorbachev, vì không có vua thì Nga Xô Viết vẫn còn tác oai tác quái như vua Tập Cận Bình hiện nay, và sẽ không có cuộc xâm lăng Ukraine bây giờ. Ông là người rất thân thiết với Tổng thống Ronald Reagan. Chính vua Putin đã phải công nhận Gorbachev đã tạo ảnh hưởng lớn lao trong lịch sử thế giới. Năm 1990 ông được trao giải Nobel Hòa Bình, một năm sau đó, ông từ chức tổng thống Liên Xô kéo theo sự sụp đổ của toàn thể liên bang Xô viết. Gần đây nhất, ngày 26 tháng 2 vừa qua, ông kêu gọi chấm dứt các thù địch tại Ukraine và phải đối thoại hòa bình. Tiếc thay vua Putin bây giờ đã bỏ ngoài tai những lời khuyên quý báu này.

Và làng tôi đã nói nhiều về thời sự hiện nổi cộm thứ hai là chuyện bên Anh, Nữ Hoàng Elizabeth đệ Nhị băng hà với 96 tuổi ngọc, và Hoàng đế Charles đệ Tam lên ngôi, một triều đại mới đang bắt đầu. Vua Charles III cũng là vua Canada. Các cụ còn nhớ chứ, từ khi lập quốc đến nay Canada trên giấy tờ vẫn nhận hoàng đế mẫu quốc Anh làm vua của mình, giống y như nước Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan. Nữ hoàng đã viếng thăm Canada cả thảy 22 lần. Nay Canada vừa có vua mới nhưng chỉ mừng sơ sơ cho đúng phép. Tôi có cảm tưởng là đa số dân Canada không yêu vua Charles, kể từ khi họ thấy tim vua chia làm 2, 1 dành cho công nương Diana mẹ của 2 hoàng tử William và Harry hiện nay, 1 dành cho người tình có từ trước là Camilla và cũng là hoàng hậu hiện nay. Vua đã 73 tuổi, đầu đã sói và tóc đã bạc.
Sự chết của Nữ Hoàng Elizabeth bên Anh làm tôi chợt nhớ tới cái chết của Sa Hoàng Nicolas II bên Nga, sa hoàng này có họ hàng gần xa gì đó với Nữ Hoàng. Nữ hoàng thì chết trong vinh quang, còn Sa hoàng thì chết trong tủi nhục năm 1918, thọ 49, chấm dứt một triều đại vương giả.

Qua các hệ thống truyền thanh truyền hình, tôi được coi hầu hết các nghi lễ uy nghi trang trọng của triều đình bên Anh. Không hề có màu đen hay màu trắng, toàn màu vàng màu đỏ rực rỡ. Không có vòng hoa theo kiểu VN mình mà chỉ có các bó hoa. Khi nữ hoàng vừa nằm xuống thì một rừng hoa vây quanh hoàng cung, có lẽ tới mấy ngàn bó lớn nhỏ. Không có nước mắt khóc thương mà có những tràng pháo tay khi linh cữu nữ hoàng di chuyển qua. Các con và các cháu nữ hoàng theo nghi lễ đứng bên quan tài khi các quan khách và dân chúng nghiêm chỉnh đi ngang cúi đầu chào kính. Các quốc trưởng tới kính viếng có hơn 100 vị, dẫn đầu là vua Biden, nhưng không thấy vua Putin và vua Tập. Nữ hoàng sẽ được chôn bên hòang tế Philips và cha mẹ bà trong đền thờ Vua George.
Và một kỷ nguyên mới đã bắt đầu, vua Charles đệ Tam đã lên ngôi. Danh sách hoàng cung mới đã được thiết lập. Hòang tử William sẽ là người nối ngôi. Nữ hoàng Elizabeth kế vị tháng 2/1952 mà mãi tháng 6/1953 mới làm lễ đăng quang. Chưa biết Vua Charless sẽ làm lễ đăng quang ngày nào. Hoàng đế Anh sẽ là người đứng đầu trong Khối Thịnh Vượng Chung gồm 56 quốc gia, và là vua của 14 nước trong Khối Liên Hiệp Anh. Nữ Hoàng Elizabeth có cái thú mê ngựa và mê cỡi ngựa, chưa ai biết tân vương sẽ mê thứ gì.
Nghe đến đây bà cụ B.95 trong làng tôi lên tiếng xin thôi chuyện chính trị, bà xin anh John là thần tượng của bà cho nghe chuyện cười để bớt nhức đầu. Anh kể ngay : lúc nãy trước khi đến đây cháu có đọc được một mẩu chuyện nói về lý do tại sao các đấng liền ông ưa bị rụng răng, sớm hơn các vị liền bà. Theo các cuộc nghiên cứu thì đây là lý do đau răng rồi rụng răng : Rằng trước khi cưới thì anh nào cũng thấy người yêu của mình thật là toàn vẹn. Nhưng lấy nhau được ít lâu thì bao nhiêu cái xấu của vợ mới hiện ra, nhưng mọi sự đã trễ, gạo đã nấu thành cơm, gỗ đã đóng thành thuyền, nên anh nào cũng cắn răng chịu đựng. Tháng tháng đi làm thì mọi đồng lương phải nộp hết cho vợ, có muốn chi tiêu cái gì cũng phải nghiến răng xin vợ. Nếu may mắn có thêm chút bổng lộc từ quỹ đen trong sở cũng phải nghiến răng nộp hết cho vợ. Vợ có nói hay làm gì trái ý thì cũng phải nghiến răng mà chịu. Do suốt đời nghiến răng như vậy nên anh liền ông nào cũng vậy, chưa đến tuổi già mà răng lợi đã về già hết trọi.

Nghe đến đây thì cả làng, nhất là phe các nhà quân tử liền ông đều gật gù khen rằng đúng quá, đúng quá. Ông Từ Hòe nghe đến đây thì cười hà hà rồi bảo : Ở miền này có nha sĩ Tám nổi tiếng đông khách. Tôi có quen ông nha sĩ này. Ông có bảo tôi rằng anh John đây là khách hàng thường xuyên của ổng. Cả làng nhìn anh John rồi phá ra cười ầm lên. Phe các bà vừa nhìn Chị Ba Biên Hòa vừa cười hắc hắc rồi đấm nhau thùm thụp, làm chị đỏ mặt.

Anh John để cả làng cười cho thỏa chí, khi họ cười xong liền chuyển đề tài, anh nói với Cụ B.95 : Xưa nay toàn bác bắt cháu kể chuyện cười, bữa nay xin cho cháu được hỏi bác một câu : Thế sau 1954 bác ở lại ngoài Bắc với cụ Hồ, bác cũng gặp nhiều chuyện cười chứ? Bà cụ B.95 gật đầu rồi kể ngay : Bữa đó khu xóm tôi được cán bộ tập họp để học tập về gương sáng bác Hồ. Có một bà già đến trễ trong khi anh cán bộ đang thao thao. Mãi bà mới kiếm được chỗ ngồi. Ngồi xuống một chút thì bà kêu to lên : chỗ này thối quá ngửi không được! Anh cán bộ tưởng bà chê chuyện bác Hồ, anh bèn hỏi ai dám bảo bác Hồ thối. Bà già lên tiếng ngay: Lão già này nói chỗ này thối là vì có con chuột chết, chứ không dám chê Bác Hồ ạ, không tin mời cán bộ xuống đây ngửi coi. Cán bộ tiếp tục ca tụng Bác Hồ. Một phút sau bà già lại nói to : Chỗ này còn thối hơn nữa, có cả con cóc chết. Dân xóm đều phá ra cười, mãi mới thôi. Về sau họ mới biết chuyện con chuột con cóc chết là chuyện bà già phịa ra vì nhà của bà già, nhà của dòng họ tổ tiên mới bị bọn chúng tịch thu, nên bà chả còn nể sợ gì ai nữa.

Thấy dân làng đã cười hả hê và ai cũng vui vẻ, cụ chánh tiên chỉ làng mới lên tiếng : Lần trước họp nhau chúng ta đã nói về chữ ‘ anh hùng’ và đã trưng dẫn nhiều tấm gương sáng láng. Đêm ấy về ngủ, lão suy nghĩ mãi về chữ anh hùng, và tự nhiên nghĩ tới các anh hùng người VN. Quê hương ta có bao nhiêu anh hùng trong các lãnh vực. Và tự nhiên có 2 vị mà lão cho là anh hùng trổi vượt trong việc chống lại cộng sản VN. Lão xin kể :

- Người thứ nhất là Cha Nguyễn Văn Vinh. Cha sinh năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ngay từ bé cậu Vinh đã tỏ ra thông minh và ngoan ngoãn. Cậu được cha xứ cho đi tu. Năm 1930, vì tu và học hành xuất sắc nên cậu Vinh được học bổng du
học vào tu viện nổi tiếng St.Sulpice bên Pháp. Năm 1940 ngài thụ phong linh mục. Vì thế chiến thứ nhất vừa xảy ra nên Cha Vinh được giữ lại ở Pháp, và được đi học tiếp tại đại học lừng danh Sorbonne,. Ngài vừa học Triết vừa học nhạc. Sau 17 năm du học, năm 1947 Cha Vinh về nước, và được cử làm cha chính xứ nhà thờ lớn Hà Nội. Ngài học lâu năm ở Pháp nhưng không hề thích Pháp. Năm 1951, con trai tướng De Lattre de Tassigni là Bernard tử trận ở VN, lễ an táng được cử hành tại nhà thờ lớn Hà Nội. Tướng De Tassigni đòi ngồi trên gian cung thánh, ngài đã từ chối. Tướng De Tassigni giận tím mặt. Năm 1954 ngài dẫn chủng sinh Hà Nội di cư vào Nam rồi lại trở ra tiếp tục làm cha xứ ở Hà Nội. Năm 1956 dịp lễ Giáng Sinh, để tỏ ra miền Bắc có tự do tôn giáo, CSVN cho người đến chăng đèn kết hoa Nhà Thờ Lớn, sau lể họ đòi ngài một số tiền lớn. Năm sau cũng mùa Giáng sinh CS lại đưa người đến dự định chăng đèn kết hoa nữa, ngài không cho và kéo chuông báo động giáo dân. Giáo dân và cán bộ đã cãi nhau rồi đánh nhau. Cha Vinh bị bắt bỏ tù 18 tháng. Vì ngài giảng đạo trong tù dù bị cấm nên đã bị CSVN đổi đi nhiều nhà tù nhưng vẫn bướng với cai tù. Cuối cùng ngài bị đày lên trại Cổng Nhà Trời là trại giam tàn ác nhất, ai vào đây thì coi như sẽ chết. Ngài vẫn sống đạo, bác ái với các bạn tù và giảng đạo. Ngài luôn tình nguyện liệm xác các tù nhân chết. Liệm xong thì ngài ôm xác bạn tù mà khóc như khóc anh em ruột thịt. Cùng bị tù với ngài có tù nhân tên là Tuân. Về sau, khi ra tù, anh Tuân đã kể một chuyện rất độc đáo về Cha Vinh cho nhà văn Phùng Quán. Trong tù không ai biết cái gốc thông thái của ngài. Bữa dó anh Tuân và Cha Vinh cùng đi chăn trâu. Giữa trưa hè đổ lửa, hai anh tù ngồi núp dưới gốc cây, bày trâu thì ngâm mình dưới sông. Ngài hỏi anh bạn tù thèm cái gì nhất, bạn Tuân liền trả lời là thèm đọc sách. Ngài hỏi tiếp là sách gì, anh Tuân trả lời là sách Candide của Voltaire. Ngài liền bảo bây giờ anh không phải đọc mà ngồi yên nghe tôi đọc. Và tù nhân Vinh mắt sáng lên và đã cất giọng đọc nguyên bản văn Candide. Khi đọc đến câu cuối cùng thì kẻng trại cũng vang lên, báo giờ lùa trâu về trại. Trên đường về, tù nhân Tuân vô cùng sửng sốt đã hỏi tù nhân Vinh : Anh là ai vậy? Tù nhân Vinh trả lời ngay : Tôi là cái xà ngang trên cây thập giá của Chúa Giêsu, rồi ngài xin anh Tuân đừng nói với ai về chuyện vừa qua. Về tới trại thì mặt tù nhân Vinh lại biến ra ngu ngơ đờ đẫn như thường ngày. Rồi mùa đông đó tù nhân giúm gió này ngã bệnh nặng. Nghe tin này, tù nhân Tuân xin được ghé thăm. Và tù nhân Vinh đã lấy hết sức viết vào tay tù nhân Tuân chữ NHẪN như lời trối cuối cùng, rồi nhắm mắt lìa đời tại Trại giam Cổng Nhà Trời năm 1971.
Bản tin của Hội Đồng Giám Mục VN viết :

- Năm 1971 khi ngài từ trần, không ai được biết. Một năm sau chính quyền mới báo tin cho Đức Cha Khuê : Ông Vinh đã chết, không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh (linh mục làm lễ mặc áo lễ đỏ là để kính các thánh tử đạo)
- Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam anh hùng, hậu thế kính tôn và ghi ơn Ngài.

- Người anh hùng thứ hai là ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện. Ai cũng ca ngợi ông, gọi ông là ngục sĩ vì bị CSVN bỏ tù 3 lần trong 28 năm, bị cùm, hành hạ mà ông không hề bỏ việc chống CS và Bác Hồ. Bao nhiêu cái xấu, cái ác, cái gian dối được ông cô đọng lại trong
tập thơ ‘Hoa Địa Ngục’. Tháng 7 năm 1979 ông lẻn vào được tòa đại sứ Anh ở Hà Nội nhờ họ chuyển tập thơ này ra hải ngoại. Ông bị VC bắt ngay và bị giam tù 12 năm. Tòa đại sứ Anh đã chuyển tập thơ viết tay này cho giáo sư Patrick Honey đang dạy học ở London. GS Honey thấy tập thơ hay quá đã cho phổ biến trên báo chí hải ngoại. Tập thơ được dịch sang tiếng Anh rồi tiếng Pháp. Năm 1985 tập thơ được giải thưởng quốc tế tại Rotterdam. Từ năm 1981 Tổ chức Ân Xá Quốc tế Amnesty International và Tổ Chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch và Tổ chức nhân quyền Quê Mẹ cùng phát động chiến dịch kêu gọi quốc tế can thiệp cho ông. Năm 1995, ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ qua sự vận động đặc biệt của Đại tá Không quân Hoa Kỳ Noburu Masuoka.Tại đây, ông viết tiếp tập Hoa Địa Ngục thứ hai, tập này được GS Nguyễn Ngọc Bích dịch sang Anh Văn ngay và phổ biến khắp nơi. Năm 1998, ông được giải thưởng của Hội Nhà Văn Quốc Tế. Ông đã sang Pháp 3 năm và viết cuốn ‘ Hỏa Lò Tập Truyện’. Ông trở lại Hoa Kỳ và ở tại Quận Cam California. Ông là người độc thân sống khắc khổ, ít nói, thâm trầm. Trong mấy lần tôi ra mắt sách ở Cali, tôi có vinh hạnh được ông tới tham dự. Nhà văn Trần Phong Vũ, bạn thân của ông, đã viết một bài rất dài về nếp sống, tâm tư, và ước nguyện của ông. Sức khỏe của ông mỗi ngày mỗi mong manh vì gần 30 năm bị CSVN hành hạ trong tù, dù có sự chăm sóc của ban điều hành nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân. Đầu tháng 10 năm 2012, ông nhập đạo Công Giáo trên giường bệnh và nhắm mắt ra đi trong bằng an ngày mồng 2, cách đây vừa đúng 10 năm. Báo DĐGD ở Cali đã giao tiếp thường xuyên với ông,và đặc biệt giúp đỡ ông rất nhiều trong những ngày cuối cùng này.
Thơ văn của ông có rất nhiều, tôi thích nhất hai bài, Nguyễn Chí Thiện viết từ năm 1968. Bài thứ nhất viết về Bác Hồ, ông đã gọi Bác là NÓ.

Tôi biết nó.
Không có gì quý hơn độc lập tự do
Tôi biết nó thằng nói câu đó
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc biết nó
Việc nó làm, tội nó phạm ra sao
Nó đứng không yên, tất bật, điên đầu
Lúc rụi vào Tầu, lúc rúc vào Nga
Nó gọi Tầu Nga là cha anh nó
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo giữ nhà gác ngõ cho anh
Ôi độc lập tự do !
Xưa cũng vì quý hai thứ đó
Đất Bắc mắc lừa mất vào tay nó
Và nay mà vẫn còn có người mơ hồ nghe nó
Nó mới vạn lần cần nguyền rủa thật to!


Một bài khác tôi thấy ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện rất lạc quan, tin vào tương lai VN sẽ hết CS. Xin trích mấy dòng mà ông tỏ ra lạc quan tin vào tương lai tươi sáng, trong bài ‘ Sẽ có một ngày’:

Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng vất cờ vất Đảng
Đội lại khăn tang, quay ngang vòng nạng
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thay cờ hồng
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay thế Tiến Quân Ca và Quốc Tế Ca
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la…


Tác giả cả đời là môt chiến sĩ chống Cộng, dù trong những hoàn cảnh tù tội vô cùng hung ác ở đất Bắc, hay trong nhiều cảnh chụp mũ chia rẽ ở hải ngoại, người chiến sĩ ấy vẫn lạc quan, tin vào tương lai huy hoàng của đất nước. Ông là bậc anh hùng ái quốc rõ ràng, phải không các cụ?
Nguyện xin hồn thiêng Cha Chính Vinh và Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện trên chốn trời cao phù hộ cho tất cả chúng ta.
TRÀ LŨ