Một Cái Nhìn Tổng Quát Về Giáo Hội tại Phi Luật Tân

Tổng Quan về Các Giáo Phận Phi Luật Tân

Hiện nay Giáo Hội Phi Luật Tân là một giáo hội Công Giáo đông người nhất tại châu Á, tỷ lệ có thể lên tới 85% người Công giáo hay hơn, so với toàn dân Phi Luật Tân. Hiện nay Giáo hội Công giáo gồm:

Mười Sáu (16) Tổng Giáo Phận: Caceres, Cagayan de Oro, Capiz, Cebu, Cotabato, Davao, Jaro, Lingayen-Dagupa, Lipa, Manila, Nueva Segovia, Ozamiz, Palo, San Fernando, Tuguegarao, Zamboangan (16)

Sáu Mươi Bốn (64) Giáo Phận: Alaminos, Antipolo, Bacolod, Balanga, Bangued, Bayombon, Boac, Borongan, Butuan, Cabanatuan, Calbayog, Catarman, Cubao, Daet, Digos, Dipolog, Dumaguete, Gumaca, Iba, Ilagan, Iligan, Imus, Kabankalan, Kalibo, Kalookan, Kidapawan, Laoag, Legazpi, Lucena, Maasin, Malaybalay, Malolos, Marbel, Masbate, Mati, Naval, Novaliches, Pagadian, Parañaque, Pasig, Romblon, San Carlos, San Fernando de La Union, San Jose de Antique, San Jose Nueva Ecija, San Pablo, Sorsogon, Surigao, Tagbilaran, Tagum, Talibon, Tandag, Tarlac, Tlagan, Virac, Urdaneta (64)

Chín (9 Giáo Phận Tông Tòa): Baguio, Bontoc-Lagawe, Calapan, Jolo, Puerto Princesa, San Jose Occidental Mindoro, Tabuk, Taytay (9).

Sáu (6) Phủ Doãn Tông Tòa: Batanes-Babuyanes, Infanta, Ipil, Isabela, Marawi, Libmanan (6)
Tổng cộng giáo hội Phi Luật Tân có tất cả (16+64+9+6) = 95 đơn vị hành chính tôn giáo trên toàn lãnh thổ đa đảo đa chủng của Phi Luật Tân

Tổng Giáo Phận Caceres

Địa Lý
Tổng Giáo Phận Caceres từ năm 1930 có một diện tích là khoảng 3.207 cây số vuông. Lãnh thổ đó nằm ở vị trí có nhiều núi non, xen kẽ với những mảnh đồng bằng, giúp ích cho nghề nông. Các sản phẩm chính là lúa gạo, bắp, rẽ củ, dừa, đường và cuộc sống nghề biển trên sông suối, hồ ao và biển cả.
Đất nông nghiệp trồng lúa gạo hiện nay là 61% toàn diện tích, dù có hay không được tưới tiêu. Có một miền đất rộng cao cho việc chăn nuôi bằng cỏ, như người ta thấy trong vùng nội địa Caramoan, Garchitorena và Tinambac. Tuy nhiên các vùng này có không có nhiều tiềm năng sản xuất, vì xa xôi và chuyên chỏ không thích hợp.

Tỉnh có nhiều vùng đất phì nhiêu. Tuy nhiên nó cũng có nhiều diện tích rộng đất loại C ít độ phì nhiêu chất lượng cao, điều kiện này vẫn có thể cải thiện với kỹ thuật và quản trị.

Trong khi khí hậu khá bao quát và một mức phân phối đều các nùa ướt và khô thuận tiện cho tỉnh, nó cũng nằm trong một ví trí dọc theo lối đi của bão tố, thường diễn ra năm hay sáu lần trong năm
Vào năm 2006, Tổng Giáo Phận Caceres có 1.237.068 người Công giáo đã rửa tội, biểu thị 96.82% của tất cả 1.277.720 người trong lãnh thổ.

Các Dữ Kiện Dân Số

Dân Số Tổng Giáo Phận
Dân số Tổng Giáo Phận xấp xỉ có 1.277.720 người, trong đó 1.237.068 là Công giáo. Tỷ lệ tăng trưởng cho toàn tỉnh là 2.25% so sánh với tỷ lệ tăng trưởng chung của quốc gia là 2.3%. Với khoảng 175.268 hộ trong Tổng Giáo Phận, trung bình số thành viên nhân khẩu là sáu người trong một gia đình. Tỷ lệ nam nữ là 1/3

Cấu Trúc Chính Trị
Tỉnh Camarines Sur nói chung, tù lâu được đánh giá là một trong những vùng chậm tiến nhất về kinh tế trong nước. Tại đó, thu nhập đầu người về cơ bản là không bao giờ tăng. Tình hình này làm cho nhiều gia đình lâm cảnh túng thiếu. Chính quyền tiếp tục không có khả năng cung cấp thêm việc làm và nhà ở thích đáng, ổn định giá cả và xây dựng hạ tầng thích hợp. Kinh nghiệm chính trị của người Bicolanos (dân cư của Bicol) trong hơn bốn thập niên, từ khi quốc gia được quyền độc lập về chính trị, có thể nói là vừa làm thỏa mãn vừa gây chán chường. Dầu vậy, nền tự do mới giành được, đã mang đến một số khía cạnh tích cực.

Kinh Tế
Bốn mươi bảy phần trăm (47%) sức lao động tại vùng Bicol xuất phát từ Camarines Sur. Theo các dữ kiện từ Sở Thống Kê Quốc Gia, miền Bicol vào năm 2006, thì toàn thể lực lượng lao động trong vùng là 13.14 triệu. Tỷ lệ thất nghiệp là 9.5%. Chừng 62% của những người kiếm được số lương 2.000 pesos (49.81 US$), hay ít hơn mỗi tháng. Ít nhất 70% người làm việc là nông dân, trong khi những người còn lại lo làm dịch vụ, kinh doanh và buôn bán lẻ. Nhiều người thất nghiệp di chuyển đến những trung tâm thành phố như Thủ đô Manila hay ngoại quốc.

Viễn Thông
Phát thanh và Truyền hình được xem là nguồn thông tin và giải trí trong Tổng Giáo Phận. Khoảng 75% các gia đình là những nhà riêng có Truyền Hình, trong khi khoảng 65% là những nhà phát thanh ( Nhóm Nghiên Cứu Khảo Sát Phi Luật Tân, Tp. Naga -

Philippine Survey Research Group, 2002, Naga City).

Tổng Giáo Phận không sở hữu bất kỳ trạm phát thanh hay truyền hình nào. Tổng Giáo phận được phúc, vì một số người quản đốc trạm quảng đại, cống hiến những thời gian tự do không trung trên hệ thống Truyền hình và Phát thanh của họ. Có 19 trạm phát thanh và hai trạm truyền hình trong Tổng giáo phận. Ngoài ra khoảng 60% dân chúng có khả năng sắm được điện thoại tế bào và đường giây đất.

Hiệu cà phê mạng toàn cầu, và đường giây liên kết DSL (Digital Subscriber Line) trong các nhà riêng, cũng đã gia tăng quan trọng đáng kể trong vài năm qua.

Chuyên Chở
Hầu hết các đường được trải xi măng, trừ một vài xứ duyên hải, vần còn đường gồ ghề. Kết quả người ta ở các giáo xứ duyên hải phải di chuyển bằng đường biển. Khoảng 40% các gia đình có xe hơi. Nhưng các sinh viên, những người làm thuê hay lao động thường đều đi lại bằng xe tải nhỏ (jeeney) và xích lô ba bánh.

Caceres có các đường nối kết hàng không, biển và đất liền với các điểm quan trọng trong nước. Tp. Naga chỉ một tiếng 45 phút cách Manila bằng máy bay, hay 7 giờ bằng xe buýt rời Manila mỗi chiều tối.

Giáo Dục
Có hai Viện Đại học Công giáo, 4 trường cao đẳng, 4 trường kỹ thuật hay huần nghệ. 11 trường trung học, 11 trường tiểu học, 20 nhà trẻ, 14 trường dự bị và 20 trường mẫu giáo mầm non.

Có nhiều trường công lập và không phe phái khác trong tỉnh. Trong khi tỉnh nổi tiếng là môt trung tâm phát triển giáo dục, những ai đã được giáo dục ở đây đều thấy có lệch lac giữa giáo dục huấn luyện trong trường và lãnh vực hoạt động thực tiễn.

Hoạt Động Văn Hóa

Âm Nhạc
Âm nhạc tân thời như reggae, rhythm và blues, rap và các loại nhạc rock hấp dẫn thanh niên.Họ thích lập các ban nhạc trong khi các người có tuổi hơn thích nhạc cổ điển và nhạc mellow hon. Các trường học nhất là trường Công giáo đều có ban nhạc riêng. Người ta trở nên trân trọng các bản hòa tấu có chất lượng, chuyên đề đơn ca, kịch nghệ vân vân. Các bài hát và nhạc đạo lối cuốn những người già hơn và chí có một ít của thế hệ trẻ.

Khiêu Vũ
Khiêu vũ trên đường phố biểu thị lịch sử và văn hóa của miền này, vẫn đang được biểu diễn trong những lễ hội lớn hằng năm của miền, như “Lễ Hội Kaogma”, Các Lễ Hội Penafrancia, Lễ Hội Ibalong, Lễ Hội Masbate Rodeo và Sinulog. Hầu hết giới trẻ thích các điệu nhảy bộ tộc, hip hop, (hiện đại), funk (kim khí) và techno. Những người trung niên và người cao tuổi trong các hội đoàn đạo thường thích khiêu vũ trong phòng nhảy.

Buổi Diễn Truyền Hình Thích Thú /Kịch Nghệ

Một số người lớn, nhất là những người cao tuổi, thích nghe kịch phát thanh. Hầu hết người dân Phi luật tân thích các đại nhạc hội ướt át và các kịch tiểu thuyết truyền hình. Người trong tầng lớp trên và có học vấn có thể liệu xem các kích sân khấu. Giữa giới trẻ, sân khấu đang trở nên một phương tiện bình dân truyền bá Tin Mừng, nhất là cho các hoạt náo viên Kinh Thánh, các câu lạc bộ tôn giáo trong các trường Công giáo và tổ chức xứ đạo.

Tóm Tắt Lịch Sử Tổng Giáo Phận Caceres

Truyền Bá Tin Mừng Và Các Xứ Đầu Tiên

Các nỗ lực truyền bá Tin Mừng bền vững hơn đến với các tu sĩ Phanxicô năm 1578. Được chỉ định đến miền Bicol là các tu sĩ Pablo de Jesus và Bartholome.
Trong cùng năm, củng cố các thành tựu của những sứ vụ truyền giáo đi trước, hai tu sĩ Phanxicô thiết lập không ít hơn bốn giáo xứ: Naga, Quipayo, Nabua và Bula. Như thế “Tierra de Camarines” thành nơi có một sứ vụ truyền giáo Phanxicô thường trực hơn, và vẫn còn cho đến hết chế độ Tây Ban Nha tại Phi Luật Tân.

Với việc thành lập bốn giáo xứ đầu tiên, Giáo hội chú ý tập trung đến việc quản trị. Như thế, trong khi nhà biên niên sử Phanxicô, tu sĩ Francisco Ribadeneira, OFM, viết về Bicol buổi đầu như là “ôn hòa, dễ dạy và khiêm tốn nhất…”, quần chúng cời mở nhất đón nhận Tin Mừng, thì Giám mục Andres Gonzales, OP thuộc Manila (1685-1709) muốn tố cáo việc khai thác nhân dân và các tệ nạn xã hội khác đã mắc phải, nhân danh việc Kitô hóa và việc viên chức chính quyền và ngay cà những người của giáo hội lại đi chinh phục.

Hơn nữa, cho đến thời gian này, các giáo xứ của "Tierra de Camarines do P. Santiago de Castro "quản trị từ Manila, với các khó khăn về quản lý và thăng trầm về đi lại gây ra do khoảng đường xa.

Giáo hội Caceres

Trước nghịch cảnh này, Giáo phận Nueva Caceres được thành lập làm chi nhánh phụ thuộc Manila ngày 14/8/1595. Điều này là do Sắc lệnh "Super specula militantis ecclesiae" được Đức Giáo Hoàng Clement VIII ban hành. Giáo phận trải rộng đến tận “các tỉnh Camarines và Albay và bao gồm các đảo Ticao, Masbate, Burias và Catanduanes; xa mãi tận tỉnh Tayabas và bao gồm Lucban; và ở các bờ biến đối diện ở Mauban tới Binangonan, Polo, Baler và Casiguran." Tên chính thức được ban cho quyền tài phán của Tòa Thánh là "Ecclesia Cacerensis in Indiis Orientalius." Tên này lấy từ "Ciudad de Caceres" cũng chỉ trụ sở của giáo phận. Thầy dòng Luis de Maldonado, OFM, đươc bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi của giáo phần Nueva Caceres.

Thời kỳ tiếp sau việc xây dựng giáo phận chứng kiến những chuyển tiếp chủ yếu trong lịch sử của cả Giáo hội và quốc gia, từ cuộc Cách Mạng Phi Luật Tân đến nước Cộng Hòa Phi Luật Tân, từ việc truyền bá Tin Mừng có màu sắc thực đân đến việc Phi Luật Tân hóa.
Mấy Điểm Nổi Bật Tại Bicol

* Giám mục Jorge Barlin, vị giám mục trào Phi Luật Tân đầu tiên, chiến đấu với những học thuyết sai lầm của ly giáo Aglipayan;
* việc cổ vũ lòng sùng kính Đức Nữ Trinh Penafrancia và Divino Rostro – cho xây dựng một nhà lớn có giá trị cho đức tin; và Lễ Hội Penafrancia Fiesta ở Caceres.
* việc nhìn nhận dần dần các ơn gọi và hàng giáo sĩ bản địa với việc xây dựng một chủng viện do Hội Đồng Giám Mục chỉ định của giáo phận, cũng như việc thiết lập các thể chế như “Escuela Superior” đầu tiên trong nước.

Vào ngày 10/4/1910 với việc sáng lập những giáo phận mới, giáo phận Nueva Caceres trở thành một giáo phận Bicol duy nhất bao quanh toàn miền, với sáu tỉnh là Albay, Camarines Norte, Camarines Sur, Catanduanes, Masbate và Sorsogon.

Tổng Giáo Phận Caceres

Vào ngày 29/6/1951, Đức Giáo Hoàng Piô XII nâng giáo phận Nueva Caceres lên Tổng Giáo Phận Caceres, bằng Sắc Lệnh Giáo Hoàng tại Nước Cộng Hòa Phi Luật Tân. Vào cùng ngày, hai giáo phận chi nhánh phụ thuộc được tạo dựng là: Legaspi và Sorsogon. Sorsogon có quyền tài phán tỉnh Masbate cho đến ngày 23/3/1968, khi toàn tỉnh đảo Masbate lúc đó được lập thành một giáo phận riêng biệt. Legaspi đồng thời gồm tỉnh Albay and Catanduanes cho đến 27/5/1974, khi tỉnh đảo Catanduanes được lập thành Giáo phận Virac.

Tổng Giáo Phận khi đó chỉ bao gồm hai tỉnh Camarines, tức ám chỉ "Ambos Camarines." Điều này tiếp tục mãi đến ngày 1/9/1974, khi toàn tỉnh Camarines Norte biến thành giáo phận Daet.

Ngày 19/3/1990, quận thứ nhất của tỉnh Camarines Sur được lập làm Phủ Doãn Libmanan. Hành vi này còn tách biệt quyền tài phán của Tổng Giáo Phận khỏi chừng 2.060 cây số vuông đất đai, có chừng 208.560 người cư ngụ và được chừng 18 giáo sĩ mang phẩm phục đỏ chăm sóc vào tháng Ba 1990.
Không chỉ mạng toàn cầu (website) của Tổng Giáo Phận là: www.caceres-naga.org

Thường Quyền Quản Trị

Tổng Giám Mục Leonardo Legazpi, OP (Dòng anh em thuyết giáo/Đaminh) sinh tại Meycauayan, Bulacan, Phi Luật Tân ngày 25/11/1935, người thứ ba trong mười con còn sống của ông bà quá vãng Enrique Relente Legaspi và Luisa Moraga Zamora. Ngài gia nhập dòng Đa Minh năm 1952, học triết tại tu viện thánh Alberto < Hồng Kông năm 1955, và được truyền chức linh mục ngày 17/12/1960, tại Manila.

Ngài tốt nghiệp Khoa Thần Học Thánh của Viện Đại Học Santo Tomas với văn băng cử nhân Thần Học Thánh, Magna Cum Laude, năm 1961, và tiến sĩ Thần Học Thánh, Magna Cum Laude, năm 1962. Ngài được Bộ giáo dục trao bằng Tiến sĩ năm 1974. Ngài được bổ nhiệm làm Viện Trưởng Phi Luật Tân đầu tiên của Chủng Viện Trung Ương Đại Học Santo Tomas; là đại diện đầu tiên của tỉnh dòng Đa Minh Phi luật Tân; và Viện Trưởng Magnificus Philuật Tân đầu tiên của Viện Đại Học Hoàng Gia và Giáo Hoàng Santo Tomas, Viện Đại Học Công giáo Phi Luật Tân; ngài được chọn làm giám mục hiệu Elefantaria tại Mauritania và giám mục phụ tá Manila vào ngày 30/6/1977, và được tấn phong ngày 8/8/1977, tại Nhà Thờ Thánh Đa Minh, Quezon City.

Ngài được bổ nhiệm Tổng Giám Mục Caceres ngày 2/10/1983; nhiệm chức, với các lễ nghi trọng thể, làm Tổng Giám Mục thứ ba và Vị Thường quyền thứ 33 tại Nhà thờ lớn Gioan Thánh Sử của thủ đô, Tp. Naga, ngày 18/1/1984. Ngôn ngữ mẹ đẻ: tiếng Phi Luật Tân. Các ngôn ngữ được nói khác: Anh, Tây Ban Nha, Latinh, Ý.

Những bổ nhiệm cao cấp trên giáo phận: Chủ tịch của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Phi Luật Tân được chọn vào tháng Bẩy, 1986, và tái tuyển nhiệm kỳ thứ hai vào tháng 7, 1989; một thành viên của Hội Đồng Thường Trực của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Giáo Hữu và Ủy Ban Thánh Bộ Giáo Sĩ về Sư Phạm Giáo Lý; một thành viên của Ủy Ban Chấp Hành của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu, và Nhóm Nghiên Cứu Quốc Tế về Đạo Đức Sinh Học Amtersdam. Ngài được bầu làm đại diện của Hàng Giáo Phẩm Phi Luật Tân cho Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1990 về Giáo Sĩ; Chủ Tịch, Hội Đồng Toàn Thể Thứ Hai của Phi Luật Tân (PCP II) năm 1991.

Địa Chỉ:: Office of the Archbishop, Elias Angeles Street, P.O. Box 6085, 4400 Naga City, Camarines Sur, Philippines
Đt: (63) 54-473-8483, (63) 54-473-8583
Fax: (63) 54-473-2800
Email: bpleo1@yahoo.com

Giám Mục Phụ Tá và Tổng Đại Diện: Giám Mục Jose Rojas, Jr. Ngài sinh tại Tp. Cebu, Phi Luật Tân, ngày 18/8/1956. Nữ Tu Rojas và Emilia Rojas là hai người đón nhận cậu từ Virac, Cataduanes. Ngài lớn lên tại Tp. Naga, tỉnh Camarines Sur và được truyền chức linh mục ngày 29/3/1981 tại Nhà thờ lớn thủ đô tại Tp. Naga.
Ngài tốt nghiệp với văn bằng tại Đại Chủng Viện Thánh Mân Côi, Tp Naga năm 1973, Ngài hoàn tất văn bằng Cử Nhân Thần Học tại Chủng viện Trung Ương Đại Học Santo Tomas, Manila năm 1982; MA về Nghiên Cứu Tôn giáo năm 1985 tại Katholieke Universiteit Leuven ở Bỉ, Ph.D. về Nghiên Cứu Tôn giáo năm 1987 và Tiến Sĩ Thần Học Thánh cũng năm 1987 tại Katholieke Universiteit Leuven.
Ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Caceres ngày 15/9/2005. Ngài được tấn phong do Tổng Giám Mục Antonio Franco, Sứ Thần Tòa Thánh tại Phi Luật Tân, được phụ tá của Tổng Giám Mục Leonardo Legaspi, OP, Tổng Giám Mục Caceres, và Tổng Giám Mục Tito Adolfo Yllana, Sứ Thần Tòa Thánh tại Quần Đảo Solomon trong cùng năm. Ngài cũng là Tổng Đại Diện của Tổng Giáo Phận và đồng thời làm cha xứ giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm Hoài Thai tại Tp Naga. Ngài cũng là giám đốc của Tác Vụ Gia Đình Giáo Phận Caceres và chủ tịch Ủy Ban Giáo Phận Caceres về Giáo Lý

Vị thay thế thứ nhất: Đức Ông Jaime San Andres, VG, PA
Địa chỉ: Archbishop's Residence, Elias Angeles Street, P.O. Box 6085, 4400 Naga City, Camarines Sur, Philippines
Chưởng Ấn: Cha Allan Roy Remo, JCD

Ban nhân sự:
Munen Regulado
Jose Borja
Bí thư TGM: cha Rex Andrew Alarcon;
Bí thư Chương Ấn: Nữ tu Marianne Diaz, DM (Dòng Con Cái Đức Maria, Học viện Mẹ Giáo Hội);
Phụ tá bí thư: nữ tu Emelyn Rosento, DM
Quản Lý: Cha Domingo Florida.
Phụ Tá Quản Lý: Nữ tu Glenita Catajay, DM.
Các thư ký: Rosalie Dizon, Clarina Corral.
Văn phòng các Vụ Luật pháp.
Viên chức luật pháp: chánh án Rolando Carandang.
(cập nhật cuối cùng, ngày 17/4/2007. Tài liệu UCAN)