Ngày 07-03-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thư gửi tín hữu Ga-lát
LM An-rê Đỗ xuân Quế, O.P.
00:10 07/03/2009
THƯ GỬI TÍN HỮU GA-LÁT

Muốn hiểu thư Ga-lát, thiết tưởng phải hiểu hoàn cảnh lịch sử của những người nhận thư. Cuộc khủng hoảng ở Ga-lát khiến thánh Phao-lô viết thư này, không phải chỉ là một biến cố có tình địa phương, nhưng là một nấc tiến quan trọng trong lịch sử Hội thánh thời sơ khai. Hội thánh lúc đó phải lựa chọn một thái độ dứt khoát để trung thành với Tin Mừng. Trải qua mọi thời đại, Hội thánh vẫn luôn phải lựa chọn như thế.

1. Hoàn cảnh cuộc khủng hoảng ở Ga-lát

Sách Công vụ cho biết vai trò của thánh Phao-lô trong công việc mở mang Hội thánh. Ngài là tông đồ của các dân ngoại, được dành riêng để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Cv 9,15; 22,21; 26,17). Ngài vẫn luôn gặp sự chống đối từ phía người Do thái. Thánh Lu-ca đã tóm tắt lập luận của họ như sau: nếu không chịu cắt bì như luật Mô-sê dạy, không ai được cứu rỗi. Họ buộc các tín hữu từ dân ngoại vào đạo phải giữ luật Mô-sê. Cũng theo sách Công vụ, thánh Phê-rô không đồng ý với họ. Được Thánh Thần soi sáng, ngài biết rằng Thiên Chúa ban ơn cho dân ngoại cũng y như cho người Do thái, bởi lẽ họ tin vào Chúa Ki-tô (10,17; 15,7-11) Thánh Gia-cô-bê cũng nhận cho dân ngoại vào Hội thánh; họ chỉ cần giữ một số điều cần thiết như Công đồng Giê-ru-sa-lem chỉ dạy (15,19-21.28)

Sách Công vụ còn cho biết thánh Phao-lô đến Ga-lát nhiều lần. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất, ngài đến rao giảng Tin Mừng ở phía Nam Ga-lát, gần các vùng Pi-si-đi-a, Li-ca-ô-ni-a và Phi-gi-a (13,14-14,25). Rồi trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai và thứ ba (16,6; 18,23) ngài đên phía Bắc Ga-lát hai lần. Miền này nằm giữa Ca-pa-đô-ki-a và Biển đen, lan rộng đến chung quanh thị trấn An-xi-rơ (nay gọi là An-ka-ra); dân cư thuộc gốc Âu lai Ấn.

Đó là khung cảnh diễn ra các sự kiện được thuật lại trong thư Ga-lát.

Thánh Phao-lô viết thư này cho ai ? Viết bao giờ và nhằm sửa chữa những sai lầm nào ? Ai là nguời gieo rắc những sai lầm đó ? Trong thư, thánh Phao-lô ám chỉ một tình thế quen thuộc với các độc giả của ngài, nhưng lại xa lạ với độc giả ngày nay. Dựa vào ám chỉ đó, người ta đã đưa ra nhiều giả thuyết. Ở đây chỉ xin nói đến vài giả thuyết quan trọng hơn.

Người nhận thư là ai ? Các nhà chú giải thế kỷ XIX bảo đó là các giáo đoàn miền Nam Ga-lát. Nếu giả thuyết này đúng thì thánh Phao-lô phải viết thư này ít lâu, sau cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất, và đây là thư đầu tiên ngài viết từ An-ti-ô-khi-a vào khoảng năm 49 hay muộn hơn, sau cuộc hành trình được kể lại trong Cv 16,6. Nhưng ngày nay đa số các nhà chú giải lấy lại lập trường của người xưa là thánh Phao-lô viết cho người miền Bắc Ga-lát, sau lần thứ hai dừng chân tại đó như sách Công vụ kể (18,23). Ngài viết thư này vào khoảng cuối thời gian cư ngụ tại Ê-phê-xô (mùa đông năm 56-57), chỉ độ sáu tháng trước khi soạn thư gửi tín hữu Rô-ma, vì thế mới có những điểm tương đồng trong hai thư.

Còn ai gây ra cuộc khủng hoảng ? Họ gieo rắc những sai lầm nào ? Chỉ có một điều xem ra rõ ràng là họ muốn bắt các người ngoại theo đạo mới phải giữ luật Mô-sê (3,2; 4,28; 5,4), đặc biệt phải chịu cắt bì (2,3-4; 5,2; 6,12). Có lẽ đó là phe Do thái được sách Công vu nói đến và tóm tắt lập trường ở 15,1. Trong thư, thánh Phao-lô bảo phải tự do, nhưng không phải tự do quá trớn đi đến chỗ phóng túng (5,13). Như vậy, phải chăng thánh Phao-lô có hai loại đối thủ ? Nhưng không có gì chứng tỏ ngài phải đối phó cùng một lúc với hai đối thủ. Vì thế, người ta lại đưa ra một giả thuyết thứ ba. Có thể phe Do thái chỉ khắt khe vế lễ nghi, còn về luân lý, họ lại phóng túng. Trong trường hợp này, đối thủ chính của thánh Phao-lô là phe chủ trương tôn giáo hỗn hợp như thấy nói trong thư Cô-lô-xê 2,16-23. Thật vậy, cả hai thư đều nói đến một thứ thờ phụng, khiến người ta phải làm nô lệ cho những nhân tố trần gian (Gl 4,3.9). Dường như thánh Phao-lô muốn nói với tín hữu Ga-lát rằng khi chủ trương phải cắt bì là người ta muốn lôi kéo họ trở về với lối thờ phụng trước kia, khi chưa theo đạo. Ngoài ra, ngài còn nhấn mạnh là ai chịu cắt bì thì cũng phải giữ tất cả luật Mô-sê, Nhưng đó không phải là chủ trương của những người kia, vì họ không giữ tất cả. Vì thế, trong câu kết luận, thánh Phao-lô tố cáo họ không giữ luật, trong khi họ bó buộc người khác phải chịu cắt bì.

Giả thuyết có vẻ hấp dẫn. Việc thánh Phao-lô căn dặn không được sống phóng đãng có thể giải thích như sau: người Ga-lát là tín hữu gốc dân ngoại, tâm lý và tác phong của họ chưa được biến đổi hoàn toàn, nên thánh Phao-lô cần xác định cho họ hiểu thế nào là tự do của con cái Thiên Chúa. Đàng khác, việc ngài nhấn mạnh đến các lễ nghi Do thái cũng như cách thờ cúng của dân ngoại không có nghĩa là phe Do thái chủ trương hỗn hợp mà chỉ có nghĩa là chủ trương như vãy có thể lôi kéo tín hữu Ga-lát trở về tình trạng nô lệ trước đây, một tình trạng mà Đức Ki-tô đã kéo họ ra khỏi. Ngài đi đến chỗ dám nói là thà lại thờ cúng như dân ngoại còn hơn, vì như vậy sẽ ra khỏi Hội thánh và không làm biến chất Tin Mừng cũng như gây xáo trộn cho người khác.

2. Ý nghĩa của cơn khủng hoảng và sự cần thiết phải lựa chọn

Thánh Phao-lô làm cho tín hữu Ga-lát ý thức rằng phải lựa chọn và sư lựa chọn này rất quan trọng. Đây không phải là vấn đề cá nhân, nhưng là chân lý của Tin Mừng, vấn đề tự do mà Tin Mừng rao giảng, vấn đề thập giá Đức Ki-tô, nguồn mạch phát sinh ra tự do. Tự do này là đặc tính cốt yếu của đời sống mới nơi con cái Thiên Chúa. Thánh Phao-lô dùng ba cặp từ đối nghịch nhau để diễn tả sự lựa chọn mà Tin Mừng bó buộc mọi người phải thực thi. Cặp từ đức tin và lề luật đối lập hai giai đoạn trong lịch sử cứu độ, hai chế độ tôn giáo: chế độ lề luật chia rẽ Do thái với dân ngoại, chỉ có giá trị để sửa soạn cho chế độ sau là chế độ đức tin. Đức Ki-tô đã chấm dứt chế độ trước và thiết lập chế độ sau. Trong hai chế độ ấy, điểm cốt yếu là ở chỗ nào ? Cặp từ sau sẽ cho thấy rõ.

Cặp thần khí và xác thịt cho thấy con người trong mỗi chế độ có cái gì là nguồn sức sống của mình. Hoặc nguồn sức sống đó là thần khí và con người có lòng tin thì bấy giờ thần khí sẽ tác động trên nó. Hoặc con người cho mình là nguồn sống và có thể tự mình làm được những điều như luật dạy, thì khi ấy nó là con người xác thịt, vì theo thánh Phao-lô, con người xác thịt là con người khép kín trong thái độ tự mãn. Ngược lại, con người sống theo thần khí là con người để cho thần khí tác động, mà trở nên con cái của Thiên Chúa. Con người xác thịt phải làm nô lệ tội lỗi, không tự giải phóng mình được. Do đấy, cặp từ thần khí và xác thịt gắn liền mật thiết với cặp từ thứ ba mà thánh Phao-lô đề ra để cho tín hữu Ga-lát lựa chọn. Đó là tự do và nô lệ.

Phe Do thái rõ ràng đã lầm lạc, vì thái độ của họ là thái độ của con người xác thịt. Tin Mừng giải thoát người tin cho khỏi thái độ đó, và mặc khải cho người ấy biết ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.

3. Bố cục và lối hành văn trong thư Ga-lát

Trong chương 1 và 2, thánh Phao-lô nhắc lại cho tín hữu Ga-lát rằng chính Đức Giê-su Ki-tô là khởi điểm sứ vụ và là trung tâm “sứ điệp” của Người. Từ chương 2 đến chuơng 6, tác giả cho thấy khi hoàn thành công cuộc cứu thế, Đức Giê-su Ki-tô đã đem lại cho lịch sử một ý nghĩa là nhờ Người và trong Người, nhân loại được tái sinh.

3,1 Giai đoạn I: 1,1-2,2

1.1-5 mở đầu thư và tuyên bố hai đề tài trong giai đoạn này là sứ vụ của tác giả (1,1-2) và công cuộc rao giảng Tin Mừng (1,3-4). 1,6-10 cho biết tình hình ở Ga-lát. Tin Mừng gặp nguy hại. Tiếp đến là sứ vụ của tác giả (1,11-2,10). Thánh Phao-lô nhận sứ vụ từ Chúa Ki-tô Phục sinh (1,11-24) để rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngài đã được gọi và được tuyển chọn để làm công việc này. Ơn cứu độ được ban không cho mọi người nên dân ngoại không phải chịu cắt bì (2,1-10). Đó là chân lý Tin Mừng mà thánh Phê-rô và giáo đoàn Giê-ru-sa-lem đã công nhận.

Tuy vậy, do bị áp lực của phe Do thái, thánh Phê-rô đã không trung thành với nguyên tắc nêu trên, còn thánh Phao-lô vẫn trung thành với nguyên tắc đó và dùng cặp từ đức tin và lề luật để xác định sự lựa chọn căn bản của mình. Ai tưởng mình có thễ dùng việc làm do Luật dạy để trở nên công chính, người đó làm cho cái chết của Đức Ki-tô hóa ra vô ích. Ngược lại, ai tin rằng mình được nên công chính là nhờ Đức Ki-tô và từ bỏ tham vọng tự cứu nổi mình, người đó minh chứng rằng cái chết của Đức Ki-tô trở nên thật sự phong phú cho mình.

3,2 Giai đoạn II (3,1-6,18)

Trước nhan Đức Ki-tô chịu đóng đinh, Đấng đã ban thần khí cho tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô khiển trách họ là đã chọn trở về với “xác thịt” một cách ngu xuần. Theo chương trình của Thiên Chúa, lời hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham là nhằm vào Đức Ki-tô và các Ki-tô hữu không phân biệt người nào. Ơn cứu độ Thiên Chúa hứa, nay được thực hiện khi Người ban thần khí cho họ.

Luật không phải là điều kiện để được ơn cứu độ. Thiên Chúa ban Luật cho tội nhân để mạc khải cho họ thấy mình đang làm nô lệ tội lỗi và để chứng tỏ ơn cứu độ là do lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Nhờ Người và trong Người, tội nhân sẽ được giải thoát và đoàn tụ, vì được làm con cái Chúa (3,6-14)

Lịch sử đã hoàn tất trong Đức Ki-tô. Người giải thoát tín hữu khỏi nô lệ thế gian, để được sự tự do của con cái Thiên Chúa, nhờ được lãnh nhận thần khí (4,1-7)

Thánh Phao-lô lo lắng cho tín hữu Ga-lát. Họ đã được Tin Mừng giải thoát, Nay có những người lại muốn đưa họ trở về vòng nô lệ (4,8-20. Muốn được tự do, họ phải là con cái của tổ phụ Áp-ra-ham theo thần khí, chứ không phải theo xác thịt (4.24-31). Chớ gì tín hữu Ga-lát cứ sống trong tự do, bằng cách đón nhận ơn Đức Ki-tô đã ban không cho họ, tức là thần khí đang làm cho họ tin, cậy, mến. Đó chính là đời sống mới trong Đức Ki-tô (5,1-12).

Sự tự do đích thật là hiệu quả của Thần khí, Đấng giải thoát con người khỏi xác thịt (5,13-6,10), Xác thịt và Thần khí hoàn toàn xung khắc nhau (5,13-25), Thần khí giải thoát con người khỏi bị xét xử, vì làm cho nó luôn trung thành với luật của Đức Ki-tô (5,26-6,10).

Thánh Phao-lô đặt tín hữu Ga-lát trước thập giá Đức Ki-tô. Thập giá đã chấm dứt thế giới xấu xa như đầu thư nói tới (1,4); ơn cứu chuộc do Đức Ki-tô thực hiện, đã khai sinh một cuộc tạo thành mới; ai muốn được nhận vào đó phải có lòng tin. Trong thế giới mới này, con người sẽ thoát khỏi ách của Lề Luật, vì sống theo Thần khí (6,11-18)

Đó là bố cục của bức thư. Thư này mang tính duy nhất nhờ mục tiêu thánh Phao-lô nhắm, khi khai triển các đề tài bổ túc cho nhau như mới nói trên. Nó làm cho người ta thấy Thiên Chúa dùng thánh giá của Đưc Ki-tô để can thiệp vào lịch sử, mặc cho lịch sử một ý nghĩa và thực hiện chương trình cứu độ một cách nhưng không.

Kết luận

Thư Ga-lát chất vấn Ki-tô hữu và Hội thánh ở mọi thời. Ki-tô hữu có thật là tín hữu không ? Cò phải Hội thánh cũng đang ở trong một hoàn cảnh giống như hoàn cảnh của tín hữu Ga-lát khi xưa ? Dĩ nhiên không còn phe Do thái, và Ki-tô hữu cũng không còn phải chung đụng và ăn uống với dân ngoại. Nhưng các thể chế của Hội thánh phải chăng nhiều khi còn giữ Ki-tô hữu ở lại trong những khuôn khổ khép kín, trong đó họ chắc mình được dứu rỗi và tự hào vì giữ luật Chúa Ki-tô. Hội thánh đã được khai sinh vào ngày lễ Ngũ Tuần nhờ Thánh Thần, thì không nên tự hào vì nghĩ rằng mình có thể nên hoàn thiện nhờ các việc lành và các cơ chế trần gian.

Bởi thế, Hội thánh nên hỏi xem các thể chế của mình có cỏn phải là để xây dựng một cộng đồng hợp nhất trong tinh thần Tin Mừng, một cộng đồng mà trong đó Thánh Thần được dem đến cho mọi người hay không ? Vấn đề này bao giờ cũng thích thời. Đó là tiếng gọi đổi mới phát ra từ chính sức mạnh của Tin Mừng và cần luôn được khám phá.

(viết dựa theo TOB ân bản 1994 Paris Cerf trg. 2797-2802)
 
Nhìn vào mặt tốt
LM Inhaxiô Trần Ngà
01:19 07/03/2009
Nhìn vào mặt tốt

(Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật II mùa chay theo Tin Mừng Mác-cô 9, 2-10)

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!

Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?

Đã bao lần họ mơ tưởng một tương lai huy hoàng được ngồi bên tả bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?

Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián Người đón nhận vận mệnh đau thương ấy (Mc 8, 32).

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.”

Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.

* * *

Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.

***

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ liệng nó đi.

Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.

Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.

Sự kiện Chúa Giê-su tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.

Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.

Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.

Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ thêm phần tươi đẹp.
 
Đừng Để Nó Văng Ra Bên Ngoài
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
04:00 07/03/2009
Sống Tỉnh Thức # 37:

ĐỪNG ĐỂ NÓ VĂNG RA BÊN NGOÀI

* Chuyện kể: Trong một bài giảng của nhà truyền giáo Hudson Taylor, ông đã lấy một ly đựng đầy nước và đặt nó trên bàn.

Khi đang nói, ông rung nhẹ cái bàn đủ để làm cho nước trong ly văng ra ngoài. Rồi ông rút ra bài học: “Đối diện với những sự việc xảy ra hàng ngày, bạn có nhiều phản ứng. Nhưng khi bạn sắp có hành động nào, hãy nhớ rằng bên trong bạn có những thứ gì, thì nó sẽ văng ra thứ đó: có đủ tật xấu hoặc có nhiều tính nêt tốt.”

Khi chiếc bàn rung lên, thì nước trong ly sẽ văng ra, đó là lẽ tất nhiên; nhưng chiếc ly đựng nước gì, tất sẽ văng ra loại nước ấy.!

* Một phút hồi tâm: Với ý tưởng sâu sắc này, bạn không khỏi thẹn thùng khi nhớ lại đôi lần trước những cơn nóng nẩy ta đã thốt ra lời khó nghe, thô tục làm người khác rất buồn mà bạn không thấy!

Khi bị oan ức bạn đã không bớt lời chửi rủa. Nếu bạn có lòng nhân từ và khoan dung, với sự kiện nhẫn và nhịn nhục, thì trước những sự xung đột và áp lực, tất cả những nết tốt ấy sẽ tràn ra. Nếu chiếc bàn không rung lên, không có gì văng ta từ trong cái ly cả! Nếu cuộc sống bình thường trôi qua không một va chạm nào, thật khó hiểu biết được đức hạnh của một người. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, hãy nói những lời tốt đẹp để gây dựng…Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nẩy, giận hờn hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác...” (Êp 4, 29-32).

Có thể bạn ray rứt và đau khổ, vì sao những ngày bình thường ta sống một cách rất tốt đẹp; nhưng khi gặp nan đề là bao nhiêu cái xấu đều tuôn tràn ra, mặc dầu ta đã hết sức che đậy.! Vấn đề là ở chỗ trong lòng ta chứa đựng những gì! Nếu trái tim bạn, lòng bạn chứa đầy ắp tình yêu của Chúa, bạn có thể phản ứng ngay khi phải đương đầu với những thử thách đang như cơn giông kéo tới.

Lời Chúa tôi gẫm suy: Cái gì từ trong con người, cái đó mới làm con người ra ô uế. Vì từ…, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình tham lam. độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo…(Mc 7, 20-22)

Phó tế: GB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
 
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục (76)
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
04:19 07/03/2009

Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục (76)



761. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau hát kinh Sáng Danh!

Thánh Phanxicô Salêsiô, khi còn nhỏ, thường dừng lại cuộc chơi với các bạn và đưa các bạn vào nhà thờ, đến nơi giếng rửa tội.

Khi cùng các bạn đứng vây quanh Giếng Rửa Tội, Phanxicô Salêsiô nói những lời như sau:

- “Các bạn, đây là nơi thân yêu nhất của chúng ta vì tại nơi đây mà chúng ta được trở thành con Chúa. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau hát kinh Sáng Danh!”

762. Tâm sự của người con gái của Karl Marx

Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn như sau:

“Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ, tôi đọc được một quyển sách trong đó, có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được.”

Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào.

Người con gái của Karl mới từ từ đọc Kinh Lạy Cha. (Hạt Giống Nẩy Mầm - tập 6)

763. “Nơi đó, Cha tôi đang ngự trị!”

Không thể chịu dduwngj nổi đức giám mục thánh Gioan Kim-Khẩu, nữ hoàng Eudoxie ra lệnh lưu đày vị thánh nầy.

Trong khi sống cảnh lưu đày, thánh Gioan Kim Khẩu tự an ủi mình bằng câu sau đây:

- “Bất cứ nơi đâu tôi đến, tôi luôn luôn thấy bầu trời trên đầu tôi, nơi đó Cha tôi đang ngự trị. Ngài là Đấng đã dựng nên tôi, là Đấng hướng dẫn tôi và ban của ăn áo mặc cho tôi.”

764. Nếu chúng ta sống trong ơn nghĩa của Chúa, chúng ta không có gì để sợ.

Vua Henri IV thường đi ra khỏi cung một mình, không có cận vệ.

Nhiều quan trong triều khuyên vua đừng đi như vậy. Nhà vua trả lời:

- “Sự sợ hải không được đi vào trong tâm hồn của một vì vua. Khi thức dậy cũng như lúc đi ngủ, trẫm phó thác cho Chúa. Trẫm ở trong tay của Chúa.”

Ý vua Henri IV muốn dạy chúng ta bài học tín thác vào Chúa là Cha. Nếu chúng ta sống trong ơn nghĩa của Chúa, chúng ta không có gì để sợ.

765. Làm sao giải thích được lý do những biến cố phi thường đó?

Ngày nay, người ta còn thấy một số linh hồn sống nội tâm sâu xa, trong khi hoạt động cũng như lúc nghỉ ngơi, vẫn toả rộng làn khí có thể gọi được là huyền nhiệm, thần linh như Chúa Cứu Thế xưa.

Những cuộc trở lại phi thường do các thánh tạo nên nhờ danh thơm nhân đức; những đoàn người khát khao sự thánh thiện xin đi tu, đều nói lên bí quyết đời thầm lặng.

Nhờ thánh Antôn, các sa mạc Đông Phương đã chật ních những người.

Thánh Bênêđictô đã gây lên một phong trào tu sĩ cải tiến văn minh Âu châu.

Thánh Bênađô đã gây ảnh hưởng vô song trong Giáo Hội trước mặt các vua quan và dân tộc.

Thánh Vixentê Ferrier đã khích lệ lòng nhiệt thành khôn tả của quần chúng trên đường ngài qua và đã lôi cuốn bao người trở lại.

Dưới cờ thánh Inhaxiô, một đoàn quân anh dũng đang rầm rộ tiến bước.

Chỉ một mình thánh Phanxicô Xaviê đã đủ để tái sinh hàng trăm ngàn người ngoại giáo.

Chỉ có quyền lực Thiên Chúa phản chiếu qua các vị tông đồ ấy mới có thể giải thích lý do những biến cố phi thường đó. (Hồn Tông Đồ)

766. Các nhà khoa học trong hội trường đều cười vang không ngớt!

Một nhà triết học đã nói:

- “Sự tổn thất lớn nhất trong một ngày, là không cười một tiếng nào.”

Lunly, nhà sinh vật học Đức, suốt đời nghiên cứu cơ năng sinh lý cơ thể con người.

Khi ông ta về già 92 tuổi, đã được Nhà Nước tặng thưởng huy chương vinh dự tại buỗi lễ trao thưởng.

Sau khi nhận xong huy chương, ông đã phát biểu ý kiến. Ông ta đã không nói gì về cảm tưởng vinh dự được nhận huy chương và cũng không biểu thị cảm tạ đối với các nhà khoa học đang ngồi trong hội trường...

Đáp từ của ông Lunly như sau:

- “Hôm nay, rất nhiều người đến dự đại hội tuổi tác đã không còn trẻ nữa. Đối với họ, điều quan trọng là tiết kiệm tinh lực của mình, khiến cho mình kéo dài tuổi thọ, chậm bị lão hoá, mãi mãi thanh xuân. Vì chỉ có như thế, mới thu được thành tích càng lớn trên mặt trận khoa học, cống hiến càng nhiều cho nhân loại...”

Các nhà khoa học trong hội trường, bị lời đáp từ có phong cách khác thường của ông ta thu hút, đều hết sức chăm chú nghe.

- “Có lẽ các bạn không biết, hoặc giả không biết rõ như tôi. Một người, nếu cau mặt một cái, cần đến 30 cơ bắp vận động. Còn nụ cười, chỉ cần có 13 cơ bắp vận động. Cho nên năng lượngn tiêu hao khi cười giảm hơn rất nhiều so với cau mày...”

Cả hội trường rộ lên tiếng cười.

Ông Lunly tiếp tục cuộc diễn thuyết của mình.

- “Hơn nữa, cau mày là co cơ bắp lại, còn cười thì lại dãn cơ bắp ra. Công dụng của nó cũng khác nhau. Vì thế, các bạn đồng hành thân mến, xin hãy thường xuyên cười vào!”

Chưa đợi ông ta nói hết lời, các nhà khoa học trong hội trường đều cười vang không ngớt. (120 Lời Khuyên Làm Thay Đổi Cuộc Sống)

767. Thất bại vì không nỗ lực hoàn thành công việc 100 phần trăm

Gần đây, tôi (Richard Carlson. Ph.D.) thuê người đến sửa vài thứ trong nhà.

Anh ta có tay nghề giỏi, có kỹ thuật, nhưng để lại một mớ bừa bộn trên sàn nhà chúng tôi.

Thành thật, tôi quan tâm quan tâm mớ bừa bộn bẩn thỉu hơn tôi ấn tượng với công việc của anh ta.

Dù anh ta chú ý hay không, nhưng chúng tôi sẽ không mướn anh ta lần nữa, cũng không nhận lời giới thiệu anh ta cho người khác.

Nếu anh ta mất thêm vài phút để hoàn thành công việc, nó đã không thành vấn đề. (Đừng Quá Lo Lắng Về Những Việc Nhỏ)

768. Đừng khinh dễ chi tiết nhỏ!

Có một công ty ở Mỹ, quy mô tuy không lớn, nhưng nhờ vào thái độ làm việc của công nhân mà trở nên nổi tiếng.

Có một lần, một công nhân làm ca đã để thiết bị đảm bảo an toàn trên bàn làm việc sang một bênđể rộng chỗ đặt các sản phẩm, và như vậy, cũng sẽ tiết kiệm được thời gian. Nhưng không may, hành động của anh ta bị người quản lý phát hiện.

Người quản lý rất tức giận, lập tức bảo anh ta lắp ngay thiết bị an toàn đó vào vị trí cũ và tuyên bố phạt anh ta ngay trước mặt mọi người: phải tự kiểm điểm mình ngay tại đó và phạt một ngày làm việc công ích.

Ngày hôm sau, khi đi làm, anh ta được gọi lên gặp giám đốc.

Giám đốc nói:

- “Anh đã là một nhân viên giàu kinh nghiệm. Anh sẽ rõ hơn người khác: an toàn có nghĩa như thế nào đối với công ty. Hôm nay, anh có thể làm ít đi một sản phẩm, tiền lưọi nhuận của công ty ít đi, nhưng công ty có thể dùng người khác lao động để bù vào. Nhưng nếu anh có xảy ra việc gì mà mất đi sức lao động, thì công ty cũng không có cách nào bù đắp được...”

Ngày hôm đó, khi ra về, anh ta đã khóc. Làm việc bao nhiêu năm, đây là lần đầu tiên, anh mắc sai lầm như vậy.

Trong quản lý thực tế, người quản lý luôn luôn phải tỉnh táo: đối với những hành vi phạm tội nhỏ, cũng cần phải có sự răn đe thích hợp. (99 Nguyên Tắc Giản Đơn Quyết Định Trong Cuộc Sống)

769. Quá trình chỉ trích nên bắt đầu bằng việc khen ngợi và đánh giá thật lòng.

Chỉ trích và khiển trách thường chỉ làm cho người ta giấu mình và né tránh.

Người bị chỉ trích nặng nề thường không thích mạo hiểm, không còn sáng tạo, không muốn làm bất kỳ điều gì khác.

. .. Tất cả chúng ta đều biết hầu như chẳng có ai thích nhận những lời chỉ trích, và có quá nhiều người muốn đưa ra lời chỉ trích.

Khiển trách một người, hiếm khi cải thiện được tình hình.

Tất nhiên là cũng có những ngoại lệ. Đôi khi, người ta cũng cần nhận được những chỉ trích mang tính xây dựng.

Nếu nhu cầu là cấp bách, nếu nguy cơ là nghiêm trọng, và nếu như sai lầm được lặp lại quá nhiều lần, thì cũng cần phải nói gì đó.

Nếu sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, bạn quyết định cần phải chỉ trích, thì hãy chỉ trích một cách tôn trọng.

. .. Hãy bước nhẹ nhàng và hãy vất sự áp đặt bằng quyền lực... Hãy kiềm chế bản thân. Hãy làm theo một số thủ thuật cơ bản và bạn sẽ thấy những từ bạn nói, được mọi người lắng nghe.

Hãy tạo ra một môi trường dễ tiếp thu để bạn có thể nói. Trongb khi mọi người thường không muốn nghe những điều tiêu cực về bản thân, họ lại dễ dàng tiếp thu nếu bạn tập trung vào những điều họ làm đúng, cũng như những điều họ làm sai.

Dale Carnegie nói:

- “Quá trình chỉ trích nên bắt đầu bằng việc khen ngợi và đánh giá thật lòng.”

Mary Poppins cũng có suy nghĩ tương tự khi nói:

- “Một thìa đường sẽ giúp mọi người uống thuốc dễ hơn.”

. .. Hãy sử dụng sự khuyến khích. Hãy làm cho những lỗi sai trở nên dễ sửa. Đây cũng là nguyên tắc được áp dụng ở (công ty) New York Life của Fred Sievert.... Ông nói:

- “Tôi bắt đầu bằng cách nói về những điều tích cực mà một người đã làm được. Sau đó, chúng tôi nói về những vấn đề phát triển và cải thiện. Cuối cùng, chúng tôi tiến tời thảo luận ý nghĩa của người đó với New York Lìe. Việc làm ấy luôn luôn có tác dụng.

Một lần, có một ông chủ đã cùng tôi làm điều đó, và tôi thường đi ra khỏi phòng, gãi đầu và nói: “Gee, tôi thật sự thấy thoải mái khi nhân được lời chỉ trích.”

Một điều quan trọng không kém, là bạn. .. không bao giờ được tranh cãi, hạ phẩm giá của mình, hay quát tháo người khác. nếu bạn tranh cãi với người khác, thì bạn đã thua rồi. Bạn đã mất bình tĩnh. Bạn đã mất tiền đồ. Và nhất là, bạn đã mất mục tiêu phải giao tiếp, phải thuyết phục và phải thúc đẩy của mình.

. .. Hãy giữ thể diện cho người khác bằng bất cứ giá nào.

Điều nầy có thể có nghĩa là rút lui trong một cuộc thảo luận...

Điều nầy cũng có thể có nghĩa là để dành những lời chỉ trích đó cho ngày hôm sau.

Dù bạn có chọn cách nào, thì mục tiêu cũng vẫn vậy thôi: vẫn phải nhẹ nhàng.

Ngay cả khi một người hoàn toàn không đồng ý với quan điểm của bạn, thì với sự khéo léo, bạn vẫn có thể khiến người đó nhận ra một điểm đáng khen nào đó trong bạn.

Nhưng nếu bạn quá gay gắt, nếu bạn dùng những từ mạnh như đúng và sai, thông minh và ngu ngốc, bạ sẽ không bao giừo thuyết phục được họ. (Phát Huy Giá Trị - Con Đường Nhanh Nhất Đi Đến Thành Công)

770. Thuyết phục nhẹ nhàng thường có hiệu quả hơn la hét.

Thuyết phục nhẹ nhàng thường có hiệu quả hơn la hét. Khi bạn cần nhắc mình điều nầy, hãy nhớ lại câu truyện ngụ ngôn Aesop về cuộc thi giữa Gió và Mặt Trời.

Một hôm, Gió và Mặt Trời tranh luận xem ai khỏe hơn.

Gió là người khởi xướng, và khi nhận thấy một ông già đi dạo trên phố, Gió đưa ra điều kiện là người nào có thể làm cho ông già đó cởi áo ra trước, người đó sẽ thắng.

Mặt trời đồng ý. Và Gió làm trước.

Gió thổi, mỗi lúc một mạnh hơn, cho tới khi Gió mạnh gần như chuyển thành bão táp. Nhưng Gió càng thổi, người đàn ông càng giữ chặt áo hơn.

Khi Gió từ bỏ, đến lượt mặt trời.

Mặt trời chiếu ánh sáng nhẹ vào ông già, ấm dần, ấm dần lên cho tới khiông lau trán và cởi chiếc áo khoác ra.

Mặt trời nói cho Gió biết bí mật của mình, là nhẹ nhàng và thân thiện. Điều đó mạnh hơn là bạo lực và giận dữ. (Phát Huy Giá Trị - Con Đường Nhanh Nhất Đi Đến Thành Công)

Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
 
Thư Mục Vụ Mùa Chay của ĐGM Phan Thiết
+GM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
04:28 07/03/2009
Giáo Phận Phan Thiết

THƯ MỤC VỤ MÙA CHAY

Anh chị em thân mến

Mùa Chay Thánh chúng ta đã bắt đầu với những lời giục giã của Thánh Phaolô: “Đây là thời thuận tiện, đây là lúc thi ân”.

“Thời thuận tiện”, vì sau bao ngày chuẩn bị từ thời Cựu Ước, khi thời giờ Thiên Chúa ấn định đã đến thì Người sai Con Một đi vào cõi đời chúng ta để khai mở một thời đại mới, một cuộc sáng tạo mới, dẫn dắt nhân loại đi vào con đường tới cuộc sống Hạnh Phúc đời đời, đó là Nước Thiên Chúa.

Cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Chúa là “thời điểm thi ân”. Vì cuối đời Ngài đã dâng lên Cha một của lễ Tình Yêu vô giá, Ngài đã hiến mạng sống mình trong niềm tin yêu vâng phục của Người Con thảo hiếu. Ngài cũng lấy cái chết đó để tỏ bày cách rạng ngời nhất tình yêu Thiên Chúa từ thuở đời đời đã dành cho nhân loại. Và từ thập giá Con Cha đã nói với nhân loại: “ Ngày nào treo tôi lên, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi”. Người kẻ trộm lành với quá khứ tội lỗi suốt một đời, không còn chi hy vọng, vì hy vọng cuộc sống giờ đó đã tiêu tan trên thập giá, bên Chúa Giêsu. Thế mà với niềm tin khiêm tốn và chân thành, anh dâng lời nguyện cầu tha thiết: “Lạy Ngài khi nào về Nước Ngài xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42). Chúa đã đáp lời anh: “Đêm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23, 43).

Đây là người thợ vườn nho vào giờ chậm nhất, lại trở nên người đầu tiên được lãnh ơn huệ Nước Trời: “Đây là giờ thi ân…”. Từ hơn hai nghìn năm qua những người được thi ân kể chi xiết. Và giờ đây lời đó đang khẩn trương mời gọi chúng ta hãy đến, như Chúa đã kêu lớn tiếng tại đền thờ Giêrusalem: “Hỡi những ai đang khát hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh thánh đã nói: “Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng Nước Hằng Sống” (Ga 7, 37-38). Thánh Gioan đã giải thích: Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận”. (Ga, 38-39).

Dòng Nước Thánh linh đó đã biến thành một biểu tượng cực kỳ cảm động khi Chúa đã tắt thở, một người lính đã lấy lưỡi đồng đâm vào cạnh sườn của Chúa, tức thì máu cùng nước chảy ra, máu chỉ sự chết, nước chỉ ơn Thánh linh tuôn tràn từ Thân Thể Phục Sinh của Chúa. Từ dòng nước Thánh linh đã đem đến ơn tha thứ và ơn sự sống mới cho chúng ta trong Bí tích Rửa tội.

Đêm vọng Phục sinh ta sẽ cử hành Mầu nhiệm Ánh sáng và Sự sống Chúa Kitô được Thánh linh ban tặng cho những ai được tham dự vào nhân loại mới, chính là Giáo hội của Người. Đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại Đức tin trong phép Rửa tội.

“Giờ thuận tiện, lúc thi ân” luôn luôn chờ đợi chúng ta đến lãnh nhận suốt cuộc đời người tín hữu, nhưng mùa Chay là thời gian Mẹ giáo hội mở rộng vòng tay, ôm chúng ta vào lòng, để với tình thương tha thiết, với năng lực phục hồi thiêng liêng, cho ta cơ hội lãnh nhận dồi dào sự sống kỳ diệu của Chúa Kitô.

Với một số việc làm như giữ chay, giao hòa với anh em, xưng tội, suy niệm về cuộc thương khó của Chúa và đặc biệt làm việc bác ái như là biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với Ngài, chúng ta hãy nhiệt tình hưởng ứng để nâng tâm hồn ta lên, để được Chúa Kitô lôi kéo chúng ta vào thế giới kỳ diệu của Ngài, thế giới của Tình yêu vạn thuở, nơi đây con người được thần hóa, được thanh luyện, được no say yến tiệc của Nước Thiên Chúa.

Đặc biệt năm nay, năm Thánh Đức Mẹ TàPao, chúng ta có thêm cơ hội để được Đức Mẹ rèn luyện Đức tin, thanh tẩy quá khứ chúng ta bằng những ngày toàn xá, hơn bao giờ hết đời sống thiêng liêng của chúng ta đang được Đức Mẹ âu yếm săn sóc vỗ về. Tạ ơn Mẹ, biết ơn Mẹ, chúng ta nổ lực nhiều hơn nữa để ăn năn sám hối, siêng năng lần hạt mân côi, dâng lên Mẹ niềm tin yêu phó thác cho trái tim đầy ắp tình yêu của Mẹ.

Cầu chúc anh chị em sống phong phú mùa Chay Thánh và Năm Toàn Xá này.
 
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người
Lm. Ignatiô Hồ Thông
15:43 07/03/2009
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY

Tước hiệu "Con Một" cho phép nhấn mạnh sự duy nhất chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay.

St 22: 1-18: Trong bài đọc I nầy, chúng ta sẽ đọc chuyện tích về cuộc hiến tế I-sa-ác, "con một" mà tổ phụ Áp-ra-ham yêu mến.

Rm 8: 31-34: Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Rô-ma gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn đến nổi "ngay chính Con Một của mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta".

Mc 9: 2-10: Trong biến cố Biến Hình mà thánh ký Mác-cô mô tả cho chúng ta, lời của Chúa Cha từ trong đám mây công bố: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Ấy vậy, cuộc Biến Hình chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn của Ngài, nghĩa là về cuộc hiến tế của "Con Một" chịu chết vì hết thảy chúng ta.

BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)

Chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn; cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, nhân ái đầy lòng yêu thương lại có thể đòi hỏi ở nơi một con người ngay chính một sự thử thách đến như vậy, thậm chí ngay từ đầu người kể chuyện nói trước "đây chỉ là một cuộc thử thách", nghĩa là không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.

Tuy nhiên, giá trị ngôn sứ của bản văn thì rõ ràng. Mặt khác, lịch sử soi sáng cho câu chuyện và xua tan đi những xao xuyến của chúng ta. Phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau ở nơi chuyện tích nầy:

- Chuyện tích ban đầu đã thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của người Do thái và tôn giáo của người Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.

- Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong chuyện dài của vị tổ phụ để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện ban đầu: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-sa-ác, ẩn hiện dân Chúa chọn, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Phương Bắc): phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Gia-vê, Ngài không thể để cho dân của lời hứa, dân mà Ngài gọi "con đầu lòng của Ngài" phải bị diệt vong (Xh 4: 22-23).

1. Tôn giáo của dân Ca-na-an:

Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me: ông là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như hy tế toàn thiêu gia súc, cũng như con cái cho thần linh mà dân Ca-na-an thực hành, trong khi dân Su-me lại không hề biết đến.

Các văn sĩ xưa làm chứng về phong tục tập quán nầy. Như Diodore, văn sĩ Hy lạp thuộc thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên kể lại rằng dân Ca-tha dâng hiến cho thần Kronos hai trăm con trẻ "thuộc những gia đình danh giá nhất" khi gặp tai họa (Bibl. Hist. 20: 14) và Philon de Byblos, được Eusède trích dẫn, viết: "Đây là một phong tục tập quán cổ xưa của dân Phê-nê-xi là dâng hiến những đứa con thân yêu nhất của mình một cách rất huyền bí khi quốc gia gặp nguy hiểm".

Khoa khảo cổ đã phát hiện ở Gézer cũng như ở bình nguyên Megido một nghĩa trang trẻ em được ghi niên biểu vào thế kỷ thứ mười bốn trước Công Nguyên. Tuy nhiên phải cẩn trọng vì chúng ta không biết chắc chắn đây là bằng chứng của việc hiến tế trẻ con hay không.

Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt (thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận) để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, và vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong tường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắc giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, "liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu" (2V 3: 27). Vua A-khát, cai trị Giu-đa, mất niềm tin vào Gia-vê, trước hoàn cảnh tuyệt vọng của Giê-ru-sa-lem, "làm lễ thiêu con trai mình" (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: "Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa" (1V 16: 34).

Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?.

2. Giai đoạn sau nầy:

Tuy nhiên, dù hy tế các con trai đầu lòng của vua có phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành động như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: "Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa…Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại" (Xh 13: 11-13).

Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ xa xưa, chuyện tích hiến tế I-sa-ác xác minh quyết định của luật Mô-sê. Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người của sự quảng đại và con người của niềm tin.

2.1- Con người của sự quảng đại:

Lòng quảng đại của ông Áp-ra-ham thì thường hằng. Vị tổ phụ đã dẫn theo người cháu của mình, ông Lót từ Lưỡng Hà Địa. Rồi một ngày kia họ chia tay. Ông Áp-ra-ham để ông Lót chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: "Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy" (St 14: 23). Đối với Thiên Chúa, ông Áp-ra-ham cũng hành xử một cách như vậy. Khi chấp nhận dâng hiến đứa con một của mình, ông cho tất cả.

2.2- Con người của niềm tin:

Việc hiến tế I-sa-ác được định vị ở cuối một loạt thử thách ở đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó tin. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông không có một mụn con nào còn vợ ông đã già và vô sinh. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt, trong khi ông chỉ là một người phiêu bạt không có một tất đất để cấm dùi. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn con mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền của Thiên Chúa nhưng ông vẫn tin là có một giải pháp, vì Thiên Chúa không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham dâng hiến một mẫu thức của đức tin, một đức tin dựa trên "lời của Thiên Chúa" chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki tô giáo và Hồi giáo, gọi "Cha của những kẻ tin".

Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại; ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn vàn thế hệ.

Đáp lại niềm tin và sự vâng phục anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: "Ta lấy chính danh Ta mà thề". Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn thân của Thiên Chúa, chứng nhân về một lời cam kết của Thiên Chúa, vì lời thề thì hơn một lời hứa.

3. Thần học về sự thử thách:

Tác giả Gia-vít sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).

Để soi sáng cho những biến cố mà ông đã sống, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-sa-ác một dấu chỉ của cách thức mà Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bị thất bại chỉ là bên ngoài. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và ở nơi việc Gia-vê can thiệp để cứu I-sa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những đứa con của Lời Hứa.

Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-sa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.

4. Khía cạnh ngôn sứ:

Hình ảnh của người cha này hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình và hình ảnh của người con mang trên vai mình bó củi hy tế của mình, thật sự là những hình ảnh rất mạnh, gợi lên một tấm thảm kịch khác, thảm kịch của chính Thiên Chúa trao phó Người Con duy nhất và dấu yêu của mình để cứu độ nhân loại.

Thánh ký Gioan sẽ ám chỉ đến hy tế của I-sa-ác khi áp dụng vào Đức Giê-su tược hiệu "Người Con Một": "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3: 16). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy sự thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31-34)

Thánh Phao-lô viết cho Giáo Đoàn Rô-ma vào mùa đông của những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở đây mà ngài viết thư gởi cho các Ki tô hữu Rô-ma mà ngài nghĩ sẽ viếng thăm họ sắp đến. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.

1. Bối cảnh:

Bài đọc II được trích từ chương 8, chương tràn đầy cảm xúc ở đó người ta cảm thấy hơi thở nồng nàn của vị Tông Đồ và tâm tình tôn giáo của ngài tỏa lan. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang ngay cả ở nơi thân xác của mình, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức chúng ta chẳng có gì phải sợ ngoài việc sống trong niềm hy vọng tròn đầy.

2. Ý nghĩa:

Chương 8 nầy được kết thúc bởi một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa trên một cung giọng đắc thắng. Bài đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy.

Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: "Đến như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta". Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình Chúa và những ân ban mà Ngài dành cho chúng ta đến như thế!

Thánh Phao-lô tưởng tượng tòa án ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến: "Ai dám buộc tội những người Chúa chọn?" Thiên Chúa không thể vừa kết án vừa tuyên bố họ công chính. Chẳng lẽ Đức Giê-su, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha lại kết án chúng ta? Nhưng Ngài là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.

TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)

Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.

Thời điểm mà biến cố được định vị: "Sáu ngày sau" bày tỏ ý nghĩa của nó. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: "Thầy là Đức Ki tô". Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.

Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: đối với Đức Giê-su, biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào?; và đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan, biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào?

1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:

Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su Nhập Thể đang hướng về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài đón nhận lại trong chóc lát.

"Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su". Trên núi cao rực rỡ ánh quang gợi lên núi Xi-nai, sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật tước vị Mê-si-a tuyệt vời: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là "dấu chỉ"; quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Thiên Sai. Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi người ta truyền tụng rằng ông Ê-li-a sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.

"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Tiếng phán của Chúa Cha công bố cùng những lời vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1: 11). Lời phán nầy một lần nữa khẳng định Tử Hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, tiếng phán vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Mình, trong khi tiếng phán vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: "Hãy vâng nghe lời Người" bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.

2. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:

Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến cuộc sống lại của con gái ông Gia-ia (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài. Vì thế, chúng ta có thể nói Ngài an ủi họ trước.

Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy đã củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời ánh quang thần linh. Vị lãnh đạo của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.

Như vậy, nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được tựa vào, được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật" (Ga 1: 14). Trong Tựa Ngôn ẩn chứa biến cố Biến Hình. Còn Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.

Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính mình ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cái cho Thầy, một cái cho ông Mô-sê và một cái cho ông Ê-li-a. Trong tâm khảm của mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.

"Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá". Đức Giê-su thình lình xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi một sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.

"Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông". Trong Cựu Ước, đám mây tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai nghe "cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại", như Đức Giê-su đòi hỏi họ.

Vào lúc nầy đây, các Tông Đồ không không hiểu được "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc con gái của ông Gia-ia sống lại và biến cố Biến Hình của Ngài.

Mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy các ông sẽ công bố. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, sẽ diễn tả rõ ràng điều nầy: "Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy" (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: "Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài" (Pl 3: 21).
 
Ăn năn cầu nguyện sẽ được Chúa biến đổi
Tuyết Mai
15:48 07/03/2009
Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". (Mc 9, 1-9 (Hl 2-10)).

Không một việc nhỏ gì chúng ta làm mà có thể dễ dàng làm cho chúng ta vui lòng được cả!? Thường chúng ta hay để ý và cố gắng hoàn thành hay chu toàn cho được những công tác thật lớn thật vĩ đại để thỏa mãn tự ái của con người chúng ta!? Và thường những công tác lớn hay trách nhiệm lớn lao đó luôn cho chúng ta sự thưởng công thật đáng với công việc rất khó khăn được trao phó và đương nhiên sự thưởng công bao giờ cũng cho chúng ta thật là nhiều tiền!? Có phải đây là bản tánh chung của tôi và của hầu hết anh chị em là thích được mạo hiểm, muốn được dịp trổ hết tài năng, và cái gan lỳ của mình, để chứng minh cho mọi người phải nể trọng và biết mình là ai?? Có phải bản tánh của con người thường thì thế, và tôi thiết nghĩ ai có bản tánh này thì cũng tốt thôi! Như trong câu nói của Nguyễn Bá Học: "Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông". Ý nói của câu trên là mục đích tốt muốn giúp cho chúng ta có được một sự thách thức trong ý muốn hay ý định để mong hoàn thành một dự định gì đó khi chúng ta cảm thấy quá sức của mình!? Thí dụ nghèo mà ham học, không có khả năng đóng học phí. Ao ước sống sao cho nên Thánh cho nên trọn đối với Chúa và với tha nhân, nhưng lại cảm thấy thiếu mọi khả năng, từ tiền bạc cho đến tấm thân phế nhân của mình. Hay ao ước được làm gì đó để giúp ích cho người và cho đời, trong khi không biết phải làm gì? Muốn được có nhiều thời giờ để được tự do ra ngoài mà giúp đỡ anh chị em, trong khi thời giờ hằng ngày bị bó buộc vào cuộc sống chăm lo cho gia đình? Và rồi như tôi và nhiều anh chị em, hằng ngày chỉ biết sống thật hạn hẹp trong trách nhiệm và bổn phận không xa hơn là công việc nhỏ mọn không tên tuổi từ trong hãng xưởng và trong gia đình.

Thế thì nếu tôi và anh chị em trong cuộc sống ngày lại ngày này chỉ có bấy nhiêu, chu toàn trách nhiệm và bổn phận cũng chỉ có bấy nhiêu, thì có được nên Thánh không nhỉ!? Hay tôi phải bỏ gia đình chồng con, bỏ công ăn việc làm để đi theo tiếng gọi thiêng liêng, mà bắt chước nhiều người, thì mới được công đức, thì mới được Chúa thưởng ban cho? Trong khi tôi nghe rất nhiều người than thở rằng việc nhà thì bê tha. Con cái thì không chăm sóc. Chồng hay vợ thì than rằng ông hay bà chỉ ăn cơm nhà vác ngà voi. Thế thì đối với Chúa thì có được khen không nhỉ hay chỉ cần tiếng khen của người đời rằng ông hay bà siêng năng việc nhà Chúa quá!? Quả thật cuộc đời của chúng ta thường hay thích mơ mộng những cao vọng thật xa xôi và thật cao vời ngoài tầm tay với, mà không sống thực tế trong khả năng của mình, để tìm thấy mọi việc nhỏ mọn được hoàn thành trong bổn phận và trách nhiệm ngày qua ngày, là niềm vui là hạnh phúc trong sự giới hạn của một ngày 24 tiếng đồng hồ và trong sức hạn hẹp của chúng ta.

Nếu chúng ta nhìn kỹ vào cuộc đời giản đơn của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Ngài là một vị Thánh được Hội Thánh cho lên hàng Tiến Sĩ chỉ vì Ngài luôn sống cầu nguyện trong dòng kín mà cả đời không ra khỏi dòng. Ngài cầu nguyện đêm ngày và dâng lên Thiên Chúa tất cả mọi việc Ngài làm hằng ngày rất tầm thường như rửa rau, rửa bát, giặt dũ, quét nhà, nấu cơm, đọc kinh, làm việc không từ một việc gì khi có ai hỏi nhờ, và còn tự động nhận những công tác không phải của mình. Hình như ai trong chúng ta cũng thích được nên Thánh qua sự bắt chước để được giống như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, vì ngoài những việc chúng ta làm thường ngày trong những công việc rất ư là nhỏ mọn, rất ư là tầm thường, rất ư là mất thời giờ, nhưng tất cả mọi việc Ngài làm đều trong tâm tình yêu thương, và muốn dâng lên Thiên Chúa. Để cầu nguyện cho thế giới, cầu nguyện cho những tâm hồn tội lỗi, cầu nguyện cho giáo hội, cầu nguyện cho tất cả những linh hồn còn đang đau khổ trong luyện ngục chưa được lên cùng với Chúa. Có phải Thánh Têrêsa Ngài làm việc nhiều hơn là nói? Có phải Ngài đã dùng giờ cầu nguyện nhiều hơn là được cho thân xác nghỉ ngơi!? Có phải Thánh Têrêsa luôn sống trọn tình đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, tha nhân còn sống cũng như đã qua đời?

Hôm nay trong Phúc Âm, chúng ta thấy 3 môn đệ được Chúa Giêsu cho theo lên núi, để chứng kiến ngay trước mặt sự Biến Hình của Ngài, thật tuyệt hảo, thật chói ngời, thật nhiệm mầu, thật vô song, thật tuyệt vời, và tuyệt hảo, trong ánh mắt thịt của chúng ta. Sự Biến Hình này đã được ghi chép lại làm bằng chứng cho hậu thế chúng ta biết để Tin và để biết rằng Chúa Giêsu đích thực Ngài là Con Duy Nhất của Thiên Chúa Cha. Ngài cho môn đệ Ngài chứng kiến tận mắt để thấy dung nhan sáng ngời của Ngài thật trên Trời là thế! Sự thể còn chưa được cắt nghĩa và hiểu rõ của 3 môn đệ thì đây tiếng Thiên Chúa phán từ Trời cao rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Vâng, nghe Lời Người có nghĩa là nghe theo giới răn của Người. Mà giới răn của Người thì rất giản dị trong Hai Điều là trước Kính Mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như chính mình ta vậy! Xem ra thật đơn giản nhưng có phải con người của chúng ta khó mấy ai theo cho được, nên hằng bao nhiêu triệu triệu năm con người đã bao lần chém giến nhau, đã bao nhiêu lần Thiên Chúa phạt vì tội không biết yêu thương nhau và không biết Kính Thờ Thiên Chúa vì mải mê tin theo bụt thần, vì mải tin theo những mê tín dị đoan, vì còn mải tin theo bói toán, vì còn mải đi theo tiếng gọi của Danh Lợi Thú Trần, và chạy theo những chước của ma quỷ. Chúng dụ dỗ chúng ta một cách rất ư là tài tình chỉ cần chúng đem đến cho chúng ta chút bả phù hoa như thuốc phiện, chúng cấy sâu vào máu huyết vào tâm hồn của chúng ta, cho đến khi chúng ta đã quá quen mà không thể nào bỏ được, lúc đó chúng nói gì chúng ta cũng nghe theo, lúc đó là lúc mà linh hồn của chúng ta thật tội nghiệp, vì khi đó chúng ta không còn tỉnh để mà nhớ mà nhờ đến Chúa cứu giúp chúng ta được nữa!

Không biết cho đến bao giờ thì con người thôi bớt vất vả, tất bật, lao lực, lao tâm, và bôn ba chạy theo một cuộc sống như những con người máy của thời đại? Không dành được cho mình một thời giờ rãnh rỗi nào để quân bằng cuộc sống tâm linh, ngoài xã hội, gia đình, và cho riêng mình. Con người Chúa ban cho có được 7 ngày trong một tuần. Một ngày thì có 24 tiếng đồng hồ. Thế mà chúng ta sống làm sao mà cứ như không đủ ngày đủ giờ để làm việc? Chúng ta than thở là mệt quá không có giờ để nghỉ ngơi? Không có đủ giờ cho gia đình? Không có đủ giờ cho Chúa? Không có đủ giờ để bồi dưỡng cho não bộ của mình? Và còn bao nhiêu thứ cứ quay chúng ta mòng mòng tối mặt tối mày, bắt đầu từ ngày thứ hai cho đến hết ngày Chúa Nhật. Riết rồi con người của chúng ta quen cái đà chạy mà không thể nào dừng lại được. Có phải thực tế thì chúng ta cũng rất cần và rất muốn công việc tại nơi công sở hay tại nhà của chúng ta cho xong, nhưng không biết phải ngưng việc gì và lúc nào để thay vào đó là những giờ giấc cho tâm hồn và thân xác của chúng ta được bình thản nghỉ ngơi trong giây lát, để cơ thể của chúng ta tìm được những phút giây không phải lo nghĩ và bận tâm cho một việc gì, dù là những phút giây thật ngắn ngủi!? Sao chúng ta không dành riêng cho Chúa được ít thời giờ ngắn ngủi trong ngày để nguyện cầu, đối thoại cùng Chúa? Xin Ngài ban thêm cho chúng ta ơn cần thiết để sống cho trọn một ngày cho Ngài, trong mọi suy nghĩ, hành động và việc làm, để tất cả được Chúa chúc lành?

Cuộc đời thì như phù du, nay còn mai mất, sao ta cứ mãi khổ tâm và vất vả như thế này!? Hết ngày rồi lại qua tháng! Hết tháng rồi lại hết năm! Có khi nào chúng ta có thời giờ để xem cuộc đời của mình rồi sẽ đi về đâu? Về thế giới nào? Hay chúng ta cứ mãi ham sống và nghĩ rằng không bao giờ có ngày. ... ra đi ấy! Sống khôn ngoan là sống luôn chuẩn bị. Để Chúa làm Chủ đời mình. Sống luôn theo ý Chúa. Hạnh phúc là được làm con Chúa và hưởng dùng tất cả những gì Ngài ban cho. Chia sẻ là bổn phận vì tất cả là của Chung. Chúng ta không có quyền hưởng dùng một mình trên sự thiếu thốn và đau khổ của anh chị em bất hạnh luôn cần bàn tay yêu thương Chúa ban cho chúng ta. Có Sống Phúc Thật Tám Mối trong cuộc sống hằng ngày thì Thiên Chúa ban cho chúng ta cặp mắt để nhìn thấy Chúa Biến Hình trong anh chị em, vì chính Chúa đang ẩn mình trong anh chị em mà chúng ta không thấy được đấy thôi!
 
Trong bước đường lên xuống
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
15:56 07/03/2009
Trong bước đường lên xuống

Hầu như mọi người chúng ta đều đã đang và sẽ sống trải qua cảnh sống trong những bước đường lên xuống về kính tế, về công danh sự nghiệp, về sức khoẻ bệnh tật, về hạnh phúc cùng lo âu hồi hộp, về niềm vui cùng đau khổ khó khăn, về địa lý leo núi xuống dốc thung lũng hoặc mặt đất đồng bằng…

Những bước đường lên xuống đi liền trong đời sống, và mỗi giai đoạn đều có ý nghĩa tích cực cùng sứ điệp ẩn chứa trong đó.

Chúa Giêsu sau quãng thời gian bôn ba rao giảng tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa đã sống trải qua bước đường lên xuống cả về mặt tinh thần tâm lý lẫn địa lý với ba môn đệ trên đỉnh núi cao Tabor, như phúc âm thuật lại ( Mc 9,1-9).

Ngài đã trải qua bước đường trên núi như thế nào và liên quan gì tới đời sống đức tin của người tín hữu Chúa Giêsu Kitô?

Đỉnh núi cao

Đỉnh núi cao từ xa xưa theo niềm tin trong dân gian là nơi huyền nhiệm đất thánh, chỗ ngự trị của Thần Thánh, của Thiên Chúa.

Kinh Thánh Cựu Ước ngày xưa Thánh Tiên tri Maisen leo lên đỉnh núi Sinai gặp gỡ Thiên Chúa và tiếp nhận Mười điều Răn, Tiên Tri Elija hành trình leo lên đỉnh núi Horeb tiếp cận với Thiên Chúa. Như thế núi cao tựa như cây cầu nối liền trời và đất lại với nhau. Đỉnh núi cao tựa như vương miện triều thiên của thung lũng sâu tận dưới đất.

Chúa Giêsu xuống trần gian làm người cũng leo lên núi cao cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, từ nơi núi cao Ngài kêu gọi tuyển chọn các Môn Đệ, trên núi cao Ngài rao giảng tám mối Phúc thật, nơi núi cây dầu Ngài truyền sai các Môn Đệ đi truyền giáo, và sau cùng cây thánh gía đóng đinh Chúa Giêsu được dựng trên đỉnh đồi núi sọ Golgotha ngoài thành Giêrusalem.

Với con người chúng ta điểm cao là biểu hiệu của thành công, có thể cả niềm vui hạnh phúc, khi đời sống đi lên đạt tới mức điểm cao nhất. Thung lũng là điểm đi xuống tận sâu, khi đời sống xuống tới mức tận cùng.

Muốn leo lên tới đỉnh núi, con người về thể lý cũng như tinh thần tâm lý phải trải qua nhiều bước đường hy sinh cố gắng đổ mồ hôi nước mắt mới đạt được.

Mầu trắng

Trên đỉnh núi Tabor Chúa Giêsu biến dạng thành toàn mầu trắng toát sang chói mà trên mặt đất không có mầu trắng như vậy được. Theo cung cách hiểu cùng tin của người Do Thái thời Chúa Giêsu mầu trắng chỉ dành cho riêng Thiên Chúa thôi. Trong sách Tiên tri Daniel nói về Thiên Chúa là Đấng tỏa ánh sáng trắng toát.

Và trong dân gian xưa nay con ngưòi chúng ta vẫn hiểu cho mầu trắng là mầu chỉ về sự chân thật, sự thanh sạch cùng sự vô tội.

Mầu trắng còn vẽ lên hình ảnh trống trắng trơn đang chờ đợi điều gì nữa, như một tờ giấy hay tấm bảng còn nguyên trạng chưa có gì viết vẽ lên, và trên đó còn trống chỗ để có thể viết vẽ vào.

Mầu trắng cũng là hình ảnh của sự tròn đầy. Con mắt ta khi phải bắt gặp đối diện nhìn qúa nhiều mầu sắc khác nhau, sẽ như bị chói lòa đau nhức, và lúc đó ta có khao khát ngưỡng vọng đến mầu trắng trong sáng dịu mát nhiều hơn.

Trong Kinh Thánh thuật vẽ lại: Chúa Giêsu khi sống lại mắc áo trắng, các Thiên Thần mặc phẩm phục mầu trắng xuất hiện, các Thánh nhận y phục áo trắng như biểu hiệu sự tròn đầy một đời sống thánh thiện giờ đây đạt tới đích điểm đời sống.

Như vậy qua ánh sáng mầu trắng biến dạng bao phủ toàn thân Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn chính ngài nói giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Thánh. Ý muốn đó thể hiện rõ trong câu nói của Thiên Chúa: „Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời người“ ( Mc 9.7).

Chiếc áo trắng ngày nhận lãnh làn nước Bí tích rửa tội, mà mọi người tiếp nhận là biểu hiệu nhân vị đời sống Chúa Giêsu Kitô khắc ghi trong tâm hồn người tín hữu trong suốt đời sống.

Vầng đám mây

Trong lịch sử dân Dân Thái mỗi khi Thiên Chúa ra tay can thiệp vào lịch sử đời sống của họ, vầng đám mây là biểu hiệu sự hiện diện có mặt của Thiên Chúa giữa họ. Khi dân Do Thái từ đất nước Ai cập trở về quê hương của họ, cột mây luôn luôn đi trước dẫn đường cho họ vượt qua sa mặc vùng biển đỏ; ở núi thánh Sinai vầng mây bao phủ khi Thiên Chúa hiện đến thiết lập giao ước với dân của Người; khi Chúa Giêsu nhận lãnh làn nứơc rửa tội ở bờ sông Gordan từ đám mây tiếng Thiên Chúa cha vọng phán ra, lúc Chúa Giêsu trở về trời vầng đám mây xuất hiện bao phủ đưa Ngài về trời cao bên Thiên Chúa Cha.

Như thế có thế nói, vầng đám mây như hình ảnh một tấm khăn choàng. Và đàng sau tấm khăn choàng đó, có Thiên Chúa ngự trị.

Mây trời bay bao phủ khắp bầu trời chắn cản bớt sức nóng gay gắt từ mặt trời dọi chiếu xuống trái đất; mây trời kéo đến báo hiệu mưa gió sắp đổ xuống, nếu là đám mây mầu đen xám; hoặc báo hiệu một ngày trong sáng, nếu là đám mây trắng.

Ba dấu hiệu lúc Chúa Giêsu biến hình trên núi ẩn chưa phát đi cùng một sứ điệp: Thiên Chúa luôn luôn hiện diện có mặt. Thiên Chúa Cha mạc khải giới thiệu Chúa Giêsu là con của Ngài. Bản thể Thiên Chúa của Chúa Giêsu được chiếu sáng cho các Môn đệ cùng đi theo nhìn thấy theo con mắt người thường.

Những dấu chỉ trong bước đường lên xuống của đời sống con người luôn ẩn chứa sứ điệp, mà rất nhiều khi là một mầu nhiệm bí ẩn cho tâm trí hiểu biết giới hạn của con người.

Nhưng sứ điệp ẩn chứa nào cũng phát đi tín hiệu: con người nào cũng đều được Thiên Chúa tạo thành và Ngài có một chương trình riêng cho đời sống mỗi người không ai giống ai, không có bản phụ sao chép, ví dụ như dấu chỉ trên ngón tay mỗi người, như con mắt, khuôn mặt mầu da, cái răng nơi mỗi người đều khác biệt nhau.

Điều đó chúng ta chỉ còn biết cúi đầu thán phục nói lên với tấm lòng biết ơn ca ngợi: Một công trình vĩ đại cùng lạ lùng của thiên nhiên!
 
Những vết đinh
Sa Mạc Hồng
16:21 07/03/2009
 
Giuse theo những góc nhìn ưa thích.
L.m Giuse Hoàng Kim Toan
16:25 07/03/2009
Giuse theo những góc nhìn ưa thích.

Thật là khó để phân tích tâm lý con người của Thánh Giuse, vì Thánh Kinh để lại quá ít tài liệu về Ngài, song không vì thế mà không thử một vài cái nhìn của đa số phụ nữ mong muốn nơi người đàn ông lý tưởng. Những đặc điểm được chú trọng nhất: Hài Hước, lạc quan, thành thật, sống lý tưởng, có trách nhiệm, ân cần, hiểu biết, khoan dung.

Hầu hết những đức tính này đều được trân trọng qua nhiều thời đại khác nhau mà không thay đổi, bởi vì đó là những đức tính quan trọng của người đàn ông, nhất là khi nắm giữ vai trò trụ cột của gia đình.

Chính vì những điều này, tôi muốn thử khám phá con người của Giuse, nếu không đủ tài liệu thì bổ sung từ người con là Chúa Giêsu về những đặc tính trên.

Hài Hước:

Cuộc sống không bao giờ là một thảm đỏ hạnh phúc trải sẵn. Lúc nào và hoàn cảnh nào cũng xen kẽ đau khổ và hạnh phúc. Nghệ thuật sống vui vẻ luôn là biết tạo nên tiếng cười cho cuộc sống. Không phải giống như một diễn viên hài mà là thực sự biết nhìn mọi sự dưới tâm hồn vui tươi. Câu chuyện của Thánh Giuse khi tranh luận với sứ thần về sự kiện Maria có thai mà ông đang âm thầm lìa bỏ Maria: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." (Mt 1, 20). Sự kiện tranh luận nằm trong giấc mơ của Giuse, thường giấc mơ đến khi cả nhiều ngày đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó. Giuse suy nghĩ nhiều ngày về thai nhi mà Maria cưu mang, vấn đề hệ trọng đến chuyện hôn nhân của ngài, ở hay đi, vì ngài biết rõ thai nhi không phải là của mình, và còn bao lời hứa của Maria khi đính hôn. Maria thì Giuse biết rõ trung trinh, không đùa giỡn trên tình yêu. Chỉ có băn khoăn “thai nhi bởi đâu?”, Trong tâm trạng của một con người hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Chúa biết tất cả thì Chúa làm theo cách của Người. Dĩ nhiên, Thánh Giuse cũng chẳng nói câu nào hài hước trong vấn đề này nhưng tính hài hước của câu chuyện âm thầm thì có, “Chúa làm thì Chúa có chương trình của Người”.

Trước những vấn đề khó khăn của đời ta, có lẽ chúng ta cũng chưa dám nghĩ đùa với Chúa một chút cho vui: “Đấy Chúa muốn, Chúa liệu cho con”, một chút thôi có thể đã làm ta yên lòng, nhưng vì không quen nên ta vẫn âm thầm chịu đựng, dày vò, cắn rứt.

Còn nhớ câu chuyện của Chúa Giêsu chữa con gái người đàn bà xứ canaan: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con. Bà ấy nói: Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Bấy giờ Đức Giê-su đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15, 26 – 28). Một chút hài hước mà thoát khỏi tình thế hiểm nghèo.

Hài hước làm cho bầu khí vui vẻ, cho nụ cười hơn mười thang thuốc bổ, xóa tan căng thẳng, bớt đi những mệt mỏi.

Lạc quan:

Nhìn về phía trước đầy hy vọng ngay cả trong những lúc khó khăn nhất. Ta có thể gặp thấy nhiều hoàn cảnh của Thánh Giuse trong tinh thần lạc quan. Về quê khai sổ bộ cùng với bà bầu sắp sanh, khi sanh hạ không tìm được quán trọ, sinh rồi lại bị truy bắt, tránh sang Ai Cập, trở về Nazareth, lạc mất con trong lần đi lên Đền Thờ. Cuộc đời đầy bất trắc, gia đình nhiều lưu lạc; thế nhưng, gia đình Nazareth vẫn hạnh phúc tươi vui, “con trẻ lớn lên đầy khôn ngoan và đầy ơn nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 52).

Không dễ gì mà các gia đình có được những hạnh phúc tươi vui cho con trẻ lớn lên như thế. Vì những âu lo trên khuôn mặt người cha, những mệt mỏi trên vai người mẹ làm sao con trẻ không nhận ra và chịu ảnh hưởng tác động ấy trên tâm tính con trẻ, bị thụ động, lười nhác, buồn phiền, gắt gỏng, bất hòa với người khác.

Lạc quan là một thái độ rất cần thiết để lướt qua những con sóng thử thách mà không để lại nhữg vết thương tâm lý cho mình và cho người khác.

Ta có thể thấy trong Chúa Giêsu tính cách lạc quan tin tưởng này khi ở giữa những người nghèo, đau khổ: “"Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 11, 28 – 30)

Thành Thật:

Sở dĩ Thánh Giuse được gọi là người công chính vì yếu tố quan trong này là thành thật. Thành thật với chính mình để thành thật trước người khác. Thành thật biểu lộ một lương tâm trong sáng, một con người không gian dối, chịu nhiều thiệt thòi. Người ta vẫn nói đùa: “Thật thà thương thua thiệt, lươn lẹo lại lên lương”. Cái giá của thành thật là như vậy, chính vì thế, bao nhiêu năm làm thợ, cuộc đời vẫn chịu nghèo khó, nhưng cũng bù lại, ai cũng biết và trân trọng gọi Thánh Giuse “Bác thợ mộc” (Mt 13, 55).

Trong cuộc đời của Chúa Giêsu được tóm tắt trong lời nguyện hiến dâng này để sống trong sự thật: “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”. (Ga 17, 19)

Thành thật làm nên con người được tin tưởng, người thường được lắng nghe thổ lộ tâm tư của người khác. Có bao gia đình chẳng bao giờ người cha người mẹ lắng nghe được tâm tư của nhau và của con cái. Chính vì thiếu thành thật với nhau mà cuộc sống “bằng mặt hơn bằng lòng”.

Sống lý tưởng:

Thông thường, con người hay lẫn lộn giữa mục đích và mục tiêu để xây dựng lý tưởng. Người sống có lý tưởng là người sống có mục đích rõ ràng. Khi người cha có lý tưởng rõ ràng trong đời sống mới có thể hướng dẫn con cái mình đi đúng hướng, thực hiện ý nghĩa đích thực đời sống của mình được. Người đàn ông sống lý tưởng là người đàn ông vững chãi trong cuộc sống, trở nên điểm tựa vững vàng cho mọi người trong gia đình.

Mục đích sống của Thánh Giuse: ”Xin cho ý Chúa Cha thể hiện” Sở dĩ, Đức Maria, Chúa Giêsu vững vàng trên con đường Thập Giá của mình được là bởi vì một phần ảnh hưởng giữa tất cả các thành viên của gia đình: Với Maria: “Xin vâng”, với Thánh Giuse: “thực hiện như lời sứ thần nói”, với Chúa Giêsu “Xin vâng theo Ý Cha, đừng theo ý con”.

Ý Cha được thể hiện rõ nét nhất trong khung cảnh của các gia trưởng trong gia đình, điều này cần được thực hiện trong bầu khí cầu nguyện. Cầu nguyện trong đời sống cá nhân, cầu nguyện trong đời sống cộng đoàn, cầu nguyện trong đời sống gia đình. Chính trong đời sống cầu nguyện mà lý tưởng được củng cố vững vàng qua mỗi ngày sống và giúp cho các mục tiêu thường ngày trở nên hữu hiệu xây dựng cho mục đích.

Có trách nhiệm:

Trách nhiệm đi chung với bổn phận. Sống có trách nhiệm là mang trong mình bổn phận bảo vệ chân lý, sự thiện, vẻ đẹp hoàn hảo đến cùng.

Theo luật người Do Thái, người cha trong gia đình phải có` trách nhiệm huấn nghệ cho con cái của mình có một nghề nghiệp sống lương thiện. Dân làng Nazareth khi tranh luận về nguồn gốc Chúa Giêsu đã cho thấy rõ nét điều này: “:Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13, 55 – 56).

Sống có trách nhiệm với mình và với người khác là một mẫu người thu hút quan tâm của nhiều người khác. Làm nên một hiện diện ở giữa đời có ý nghĩa, một nơi nhiều người cậy dựa trên trách nhiệm của chính người đó mà lên tiếng cho “những người thấp cổ bé họng”. Những người đàn ông có trách nhiệm là những người chân chính cần cho một xã hội có nhiều người chịu bất công, đàn áp, bóc lột, bị tước đoạt.

Lên tiếng cho sự thật luôn gặp phải những đối kháng mà chính người lên tiếng mang lấy trách nhiệm của người khác vào chính mình. Ta cảm nghiệm một cách sâu xa về tính trách nhiệm này qua lời tự hiến của Chúa Giêsu: “Con tự hiến thánh Con”

Ân cần, chu đáo:

Trong chuyện hai ông bà không tìm được chỗ trọ, tránh sang Ai Cập, lần ngược trở lại Giêrusalem để tìm con. Câu chuyện này cho chúng ta thấy thái độ ân cần của người cha, từ việc lớn việc nhỏ luôn chăm lo cho hạnh phúc của gia đình mình cần thiết biết bao. Ân cần chu đáo lo cho hạnh phúc của gia đình từ bữa cơm thường ngày, đến chăm sóc cho con trẻ lớn lên, đến những biến cố xung quanh gây tác hại cho gia đình mình. Thánh Kinh không nói nhưng trong thực tế, đời sống gia đình trải qua cũng cho thấy, việc ân cần quan tâm chăm sóc các thành viên, gia đình của mình cần có bao lần lắng nghe, chia sẻ, chăm nom, hướng dẫn, …

Ta có thể nhìn vào đời sống hoạt động của Chúa Giêsu để thấy rõ “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (Mc 3, 20 – 21)

Hiểu Biết:

Người hiểu biết là người rộng kiến thức, nói chuyện uyên bác về nhiều vấn đề, giải quyết được nhiều tình huống xấu bất ngờ. Thánh Giuse quy mọi hiểu biết về Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa giải đáp cho mọi ngăn trở của đời sống, chính Thiên Chúa hướng dẫn, chính Thiên Chúa là câu trả lời cho mọi vấn nạn của con người: “Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền” (Lc 4, 32).

Thánh Augustino cầu nguyện: “Xin cho con biết Chúa và cho con biết con”. Biết Chúa để biết con, đó là một sự khôn ngoan tuyệt hảo nhất. Ngoài những kiến thức đời sống, người cha trong gia đình cần biết một điều quan trọng: “Biết Chúa”.

Khoan dung:

Cái biết của con người cũng là cái biết quan trọng, biết mình để sống khoan dung với người khác, biết mình để sống khiêm nhường trước người khác. Chính vì lý do này mà ta thấy Thánh Giuse chẳng có một lời nói nào trong Thánh Kinh chăng? Thánh Giuse không nói bằng lời mà nói trong hành động và nói trong người con của mình. Chính đời sống của gười cha đã ảnh hưởng sâu xa trên tính tình người con: “Hiền hậu, khiêm nhượng, khoan dung”.

Suy nghĩ những điều này, ta thấy vai trò người cha có tầm mức ảnh hưởng trên con cái một cách đặc biệt. Mẫu của người con chính là phản ảnh tính cách của người cha. Theo gương Thánh Giuse, ta hãy cho những người thân trong gia đình mình, vợ, con và cho những người khác những điều tốt nhất. Những đặc tính trên chẳng bao giờ mất giá trị trong đời sống, đặc biệt đối với tất cả những người đàn ông muốn trở nên hấp dẫn thật sự.

Mừng Kính Thánh Bổn mạng 2009
 
Trái tim người Mẹ
+TGM. Ngô Quang Kiệt
16:29 07/03/2009
TRÁI TIM NGƯỜI MẸ

Trong các vẻ đẹp Chúa đã dựng nên, không có gì đẹp bằng trái tim. Trái tim được coi là trung tâm phát xuất tình yêu. Tình yêu là một vẻ đẹp làm say đắm lòng người. Vì tình yêu là hình ảnh của Thiên chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên chúa là tình yêu”. Thiên chúa là nguồn mạch mọi sự tốt đẹp ở đời. Thiên chúa đáng yêu mến vô song. Nên tất cả những gì phản ánh dung nhan Thiên chúa đều đáng yêu đáng mến. Trái tim, nơi phát xuất tình yêu là hình ảnh của Thiên chúa. Chính vì thế mà trái tim được yêu mến trân trọng. Vì mang hình ảnh Thiên chúa tình yêu, nên trái tim đẹp nhất trong các vẻ đẹp.

Trong các trái tim, không có trái tim nào đẹp bằng trái tim người mẹ. Có thể nói trái tim người mẹ gần với trái tim Thiên chúa nhất. Thiên chúa là tình yêu hoàn hảo. Nơi Ngài chỉ có tình yêu, không hề có một chút gì oán ghét hận thù. Trái tim người mẹ cũng chan chứa tình yêu thương. Trong trái tim người mẹ chỉ có tình thương, sự hiền hoà, sự tha thứ. Thiên chúa yêu thương ta trước khi ta yêu mến Ngài. Người mẹ yêu con cái trước khi con cái biết yêu mẹ. Thiên chúa yêu thương ta không vì giá trị của ta nhưng vì Chúa là tình yêu. Người mẹ yêu con cái là do tình yêu tự nhiên Chúa đặt vào trái tim người mẹ. Chúa yêu thương những người bé nhỏ nghèo hèn. Người mẹ yêu thương từng đứa con. Nhưng đứa con bệnh tật yếu ớt lại được yêu thương chăm sóc đặc biệt hơn. Trái tim người mẹ thật gần với trái tim Thiên chúa. Trái tim Thiên chúa chỉ biết yêu. Yêu cả khi con người phản bội. Trái tim của người mẹ cũng tựa như dòng suối, chỉ biết chảy xuống không ngừng qua năm tháng, dù không nhận được giọt nước nào ngược dòng trở lại biết ơn. Chính vì thế trái tim người mẹ đẹp nhất trong các trái tim.

Trái tim người mẹ là trái tim lý tưởng. Chúa dựng nên con người để yêu thương. Chúa dựng nên trái tim để yêu thương. Càng yêu thương con người càng đạt tới lý tưởng Chúa mong muốn. Trái tim người mẹ là trái tim yêu thương không ngừng nghỉ. Nếu người mẹ chỉ cưu mang con trong lòng chín tháng thì người mẹ tiếp tục cưu mang con trong trái tim suốt cả cuộc đời. Hình ảnh con cái lúc nào cũng đậm nét trong trái tim người mẹ. Trái tim người mẹ hoà với nhịp sống của con cái. Mẹ vui khi con thành công, khoẻ mạnh. Mẹ buồn khi con gặp rủi ro, thất bại. Mẹ đau nỗi đau của con. Mẹ khổ nỗi khổ của con. Có thể nói lòng dạ người mẹ chỉ đau một lần khi sinh con, nhưng trái tim người mẹ đau đớn, thổn thức, bồi hồi cả đời vì con.

Tất cả những điều ấy, ta thấy được phần nào qua cuộc đời của thánh nữ Mônica. Tất cả những điều ấy ta thấy được phần nào qua cuộc đời của mẹ chúng ta. Tất cả những điều ấy ta thấy được phần nào qua các bà cố đang hiện diện trong thánh lễ hôm nay.

Thế giới hôm nay đang có nguy cơ trở nên khốc liệt như sa mạc nắng cháy. Tình mẹ như những bóng cây xanh làm dịu mát cuộc đời.

Thế giới hôm nay đang có nguy cơ trở nên khô cằn sỏi đá. Tình mẹ như dòng suối mát tưới gội cho tâm hồn mềm mại xanh tươi.

Thế giới hôm nay đang gắng sức xây dựng nền văn minh khoa học kỹ thuật. Tình mẹ góp phần xây dựng nền văn minh tình thương.

Chúng ta hãy biết ơn các bà mẹ. Chúng ta hãy biết trân trọng tình mẹ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho trái tim các bà mẹ luôn là hình ảnh của trái tim Thiên chúa.

Lạy Chúa là nguồn mạch yêu thương, xin thương đến các bà mẹ và thánh hoá trái tim của các ngài. Amen.
 
Năm thánh Phaolô Thần Học Thể Lý
Jos. Tú Nạc
16:42 07/03/2009
NĂM THÁNH PHAOLÔ

THẦN HỌC THỂ LÝ

Trong sách Actc, khi Thánh Paul gặp sự việc Đức Chúa Jesus phục sinh, Thiên Chúa đã tự xác nhận trước Paul và những người Ki-tô giáo về những nhục hình như đe dọa, đánh đòn, giam giữ và sự chết. Chúa Ki-tô nói: “Ta là Jesus, người mà các ngươi đang truy hại” (9: 5), Người tự liên kết với giáo hội. Paul đã phát triển điều này trong việc rao giảng về giáo hội như Mình Chúa Ki-tô.

Lời giáo huấn của Paul dựa trên căn bản này, và được thể hiện rõ nét trong những lá thư Corinth. Chúng xuất hiện một cách gián đoạn trong thời gian ba tuần đầu của tất cả ba chu kỳ Thường Niên, vì những ngày Chúa Nhật năm nay kéo dài đến Mùa Chay.

Chẳng may, người đọc suy niệm không nghe kịp những lá thư dài để nắm bắt lý lẽ hoặc những lời giáo huấn của Paul. Điều này quả là đáng tiếc trước sự quan tâm đối với cuốn cẩm nang uy thế của ông về đời sống Ki-tô giáo – đầu tiên với dân Corinth – giải thích những vấn đề rao giảng mãnh liệt của thế kỷ thứ nhất vẫn còn thích ứng đến ngày hôm nay.

Chẳng hạn trong chương 5-7, Paul đã trả lời những câu hỏi từ những tân tòng của ông và đưa ra những câu trả lời về những việc kiện tụng giữa những người Ki-tô giáo (6: 1-11); những vấn đề giới tính chẳng hạn như tội loạn luân và những hành vi đồi bại, xấu xa (5: 1-13) hoặc tội mại dâm (6: 12-20); sự sống độc thân, sự tiết chế tình dục trong hôn nhân, hôn nhân của những người Ki-tô giáo với những người không cùng tôn giáo – bao gồm khả năng (có thể) ly hôn trong những trường hợp một người ngoại đạo chung sống miễn cưỡng để được yên ổn với một tín hữu (gọi là đặc quyền của Paul ‘Pauline privilege’) – và thậm chí không biết có cưới hỏi hay không (7:1-10) đã cho rằng “hình thức hiện tại của thế giới này đang mai một” (7: 31)

Xem xét những vấn đề khác trong chương 8-15 gồm người Ki-tô giáo nên hành động như thế nào khi họ nhận xét rằng thái độ của họ ảnh hưởng đến đời sống của những người khác (8: 1-13; 10: 1-33); những phân biệt của người Ki-tô giáo như thế nào, giữa giàu và nghèo, giữa nô lệ và tự do, làm giảm giá trị lễ Tạ Ơn (Eucharist/ Thanksgiving) (11: 17-34); những món quà tinh thần như thế nào để được hiểu từ những thành viên của giáo hội (11: 2-16; 12:1-31; 14:1-40); sự phục sinh của Chúa Jesus là huyền thoại cốt yếu như thế nào của những tín hữu dẫn đến sự hiểu lấm khác về đời sống trong thế giới này hoặc có liên quan tới cuộc sống tương lai những môn đồ Ki-tô giáo, rồi một ngày sẽ chia sẻ với Thiên Chúa (15: 1-58).

Nỗ lực trước những vấn đề này mà người Ki-tô giáo hoặc Paul đưa ra là một số nguyên tắc then chốt: trên hết tất cả, sự quan trọng của thể xác loài người; bản tính tự do cùa chính nó (9: 1-26); và tình yêu tự hiến không thể thiếu theo gương Chúa Ki-tô là thế nào (“Thánh ca tình yêu ‘Hymn to love’) nổi tiếng trong 12: 31-13: 13).

Cách đây vài năm, một cuốn sách mỏng đã gây chú ý cho chúng ta của Hans Fror, Người và những Ki-tô hữu bất hạnh! Học giả người Đức này đã đưa ra lời giải thích của mình về việc rao giảng của Paul bằng cách gợi ý những gì mà những Ki-tô hữu có thể đã viết tới các Tông đồ để khơi ra những hưởng ứng.

Việc giới thiệu cuộc thảo luận của sự phục sinh, Fror tưởng tượng đến một Melas, một tiêu biểu của sự khôn ngoan Ai-cập, lời thuyết phục như sau: “Bạn phải thể hiện một sự phân biệt khác nhau … giữa Jesus thế tục và Chúa Jesus – chúa Ki-tô – người mà gần gũi với chúng ta trong tâm hồn. Jesus người bằng xương bằng thịt là một phần, một hiện thân của trần thế mà đã chịu khổ nạn cho đến chết. Đời sống thiêng liêng có thể có cái gì cùng chung sự phân hủy mục rữa nào đó?”

“Tinh thần là cuộc sống, Chúa Ki-tô sống trong chúng ta, thuở xa xưa từ vực thẳm của thân xác mục nát và dịch họa vô nghĩa. Chúa Ki-tô, tâm hồn này, đó là đời sống vĩnh cửu. Thiên chúa là sự sống đời đời, mà đã có từ vô thủy trước thế giới, không thể đụng chạm và mục nát. Chúng ta có thể kinh qua điều đó. Nó tràn đầy trong chúng ta! Bạn không cảm thấy điều đó sao?”

Một thành viên khác của giáo hội Corinth, Deborah, đã đấu tranh với lý luận của Melas và biện hộ: “Nói cho chúng tôi những gì mang đến những thể xác của sự chết nếu đời sống thiêng liêng và số mệnh trần tục không có gì cùng chung? Cái gì xảy đến cho sự phục sinh sau đó?” Melas trắng trợn trả lời: “sự phục sinh từ cõi chết? Không có sự việc như thế.” (trang 74)

Vào thế kỷ thứ hai, nhà hùng biện Justin Martyr đã thừa nhận trước Trypho dân Do-thái rằng có “số người nào đó gọi là người Ki-tô giáo đã nói không có sự phục sinh từ cõi chết, và đó là linh hồn của họ, khi họ chết được đưa lên thiên đàng.” Justin đã không cần nói vòng vo khi tấn công họ là “ bọn vô thần, nghịch đạo, những kẻ dị giáo đáng báng bổ”: “ đừng tưởng rằng họ là những người Ki-tô giáo.”

Paul trả lời một số người tại Corinth, những người đã phủ nhận sự phục sinh tương lai của các tín hữu là để trở về với những nền móng đức tin Ki-tô giáo – rằng chúa Ki-tô đã chết và đã sống lại “theo Kinh thánh.” Paul cũng lập luận, rằng căn bản của vấn đề này là một nghi vấn về Thiên chúa, “nếu sự chết không sống lại…” (đó là “nếu thiên chúa không thể sống lai được từ cõi chết”), sau đó chúa Ki-tô không sống lại và một loạt những kết luận theo sau. Trong những kết này là: “đức tin của bạn vô ích và bạn vẫn ngụp lặn trong tội lỗi.”

Đối với Ki-tô giáo, mọi việc đều nương tựa vào sự phục sinh xác thể của Chúa Jesus. Để khước từ sự phục sinh của Chúa Jesus (hay sự phục sinh trong tương lai của tín hữu) là biểu hiện sai lầm đối với Thiên Chúa (“chúng ta chứng tỏ với Thiên Chúa rằng Người đã phục sinh chúa Jesus “), phủ nhận Tin Mừng và, cuối cùng bỏ mất sức mạnh của Tin Mừng.

Feb. 2009

Nguồn: The Catholic Register
 
Nhật ký tĩnh tâm Linh mục TGP Huế trong ngày thứ II
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
19:42 07/03/2009
Nhật ký Tĩnh tâm Linh Mục Tổng Giáo Phận Huế

(02-06/3/2009)

***

Ngày thứ hai (04/3/2009)

Ngày thứ hai của Tuần Tĩnh Tâm Linh mục đoàn Huế là ngày 04-3-2009.

Ý cầu nguyện của ngày hôm nay là cầu cho các Giám mục và các Linh mục đã qua đời.

Đề tài tĩnh tâm được hướng dẫn ban sáng là:

Đức Mến, con đường trổi vượt (1 Cr 12,31b–14,1)

Trong cuộc đời truyền giáo, chúng ta vẫn được nhắc bảo là noi gương Đức Kitô.

Hôm nay chúng ta nghe thánh Phaolô giới thiệu gương mặt Đức Kitô để chiêm ngưỡng và có một chương trình sống.

1.- “Con đường trổi vượt hơn cả”

“Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (12,31).

Bài diễn từ bắt đầu bằng một tối thượng cấp trong dạng lạ lùng, hẳn là phải lôi kéo sự chú ý của người Côrintô. Giọng bí mật này tiếp tục suốt bài diễn từ (x. 13,1-13), vừa đưa vào từ ngữ agapê trong dạng tuyệt đối, vừa tiến đi với giọng điệu hiền triết đầy những gợi ý huyền bí.

Danh từ hodos (“con đường”) được dùng ở đây, thì hầu như luôn luôn được Bản LXX dùng để dịch từ Híp-ri “derek” (“con đường”). Trong Cựu Ước, từ ngữ này đặc biệt có nghĩa là nẻo đường YHWH rảo qua để gặp gỡ Israel, Dân Ngài, và mạc khải cho họ biết ý muốn cứu độ của Ngài trong Torah, và do đó, là lối sống của người tín hữu được kêu gọi bước đi trên những nẻo đường của YHWH, bằng cách đón nhận Lời Ngài vào trong đời sống mình, qua việc lắng nghe chuyên chăm và vâng phục.

2.- “Nếu tôi không có đức mến” (13,1-3)

Hiệu quả lạ kỳ được gợi ra ở phần mở với thuật ngữ “con đường trổi vượt” (12,31b) được khuếch đại thêm trong ba mệnh đề đầu tiên, trong đó, Phaolô dùng các phản đề theo cách tăng dần, để lập một đối chiếu (i) giữa agapê và ơn nói tiếng lạ, (ii) giữa agapê và các đoàn sủng tiên tri, hiểu biết tất cả các mầu nhiệm và đức tin có khả năng làm phép lạ, cuối cùng (iii) giữa agapê và tất cả những gì con người có thể làm ở bình diện các thành quả anh hùng.

- “1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. 2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. 3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (13,1-3).

Trong ba đoạn đối chiếu, công thức trở đi trở lại là: “nhưng tôi không có đức mến”.

Công thức này rất giống với ngôn ngữ được các hiền nhân và các nhà thần bí ưa chuộng, bởi vì chỉ có ngôn ngữ này mới thích hợp cho ai đang tìm cách nói lên điều khôn tả.

Ta có thể nghĩ đến bài ca ngợi sự khôn ngoan trong Gióp 28 hoặc các áng thơ của thánh Gioan Thánh Giá.

- Tôi có thể nói các ngôn ngữ loài người và thiên quốc, nhưng nếu tôi không có tình yêu, lời tôi nói cũng giống như tiếng ồn ào gây nên do tiếng trống tiếng chiêng, mà theo nghĩa bóng là các lời nói trống rỗng của các nhà hùng biện.

- Cũng thế, tôi có thể có đoàn sủng tiên tri, sự hiểu biết đầy đủ về tất cả các mầu nhiệm (x. 1 Cr 12,8; 14,6), đức tin có thể làm các việc kỳ diệu, nhưng nếu tôi không có tình yêu, thì “tôi cũng chẳng là gì”.

Công thức triệt để này nhắc lại Kn 9,6: “Quả thế, con người ta dẫu thập toàn đi nữa mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài, thì cũng kể bằng không không vậy” (x. cả Dc 8,7b).

- Hoặc thậm chí tôi có thể đi tới chỗ phân phát của cải hoặc cho đi là hiến tặng mạng sống tôi, nhưng nếu tôi không có tình yêu, “thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. Nếu thiếu tình yêu, cả hành vi anh hùng nhất cũng không có thể giúp gì vào việc cứu độ (x. Rm 2,25; Gl 5,2).

Điều đánh động và gây ngạc nhiên là trong bản văn này, từ ngữ agapê luôn luôn được dùng ở dạng tuyệt đối, không hề có một xác định tính cách, dù là chủ thể hay đối tượng, ngược lại với cách Phaolô thường dùng, khi nói là agapê của Thiên Chúa, của Đức Kitô, của Thánh Thần hoặc của loài người (xem chẳng hạn Rm 8,35.39; 15,30; 1 Tx 3,12; 1 Cr 16,24; 2 Cr 8,24).

Như thế, tình yêu được giới thiệu như một giá trị duy nhất và tự lập, thậm chí được nhân cách hóa như Đức Khôn Ngoan ([k]hokmah – sophia) trong Cn 8 và Hc 24.

Cách giới thiệu agapê theo kiểu tuyệt đối như thế chỉ có một bản văn song song ở 1 Cr 8,1, là nơi mà Phaolô khẳng định rằng khác với “sự hiểu biết, gnôsis” làm cho sinh lòng kiêu ngạo, agapê thì xây dựng.

Ta ghi nhận là ba lần trong cc. 1-3, hoàn cảnh giả thiết là đức mến được diễn tả bằng câu “nếu tôi không có đức mến”, đã giới thiệu tình yêu như là một thực tại tự lập đối với người hẳn là phải có đức mến, và như thực tại mà nếu không có, thì mọi sự còn lại chẳng còn gì đáng kể.

Ta cũng không thể không lưu ý đến tình trạng mười ba câu của 1 Cr 13 không hề có bất cứ một quy chiếu minh nhiên nào về Thiên Chúa, về Đức Kitô hoặc về Thánh Thần. Nhưng cũng không thể đọc trang này mà không quan tâm đến chân trời của tư tưởng Phaolô, theo đó, tình yêu của Thiên Chúa, mà Con duy nhất của Ngài đã ban cho chúng ta, và tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã hiến tặng mạng sống cho chúng ta, là mạc khải về mầu nhiệm agapê.

Chính vì thế, B. Standaert, và trước đây, C. Spicq, đã khẳng định rằng “bài ca ngợi agapê là một loại Kitô học ẩn giấu – và, tác giả tiếp tục, – chúng ta ghi nhận rằng hẳn là Phaolô đã có thể ưu tiên dùng những từ ngữ khác thay vì agapê […]. Sự chọn lựa từ ngữ agapê được giải thích tốt hơn dưới mắt chúng ta khởi đi từ quy chiếu mang tính Kitô học cao độ của nó. Đối với Phaolô, agapê, như ngài diễn tả nội dung trong các thư khác, trước tiên là hành vi qua đó Đức Kitô đã chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta (x. Rm 8,31tt và 2 Cr 5,14-15)”. Theo nghĩa này, hẳn là ta có thể nói rằng agapê được nhân cách hóa, chủ ngữ của mười lăm động từ ta thấy trong phần hai của bản văn này (cc. 4-7), rất có thể là chính Đức Kitô.

Ai là “tôi” chủ ngữ của tất cả những gì được nói đến trong phần thứ nhất này?

Trong cc. 1-3, nổi rõ các quy chiếu về bối cảnh Giáo Hội của Côrintô. Nhưng thánh tông đồ cũng nói lên chính ý muốn của ngài trong tư cách là con người tôn giáo… Cuối cùng, cái “tôi” này còn là một cái “tôi” tiêu biểu, giống như cái tôi của Rm 7, tượng trưng mỗi tín hữu hoặc thậm chí có thể mỗi người.

3.- Đức mến làm gì và không làm gì? (13,4-7)

Trong phần thứ hai này, mọi đại từ nhân xưng đều biến mất, thậm chí bị minh nhiên phủ nhận ở c. 5, là chỗ tác giả nói rằng agapê “không tìm lợi lộc của mình”.

Agapê là chủ từ duy nhất của mười lăm động từ…: hai ở dạng tích cực, tám ở dạng tiêu cực, và năm lại ở dạng tích cực.

Ngoài việc xác định phẩm chất của tình yêu trong việc nó làm, như thế là mặc nhiên thách cộng đoàn Cr sống phù hợp với làn sóng này chứ không với việc đi tìm các đoàn sủng ngoạn mục hơn, với các động từ tiêu cực, Phaolô phê bình lối sống của các người nhận thư.

Sự kiện agapê là chủ ngữ của tám động từ tiêu cực và bảy động từ tích cực gợi ý rằng tình yêu trung thực là tình yêu đạt được một sự hài hòa khôn ngoan giữa những thái độ thụ động và những thái độ chủ động, giữa làm và không làm. Ai chỉ sống bằng những thái độ thụ động thì có thể có vẻ hiền từ và tốt lành, nhưng trong thực tế có thể chỉ là một con người lãnh đạm và không quan tâm đến người khác.

Đàng khác, người nào có toàn những thái độ chủ động thì rất có thể làm nhiều chuyện cho người khác, khiến rơi vào một thứ xu hướng duy động không hiểu biết và không điều độ, và trong thực tế, xu hướng này che giấu một thứ trốn chạy bản thân vì sợ sự cô độc và một xu hướng dụng cụ hóa tha nhân vì tìm kiếm tha nhân không vì chính tha nhân, nhưng để đáp lại một xu hướng thích làm đến rồ dại.

Trong phần thứ nhất, ước muốn bị lột mặt nạ trong tính xấu xa của nó. Bây giờ, ước muốn được chiêm ngắm trong chiều kích đã được biến dạng bởi hành động hoàn toàn nhưng-không của Thiên Chúa được mạc khải bởi Đức Giêsu Kitô…

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu…” (13,4a).

Hai phẩm chất đầu tiên của đức mến bày tỏ thực tại thâm sâu nhất của đức mến. Sự nhẫn nhục là khả năng nhìn rộng trên những người khác và trên thực tại với những chân trời mở rộng. Chính cái nhìn này làm dấy lên khả năng “làm điều tốt” cách khả ái và kín đáo theo gương Đức Giêsu, “đi tới đâu là Người giáng phúc tới đó” (Cv 10,38).

Sự nhẫn nhục và hiền hậu là những nét tiêu biểu của hành động của Thiên Chúa đối với loài người và thuộc về thực tại mà Phaolô gọi là “hoa quả” của Thần Khí (Rm 2,4; 9,22; Gl 5,22).

Hai nét này phải là đặc điểm của lối sống và hành động của Thiên Chúa và mỗi Kitô hữu (2 Cr 6,6; 1 Tx 5,14; Cl 3,12-13; Ep 4,2; 1 Tm 1,16; 2 Tm 3,10; 4,2).

Tiếp theo là tám động từ ở dạng tiêu cực: “không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (13,4b-6).

Các động từ này diễn tả các thái độ không tương hợp với agapê. Đây là những thái độ ghen tị và cạnh tranh, được kể vào những “việc làm của xác thịt” ở Gl 5,20 và trong những danh mục các tật xấu trong Rm 13,13 và 2 Cr 12,20; đây là những thái độ cao ngạo trước kẻ khác bị coi là thấp kém, tự đề cao kiêu căng; những lối sống gai chướng làm tổn thương người khác, những hành vi khép kín kẻ thực hiện trong vòng tròn ích kỷ của tư lợi, những phản ứng giận dữ và hiềm khích. Khép chuỗi dài các động từ ở dạng tiêu cực này là một mệnh đề đối nghĩa trong đó tác giả nói rằng agapê không để cho mình bị dính líu vào trong những tâm tình mừng rỡ khi phải chứng kiến sự bất công, nhưng tỏ ra vui mừng khi chứng kiến tất cả những gì là chân thật và công chính.

Bài ca ngợi agapê kết thúc với bốn mệnh đề ngắn với điệp khúc là “sự toàn thể”: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (13,7). Đức mến có khả năng chịu đựng mọi nghịch cảnh và không đầu hàng trước các khó khăn, không bao giờ mất tin tưởng vào sự sống và không bao giờ ngừng hy vọng.

Vì có thể coi tình yêu là chính Đức Kitô, khi bước theo “con đường trổi vượt” là chúng ta bước theo Đức Kitô.

Mười lăm nét làm nên dung mạo của đức mến cũng là mười lăm nét làm nên gương mặt của Đức Kitô và là chương trình sống của chúng ta.

(Linh mục FX. Vũ Phan Long, ofm, Giám Tỉnh Dòng Phanxicô)

*********************

Trong Thánh Lễ lúc 10 giờ 15, Cha Phêrô Nguyễn Hữu Giải, quản xứ An Bằng, chia sẻ Tin Mừng như sau:

Kính lạy Hai Đức Cha.

Kính Cha Giảng Phòng.

Kính thưa các cha.

Đức Chúa Giêsu nói với dân chúng Do Thái đang tụ họp đông đủ quanh Ngài: ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ nầy như vậy.

Đức Chúa Giêsu làm gì để nên dấu lạ?

1. Chưa phải là dấu lạ đích thực.

Tin Mừng theo thánh Máccô thường ghi lại lời căn dặn nghiêm túc của Đức Chúa Giêsu, là đừng nói cho ai biết sau một phép lạ hoặc một biến cố quan trọng của Ngài. Chẳng hạn: chữa lành một người bị phong hủi, một người vừa điếc vừa ngọng, cho con gái ông Gia-ia sống lại...

Ngài thường nghiêm cấm tiết lộ cho người khác biết, dù có nhiều người chứng kiến.

Khi thánh Phêrô tuyên xưng đức tin: Thầy là Đấng Kitô, hoặc sau khi biến hình trên núi Tabôrê cho ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, Ngài cũng cấm ngặt không được nói cho ai biết, không được kể lại cho ai hay.

Như thế, ý Ngài không muốn việc giảng dạy và phép lạ của Ngài đã là dấu lạ đích thực và đầy đủ cho người ta tin Ngài.

Hơn nữa, nhiều người vẫn chưa tin Ngài là Đấng Cứu Thế đúng ý Ngài.

2. Điều đáng sợ nhất!

Khi hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn no nê, và thấy dân chúng sắp tôn nghinh mình làm vua, Ngài vội vàng cho các tông đồ lanh chân xuống thuyền ra khơi, còn Ngài thì nhanh chóng ẩn mặt, lánh lên núi cao một mình.

Khi loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh cho các tông đồ, Ngài bị thánh Phêrô trách yêu, Ngài liền mạnh mẽ phản ứng bất ngờ: Xatan, lui lại đàng sau Thầy vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.

Ngài mang sẵn trong mình một nỗi sợ hãi và Ngài tỏ ra hoảng hốt. Ngài phản ứng nhanh và quyết liệt đối với bất cứ ai, dù là quần chúng, thân nhân, bạn bè, đồ đệ và bản thân mình có những ý tưởng và hành động trái ngược với thánh ý Cha Ngài đối với chính Ngài trong sứ vụ cứu chuộc.

3. Điểm quy chiếu chính yếu.

Đức Chúa Giêsu luôn tự kỷ ám thị tìm ra thánh ý Cha Ngài và trung thành thi hành.

Lương thực của Thầy là làm theo ý Cha Thầy.

Con đường phục vụ là dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người.

Khi nào bị treo lên, Thầy sẽ lôi kéo mọi sự lên với Thầy.

Lạy Cha, đừng theo ý con.

Mọi sự đã hoàn tất.

Ngài lấy thánh ý Cha làm điểm quy chiếu cho đời Ngài và sứ vụ của Ngài.

Chíeu theo thánh ý Cha Ngài, Ngài đi vào con đường tự hủy. Đau khổ, sỉ nhục, bị lên án, và đỉnh cao, là Biến Cố Vượt Qua: bị đóng đinh chết trần trụi, chôn vào lòng đất, để rồi phục sinh ban ơn cứu rỗi, trở nên dấu lạ đích thực cho mọi người tin vào để được sống đời đời.

Ở Núi Sọ, Ngài là dấu lạ. Lương giáo tin Ngài.

Viên sĩ quan Rôma tuyên xưng niềm tin. Người trộm lành, dân chúng đấm ngực ăn năn. Nicôđêmô công khai theo Ngài.

Ba mươi ba năm là lãnh đạo, Ngài ngồi xuống rửa chân cho những đồ đệ phản bội vô ơn cho đến đỉnh cao yêu thương đổ máu từ Thánh Giá Cứu Chuộc.

Là ngôn sứ, Ngài kiên định công bố thánh ý Cha và chuyển hoá lời giảng thành tấm thân treo Thánh Giá.

Là tư tế, Ngài tự huủy diệt thành con chiên vẹn sạch, hy tế trên Thánh Giá theo thánh ý Cha.

4. Hôm nay, hoàn cảnh nầy, môi trường nầy, giáo dân đang xin linh mục cho dấu lạ. Lương dân đang tìm dấu lạ từ linh mục.

Lạy Đức Chúa Giêsu, Ngài luôn tín nhiệm chúng con. Ngài muốn chúng con là dấu lạ cho thế hệ nầy. Xin Ngài sử dụng chúng con theo chương trình của Ngài. Amen.

Fiat Voluntas Tua!

*********************

Đề tài tĩnh tâm được hướng dẫn ban chiều là:

Bữa Tiệc của Chúa (1 Cr 11, 17-34)

Ngày 17-4-2003, Đức Gioan-Phaolô II đã ban Thông điệp Ecclesia de Eucharistia. Tiếp nối Đức Giáo hoàng.

Ngày 25-3-2004, Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ luật Bí Tích đã ban Huấn thị Sacramentum Redemptionis.

Vào tháng 10-2004, chúng ta đã cùng với Giáo Hội đi vào Năm Thánh Thể với Tông Thư Mane nobiscum Domine Đức giáo hoàng ban ngày 7-10-2004.

Tất cả những sự kiện này mời gọi chúng ta dừng lại để suy niệm một chút về Bí Tích Thánh Thể.

Chúng ta đọc 1 Cr 11,17-34.

Trong đoạn thư này, thánh Phaolô bàn về Bữa Tiệc của Chúa.

Trước tiên, thánh tông đồ trách Hội Thánh Côrintô vì các cuộc hội họp của họ chẳng đem lại lợi ích gì, mà lại còn tạo ra những hiệu quả tiêu cực; lý do là vì họ chia rẽ nhau (11,17-22).

Kế đó, ngài nhắc lại truyền thống về Bữa Tiệc của Chúa để họ biết thẩm định lại cách cử hành một cuộc tưởng niệm (11,23-26).

Cuối cùng, ngài kết thúc bằng cách ban cho một vài chỉ thị thực tiễn (11,27-34).

1.- Một cộng đoàn bị chia rẽ (11,17-22)

Thánh tông đồ phác họa ra hoàn cảnh của cộng đoàn như sau:

- “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn (synerchesthe in ekklêsia), anh em chia rẽ nhau (schismata), và tôi tin là điều ấy có phần nào đúng” (11,18).

Hoàn cảnh trong đó có những chia rẽ được xác định bởi động từ “họp; quy tụ (synerchesthai)” và danh từ “cộng đoàn (ekklêsia)”.

Động từ synerchesthai được dùng ở đây và ở 14,23.26, là nơi mà Phaolô cho những sắp xếp thực tiễn nhằm duy trì trật tự trong các cộng đoàn; động từ này diễn tả sự quy tụ của toàn thể cộng đoàn.

Còn danh từ ekklêsia được dùng hai lần trong bản văn (x. cc. 18.22), lần đầu với nghĩa là “cộng đoàn cử hành” và một lần với nghĩa là “Hội Thánh của Thiên Chúa”.

Theo hy-ngữ ngoài Kinh Thánh, từ này có nghĩa là toàn thể các công dân quy tụ lại thành cộng đoàn để quyết định về những vấn đề liên hệ đến thành phố, còn trong Bản LXX, từ này có nghĩa là dân Thiên Chúa được triệu tập để thờ phượng Thiên Chúa.

Như thế, các chia rẽ xảy ra ngay trong lòng cộng đoàn đã được quy tụ, tức là nơi của sự hiệp thông. Tức là các Kitô hữu sống thật sự chia rẽ và sống giả sự hiệp thông!

Trước khi xác định các chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô hệ tại điều gì, thánh tông đồ khẳng định rằng cũng không thể tránh được các chia rẽ này.

Với lại các chia rẽ này cũng có một vai trò tích cực: “Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng phải (dei) có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn” (c. 19).

Động từ “phải; cần thiết (dei)” diễn tả một điều thuộc về quyết định của Thiên Chúa trong chương trình của Ngài.

Các chia rẽ cần thiết theo nghĩa là tỏ cho thấy ai là tín hữu “đã được thử thách” (dokimoi), nghĩa là đã thắng vượt thử thách là các chia rẽ, có khả năng chống lại tất cả những gì gây bất hòa và chia rẽ (x. 3,1-4).

Thế rồi, Phaolô phác ra những chia rẽ đang tấn công các cuộc hội họp cộng đoàn: “Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say” (cc. 20-21).

Các chia rẽ đã xảy ra vào ngay khi các Kitô hữu quy tụ lại để cử hành tưởng niệm Bữa Tiệc của Đức Giêsu.

Dựa vào cc. 23-26, ta biết là các Kitô hữu thường tụ họp tại nhà một Kitô hữu; lương thực thì các tín hữu mang đến tùy khả năng và góp chung lại. Người ta ăn chung với nhau sau khi đọc lời chúc tụng trên Bánh Thánh Thể; và đến cuối, “sau khi đã ăn tối” (c. 25), người ta đọc lời chúc tụng trên Chén Thánh Thể.

Có thể Phaolô đề cập đến ở đây một hoàn cảnh xã hội trong đó người ta phải tổ chức các buổi hội họp Thánh Thể tại nhà những người giàu; người ta phải tiếp đón mọi Kitô hữu, kể cả những người nghèo và các nô lệ vào nơi hội, nhưng chủ nhà chỉ mời những bạn bè khá giả của ông vào ăn bữa tiệc trước tiệc Thánh Thể; có cả những thực phẩm mỗi người mang đến (Những cuộc đào bới khảo cổ tại các nhà của những người giàu ở Côrintô cho thấy là phòng ăn (triclinium) và sân không thể chứa hơn 50 người. Có lẽ những khách mời hạng sang thì ăn trong phòng ăn, còn những người khác thì ở ngoài sân).

Cũng có thể vào thời gian này, có vài Kitô hữu sung túc đến trước, đã không chờ những người khác, mà ăn ngay (pro-lambanô, “lấy trước”) những thức ăn mỗi người mang đến, và ăn no say. Hậu quả là lương thực cho bữa ăn chung còn lại rất ít, và những người nghèo, đến trễ (x. c. 33), có lẽ vì việc làm hoặc vì sĩ diện do không có gì góp chung, chẳng còn gì mấy mà ăn.

Như vậy, đây là một xung đột xã hội, văn hóa, kinh tế, do trong cộng đoàn có những giai cấp xã hội khác nhau: cộng đoàn có một thiểu số gồm “những người khôn ngoan theo xác thịt”, “những người quyền thế” và “những người quí phái” và một đa số gồm những người không có gì cả (x. 1,26).

Như thế, sự lạm dụng mà Phaolô tố giác là sự chia cách đang có (schisma, [h]airesis) giữa các Kitô hữu Côrintô, và sự chia cách này xuất hiện rõ ràng khi cộng đoàn quy tụ lại để cử hành Bữa tiệc của Chúa.

Phaolô lưu ý họ rằng nếu họ sống như vậy, thì cho dù họ có quy tụ lại để “ăn bữa tối của Chúa” (c. 20), trong thực tế, họ chỉ “ăn bữa riêng của mình” (c. 21), và cuộc quy tụ chẳng còn là một cử hành thánh thiêng nữa.

Thánh tông đồ đã nói nặng với họ: “Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!” (c. 22).

2.- Tưởng niệm (11,23-26)

Sau khi đã nêu nhận xét tiêu cực, Phaolô nhắc lại truyền thống cử hành Bữa tiệc của Chúa, để người Côrintô suy gẫm các lời nói và hành vi của Đức Giêsu mà rút ra những hệ luận mà tự điều chỉnh.

Trước hết, ngài nhắc lại rằng ngài đã nhận (paralambanô) được từ Chúa (apo tou Kyriou) những gì tới lượt ngài, ngài truyền đạt (paradidômi) cho họ.

Nghi thức Bữa tiệc này chắc chắn phát xuất từ Đức Giêsu, nhưng thánh tông đồ đã không nhận trực tiếp từ Đức Giêsu, mà nhận từ truyền thống Hội thánh.

Bài tường thuật mở đầu với một chi tiết nói về thời gian: “Trong đêm [Chúa Giêsu] bị nộp (paredideto)” (c. 23b).

Biến cố Bữa Tiệc Thánh Thể được liên kết với việc Đức Giêsu bị nộp cho kẻ thù, sự cố này được diễn tả bằng động từ paradidômi, “trao nộp”.

Ở đây không có những nhắc nhớ tới Lễ Vượt Qua như trong truyền thống Nhất Lãm.

Thánh tông đồ không nói đến kẻ phản bội. Rất có thể ngài có nghĩ đến Giuđa, nhưng hẳn cũng nghĩ đến Chúa Cha, vì ngài đã viết rằng Chúa Cha “đã chẳng tha chính Con Một, nhưng đã trao nộp (paredôken) vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32; 4,25).

Ý tưởng nói về việc Thiên Chúa trao nộp Đức Giêsu để Ngài chịu chết, phát xuất từ Bài Ca Người Tôi Trung của Đức Chúa, trong đó, theo Bản dịch hy-lạp, ta đọc: “Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta.Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53,6b.12a.12b).

Nhưng hẳn là Phaolô cũng muốn nói đến cả chọn lựa của Đức Giêsu, vì Ngài cũng “đã trao nộp” chính thân mình để chịu chết vì yêu thương: “Đấng đã yêu mến tôi và hiến (paradontos) mạng vì tôi” (Gl 2,20).

Từ những bản văn này, ta diễn dịch ra là đối với Phaolô, cái chết của Đức Giêsu là hậu quả của manh tâm kẻ ác, nhưng cũng là việc thực hiện dự phóng của Chúa Cha mà Đức Giêsu đã tự do chấp nhận vì yêu thương.

Thế rồi, thánh tông đồ tường thuật lại những cử chỉ và lời nói của Đức Giêsu:

- “Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn (eucharistêsas), rồi bẻ ra và nói: «Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy»”.

Các cử chỉ Đức Giêsu làm là theo nghi thức bữa tiệc Vượt Qua và nghi thức mỗi bữa ăn Do-thái khác.

Mở đầu bữa tối, người chủ gia đình đọc lời chúc phúc trên bánh, trong đó có lời tạ ơn Thiên Chúa về các ân huệ Người ban cho Dân Người. Rồi ông bẻ bánh, phân phát cho mọi người có mặt như dấu chỉ diễn tả mọi người được thông phần vào các ân huệ của Thiên Chúa.

Đức Giêsu đồng hóa bánh được bẻ ra với thân thể Ngài.

Với các từ “[hiến tế] vì anh em” nối vào “thân thể [mình]” Ngài, đây lại đúng là vai trò của Người Tôi Trung của Đức Chúa, Đấng “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Is 53,4a).

Giới từ hyper, “vì; nhằm chiếu cố đến” trong các Thư Phaolô diễn tả sự tự hiến của Đức Giêsu và cái chết ban ơn cứu độ của Ngài (x. Gl 2,20).

Trong đêm Người bị trao nộp, Đức Giêsu tự hiến mình vì anh em Người.

Cái chết dữ dội, vừa diễn tả tình yêu và sự hiến thân của Người, vừa trở thành biến cố cứu độ cho mọi người. Trong bối cảnh là cái chết gần kề, lời tạ ơn của Người diễn tả lòng Người chấp nhận trọn vẹn kế hoạch của Chúa Cha này được nên hiện thực trong cái chết của Người. Ăn thịt Đức Kitô – truyền thống Mc và Mt kể lại lời mời “anh em hãy cầm lấy mà ăn”, mà Phaolô bỏ, có lẽ được hiểu ngầm trong cử chỉ của Đức Giêsu – có nghĩa là gắn bó trọn vẹn và tham dự vào số phận của Người là chết và sống lại.

Cuối cùng, tác giả ghi lại các lời Đức Giêsu: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”.

Lệnh truyền này đưa ta trở lại với nghi thức lễ Vượt Qua Do-thái, tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai-cập, mà người ta phải cử hành như “Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời” (Xh 12,14).

Từ ngữ “tưởng niệm” (Hp zikkarôn) và động từ “tưởng niệm” (Hp zakar) không có nghĩa là nhớ lại một sự kiện trong ký ức, nhưng là làm cho chính biến cố ta cử hành tái hiện.

Như thế, việc cử hành bữa tiệc của Chúa trong cộng đoàn Kitô hữu sẽ như lễ Vượt Qua Do-thái, là một cuộc tưởng niệm, nghĩa là một cử chỉ làm cho con người Đức Giêsu hiện diện, trong tư cách là Đức Chúa phục sinh và đang sống, Đấng ban ơn cứu độ chung cuộc.

Cùng một chiều hướng với Lc, Phaolô nhắc lại rằng việc phân phát rượu được làm vào cuối bữa ăn, đúng theo tập tục Do-thái.

Công thức được Mc và Mt kể lại thì khác với công thức Phaolô.

Theo hai tác giả Tin Mừng này, Đức Giêsu giới thiệu rượu như là máu Người: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước” (Mc 14,24). Như Môsê trên núi Sinai ngày xưa đã dùng máu bò để ký giao ước với Thiên Chúa (x. Xh 24,8), Đức Giêsu dùng máu Người để ký kết giao ước của Thiên Chúa với loài người. Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, được diễn tả cách biểu tượng trong Bữa Tiệc Vượt Qua, trở thành hy tế phê chuẩn giao ước này.

Trái lại, trong Phaolô, cũng như trong Lc, Đức Giêsu đồng hóa chén đầy rượu với giao ước được thực hiện trong máu Người: “Chén này là giao ước trong máu Thầy” (c. 25).

Đức Giêsu nhấn mạnh trên giao ước hơn là trên máu, được coi như dụng cụ thực hiện hoặc nguyên nhân đưa tới giao ước.

Giao ước này được xác định tính chất là “mới”, là có ý nhắc lại lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo một giao ước mới cho thời cuối cùng sẽ được thực hiện (Gr 31,31-34).

Phaolô đã “đọc lại” cái chết của Đức Giêsu bằng chìa khóa hy tế; nhờ cái chết này, sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và loài người và giữa loài người với nhau được thực hiện. Từ đó, ngài giúp hiểu rằng cả bữa tiệc cũng phải có đặc tính này.

Cuối cùng, Phaolô nhắc lại lời Đức Giêsu mời làm lại cũng cử chỉ này để nhớ đến Người, và bình luận như sau:

“Thật vậy, cho tói ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (c. 26).

Cộng đoàn Kitô hữu quy tụ lại để cử hành bữa tiệc của Chúa thì loan truyền cái chết của Chúa, Đấng kể từ nay đã sống lại, cho đến khi Người lại đến, và chờ đợi Người trong niềm cậy trông.

Phaolô muốn giúp người Côrintô hiểu rằng, khi họ quy tụ lại để cử hành bữa tiệc của Chúa, họ tưởng niệm cái chết của Người trên thập giá, một cái chết được tiên báo trong các cử chỉ và lời nói của Đức Giêsu vào bữa tối cuối cùng, để thực hiện giao ước mới đã từng được các ngôn sứ hứa và đã quy tụ được Dân mới của Thiên Chúa.

Do đó, điều căn bản là giữa các thành viên của cộng đoàn, phải tạo được tương quan tình yêu và liên đới như tương quan đã có giữa Đức Giêsu và các môn đệ, một tương quan đã đưa Người đến chỗ hy sinh mạng sống cho họ trên thập giá.

Các Kitô hữu Côrintô chỉ có thể thực sự cử hành bữa tiệc của Chúa nếu họ thắng vượt được các chia rẽ giữa họ với nhau; nếu không, với lối sống của họ, họ mâu thuẫn với điều họ cử hành, và hậu quả là cuộc cử hành của họ chỉ còn là một nghi thức không có ý nghĩa.

3.- Để cử hành xứng đáng bữa tiệc của Chúa (11,27-34)

Sau khi đã nhắc lại truyền thống về Bữa Tiệc của Chúa, thánh tông đồ rút ra các hệ luận: “Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh và uống Chén của Chúa cách bất xứng (anaxiôs), thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (c. 27).

Trạng từ anaxiôs chỉ được dùng ở đây trong Tân Ước, nhưng có ở trong một vài đoạn dưới dạng tích cực (axiôs) để diễn tả một lối ứng xử phải có trong một hoàn cảnh đặc biệt.

Khi được dùng trong dạng tiêu cực (anaxiôs), trạng từ này diễn tả một lối sống không phù hợp với những yêu cầu của một hoàn cảnh nhất định, ở đây là Bữa Tiệc của Chúa.

Đây không phải là những tội riêng tư, mà là một lối sống thiếu quan tâm đến tình liên đới (lo ăn riêng!), mà tình liên đới lại là mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi thiết lập Bí tích Thánh Thể.

Ai tham dự cách bất xứng vào Bữa Tiệc của Chúa, thì không những phạm một tội chống lại loài người, mà còn phạm đến (enochos) Chúa, bởi vì Bánh và Rượu là Mình và Máu Người: “Phạm đến anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc … là phạm đến Đức Kitô” (8,11.12).

Từ nhận định này, tác giả đi đến một chỉ thị:

- “Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống không phân biệt được (mê diakrinôn) Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt (krima) mình” (cc. 28-29).

Để khỏi bị kết án, cần phải tự xét mình với óc phê bình (dôkimazeto), với mục đích là để kiểm tra xem mình có ở trong điều kiện đủ chăng để được tham dự vào Bữa Tiệc của Chúa.

Ở đây việc kiểm tra nhắm đến một điểm cụ thể: óc cá nhân chủ nghĩa khi tham dự Bữa Tiệc của Chúa.

Thuật ngữ “Thân Thể Chúa” chỉ Hội Thánh, được tạo nên bởi những người thông phần vào một tấm bánh duy nhất, nên tạo thành một thân thể duy nhất, một đơn vị với Đức Kitô và cùng với Người được tượng trưng bằng chính tấm bánh (10,17; 12,12).

Nhận biết Thân Thể Chúa có nghĩa là sống tương quan liên đới với Người và với các tín hữu khác. Ai không sống tình liên đới này, và do đó tham dự trong bối cảnh gồm những chia rẽ vào Bữa Tiệc của Chúa, “là ăn và uống án phạt (krima) mình”, tức là đưa mình ra hứng lấy hình phạt của Thiên Chúa.

Kết luận

Thánh tông đồ chú ý đến một phương diện của cuộc cử hành, đó là bữa ăn cộng đoàn.

Vào thời ấy, bữa ăn này nêu bật tình liên đới, là một đòi hỏi mặc nhiên trong cử chỉ Đức Giêsu làm để tiên báo cái chết của Người.

Chính trên tình liên đới này mà cộng đoàn Kitô hữu được xây dựng: bữa ăn chung, với thực phẩm do các tín hữu khá giả hơn cung cấp, có mục đích đáp ứng các nhu cầu của anh em nghèo túng.

Thánh Phaolô nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc chia sẻ, như một cách diễn tả sự hiệp thông. Thái độ thiếu quan tâm đến người nghèo là nguồn gây chia rẽ, làm mất giá trị cuộc cử hành Bữa Tiệc của Chúa, đưa đến chỗ người ta coi thường Hội Thánh Thiên Chúa, làm nhục người nghèo, đưa đến chỗ phá hỏng cộng đoàn.

Thánh tông đồ đã đưa ra ánh sáng dây liên kết không thể hủy bỏ giữa Thánh Thể và cộng đoàn, giữa cử hành của Thân Thể Chúa, được hiến tặng cho loài người trong cái chết, và cuộc sống của các tín hữu, là chi thể của Thân Thể Đức Kitô, được đặt trên tình liên đới và tình yêu.

Một cuộc cử hành Thánh Thể mà không có một tình huynh đệ chân thành, hoặc tệ hại hơn, ở trong một bối cảnh chia rẽ và đổ vỡ, là một sự phản bội Đức Kitô, phản bội tất cả những gì Người đã muốn diễn tả trong cái chết của Người, được báo trước trong bữa tiệc cuối cùng.

Thánh Âu-tinh cũng đã đồng ý sự đòi buộc này. Ngài nhắc lại lời của thánh tông đồ: «Anh em là thân thể Đức Kitô, và anh em là những chi thể của thân thể ấy» (1 Cr 12,27), ngài lưu ý: «Nếu anh em là Thân Mình của Đức Kitô và là chi thể của Người, thì biểu tượng của chính anh em được đặt trên bàn của Chúa; ở đó anh em đón nhận mầu nhiệm của riêng mình». Và từ đó, ngài rút ra hệ quả này: «Chúa chúng ta đã thánh hiến trên bàn thờ mầu nhiệm sự bình an và hiệp nhất của chúng ta. Ai nhận lãnh mầu nhiệm hiệp nhất mà không lưu lại trong mối dây liên hệ bình an, thì không nhận lãnh mầu nhiệm của mình để được cứu rỗi; họ lãnh nhận lời chứng kết án họ» ”.

Với thời gian, bữa ăn cộng đoàn đã bị hủy bỏ và kiểu vụ hình thức trong Phụng vụ có thể dễ dàng bao che thái độ bất quan tâm của những người tham dự Thánh Thể.

Nếu muốn làm cho cuộc cử hành nên thật và hữu hiệu, thì giữa những người tham dự cần có trao đổi liên tục và riêng tư các suy nghĩ, các lời cầu nguyện, các lời khuyến khích, nhờ đó mọi người có thể thực hiện với nhau một cuộc tiến bước trong đức tin và trong sự hiệp thông.

(Linh mục FX. Vũ Phan Long, ofm, Giám Tỉnh Dòng Phanxicô)

Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang tường thuật
 
Có một linh mục như thế
Peter Trần Tuấn
20:25 07/03/2009
Tôi trở lại Kẻ Vàng trong một ngày đầu xuân tiết trời se se lạnh, những hạt mưa bụi lất phất bay, những chồi non đang bung nở trên những cành lá xanh mơn mởn. Trên con đường bê tông phẳng phiu, rắn chắc, tay lái tôi thêm yên tâm và tự tin hơn nhiều.

Cũng con đường này cách đây không lâu, sự ghồ ghề và trơn trượt đã không ít lần gây ra bao tai nạn, nhiều giáo dân đã trầy da xước thịt, đi lại muôn vàn bất tiện…trở lại Kẻ Vàng sau 1 năm, dường như giáo xứ đang trên đà thay da đổi thịt.

Gíáo xứ Kẻ Vàng là 1 trong những giáo xứ nhỏ và nghèo vào bậc nhất Giáo Phận Thanh Hoá. Nằm trên địa bàn xã Yên Thịnh - huyện Yên Định - tỉnh Thanh Hoá, một vùng trung du heo hút của vùng núi phía Bắc. Nơi của bạt ngàn lúa, ngô, sắn, lạc. Nơi của những đợt không khí lạnh rét căm căm, của những đợt gió Lào nắng cháy, nơi của những con người lam lũ một nắng hai sương quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời và cũng là nơi của những giáo dân sùng đạo, yêu mến Chúa nhất.

Cách đây một năm, lần đầu tiên Đức Cha Giáo Phận đã bổ nhiệm cho Kẻ Vàng một vị linh mục chính xứ. Một vị linh mục trẻ đầy lòng nhiệt thành và giàu đức hy sinh. Một con người có rất nhiều điều đáng để cho cá nhân tôi học hỏi.

Về làm chánh xứ Kẻ Vàng sau những tháng ngày tu nghiệp bên đất Pháp, ngỡ tưởng khó hoà hợp giữa một vị linh mục “đi Tây” với bà con giáo dân quê mùa, thường dân áo vải. Ấy thế mà có ai ngờ… sau những bộ lễ phục sang trọng trên bàn thờ, sau những chiếc complê, cà vạt lịch sự mỗi khi tiếp khách… tôi nhận thấy sự bình dị của ngài trong chiếc áo phông giản dị, đôi dép tổ ong sờn, cái đồng hồ casio “trăm hai mươi nghìn”, cái điện thoại “cục gạch” với chiếc wave “cà tàng”… Có ai ngờ vị linh mục thư sinh trắng trẻo kia lại sẵn sàng xắn quần, lội bì bõm dưới ruộng với bùn đất bẩn thỉu để cùng cày cấy, đến vụ thu hoạch thì cùng bà con gặt lúa, bẻ ngô. Những động tác hết sức lành nghề của một người con của vùng nông thôn Thanh Thuỷ.

Thấy đường làng đêm về tối om, bà con đi lại khó khăn, nguy hiểm. Ngài đã vận động lắp đặt cho giáo xứ một đường điện nối dài, Kẻ Vàng đêm về lại sáng trưng ánh điện, trẻ con trong xóm lại nô nức đùa vui. Thấy giáo xứ chưa có khuôn viên kính viếng Đức Mẹ, ngài vận động cho xây dựng tượng đài Đức Maria và đã hoàn thành được hơn 50% công trình.

Khổ cực nhất có lẽ là những tháng ngày làm công trình đường bê tông hoá nông thôn. Thật đúng là trăm công nghìn việc, trăm mối lo toan, trăm ngàn thách thức. Công việc vất vả khiến ngài thường xuyên muộn bữa sáng, có khi gấp gáp thì nghỉ ăn luôn, làm lễ sáng xong là ra công trường cầm cái bánh mỳ hay miếng xôi ăn lót dạ. Bỏ ngủ trưa để bốc xi đến bãi trộn, đương đầu với những giáo dân “cù nhầy” trong việc múc dỡ mấy gốc tre. Cái chuyện tế nhị và phức tạp khiến cho mấy đời chủ tịch xã phải chịu bó tay chịu trận. ấy thế mà đến tay ngài lại được “giải quyết” một cách êm thấm.

Vừa lo lắng xây dựng cơ sở vật chất cho giáo xứ, vừa lo lắng công tác mục vụ. Tôi đặc biệt ấn tượng với sáng kiến của ngài tổ chức giờ chầu vào mỗi tối chủ nhật, nói đúng hơn đó là một buổi giảng đạo hàng tuần, nơi mà Ngài sẽ cung cấp cho bà con giáo dân những kiến thức căn bản và sâu rộng về Đạo, nơi mà Ngài và bà con cùng nhau đối thoại, trao đổi về phúc âm, về luật Chúa và Hội Thánh. Qua những buổi như thế, tôi tin chắc rằng, niềm tin của bà con càng được xác tín mạnh mẽ hơn.

Không chỉ có giảng đạo trong nhà thờ, Ngài còn thường xuyên lui tới các gia đình trong xứ, trò chuyện, vận động bà con hăng say sống tin mừng, chung vui với bà con bên những nồi ngô nồi sắn khiến cho tình cha con ngày một khăng khít hơn.

Ngài còn tổ chức lại cơ cấu giáo xứ hết sức chặt chẽ với các hội đoàn, lên danh sách cụ thể thậm chí đang thử nghiệm hình thức dùng thẻ giáo dân. Mục đích của việc làm này là tạo mối liên kết mạnh mẽ và tinh thần hiệp nhất cao trong giáo xứ, giúp cho việc quản lý và coi sóc giáo xứ được thuận lợi và dễ dàng hơn, nhất là trong bối cảnh đạo chúng ta đang có nhiều thế lực phá hoại muốn trà trộn và gây rối.

Bên cạnh đó, ngài luôn chú trọng đến vấn đề giáo dục và quan tâm đến những người nghèo, người neo đơn, đau yếu. Chú trọng khâu vệ sinh môi trường với việc phát động giáo dân xây nhà vệ sinh tự hoại, có nắp đậy nhằm thay đổi những thói quen cổ hủ, lạc hậu có từ xa xưa…

Các đấng cứ lắc đầu trêu: không biết “Bác lấy tiền ở đâu?”. Thực ra tiền ngài không có. Ngài thường bảo: “cứ làm rồi Chúa lo liệu hết”. Tôi cảm phục Ngài, có những lần xe chở ximăng về nhưng tiền thì đã hết, Ngài phải chạy đến giáo dân vay nóng sau đó lại đi trả dần. Có những lần sai người mang tiền đi lấy thiết bị, ở nhà kẹt quá lại phải hoãn gọi đem tiền về lo chuyện ở nhà trước. Việc làm đường, không biết bao nhiêu người can ngăn, không muốn Ngài đụng vào vì sợ Ngài vất vả và tốn kém nhưng Ngài trả lời bằng một câu khiến tôi suy nghĩ: “Mình phải chịu khổ để cho bà con giáo dân được nhờ”

Có lẽ nếu đọc được những dòng này chắc Ngài sẽ trách tôi vì cái tội “hóng hớt ”. Vâng, người tôi muốn nói đến là linh mục Toma Bùi Huy Cường. Xin thay mặt cho bà con giáo dân xứ Kẻ Vàng cảm ơn Ngài đã không quản khó khăn, vất vả xây dựng giáo xứ, đã không sợ khó, sợ khổ để làm những việc mà chẳng mấy thảnh thơi, đã quên ngủ quên ăn hết lòng phục vụ giáo dân, Giáo Hội. Riêng đối với con, Ngài dạy cho con một tinh thần làm việc đầy trách nhiệm, miệt mài, một nghị lực phi thường và sự can đảm, quyết đoán trong mọi quyết định, hơn thế nữa đó là sự giản dị, đơn sơ trong lối sống thường ngày. Cảm ơn Ngài và xin Chúa cùng Mẹ Maria tuôn đổ thêm nhiều hồng ân hơn nữa giúp Ngài có một sức khoẻ dồi dào và lòng mến sắc son để chu toàn những công việc mà nhà Cha trao phó.

Hà Nội những ngày trong cái rét tháng 3
 
Đền thờ Thiên Chúa
LM. Anphong Trần Đức Phương
21:28 07/03/2009
ĐỀN THỜ THIÊN CHÚA

(CHÚA NHẬT III MÙA CHAY, NĂM B)

Đền Thờ Giêrusalem hùng vĩ đã được xây cất thời vua Salomon từ năm 967-964 trước Chúa Giáng Sinh (BC) trong thành Giêrusalem Cổ, trên đồi Moriah (nơi được coi như Abraham đem con trai duy nhất là Isaac đến hiến tế cho Thiên Chúa theo lệnh Chúa truyền (Sáng Thế 22, 1-18). Đền thờ này bị người Babylon thời vua Nabuchodonosor II phá hủy vào năm 586 (BC), khi họ đến chiếm đóng Giêrusalem và bắt người Do Thái đi lưu đày ở Babylon. Đến năm 536 (BC), người Do Thái được hồi hương; sau đó, họ lại tái thiết Đền Thờ hùng vĩ như trước. Đến năm 19 (BC), Hêrôđê Đại Đế cho xây cất lại hùng vĩ hơn. Đến năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, khi người Do Thái vùng lên chống lại sự cai trị của người Rôma, Đại Tướng Titus đã dẫn đoàn quân Rôma đến dẹp tan cuộc vùng dậy, phá hủy hoàn toàn Đền Thờ Giêrusalem (đúng như Chúa Giêsu đã nói trước vào khoảng năm 30: “Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào…” (Mt. 24, 2; Mc. 13,2; Lc. 21,6), và bắt tất cả người Do Thái đi lưu đày khắp nơi trong Đế Quốc Rôma, và từ đó dân Do Thái lại phải rời bỏ quê hương. Sau gần 2 ngàn năm mất nước, người Do Thái lại tìm cách trở về và khôi phục lại quê hương là nước Israel ngày nay từ năm 1948.

Đền Thờ Giêrusalem luôn luôn là trung tâm thờ phượng của người Do Thái. Vào dịp Đại lễ, người Do Thái ở các nơi trở về thờ phượng Chúa tại Đền Thờ Giêrusalem thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dâng làm lễ vật theo nghi thức Do Thái Giáo thời đó. Vì thế, người ta lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời.

Trong bài Phúc Âm Thánh lễ hôm nay (Gioan 2, 13-25), Chúa Giêsu đã phải tỏ thái độ mạnh mẽ để tìm cách thanh tẩy Đền Thờ cho xứng đáng nơi thờ phượng: “Mang tất cả những thứ này đi nơi khác! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Trước phản ứng của người Do Thái, Chúa Giêsu cũng dùng dịp này để nói về việc chính Chúa Giêsu sẽ bị họ giết đi, nhưng sau 3 ngày, Ngài sẽ sống lại.

Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá hủy hoàn toàn để chấm dứt thời gian Cựu Ước và bước sang thời Tân Ước, và việc thờ phượng Thiên Chúa không phải chỉ lệ thuộc vào ‘Đền Thờ’, nhưng quan trọng là thờ phượng Chúa trong ‘tinh thần và chân lý’ (Gioan 4,23-24), bằng tâm hồn và lương tâm ngay thẳng của chúng ta do việc giữ đầy đủ các giới răn của Chúa đã được ghi rõ trong sách Xuất Hành (Bài Đọc I: Xh. 20, 1-17): Chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa, phụng dưỡng cha mẹ già yếu, thương yêu nhau, giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, giữ phép công bằng và xa tránh các tội lỗi theo ham muốn xác thịt. Đó cũng là điều chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay Thánh để sửa đổi các lầm lỗi trong quá khứ và canh tân cuộc sống.

Vào Thánh Đường nào chúng ta cũng nhìn thấy Thánh Giá là ảnh tượng chính, để nhắc nhở chúng ta về những hy sinh đau khổ Chúa Giêsu đã phải chịu để đền thay tội lỗi chúng ta, để chúng ta thấy rõ hậu quả của tội lỗi mà chừa bỏ và xa lánh dịp tội. Vì thế, Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1 Corinto 1, 22-25) nhấn mạnh: Ngài không rao giảng sự khôn ngoan thế gian, nhưng rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có những kẻ cho là điên rồ.

Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta phải nhắc bảo nhau, cha mẹ có bổn phận phải nhắc nhở con cái phải giữ thái độ xứng đáng khi đến các nơi Thờ Phượng, đặc biệt vào các Thánh lễ cuối tuần. Ăn mặc nghiêm trang, kín đáo, nhất là các người có nhiệm vụ lên đọc Sách Thánh, và các Thừa Tác Viên Thánh Thể… Tất cả mọi người khi vào Thánh Đường phải giữ cử chỉ cung kính, nhất là khi lên Rước Lễ, rước Chúa Trời Đất cao cả, thánh thiện vào lòng chúng ta. Nói chung, Thánh Đường là nơi thờ phượng chứ không phải nơi để trò chuyện, không phải nơi để khoe tài, khoe sắc, khoe quần, khoe áo!

Thánh Đường giáo xứ cũng là trung tâm thờ phượng của mỗi giáo xứ. Bổn phận mọi giáo hữu chúng ta là chung tay xây dựng và gìn giữ Thánh Đường luôn xứng đáng là nơi thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, là trung tâm tinh thần của giáo xứ, là gia đình thiêng liêng của chúng ta. Hơn nữa, khi đến Thánh Đường, chúng ta cùng dâng lễ thờ phượng Chúa chung với cả Cộng Đoàn Đức Tin, chứ không phải chỉ là việc cá nhân hay riêng cho mỗi gia đình. Chúng ta cùng đọc kinh, cùng hát thánh ca, cùng hiệp nhất với nhau trong việc thờ phượng Chúa trong một gia đình Giáo xứ đầm ấm.

Sau hết, tâm hồn mỗi tín hữu cũng là một Đền Thờ, nơi Ba Ngôi thiên Chúa ngự trị. Luôn luôn chúng ta phải thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, qua việc giữ mình sạch tội: xét mình, ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi hàng ngày; đặc biệt qua việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Xin Chúa thương thanh tẩy, thánh hóa chúng ta trong Mùa Chay Thánh này.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:13 07/03/2009
DIỀU HÂU BAY CÁ NHẢY

N2T


- “Việc làm tuyệt vời nhất của một người là gì ?”

- “Tĩnh tọa suy tư.”

- “Nhưng chúng tôi rất ít thấy đại sư tự mình tĩnh tọa suy tư. Ông ta cả ngày lo việc nhà và chạy lui chạy tới trong ruộng, hoặc là tiếp khách, hoặc là viết sách.v.v...thậm chí ông ta còn phụ trách chỉnh lý thư viện trong chùa...”

- “Tại sao ông ta đem tất cả thời giờ hao tốn cho công việc ?”

- “Khi một người làm việc thì anh ta chưa cần thiết phải tĩnh tọa suy tư.”


(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Khi luyện tập khí công đã có căn bản rồi, thì bất kỳ ở đâu, đứng hay ngồi, đi hay dừng, hoặc làm bất cứ việc gì, thì cũng có thể điều khiển hơi thở của mình để giữ sức khỏe và tăng tiến khí lực, người ta gọi đó là khí công.

Tĩnh tọa suy tư là bước đầu của người tập thiền, nhưng khi đạt được căn bản thì không cần tĩnh tạ suy tư nữa, mà bất cứ lúc nào, hoàn cảnh nào thì họ cũng có thể để lòng yên tĩnh mà suy tư.

Có những người Ki-tô hữu –nhất là các cụ già- tuy không hiểu Thánh Kinh nhiều như các bạn trẻ, nhưng kinh nào các cụ đọc ra thì thuộc lòng như ăn cháo, đọc say sưa, kính cẩn như mình dăng diện kiến nhan thánh Chúa, đó chính là lòng đạo đã nhập tâm của các cụ, và khó mà có thế lực thế gian nào bắt các cụ từ bỏ niềm tin tín ngưỡng của mình được.

Người luôn cầu nguyện –bằng kinh đọc hoặc bằng Lời Chúa- thì bất cứ hoàn cảnh nào, thuận hay nghịch, vui hay buồn, có hay không có nhà thờ, bay trên trời như chim, hay lặn lội bon chen giữa đời, thì họ vẫn luôn có thể cầu nguyện kết hợp với Chúa Giê-su của mình, bởi vì tĩnh tọa suy tư của họ chính là “luôn kết hợp với Chúa Giê-su” trong cuộc sống của mình.

Từng giây phút kết hợp với Chúa Giê-su chính là tĩnh tọa suy tư rồi vậy.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:15 07/03/2009
N2T


102. Tay của Giáo Hội thì ngọt như kẹo mạch nha, dù cho nhìn lúc nghiêm khắc.

(Thánh Pi-ô Năm Dấu)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:16 07/03/2009
N2T


46. Nghĩ ngơi và hạnh phúc là khát vọng của con người, chỉ có người cần mẫn mới có thể được nó.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha hướng tới Thánh Phanxicô Xaviê làm gương mẫu truyền giáo
Bùi Hữu Thư
01:59 07/03/2009

Đức Thánh Cha hướng tới Thánh Phanxicô Xaviê làm gương mẫu truyền giáo



PAMPLONA, Tây Ban Nha, ngày 6 tháng 3, 2009
(Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI đang kêu gọi các tín hữu hãy đi hành hương tại nơi sanh của thánh Phanxicô Xaviê, quan thầy của các xứ truyền giáo, để giúp cho chuyến đi cuả họ là một biến cố tràn đầy đức tin

Đức Thánh Cha khẳng định điều này trong một điện văn do Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh chuyển cho Tổng Giám Mục Francisco Pérez González tại Pamplona. Bản văn được báo Tây Ban Nha Ecclesia xuất bản.

Ngài khuyến khích các tham dự viên cuộc hành hương "Javieradas," đến nơi sanh của vị thánh theo truyền thống hàng năm vào tháng Ba, để “bắt chước nhà truyền giáo cao quý này đã đi khắp thế giới rao truyền Phúc Âm."

Đức Thánh Cha ghi nhận rằng cuộc hành hương phải được sống “như một cơ hội để tăng cường đức tin, để gia tăng sự cam kết cho phù hợp với đức tin trong mọi thời đại, và để gia tăng lòng quảng đại để loan truyền đức tin này cho người khác, như những chứng nhân đích thực của Chúa Kitô giữa thế giới hôm nay."

Xin sự cầu bầu của Đức Mẹ, ngài nói, “với lòng mẫu tử dịu hiền, Mẹ sẽ chuẩn bị trái tim của mọi tham dự viên để họ hân hoan tiếp nhận ân sủng của Thiên Chúa.” Vào cuối điệp văn, Đức Thánh Cha ban phép lành cho khách hành hương.

"Javieradas" là hai cuộc hành hương trong hai ngày Chúa Nhật liên tiếp nhân dịp Tuần Cửu Nhật kính Thánh Phanxixô Xaviê. Năm nay hành hương nhằm hai ngày 8 và 15 tháng Ba.

Năm nay, Tổng Giám Mục Pamplona cung hiến điệp văn truyền thống của ngài cho một sự so sánh giữa công trình truyền giáo của Thánh Phanxicô Xaviê và Thánh Phaolô, vì là Năm Thánh Thánh Phaolô, và mời gọi các tín hữu “hãy coi trọng việc Phúc Âm hóa mới” do Đức Thánh Cha tuyên xưng. Chủ đề của cuộc hành hương năm nay là “Các Nhà Truyền Giáo như Phaolô và Xaviê: Khốn cho tôi nếu tôi không truyền giáo!"
 
Một nền hộ giáo về sự hiện diện
Vũ Văn An
04:08 07/03/2009
Một nền hộ giáo về sự hiện diện

Thứ Năm, ngày 26 tháng Hai vừa qua, Đức Hồng Y Cormac Murphy-O’Connor, Tổng giám mục Westminster, Anh Quốc, có đọc một bài diễn văn về cái nhìn của ngài đối với Giáo Hội Công Giáo tại Anh. Tựa đề bài diễn văn là: “Vui Mừng Và Hy Vọng, Khuôn Dạng Giáo Hội: Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai”. Ngài quả quyết rằng Giáo Hội có một vai trò chủ chốt trong xã hội ngày nay và ta không nên tin quan điểm duy tục cho rằng Giáo Hội hết còn tương quan.

Tưởng cũng nên nhắc lại: Đức Hồng Y Murphy-O’Connor thụ phong linh mục năm 1956. Ngài làm viện trưởng Học Viện Anh Quốc tại Rôma trước khi được đề cử làm Giám Mục giáo phận Arundel và Brighton năm 1977. Năm 2000, ngài được cử nhiệm làm Tổng Giám Mục Westminster và được nâng lên hành hồng y năm 2001. Ngài hiện là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Anh và Wales. Có tin ngài sắp sửa về hưu và đang được thủ tướng Anh, Ông Gordon Brown, vận động đưa vào Thượng Nghị Viện Anh (House of Lords). Nếu việc này xẩy ra thực, thì ngài sẽ là vị giáo phẩm Công Giáo đầu tiên được vinh dự này kể từ thế kỷ thứ 16. Sau đây là nguyên văn bài diễn văn của Đức HY:


Nhập đề: Dậy Mùa Cho Một Mùa Xuân Anh Quốc

Những lúc rảnh rỗi, tôi thường suy nghĩ về cuộc đời và thời đại của năm vị tiền nhiệm của mình trong chức tổng giám mục Westminster. Bắt đầu là năm 1850 với việc tái lập hàng giáo phẩm. Đức hồng y tiên khởi, là Wiseman, viết một thư mục vụ gửi giáo dân Anh và giáo dân Wales, tựa là “Từ bên ngoài Cổng Flaminian”. Trong thư ấy, ngài viết rằng: “Giáo Hội Anh Quốc đã được đặt lại vào quĩ đạo của mình trên bầu trời Giáo Hội mà từ đó ánh sáng của nó từng tắt ngúm từ lâu và giờ đây đang bắt đầu đường chu du thường xuyên quanh tâm điểm hợp nhất”. Dù mục đích để tập hợp cộng đoàn mình đi theo một hướng tiến có chủ đích, lời lẽ của ĐHY Wiseman cũng khiến một số đông người nổi lên chỉ trích. Nữ hoàng Victoria chẳng hạn đã vội vàng đặt câu hỏi: “Ta có phải là Nữ Hoàng Anh Quốc hay không đây?”. Còn đối với thủ tướng John Russell, đạo luật tái lập kia chỉ là “việc gây hấn của Giáo Hoàng chống lại phe Thệ Phản”. Đức Hồng Y Wiseman đáng thương của chúng ta đã phải tìm cách chống đỡ và ban hành một thư mục vụ khác tựa là “Lời kêu gọi được nhân dân Anh đối xử công bằng và hợp lý”.

Đó là một bức thư khiêm nhường hơn và đề cập tới hoàn cảnh khốn cùng của rất nhiều người Công Giáo. Nhiều người là di dân từ Ái Nhĩ Lan cũng như nhiều nơi khác và phải sống trong cảnh nghèo nàn cơ cực. Việc tái lập và xây dựng cộng đoàn về cả hai phương diện hiêng liêng và vật chất không phải là việc dễ dàng. Tuy nhiên các năm đầu sau khi hàng giáo phẩm được tái lập quả là các năm đầy hứa hẹn. Các hy vọng của thời kỳ này có lẽ được tóm tắt hay nhất trong bài giảng của ĐHY Newman, tựa là “Mùa Xuân Thứ Hai”, một bài diễn văn ngài đọc trước hội nghị các giám mục và tổng công nghị giáo tỉnh, lần đầu tiên được tổ chức tại Oscot College. Ẩn dụ “Mùa Xuân” là một ẩn dụ hay nhưng đã được ĐHY Newman đem lại một sắc thái tinh tế và sâu sắc hơn nhiều. Ngài nói: “nhưng thưa các bậc cha anh, liệu chúng ta có còn ngạc nhiên tự hỏi xem mùa đông, ngay lúc này đây, có thực sự đã qua rồi hay chưa. Liệu chúng ta có quyền coi là chuyện lạ nếu trên mảnh đất Anh Quốc này, xuân thì của Giáo Hội kết cục đã trở thành mùa xuân của Anh Quốc, một mùa đầy âu lo không chắc chắn, đầy hy vọng và sợ sệt, đầy hân hoan và đau khổ, đầy hứa hẹn tươi sáng và hy vọng nẩy mầm, nhưng không thiếu những trận cuồng phong dữ dội những cơn mưa sa lạnh căm và những trận bão đột ngột”.

Tầm nhìn và căn tính của cộng đồng Công Giáo tại Anh và Wales trong 50 năm sau khi hàng giáo phẩm được tái lập ở đấy có thể tóm lược bằng hai mục tiêu sau đây: “Gìn giữ đức tin” và “Làm cho nước Anh trở lại”. Tầm nhìn của các vị giám mục kế tiếp nhau ở đây, ở Westminster này và ở khắp xứ sở, là chăm sóc giáo dân Công Giáo của mình, là đảm bảo rằng niềm tin từng được chuyển giao cho họ nhờ ơn Chúa phải được gìn giữ và được thi hành trong một bầu không khí và một nền văn hóa luôn nghi ngờ và chống lại Đức Tin Công Giáo. Dù người Công Giáo không bao giờ đánh mất lòng trung thành của mình với quê hương, họ vẫn luôn duy trì niềm hy vọng rằng một ngày kia nước Anh sẽ quay trở lại với đức tin Công Giáo thuở xưa. Rất có thể đấy chỉ là một giấc mơ nhưng giấc mơ này luôn hiện diện trong lời cầu nguyện và khát mong của giáo dân Công Giáo, nhất là những người còn nhớ được các gian nan thử thách và đau thương khốn khổ của cha ông mình, của những người đàn ông đàn bà từng chết cho đức tin của mình trong thời gian bị trừng trị. Song hành với điều trên, ta còn thấy ý nguyện của cộng đồng di dân Công Giáo muốn được xã hội Anh nhìn nhận là thành phần hữu ích và đáng tin cậy. Ngoài ra, còn là các quan tâm của truyền thống thổ địa những người Công Giáo xưa (recusant) nhất quyết không tham dự các nghi lễ của Giáo Hội Anh Giáo như luật pháp qui định. Họ đòi có chỗ đứng trong việc lên khuôn cho Giáo Hội, một Giáo Hội mà họ vốn sinh ra làm nhân chứng anh hùng, suốt trong bao thế kỷ qua.

Các mục tiêu trên là tập chú chính của Giáo Hội Công Giáo lúc ấy đặt ra cho hai phần ba thế kỷ tiếp theo. Trong thời các tiền nhiệm của tôi, ĐHY Bourne, người đã về hưu từ năm 1903 tới năm 1936, ĐHY Hinsley, ĐHY Griffin và ĐHY Godfrey, việc liên tục củng cố Giáo Hội Công Giáo đã được tiến hành. Tuy không tránh khỏi các rắc rối và nhiều khó khăn, nhưng trong các năm này, Giáo Hội Công Giáo cứ thế lớn mạnh. Trường sở được xây cất để giáo dục tín hữu không những về đức tin mà còn nhằm giúp họ tuần tự tạo được nhiều tiến bộ về xã hội và kinh tế.

Các nhà thương, nhà dưỡng lão và nhà chăm sóc cũng đã được xây cất. Trong số ấy khá nhiều cơ sở không những chỉ chăm sóc người Công Giáo, mà cả những ai muốn được hưởng ơn ích của triết lý sống của các cơ sở Công Giáo này nữa. Gần suốt 100 năm, Giáo Hội được đánh dấu bằng nhiều củng cố và lớn mạnh hết sức nhịp nhàng. Giáo Hội ý thức đầy đủ về căn tính và sứ mệnh của mình, một căn tính và sứ mệnh luôn luôn gắn bó với lịch sử, với kinh nghiệm và giáo huấn của mình

Gìn giữ đức tin và làm cho Nước Anh trở lại

Rồi qua năm 1962, chúng ta có Công Đồng Vatican II. Thiển nghĩ nó phải được xếp là một trong các công đồng có ý nghĩa nhất trong cuộc sống của Giáo Hội Hoàn Cầu, và nó phải triệt để thay đổi bản sắc và tầm nhìn của Giáo Hội Công Giáo tại đất nước này. Đức HY Heenan, một người mà tôi biết rõ và hết sức kính phục, đã có trọng trách lèo lái Giáo Hội tại Westminster này và từng lãnh đạo các giám mục trong thời gian sóng gió cả trong thời Công Đồng Vatican II và sau đó. Đối với chính Công Đồng, thái độ của ngài khá hàm hồ. Adrian Hastings, một sử gia, kể lại một câu truyện vui như sau: có hai nhóm nhà báo, mỗi nhóm chọn ra một đội túc cầu trong số các nghị phụ: một đội đại diện cho các nghị phụ thủ cựu, đội kia đại diện cho các nghị phụ cấp tiến. Khi so sánh các nhận xét, họ thấy cả hai nhóm đều chọn ĐHY Heenan làm trung phong.

Nói chung, ngài ủng hộ việc canh tân nhưng thường bị các biến cố làm cho bất định. Việc đào ngũ của nhiều linh mục thời đó khiến ngài đau khổ rất nhiều và việc tái khẳng định giáo huấn cổ truyền về ngừa thai trong Thông Điệp Sự Sống Con Người cũng đem lại cho ngài nhiều âu lo khắc khoải. Các năm dưới thời ngài làm giám mục và quả tình thời gian chăm sóc dài của vị kế nhiệm ngài là ĐHY Basil Hume đã làm Giáo Hội Công Giáo bước vào một tình huống rất lạ lùng. Theo nghĩa ngày xưa, người ta không còn cho rằng mục tiêu của nó là nhằm làm cho nước Anh trở lại nữa vì giáo hội ấy không thể làm ngơ được sự kiện này: nay là lúc ta phải dấn thân vào cuộc đối thoại nghiêm chỉnh về đại kết với các anh em cùng theo Kitô giáo, nhất là với Giáo Hội Anh và Giáo Hội Wales. Việc nhìn nhận một phép rửa chung, việc nhậy cảm đại kết và ý thức về tính viên mãn của hợp nhất, một hợp nhất vẫn còn cần phải vươn tới, thẩy đều là thành phần trong giáo huấn của Công Đồng Vatican II mà ta không được bỏ qua.

Ngay đến khẩu hiệu “gìn giữ Đức Tin” cũng không còn âm hưởng như trước nữa. ĐHY Hume đã vận dụng đến con người của ngài để đưa ra gợi ý cho rằng Đạo Công Giáo là một phần trong đời sống Anh. Chính bản thân ngài hầu như lúc nào cũng được coi như một thành phần của giới lãnh đạo (Establishment). Thời ngài giữ chúc vụ trong Giáo Hội là thời Giáo Hội rất nổi trong sinh hoạt công cộng, phần rất lớn là nhờ chứng tá hết sức trổi vượt của ngài. Adrian Hastings tóm lược về ngài bằng cách nói rằng: “Nhìn trở lui, điều quan yếu về (ĐHY) Basil Hume không phải là tính chính xác trong mọi ý kiến và chính sách, nhưng trong toàn vẹn tính tâm linh, mà việc thừa nhận nó đã hợp nhất được người Công Giáo thuộc mọi trường phái thần học khác nhau cũng như cộng đồng quốc gia như một toàn thể. Ngài là thầy dạy sâu sắc và là một chứng tá tuyệt vời nhờ một sự thánh thiện dịu dàng trong tác phong và theo như chính lời của ngài, ‘một con người hiện đại biết sẵn sàng lắng nghe nhân chứng hơn là thầy dạy’”. Tất cả những điều ấy khiến Giáo Hội Công Giáo thời tôi và thời các bạn vẫn còn phải cố gắng nói lên cách rõ ràng và sống thực bản sắc, tầm nhìn và niềm hy vọng của mình.

Nhìn trở lui, tôi vẫn còn phải thán phục cái nhìn liên tục có tính tiên tri trong bài giảng của (ĐHY) Newman về “Mùa Xuân Thứ Hai”. Được rao giảng hơn 150 năm qua, Giáo Hội Công Giáo tại Anh quả đang sống ‘Mùa Xuân Anh Quốc’; một thời đầy hứa hẹn và lớn mạnh nhưng cũng là thời khắc của ‘những trận cuồng phong dữ dội những cơn mưa sa lạnh căm và những trận bão đột ngột’.

Thời hiện tại: hướng ra bên ngoài (Ad Extra)

Giờ đây, tôi muốn nhìn đến một số khía cạnh của khung cảnh xuân thì ngày nay, để cùng các bạn trước nhất suy tư về một số thách đố đang được nền văn hóa của ta đặt ra, thứ hai để nói tới một số khía cạnh chính yếu trong cuộc sống Giáo Hội của ta mà tôi tin chúng ta đang được mời gọi thâm hậu hóa và trân trọng. Ta hãy xem một số thách đố do nền văn hóa của ta đặt ra.

Tôi đã làm linh mục được quá một nửa thế kỷ và làm giám mục được hơn 30 năm. Những năm đó là những năm có những thay đổi đáng kể trong tình hình quốc tế, trong xã hội ta và cả trong Giáo Hội nữa. Năm mươi năm trước đây, tôi nghĩ phần lớn các giá trị được Giáo Hội duy trì cũng là các giá trị được chính xã hội nhất trí. Tôi tin chắc rằng nhiều người vẫn còn thừa nhận và thán phục các công trình xã hội và bác ái của Giáo Hội. Nhưng đối với nhiều người khác, Giáo Hội và quả tình cuộc sống Kitô giáo hình như không ăn nhịp với ‘tinh thần thời đại’. Có nhiều thay đổi tế vi nhưng sâu sắc trong phương cách nền văn hóa đương thời nhìn Giáo Hội Công Giáo. Không hẳn vì Giáo Hội phải đối diện với sự dửng dưng hay thù nghịch, mặc dù có những dấu chỉ rõ ràng, nhưng đúng hơn, Giáo Hội được người ta nghe nhưng không được người ta hiểu bao nhiêu. Việc không hiểu này không những gây khó khăn cho Giáo Hội và các Kitô hữu cá biệt, trong việc làm cho tiếng nói của mình được người ta nghe, mà còn đem lại nguy cơ dễ bị bóp méo và biếm họa. Ấy thế nhưng tôi vẫn tin rằng Giáo Hội có một tầm nhìn và một sự khôn ngoan mà xã hội chúng ta không thể nào loại bỏ hay làm cho câm họng mà không gặp thiệt hại. Giáo huấn của Giáo Hội mang trọn sự thiện hảo nhân bản trong tâm trí; đó là lý do tại sao nó không phải chỉ là một trong những nhóm gây áp lực (lobby). Tôi xin đơn cử hai thí dụ:

Kinh tế

Đứng trước cuộc khủng hoảng hoàn cầu và kinh tế hiện nay, xem ra giáo huấn xã hội của Giáo Hội hẳn phải là nơi sau cùng để người ta tham khảo ý kiến. Cầu nguyện thì may ra, chứ ý kiến thì không có! Theo tôi, nghĩ như thế là lầm. Sợ rằng cần phải có một bài giảng thuyết khác may ra mới trình bày được lý lẽ tại sao, nhưng xin cho phép tôi hướng về hướng đó. Một trong các vị tiền nhiệm của tôi, là ĐHY Manning, từng giúp khuôn định ra giai đoạn đầu trong giáo huấn xã hội hiện nay của Giáo Hội. Các trước tác của (ĐHY) Manning về thân phận xã hội và kinh tế của người nghèo, cộng với các công việc thực tiễn của ngài dành cho họ cũng như phong trào thợ thuyền có tổ chức đã góp phần vào (thông điệp) Tân Sự (Rerum Novarum). Ngài nhắc cho nền văn hóa thời Victoria nhớ rằng công nhân không phải là một món hàng hoàn toàn lệ thuộc vào đòi hỏi hay không đòi hỏi của nền kinh tế; công nhân trước nhất là một hữu thể nhân bản và phải được đối sử như thế. Ngài biết rõ ràng rằng nền kinh tế phải hoạt động bên trong cái khung luân lý và hiện hữu là để phục vụ ích chung, một ích chung có gốc rễ trong sự thiện của con người nhân bản. Quên điều ấy, kinh tế sẽ trở thành người tiêu diệt chính điều tốt mà nó có nhiệm vụ phải phục vụ. Nói cách khác, tiền bạc tự nó không phải là một cùng đích. Lời của ngài vẫn hết sức có liên hệ với bầu không khí kinh tế ngày nay. Giáo Hội không đưa ra một cương lĩnh nào cho chính sách kinh tế, nhưng Giáo Hội dạy rằng nếu thị trường có nhiệm vụ phải phục vụ ích chung của mọi người, thì nó đòi phải có một cái khung luân lý vững mạnh và luật lệ hữu hiệu. Một thử nghiệm quan trọng của việc ấy là phải nhìn vào những người có thể nhận được ích lợi. Ở đây, Giáo Hội luôn chủ trương rằng không thể bảo đảm được ích chung nếu điều ấy có nghĩa người nghèo cứ mỗi ngày một nghèo thêm. Người nghèo phải luôn nhận được sự xem sét ưu tiên và hữu hiệu. Ngay trong những thời điểm khủng hoảng, không một hành động nào được phép làm họ thiệt thòi thêm hay làm yếu đi khả năng tham dự của họ vào hệ thống kinh tế.

Gia Đình

Cuộc khủng hoảng kinh tế không những gây nhiều căng thẳng lớn lao cho các định chế tài chính và ngân qũi công cộng, nó còn đem lại các hậu quả tức khắc và kéo dài cho định chế nền tảng nhất trong mọi định chế nhân bản và xã hội của chúng ta, tức gia đình. Ta không thể là những con người hoàn hảo mà lại thiếu người khác, chúng ta được tạo nên vì cộng đoàn. Điều ấy có nghĩa ta phải tìm cách duy trì tình trạng lành mạnh của các định chế có tính xã hội nói trên, vì chúng chính là nền tảng của lãnh vực xã hội có tính văn minh và nhân đạo. Giáo Hội cũng là một trong các lãnh vực xã hội này và chính vì vậy, Giáo Hội luôn luôn thừa nhận sự quan trọng của gia đình. Gia đình không phải chỉ là giáo hội tại gia; nó còn là nền tảng của xã hội nữa. Ta thấy rằng ngay trong các thời điểm có những suy sụp về kinh tế và xã hội, gia đình vẫn có năng lực sống còn và giúp các định chế khác sống còn. Chính từ gia đình, mà xã hội có thể tự tái thiết được. Chính vì thế, tôi tin rằng Giáo Hội rất đúng khi tiếp tục nhấn mạnh tới tầm quan trọng nền tảng của đời sống hôn nhân và gia đình.

Về phương diện xã hội, nền văn hóa của ta đang dấn thân vào việc thử nghiệm đối với ý nghĩa và cấu trúc của hôn nhân và gia đình. Điều nguy hiểm, là ta liều mình tiến tới chỗ đánh giá thấp tầm quan trọng của chúng đối với việc thăng hoa con người cũng như việc lớn mạnh của đời sống văn hóa và công dân của ta. Không đánh giá được tầm quan trọng bản thân cũng như xã hội và kinh tế của hai định chế nền tảng ấy là liều mình tạo ra sự nghèo nàn sâu xa về văn hóa và nhân bản. Ngày nay, người ta thường hay thao túng ý niệm hôn nhân, nhưng ta đừng để mình mù tịt về giá trị đích thực của hôn nhân, hiểu như một cam kết suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, sẵn sàng cởi mở chào đón việc truyền sinh, vì lợi ích của vợ chồng và con cái. Điều xem ra hơi lạ là vào thời buổi này người ta vẫn còn phải giảng dạy về điều này, bởi trong nhiều cuộc thăm dò, lúc được hỏi điều gì quan trọng nhất đối với họ, người ta thường đặt gia đình lên đầu bảng các câu trả lời, trên cả sức khỏe hay giầu có. Ta cần phải bảo trì các thiện hảo ấy cho toàn bộ xã hội ta. Các thiện hảo ấy phải được nhìn nhận và nâng đỡ về luật pháp cũng như tài chánh.

Tôi hy vọng hai thí dụ vắn vỏi trên đây có thể nêu bật được điều này: Giáo Hội không phải chỉ là một nhóm gây áp lục khác. Giáo Hội có được cả sự quân bình và cái nhìn thông sáng, nhưng cả hai thứ này dễ bị che phủ bởi biếm họa và thiên kiến là những điều đang cô lập Giáo Hội vào lãnh vực hòan toàn tư riêng của những thực hành và niềm tin xa lạ. Đem gộp lại với nhau, sự thiếu hòa điệu (synch), sự thiếu hiểu biết, và một chủ nghĩa thế tục đầy gây hấn, một chủ nghĩa đang hết sức cố gắng thuyết phục để ta tin rằng mọi thất bại của Giáo Hội và mọi hạn chế đối với việc làm và ảnh hưởng của Giáo Hội đều có lợi về phương diện xã hội và bản thân, sẽ làm ta hiểu rằng mối liên hệ của Giáo Hội đối với văn hóa đang không ngừng được lên khuôn lại. Vì thế, như một số người từng kêu gọi, ta cần phải đưa ra một nền hộ giáo mới về sự hiện diện.

(còn tiếp)
 
Dự luật bang Connecticut có mục đích tấn công trực tiếp Giáo Hội Công Giáo ở tiểu bang này
Nguyễn Hoàng Hiên
16:13 07/03/2009
MỘT BẢN DỰ THẢO TRÁI HIÊN PHÁP CỦA CƠ QUAN LẬP PHÁP TIỂU BANG CONNECTICUT

Thứ Năm ngày 5 tháng 3 vừa qua, Ủy Ban lập pháp của tiểu bang Connecticut dưới sự chủ trì của Thượng Nghị Sĩ Andrew McDonald và Dân Biểu Michael Lawlor đã soạn thảo ra một điều luật với mục đích tấn công trực tiếp Giáo Hội Công Giáo ở tiểu bang này.

Dự luật được gọi dự luật 1098, nó vi phạm một cách nghiêm trọng điều luật chương 1 trong Hiến Pháp Hoa Kỳ. Nếu dự luật này được thông qua thì chính phủ sẽ có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của Giáo Hội trong tất cả các mặt về cấu trúc tổ chức, tài chính và hành chính. Điều này trái ngược với bản chất của Giáo Hội bởi vì nó sẽ cắt đức mối dây liên kết giữa giáo dân và các linh mục quản xứ, kể cả với Đức Giám Mục của họ. Các giáo xứ sẽ được cai quản bởi những người không phải là giáo sỹ. Các linh mục và Giám mục sẽ mất đi ảnh hưởng và hoàn toàn bị loại trừ.

Người ta nói dự luật này là một màn che của chính phủ với dụng ý làm giảm thiểu quyền lực chống đối của Giáo Hội Công Giáo trên các vấn đề nóng bỏng như phá thai và hôn nhân đồng tính.

Các giáo sỹ và giáo dân ở tiểu bang này nói rằng, chính quyền không có quyền gì để có thể can thiệp vào công việc nội bộ của Giáo Hội. Mặc dù dự luật này chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến Giáo Hội Công Giáo, nhưng nó có thể ảnh hưởng đến các giáo phái khác trong cùng một hình thức. Họ khẳng định chính quyền không có quyền kiểm soát Giáo Hội với bất kỳ một lý do nào.

Vào Thứ Tư ngày 11 tháng 3, người Công Giáo của tiểu bang này sẽ sát cánh với các Mục Tử của họ tổ chức một cuộc biểu tình tại tòa nhà Quốc Hội của tiểu bang ở thành phố Hartford, thủ đô của bang Connecticut.
 
Tòa Thánh tham dự hội nghị quốc tế về kỳ thị chủng tộc
Nguyễn Long Thao
17:38 07/03/2009
VATICAN CITY, 06/03/09 - Vào ngày 20 đến 24 tháng Tư năm 2009, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York sẽ diễn ra cuộc hội thảo về vấn đề kỳ thị chủng tộc.

Hãng thông tấn Reuters trích dẫn nguồn tin tại Tòa Thánh cho biết Vatican sẽ tham dự hội nghị này nhưng hy vọng tuyên cáo chung của hội nghị sẽ thay đổi lời lẽ, không tỏ ra thù địch với Do Thái.

Phát ngôn viên Tòa Thánh, LM Federico Lombardi, tuyên bố “Chúng tôi đi tham dự hội nghị để thảo luận để bàn cãi, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi đồng ý với lời lẽ trong các bản tuyên cáo chung như trước đây.”

Ngài cũng cho biết thêm vị đại diện của Tòa Thánh tại Geneva “đã công khai lên tiếng chống lại bât cứ hình thức kỳ thị nào, cho dù đó là kỳ thị đối với cá nhân, tôn giáo, hay quốc gia”

Hội Nghị về kỳ thị chủng tộc được triệu tập từ trước tới nay do các nước trong khối Ả Rập chủ xướng có mục tiêu là tấn công Do Thái đồng thời bào chữa cho việc Hồi Giáo trong các nước Ả Rập hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo.

Do Thái đã lên tiếng kêu gọi thế giới tẩy chay hội nghị này nhưng mới chỉ có Canada đáp ứng lời kêu gọi.

Trong khi đó, Hoa Kỳ và Ý tuyên bố là họ sẽ không tham dự hội nghị nếu như lời lẽ trong các tài liệu tỏ ra thù địch với Do Thái không được thay đổi trước khi hội nghị diễn ra.

Hội nghị về vấn đề kỳ thị chủng tộc được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2001 tại Durban Nam Phi. Trong lần hội nghị này Hoa Kỳ và Do Thái đã chống lại lại nghị quyết đồng nhất Do Thái với kỳ thị chủng tộc.

Các nhà phân tích chính trị thế giới cho rằng các nước trong khối Ả Rập muốn dùng hội nghị này để một mặt tấn công Do Thái và mặt khác bào chữa cho việc họ giới hạn quyền tự do ngôn luận và tôn giáo đang bị thế giới lên án.
 
ĐGH không viếng thăm viện bảo tàng nạn nhân Đức Quốc Xã
Nguyễn Long Thao
18:13 07/03/2009
JERUSALEM 6/03/09 - Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI sẽ tông du Do Thái vào tháng Năm 2009. Theo dự trù, Ngài sẽ viếng thăm Yad Vashem là nơi có đài tưởng niệm các nạn nhân Do Thái bị tiêu diệt dưới thời Đức Quốc Xã.

Theo vị Đại Sứ Do Thái tại Vatican, ĐGH có đến Yad Vashem nhưng sẽ không viếng thăm viện bảo tàng Yad Vashem vì tại đây người ta được biết đức cố Giáo Hoàng Piô XII đã bị cáo buộc im lặng trước việc Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái trong thế chiến thứ Hai.

Các giới chức Giáo Hội Công Giáo đã phản đối những cáo buộc này và nhiều lần văn khố Tòa Thánh chứng minh cho thấy ĐGH Piô XII đã có những hoạt động bí mật cứu người Do Thái. Một chứng cớ mới đây nhất là tại một tu viện gần Rome các nữ tu đã tìm thấy chỉ thị của ĐGH Piô XII ra lệnh cho các nữ tu phải để cho 24 người Do Thái trú ngụ trong tu viện đang lúc bọn Đức Quốc Xã lùng bắt những người này.

Tưởng cũng nên nhắc lại vào năm 2007 vị Khâm Sứ Tòa Thánh tại Israel đã không tham dự buổi lễ khánh thành Viện Bảo Tàng tại Yad Vashem.

Vụ ĐGH Piô XII đối với người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến đã là đề tài tranh cãi dai dẳng giữa Do Thái và Tòa Thánh. Chính vấn đề này khiến Tòa Thánh chưa quyết định việc phong thánh cho đức cố Giáo Hoàng Piô XII
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Loyola trở thành trường đại học Công giáo đầu tiên của Mỹ ở VN
VOA
04:35 07/03/2009
Loyola trở thành trường đại học Công giáo đầu tiên của Mỹ ở VN

Vừa qua, Trường đại học công giáo Loyola của Hoa Kỳ đã được cấp giấy phép mở văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam. Như vậy Loyola đã trở thành trường đại học Công giáo đầu tiên của Hoa Kỳ có mặt tại Việt Nam. Nhân dịp này, ban Việt Ngữ đã tiếp xúc với Tiến sĩ Patrick Boyle, Phó hiệu trưởng trường đại học Loyola và là đại diện của trường đại học Loyola tới thăm và làm việc tại Việt Nam hồi tháng Giêng vừa qua.

Đại học Loyola tọa lạc ở thành phố Chicago, là một trường đại học công giáo tư được thành lập vào năm 1870 với tên gọi ban đầu là trường Thánh Ignatius, là trường công giáo lớn nhất ở Hoa Kỳ và là trường công giáo duy nhất ở thành phố Chicago.

Trường Loyola University Chicago có 4 trụ sở là Lake Shore (LSC), Water Tower (WTC), Medical Center, và Trung tâm John Felice ở Italy. Lĩnh vực đào tạo của trường khá phong phú và đa dạng với các khoa như quản trị kinh doanh, truyền thông, giáo dục, luật, y khoa cũng như xã hội học và một số khoa khác.

Trường hiện có khoảng 16,000 sinh viên với nhiều chương trình hệ cử nhân, hệ cao học và tiến sĩ. Trường cũng liên tục nằm trong danh sách các trường đại học công lập hàng đầu của Hoa Kỳ do tạp chí U.S. News bình chọn.

Tiến sĩ Patrick Boyle, đã 10 năm là giáo sư giảng dạy bộ môn chính trị học ở trường đại học Loyola ở Chicago. Kể từ năm 2003, ông giữ chức Giám đốc Văn phòng chương trình Quốc tế, và hiện nay ông là Phó hiệu trưởng phụ trách vấn đề quan hệ quốc tế, trong đó có nhiệm vụ phát triển các chương trình và quan hệ đối tác cho trường đại học Loyola ở trên khắp thế giới.

Khi được hỏi nguyên nhân nào đã khiến trường Loyola mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Tiến sĩ Boyle cho biết: "Đầu năm 2007, một phái đoàn của Bộ giáo dục và Đào tạo Việt Nam (MOET) đã tới Chicago và họ có ghé thăm trường Loyola Chicago, họ đã mời chúng tôi sang thăm Việt Nam. Và ở trường tôi thì chưa ai tới Việt Nam bao giờ. Vì thế vào tháng 7 năm 2007, nhận lời mời của phía Việt Nam, tôi đã tháp tùng Hiệu trưởng và một số giới chức khác của trường đại học, chúng tôi đã tới thăm Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, và chúng tôi đã tới thăm một số trường đại học ở Việt Nam."

Tiến sĩ Boyle cho biết thêm rằng mục đích của chuyến đi là để tìm hiểu xem phía chính phủ Việt Nam nhìn nhận thế nào về cơ hội giáo dục cũng như sự hợp tác giữa trường Loyola và các đối tác Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng giáo dục ở Việt Nam.

Ông Boyle nói: “Phó Thủ tướng Việt Nam đã đề nghị chúng tôi xem xét đặc biệt về khả năng hỗ trợ đào tạo về lĩnh vực y học, cũng như kết hợp với các trường đại học ở Việt Nam để mở các chương trình giảng dạy tiếng Anh."

Và để thực hiện được những hoạt động này, trường đã cử một dại diện đến Việt Nam là ông Joseph Bùi Đào. Văn phòng đại diện ở Việt Nam sẽ đại diện cho trường thực hiện công tác chuẩn bị cho một số dự án thí điểm của trường Loyola với sự hợp tác của một số trường đại học của Việt Nam.

Được biết, phía Việt Nam đã gợi ý những lĩnh vực chung mà trường Loyola có thể đóng góp và cảm thấy thuận tiện nhất. Và theo tiến sĩ Boyle thì trước mắt sẽ có 2 dự án thí điểm. Trong đó có một dự án nhỏ cho sinh viên của trường Loyola sang nghiên cứu tại Việt Nam. Dự án thứ hai là hội thảo cho các giới chức của trường đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Một số hội thảo có thể sẽ được tổ chức tại trường đại học Loyola ở Chicago và một số được tổ chức ở trường đại học quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh.

Tiến sĩ Boyle cho biết dự án thứ hai sẽ giúp các viên chức ở trường đại học của Việt Nam nâng cao khả năng trong việc lập kế hoạch chiến lược, kế hoạch taì chính, quản lý tuyển sinh...

Ngoài ra trường cũng dự định thực hiện một dự án thứ ba có tên gọi là Tiếng Anh cho mục đích học thuật - English for Academic Purposes, với sự kết hợp giữa trường Loyola và trường đại học Y Hà Nội. Đối tượng của chương trình sẽ là các sinh viên và cán bộ trường đại học Y Hà Nội.

Tiến sĩ Boyle nói: "Mục đích của dự án thứ ba là việc nâng cao khả năng tiếng anh sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho các bác sĩ tương lai, giúp họ có thể chủ động tiến hành được nhiều cuộc nghiên cứu và thí nghiệm hơn, và họ có thể tiếp cận được những bài báo chuyên đề viết bằng tiếng Anh, những ý tưởng và phát minh khoa học mới trên thế giới."

Theo dự kiến dự án thứ nhất sẽ được tiến hành vào tháng 6, và dự án thứ hai sẽ được khởi động vào tháng 8 năm 2009.

Tiến sĩ Boyle cho biết hiện tại trường chưa có chương trình cho các đối tượng sinh viên khác ở Việt Nam và có thể trong một vài năm tới sẽ có những chương trình như vậy. Tuy nhiên, ông cho biết trường luôn sẵn sàng chào đón các sinh viên Việt Nam nộp đơn xin học tại trường Loyola ở Chicago, đặc biệt là các sinh viên muốn theo học chương trình cao học. Trường cũng có quan hệ với Tổ chức Giáo dục Quốc tế (IIE) ở Hà Nội.

Để biết thêm chi tiết về các chương trình của trường Loyola ở Việt Nam quí vị có thể liên hệ với văn phòng đại diện của trường ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trưởng Đại diện là ông Joseph Bùi Đào. Địa chỉ 6bis Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, số điện thoại: 0909012333
 
Chúa Thánh Thần và Ngôi Lời trong sứ vụ truyền giáo
+ GM Phaolô Bùi Văn Đọc
15:53 07/03/2009
CHÚA THÁNH THẦN VÀ NGÔI LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO

Los Angeles Religious Education Congress 2009

ngày 28-2-2009 Anaheim Convention Center, California USA


LỜI MỞ

Tôi xin mở đầu bài thuyết trình bằng những tâm tình này: tôi đến từ Việt Nam, một xứ sở xa xôi với anh chị em ở đây về mặt địa lý, nhưng một chuyến bay khá dài đã đưa tôi đến gần với anh chị em; tôi rất hân hạnh được hiện diện ở đây với anh chị em tại Hội nghị này; và giờ đây tôi cảm nhận thực sự gần gũi với anh chị em về mặt tâm linh. Cám ơn Chúa vì hoàn cảnh xa mà gần này. Cám ơn vì sự hiện diện của anh chị em ở đây, và cám ơn vì anh chị em đã tạo cơ hội cho tôi được hiện diện với anh chị em.

Như chuyến bay dài đã đưa tôi đến gần với anh chị em, tôi muốn gần gũi với anh chị em hơn nữa trong đời sống đức tin bằng một nhịp cầu là chính nội dung bài thuyết trình của tôi, “CHÚA THÁNH THẦN VÀ NGÔI LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO”, để nối kết những suy tư, những thao thức, những kiếm tìm, những xây đắp, những sẻ chia, những chứng tá về niềm tin công giáo của chúng ta giữa lòng xã hội hôm nay.

Với nhịp cầu này, chúng ta cùng đi bằng những bước sau đây: trước hết chúng ta cùng nhau xác tín lại sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì theo các sách Phúc Âm (A); kế đến, chúng ta tìm hiểu vai trò của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần trong sứ vụ truyền giáo của Giáo hội (B); và sau cùng chúng ta cùng nhau khám phá những nẻo đường của Lời Chúa, qua đó chúng ta thực thi sứ vụ truyền giáo (C).

A. SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO LÀ GÌ?

Để có thể trả lời câu hỏi này cho đúng và đầy đủ, chúng ta phải dựa vào các tác giả Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng. Mỗi tác giả Tin Mừng đều có quan điểm riêng, nhưng các quan điểm ấy bổ túc cho nhau, cho ta một cái nhìn đa dạng và phong phú về việc truyền giáo.

Trước hết đối với thánh Marcô, sứ vụ truyền giáo là sứ vụ rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15), loan báo Chúa Kitô, làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô (Mc 8, 29), nhận biết Đức Giêsu chịu đóng đinh là Con Thiên Chúa (Mc 15, 39).

Đối với thánh Matthêu, truyền giáo là thiết lập và xây dựng Hội Thánh Chúa Kitô, làm cho nhiều người trở nên môn đệ Chúa Kitô (Mt 28, 19-20; 16, 18): việc rao giảng Tin Mừng được bổ túc bằng huấn giáo và cử hành bí tích.

Trong các tác phẩm của thánh Luca, sứ vụ truyền giáo được coi như một chứng tá (Lc 24, 48; Cv 1, 8), đặc biệt là về sự Phục Sinh của Đức Kitô (Cv 1, 22). Tác giả nhấn mạnh “sức biến đổi của Tin Mừng Phục Sinh”, ngài kêu gọi hoán cải để được cứu thoát khỏi tội lỗi và sự dữ.

Tin Mừng theo thánh Gioan thì nhấn mạnh việc tiếp nối sứ vụ của Đức Kitô: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Sứ vụ của các Tông Đồ xây dựng trên sứ vụ của Đức Kitô, và lấy sứ vụ của Đức Kitô làm mẫu mực: “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17, 18).

Mục tiêu của sứ vụ truyền giáo là làm cho nhân loại có được sự sống đời đời: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (Ga 17, 3). Nhân loại được mời gọi hiệp thông với tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chính vì thế, công việc đầu tiên của truyền giáo là sống yêu thương và hiệp nhất: “để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta. Như vậy thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17, 21).

Như vậy người tông đồ truyền giáo trước hết bằng tình yêu và cuộc sống, rồi mới bằng lời nói và việc làm.

B. CHÚA KITÔ VÀ CHÚA THÁNH THẦN TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI

1. Loan báo Chúa Kitô

Hội Thánh không ngừng loan báo Chúa Kitô. Sứ mạng của Hội Thánh là làm cho nhân loại nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Việc loan báo Chúa Kitô không là công việc thuộc lãnh vực tự nhiên, mà là một công việc siêu nhiên, là công việc của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần chủ động loan báo cùng với Hội Thánh và qua Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng công bố Tin Mừng Phục Sinh, không phải với sự hùng biện của khoa ngôn ngữ hay sự khôn ngoan theo kiểu thế gian, nhưng với sức mạnh và khả năng thuyết phục của Thánh Thần: Thánh Thần tác động trên những người loan báo, đồng thời tác động trên những người nghe (Cv 2, 37).

2. Xây dựng Hội Thánh

Truyền giáo là ra đi, thâu nạp môn đồ về cho Chúa Kitô, làm cho nhiều người gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, xây dựng Cộng Đồng, Nhiệm Thể Chúa Kitô, xây dựng Hội Thánh trên đá tảng Phêrô, trên nền móng các “Tông Đồ”.

Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh, nhưng Hội Thánh được xây dựng nhờ Chúa Thánh Thần. Hội Thánh sống bằng sự sống của Chúa Kitô, cũng chính là Thần Khí của Chúa Phục Sinh. Thần Khí ấy được ban qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Rửa Tội và Thánh Thể.

Việc xây dựng Hội Thánh còn được thực hiện bằng việc huấn giáo, dạy dỗ để đức tin và đời sống đạo của Kitô-hữu ngày một sâu sắc hơn. Truyền giáo là dạy sống Tin Mừng (Mt 28, 20). Tất cả những điều này, chỉ thực hiện được cùng với Thánh Thần và trong Thánh Thần. Thánh Thần là ánh sáng chiếu soi tâm hồn Kitô-hữu, để Kitô-hữu mỗi ngày thêm hiểu Chúa Kitô, sống theo giáo huấn Chúa Kitô.

3. Làm chứng cho Chúa Kitô chịu Khổ nạn và Phục Sinh

Truyền giáo là “thông truyền”, là chia sẻ cho người khác kinh nghiệm của mình về Đức Giêsu Kitô: kinh nghiệm tiếp xúc với Chúa, kinh nghiệm về tương quan giữa mình với Chúa, kinh nghiệm về hạnh phúc, về sự sống đã nhận lãnh từ Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Sự sống và tình yêu mà ta nhận lãnh từ Đức Kitô Phục Sinh chính là Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh. Chính vì thế, truyền giáo là chia sẻ kinh nghiệm về Thánh Thần, chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng.

Kinh nghiệm này có thể là kinh nghiệm cá nhân, hay là kinh nghiệm tập thể. Kinh nghiệm cá nhân thường rất giới hạn, nên mỗi người chúng ta nên đưa các dự tòng, tân tòng đến với các Kitô-hữu khác, đưa họ vào cộng đồng Hội Thánh, để họ được chia sẻ kho tàng mà Chúa ban cho Hội Thánh (Cv 2, 46-47).

Chứng tá đời sống thường đi đôi với tác động biến đổi của Chúa Thánh Thần.

4. Tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô

Chúng ta loan báo Chúa Kitô, đi thâu nạp môn đồ cho Chúa, chia sẻ sự sống của Chúa cho người khác, không phải do tùy hứng; nhưng đó là một sứ vụ có gốc rễ sâu xa trong lòng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Như Chúa Cha đã sai Chúa Kitô, Chúa Kitô sai chúng ta, vừa để tiếp nối sứ mạng của Chúa (mạc khải tình yêu của Chúa Cha) vừa để cho nhân loại nhận ra sứ mạng của Chúa, nhận biết Người là Đấng được Chúa Cha sai đến.

Chúng ta chỉ có thể tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, khi chúng ta hiểu Chúa và yêu Chúa. Chúng ta chỉ có thể hiểu và yêu Chúa nhờ Thánh Thần của Chúa.

Điều sâu thẳm nhất, quan trọng nhất nơi Chúa Cha, cũng như nơi Chúa Kitô là tình yêu hiệp thông giữa các Ngài, là sự Duy Nhất giữa các Ngài. Đức Giêsu muốn cho nhân loại nhận ra sự duy nhất giữa Người và Chúa Cha, nhận ra Người bởi Cha, nhờ đó, được thông phần tình yêu hiệp thông, cũng chính là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Chính sự hiệp thông giữa các môn đệ của Chúa là dấu chỉ để cho nhân loại nhận ra sự Hiệp Thông giữa Người với Chúa Cha. Kitô-hữu không những truyền giáo bằng lời nói và việc làm, mà còn truyền giáo bằng cuộc sống, bằng tình yêu hiệp nhất.

Chúa Thánh Thần chính là tình yêu hiệp thông trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Có Chúa Thánh Thần chúng ta có tình yêu hiệp thông ấy. Chúa Thánh Thần nối kết chúng ta, làm cho chúng ta nên một với Chúa Kitô và nên một với nhau.

C. SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI THANH VÀ NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA LỜI CHÚA

Chúa Giêsu, khi còn tại thế, đã rời bỏ gia đình, bước đi trên nhiều nẻo đường, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi. Trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài đã trao sứ vụ cho các Thánh Tông Đồ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt 28, 19).

Ngày hôm nay, ngoài thành ngữ “cánh đồng truyền giáo mênh mông”, chúng ta còn có một cách nói khác rất cụ thể và dễ hiểu để nói về sứ vụ loan báo Tin mừng, đó là thành ngữ “những nẻo đường của Thiên Chúa”. Nếu đường đời muôn vạn nẻo, thì Lời Chúa phải được gieo vãi trên vạn nẻo đường, vì chính Chúa đã “vào đời”.

Các thứ “đường đi” trong thời đại chúng ta

Thời đại của chúng ta có nhiều “đường đi” hơn trước, và có cả một mạng lưới truyền thông bao trùm hoàn vũ (internet). Chúng ta có thể gieo vãi Lời bất cứ ở đâu, bất cứ dưới hình thức nào. Mảnh đất loài người rồi cũng có cơ may đón nhận. Đừng ái ngại, chần chờ, nhưng hãy mạnh dạn làm bất cứ điều có thể làm được để gieo hạt giống Lời Chúa. Mọi nẻo đường của nhân loại đều cần ánh sáng của Lời Chúa. Những con đường càng tăm tối càng cần nhiều ánh sáng hơn.

Có những con đường không ai muốn đi, đó là những con đường đau khổ, bất hạnh, bị bỏ rơi, bị cô đơn, con đường của sự chết, con đường có vẻ như “vắng bóng” Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa như hoàn toàn im lặng, không lên tiếng. Chúng ta không được quên những con đường ấy, nhưng cứ hãy dọn những con đường ấy cho Chúa Giêsu, vì Chúa đến trần gian để cứu chuộc những gì đã hư mất.

Ngày hôm nay, lời mời gọi loan báo tin mừng Chúa Giêsu tỏ ra cấp bách hơn bao giờ hết. Hơn bao giờ hết nhân loại ngày hôm nay đang cần ánh sáng của Chúa, vì họ không thấy hướng đi. Nhiều cá nhân, tập thể, nhiều dân tộc, nhiều nền văn minh đang mất hướng. Ngày hôm nay hơn bao giờ hết Giáo hội có cơ may thực hiện điều Chúa Giêsu đã yêu cầu: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”… (Mt 10, 27).

Người gieo giống phải không ngừng khám phá những con đường mới, kể cả những con đường sỏi đá, gai góc. Lời Chúa đi qua những con đường ấy để đốt cháy những bụi gai, vạch trần các tội ác. Nhưng quan trọng hơn, Lời Chúa mở ra những con đường hy vọng, để loan báo tin mừng hy vọng cho đến tận cùng trái đất (Lc 4, 18-19).

Hãy mang chứng tá Kitô giáo đi khắp nơi: chứng tá về vương quốc tình yêu và chân lý, chứng tá về ân sủng và sự thánh thiện, về sự sống viên mãn, về công lý và hoà bình.

Con đường của Cái Đẹp

Ngày hôm nay, con đường của “Cái Đẹp” (via pulchritudinis) là một con đường rất quan trọng. Thế giới của chúng ta hôm nay là một thế giới yêu chuộng nghệ thuật. Các nghệ sĩ là những con người có sức tác động trên tâm hồn người khác nhiều hơn cả. Trong một thế giới còn nhiều điều man rợ và xấu xa do tội ác của con người và xã hội, nhiều người khao khát cái đẹp, không chỉ về thể lý, mà cả về tâm linh.

Người Kitô hữu hãy hãnh diện về cái đẹp của Mạc khải, của Tin Mừng mà Giáo hội chuyển tải. Đừng vì bất cứ thứ mặc cảm nào mà làm hỏng “gia sản Lời Chúa” đã được chuyển giao cho chúng ta trải qua bao nhiêu thế hệ.

Hãy làm cho các nghệ sĩ biết Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa, gợi hứng từ Lời Chúa. Đức thánh cha Gioan Phaolô II, trong thư gởi cho các nghệ sĩ năm 1999, đã nhắc lại thành ngữ của thi hào người Pháp Paul Claudel “Kinh Thánh là một ngữ vựng mênh mông” (vocabulaire immense), và của hoạ sĩ Chagall “Kinh Thánh là một bản đồ các ảnh tượng” (atlas iconographique) (THĐGMTG 12, số 15).

Con đường của Công nghệ thông tin

Ngày 23 tháng 1 năm 2009, Đức thánh cha Bênêđictô XVI đã mời gọi giới trẻ công giáo đem đức tin vào thế giới “tin học”, vì họ hầu như “rất mau lẹ và dễ dàng” sử dụng các phương tiện truyền thông mới. Chủ đề của sứ điệp Đức thánh cha gởi cho ngày truyền thông thế giới là: “Kỹ thuật mới, tương quan mới. Cổ võ cho một nền văn hoá tôn kính, đối thoại và bằng hữu”…

Đức thánh cha mời gọi: “tôi xin anh chị em hãy đem vào nền văn hoá của môi trường truyền thông và kỹ thuật thông tin các giá trị mà trên đó anh chị em xây dựng đời sống”… “giới trẻ cần phải lãnh trách nhiệm phúc âm hoá trong “lục địa kỹ thuật số này”… Xin hãy hăng say loan báo Tin Mừng cho những người đồng thời”.

Đức thánh cha nói đến “một thế giới nối kết” nhờ mạng lưới truyền thông hôm nay. Rất nhiều người được hưởng lợi ích do nền văn hoá truyền thông hôm nay. Các gia đình có thể liên lạc với nhau qua những khoảng cách thật xa. Các sinh viên và các nhà khảo cứu có thể tìm tài liệu, các nguồn dữ liệu và các khám phá khoa học cách nhanh chóng và dễ dàng. Do đó họ có thể cộng tác với nhau từ các địa điểm khác nhau.

Quả đây là một dấu chỉ của thời đại: dấu chỉ Chúa kêu gọi chúng ta nỗ lực tối đa để gieo hạt giống Tin Mừng Tình yêu nối kết mọi người nên một như “Chúa Cha và Chúa Con là Một”. Chúng ta được kêu gọi “tạo nên tình thân hữu khắp nơi, không những trên mạng và qua mạng internet, mà ngay cả trong cuộc sống thực tế hằng ngày. Sự ích kỷ đã lỗi thời trong thế giới hôm nay.

Nếu trong hai phần ba thế kỷ trước, Giáo hội không thể nào có đủ phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng cho cả thế giới, vì các phương tiện truyền thông nằm trong tay Nhà Nước hay các tập đoàn tư bản giàu có, thì ngày hôm nay, mọi người đều có cơ hội ngang nhau để loan báo điều mình muốn. Giáo hội đã có cơ may để “rao giảng trên mái nhà” những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ.

Con đường của gia đình

Còn một con đường rất gần gũi với chúng ta, con đường trên đó ta đang đi, con đường hiện nay vẫn còn bao quanh ta, con đường mà Chúa Giêsu thích sử dụng, vì nó rất thân thương với Người, con đường Người đã trải qua lúc còn tại thế, đã đi hơn 30 năm, đó là con đường gia đình. Vì con đường đó là môi trường quá gần gũi, quá gắn liền với ta, nên nhiều khi ta không còn ý thức rằng đó cũng là nẻo đường quan trọng nhất cần nhận lãnh các hạt giống Tin Mừng.

Thượng hội đồng Giám mục thế giới lần thứ 12 nhắc chúng ta lưu tâm cách đặc biệt tới gia đình: “Gia đình phải đề ra những hình thức và kiểu mẫu giáo dục cầu nguyện, huấn giáo, học hỏi sử dụng Kinh Thánh, để các thanh niên, thiếu nữ, người già và trẻ em (Tv 148, 12) lắng nghe, hiểu, chúc tụng và sống Lời Chúa…” (Sứ điệp THĐGMTG 12, số 11).

Nền văn minh thiên về duy vật và hưởng thụ của thế giới hôm nay đang làm lung lay tận gốc rễ các giá trị truyền thống của gia đình Việt nam. Thư mục vụ của HĐGMVN năm 2008 về Giáo dục gia đình đã có nhận định như sau: “Xã hội Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang chuyển mình cách mạnh mẽ với những thay đổi tích cực nhưng cũng với những mất mát to lớn, trong đó đáng kể nhất là những giá trị cơ bản liên quan đến sự bền vững của hôn nhân gia đình và tình liên đới giữa các thành viên” (x. thư mục vụ số 9).

Các gia đình Việt Nam ở nước ngoài cũng không tránh khỏi những khó khăn chung của thế giới hôm nay, nhất là các gia đình trẻ. Sự vững bền của hôn nhân bị thử thách trầm trọng bởi cám dỗ ly dị khi tình yêu vợ chồng bị sứt mẻ và gia đình bị lủng củng. Sự hiếu thảo truyền thống của người Việt Nam bị xói mòn bởi nếp sống tự do của Phương Tây. Ngày hôm nay có lẽ chúng ta cần phải tái phúc âm hoá gia đình, nỗ lực gieo hạt giống Tin Mừng trên mảnh đất gia đình. Tin mừng tình “hiếu thảo” của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Tin mừng về lòng thương xót của Chúa Cha. Tin mừng về tình huynh đệ giữa các anh chị em trong gia đình. Tin mừng về tình yêu hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.

Con đường của đối thoại tôn giáo

Trong một thế giới mà sự giao lưu giữa các nền văn hoá và các tôn giáo trở thành sự kiện phổ quát và bình thường, chúng ta không thể nào bỏ qua con đường đối thoại với các tôn giáo. Sứ điệp THĐGMTG 12 nhắc nhở chúng ta: “Cả các Kitô hữu chúng ta, dọc theo những con đường của thế giới, cũng được mời gọi đi vào cuộc đối thoại, trong sự kính trọng, với các thiện nam tín nữ các tôn giáo khác mà không rơi vào lập trường pha trộn các tôn giáo và làm suy giảm căn tính thiêng liêng của mình” (ib.số 14).

Thế giới hôm nay vẫn còn rất nhiều ngộ nhận giữa các tôn giáo. Nhiều nơi sự ngộ nhận đã đưa tới những xung đột đẫm máu, nhất là khi có những thế lực chính trị lợi dụng, nhằm phục vụ cho những ý đồ chính trị phe phái của mình. Vì Tin Mừng Tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta đừng ái ngại mở ra những con đường đối thoại. Đối thoại sẽ đưa đến sự gặp gỡ nhau trong tình yêu và chân lý. Đối thoại là điều vô cùng cần thiết, và không thể thiếu, là con đường của hy vọng, vì đối thoại là “khai thông”, là “mở ra”, không bao giờ khép lại. Đó là con đường tốt nhất để gieo hạt giống Lời Chúa.

Sứ điệp của THĐGMTG 12 có những dòng rất tích cực về các tôn giáo: “Kitô hữu cũng tìm thấy một hoà điệu chung với nhiều truyền thống tôn giáo vĩ đại của Phương Đông. Các trước tác thánh của họ dạy ta biết kính trọng sự sống, biết chiêm niệm, biết giữ thinh lặng, biết sống đơn giản, biết từ bỏ mình, như Phật giáo chẳng hạn” (số 15).

Vấn đề đối thoại với các tôn giáo, tuy là một vấn đề rất quan trọng, đã bị nhiều người hiểu sai, và do đó làm chùn bước các sứ giả Tin Mừng. Điều này bó buộc Giáo hội phải lên tiếng khẳng định lại cách mạnh mẽ và xác quyết sứ mạng loan báo Tin mừng Chúa Kitô của Giáo hội và của mỗi người Kitô hữu. Đối thoại và loan báo Tin Mừng không đi ngược chiều. Đối thoại là con đường của tình yêu và chân lý, mà loan báo Tin Mừng là gieo hạt giống của Lời tình yêu và chân lý.

Con đường chính trị và kinh tế

Giáo hội còn được mời gọi gieo hạt giống Tin Mừng vào trong các lãnh vực chính trị và kinh tế. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay là hậu quả của những hoạt động kinh tế không lành mạnh, vì không nhằm mục đích phục vụ và xây dựng lợi ích chung của xã hội loài người, nhưng chỉ vì lợi ích trước mắt của một số cá nhân muốn làm giàu bằng mọi giá.

Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, cần phải có một nền đạo đức học trong kinh tế. Nền đạo đức học này không phải là một mớ lý thuyết trên mây, trên gió, xa rời thực tại, nhưng góp phần định hướng nền chính trị và kinh tế nhằm đúng mục tiêu là phục vụ hạnh phúc của con người. Theo thiển ý của tôi, đạo đức của con người góp phần rất lớn làm cho nền kinh tế phát triển vững chắc, vì được xây dựng trên nền tảng là tình yêu và chân lý.

Những ảo ảnh trong kinh tế trước sau gì rồi cũng sụp đổ, và bấy giờ sẽ gây thiệt hại cho rất nhiều người. Việc tạo ra những giá ảo trong thị trường, vì mục đích lợi nhuận cá nhân, là một loại tội ác tương đương với ăn cướp và giết người. Quan niệm khá phổ biến trước đây trên khắp thế giới “thương trường là chiến trường”, là một quan niệm phi đạo đức, và ngày hôm nay đã tỏ ra lỗi thời.

Trái lại, thời đại ngày nay là thời đại của “liên đới trong kinh doanh”, liên đới trong phát triển. Độc quyền kinh tế cách tuyệt đối sẽ dẫn tới suy sụp, khi không còn ai có khả năng mua các sản phẩm của mình nữa. Ngày nay, thường là khi một quốc gia giàu lên, thì các quốc gia khác được nhờ. Một quốc gia suy sụp, có thể kéo theo sự suy sụp của nhiều quốc gia khác. Hiện nay, học thuyết xã hội công giáo tỏ ra rất ích lợi, góp phần cho việc định hướng chính trị và kinh tế.

Con đường của môi trường sinh thái

Môi trường sinh thái trong thế giới hôm nay cũng rất cần hạt giống Tin Mừng, để được tôn trọng và bảo vệ. Vạn vật đều được Thiên Chúa sáng tạo nhờ Lời và trong Lời, vì thế đều có tiếng nói. Tiếng nói đó yêu cầu chúng ta, không được vì lợi nhuận trước mắt mà huỷ hoại môi sinh, làm cho nhân loại không còn môi trường sống lành mạnh nữa. Cái đẹp của thiên nhiên vẫn là một nguồn hứng bất tận cho các sinh hoạt của con người, kể cả sinh hoạt tâm linh, làm cho con người có thể cất tiếng ca ngợi tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa.

Đấu tranh cho một môi trường sạch đẹp, không những về phương diện vật chất, mà cả về phương diện tâm linh là một ơn gọi rất hợp thời cho mọi Kitô hữu, đặc biệt là những người trẻ. Đấu tranh chống văn hoá đồi trụy, chống phim ảnh khiêu dâm là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta. Nhiều người theo Hồi giáo sợ Kitô giáo lôi kéo họ vào một nền văn hoá xấu xa bẩn thỉu phơi bầy những gì lẽ ra phải gìn giữ kín đáo. Họ cho rằng thế giới Phương Tây mà họ đồng hoá với Kitô giáo không còn sự “bẽn lẽn” cần thiết cho một môi trường xã hội lành mạnh.

Chân Thiện Mỹ vẫn là các giá trị nòng cốt cần thiết cho một môi trường sạch đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần. Hạt giống Tin Mừng mà Giáo hội gieo vãi sẽ trổ sinh hoa trái Chân Thiện Mỹ trong lòng con người và trong môi trường xã hội. Chính các hạt giống ấy sẽ làm sạch đẹp cho môi trường, sẽ tô điểm cho môi trường trở thành một ngôi nhà tuyệt mỹ cho loài người được kêu gọi trở nên gia đình Thiên Chúa tại trần gian.

Con đường của Di Dân

Hiện tượng Di Dân cũng là một sự kiện lớn trong thế giới hôm nay. Khắp nơi đều có người di dân, đặc biệt là tại đất nước Hoa Kỳ hiếu khách và tự do này, một đất nước được khai sinh từ nhiều dân tộc trên thế giới, một nơi mà con cháu của những người di dân, dù phát xuất từ đâu, vẫn có thể đạt tới vị trí quyền lực cao nhất.

Vì hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam chúng ta, đã trở thành một dân tộc có số di dân đông đảo, và rải rác khắp năm châu. Hãy coi đó như mệnh trời, như ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn cho anh chị em trở thành sứ giả Tin mừng bất cứ nơi nào anh chị em đến. Nơi nào anh chị em cũng có thể gieo hạt giống Tin Mừng.

Bất cứ ở đâu, anh chị em cũng được hưởng nhờ những thành quả chung của xã hội tại đó, và vì thế anh chị em có nghĩa vụ góp phần xây dựng xã hội và Giáo hội nơi mình sống và sinh hoạt. Sự góp phần lớn nhất của một Kitô hữu với quốc gia nơi mình được đón nhận là trở nên sứ giả Tin mừng Tình yêu và Chân lý tại đó.

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nhân ngày thế giới Di Dân năm 2009, đã xem Thánh Phaolô vừa như một “Di Dân”, vừa là “một Tông đồ của chư dân”. Thánh Phaolô đã thực hiện một cách xuất sắc sứ mạng rao giảng Tin Mừng và vai trò trung gian giữa các nền văn hóa với Tin Mừng. Ngài quả thật là một mẫu mực tuyệt vời cho anh chị em là những người di dân.

Các cá nhân cũng như cộng đoàn Kitô hữu Việt Nam hãy mặc lấy cùng một lòng nhiệt thành tông đồ như thánh Phaolô, trong khi loan truyền cho mọi người về tình yêu của Thiên Chúa (Rm 8, 15-16; Gl 4, 6), chinh phục nhiều người hơn nữa cho Đức Kitô (1 Cr 9, 22). Hãy trở nên mọi sự cho mọi người, hầu có thể bằng mọi cách cứu vớt được một số (x. ibid.). Hãy là “men trong bột”, hãy là “muối đất” cho môi trường anh chị em đang sống, cho những nơi anh chị em đi đến.

LỜI KẾT

Sứ vụ rao giảng Tin Mừng, nói cách ngắn gọn, là “truyền thông” Tin Mừng Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô cho con người, là làm sao “nối kết” con người với Thiên Chúa, và chúng ta thực hiện công việc đó trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Lời của thánh Phaolô, vị sứ giả xuất sắc của việc loan báo Tin Mừng, vẫn hết sức thiết thực cho thời đại chúng ta: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10, 14-17).

Với bí tích Rửa tội đã lãnh nhận, tất cả chúng ta, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, đều thông phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô, trên những nẻo đường khác nhau của cuộc đời mỗi người chúng ta. Điều cần thiết và quan trọng là làm sao cho Tin Mừng được vang lên khắp nơi, đến tận cõi bí ẩn của tâm hồn mỗi kiếp người.

Như thế, công cuộc loan báo Tin Mừng Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô khởi sự trước hết nơi mỗi người chúng ta, nghĩa là sứ giả loan báo Tin Mừng phải biết để cho con người và cuộc đời mình được Tin Mừng biến đổi trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh của lời loan báo của chúng ta chỉ có thể có được khi chúng ta biết để cho mình được loan báo bởi Lời. Chỉ những ai được ban tặng một đức tin công giáo tinh tuyền, trưởng thành và thuyết phục mới có nhiều cơ may dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng đích thực. Chỉ những Kitô hữu biết chìm sâu trong mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và hạnh phúc trong hành trình đức tin của cuộc đời mình giữa lòng Hội Thánh mới có nhiều cơ may dấn thân hiệu quả và không cực đoan trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Và như thế, chỉ những sứ giả biết say mê tình Chúa và thấm đẫm tình người mới có khả năng “nối kết” con người với Thiên Chúa.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Vẫn chưa tỉnh ngộ
An Dân
16:04 07/03/2009

VẪN CHƯA TỈNH NGỘ



Một ngày sau khi Báo Hà Nội mới ra văn bản trả lời hai giáo dân Thái Hà khiếu nại Báo Hà Nội mới đưa tin sai sự thật về phiên tòa xử các giáo dân ngày 8/12/2008 và yêu cầu Báo Hà Nội mới cải chính theo đúng luật báo chí, thì ngày hôm sau, 28/2/2009, trên trang Pháp luật, báo Hà Nội mới online đã tiếp tục những luận điệu cũ mèn, đầy tính thách thức công luận và những người thiện chí. Bài viết được ký tên “nhóm phóng viên Báo Hà Nội mới” với dòng tít: “Vẫn chưa tỉnh ngộ”.

Sự thật không thể chối cãi

Sự thật tại tòa là các giáo dân đã không nhận tội. Họ đã hiên ngang ngẩng cao đầu.

Thế nhưng, Báo Hà Nội mới đã cố tính đánh lận con đen khi cho rằng: “Các hành vi “Gây rối trật tự công cộng” và “Hủy hoại tài sản” của bà Việt và bà Dung là không thể chối cãi. Xét các bị cáo phạm tội do tinh thần bị kích động về hành vi sai trái của người khác, nhận thức pháp luật của các bị cáo còn hạn chế, nên tòa đã cho các bị cáo hưởng án treo. Điều này thể hiện rõ sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho các bị cáo điều kiện tốt nhất để sửa chữa sai phạm. Báo Hànộimới đã đưa tin đúng thực tế diễn biến của vụ việc cũng như phán quyết của tòa án. Việc bà Việt và bà Dung yêu cầu Báo Hànộimới đăng tin cải chính, bồi thường danh dự là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Mặc dù hiện nay, cả bà Dung và bà Việt đều đang trong thời gian chấp hành hình phạt (đang bị án treo và trong thời gian thử thách), nhưng họ vẫn cố tình lôi kéo, khiếu kiện các thông tin đại chúng, gây mất trật tự tại các công sở. Đã đến lúc họ cần phải tỉnh ngộ, dừng ngay những hành vi sai trái nêu trên, không được để kích động, trượt sâu hơn vào những việc làm trái pháp luật” (hết trích dẫn).

Ở đây, Báo Hànộimới đã cố tình ngu khi không thể phân biệt được phán quyết của tòa và sự thật diễn ra tại phiên tòa khi cho rằng: “Báo Hànộimới đã đưa tin đúng thực tế diễn biến của sự việc cũng như phán quyết của tòa án”. Tòa bảo họ có tội, nhưng họ không nhận tội, hai việc đó khác nhau. Báo Hànộimới không thể vin vào phán quyết của “phiên tòa bóng tối và ma quỷ” để đưa tin sai lạc về hành vi của các giáo dân và càng không thể cố tình bao biện cho hành vi sai trái của mình.

Việc các giáo dân không nhận tội là quá rõ ràng: có băng ghi âm, có chứng nhân và nhất là các giáo dân đang tiếp tục kháng án lên tòa phúc thẩm về bản án oan sai chính quyền Hà Nội áp đặt cho họ. Đối với các giáo dân, bản án mà chính quyền áp đặt cho họ vẫn chưa có hiệu lực thi hành. Vì thế, không thể bảo họ nhận tội; càng không thể bảo họ “tiếp tục trượt sâu vào những việc làm trái pháp luật”.

Các giáo dân khiếu kiện đề nghị các cơ quan pháp luật bảo vệ danh dự và quyền lợi của họ là điều bình thường, được pháp luật bảo hộ. Việc họ khiếu kiện đúng hay sai đã có cơ quan pháp luật cứu xét. Báo Hànộimới không thể thay cho các cơ quan pháp luật để đưa ra những phán quyết thiếu cơ sở như “Việc bà Dung, bà Việt yêu cầu Báo Hànộimới đăng tin cải chính, bồi thường danh dự là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý”.

Thực tế, các giáo dân chỉ có một yêu cầu duy nhất là đề nghị Báo Hànộimới đăng tin cải chính đúng theo luật Báo chí: “có hay không đăng tin cải chính” mà thôi. Nếu không đăng tin cải chính họ sẽ kiện ra tòa và để tòa phán quyết đúng sai.

Vấn đề là tại sao trong suốt quá trình khiếu nại, Báo Hànộimới đã tìm mọi cách ngăn cản, dây dưa không đáp ứng yêu cầu hết sức chính đáng của các giáo dân đang đòi hỏi quyền lợi của mình? Nếu Báo Hànộimới đúng thì tại sao lại phải sợ ra tòa? Tại sao chỉ một câu trả lời “có hay không” mà các giáo dân phải đợi mấy tháng trời, đến khi nhận được văn thư trả lời thì văn thư ấy đã được ký nửa tháng trước đó?

Vẫn chưa tỉnh ngộ

Còn nhớ, cô phóng viên Vũ Sơn Trà, khi tiếp các giáo dân tới yêu cầu đăng tin cải chính đã thông báo cho biết đây là vụ việc nhạy cảm, cần phải chờ sự chỉ đạo của Ban tuyên giáo Thành ủy. Qua sự việc này, người ta thấy rõ sự lúng túng của chính quyền Hà Nội trong vụ giải quyết việc các giáo dân khiếu nại các cơ quan báo chí.

Ông bà ta thường nói: “vạ miệng”. Tuy nhiên, việc sửa sai là chuyện hết sức bình thường. Thế những Báo Hànộimới tiếp tục, dưới sự chỉ đạo và chống lưng của thành ủy, đã ngang nhiên thách thức mọi người. Họ vẫn chưa tỉnh ngộ, vẫn lì lợm dựa thế chống lưng, coi thường pháp luật, “ngồi xổm” trên pháp luật.

Nhiều người bảo Báo Hànộimới là “gái đĩ già mồm” quả đúng không sai. Căn bệnh làm “đĩ” cho thành ủy Hà Nội của các phóng viên Hànộimới đã ngấm vào máu các phóng viên này, khiến họ như những con thiêu thân, thiêu cháy lương tâm và sự nhân hậu mà tổ tiên họ đã bao năm gầy dựng nên.

Các phóng viên này đã bất chấp đạo lý của người là báo, cố tình “nói láo ăn tiền”. Thật nhục nhã cho họ khi được bố mẹ bỏ tiền cho ăn học, đến khi thành nghề lại quay về lừa lọc cả cha mẹ của mình.

Họ đã bán rẻ lương tâm cho một nhóm quyền lợi bòn rút tiền của dân nghèo. Người dân – những người không có tiếng nói, đang chờ đợi nơi những nhà báo có lương tri lên tiếng thay họ, nhưng họ đã phải thất vọng về sự đớn hèn của những nhà báo, những người được mệnh danh là trí thức Hà Thành.

Ai phải tỉnh ngộ?

Nhiều người đang tự hỏi các nhà báo chân chính ở Việt Nam hiện nay ở đâu mà chỉ thấy các phóng viên bồi bút “chuyên đi lề phải” ức hiếp dân lành?

Ai là người phải tỉnh ngộ? Người dân hay các nhà tri thức, những nhà báo, những người được nuôi bằng tiền, bằng mồ hôi xương máu của dân?

Đất nước Việt Nam hơn bốn ngàn năm lịch sử, với một bề dầy văn hóa được kết tinh bởi biết bao xương máu thế hệ đồng bào – một nền văn hóa trọng nhân nghĩa, giầu tình thương, đang bị một nhóm quyền lực và các phóng viên bồi bút bào mòn bằng những việc làm mờ ám, bất lương của họ.

Đất nước và dân tộc này sẽ đi về đâu? Câu trả lời xin dành cho mọi người – nhất là những người, những nhà báo còn có lương tri, những ai yêu mến sự thật và lẽ công bình.

Nhưng ngay từ bây giờ, một sự xám hối là cần thiết, chỉ có sự xám hối mới giúp dân tộc và đất nước thoát khỏi cảnh kìm kẹp của một chính thể chuyên cướp bóc, ức hiếp dân lành.

Đừng đớn hèn trong kiếp bồi bút nữa kẻo phải mang vết nhục ngàn đời.

4/3/2009

An Dân
 
Anh Luật Sư Lê Trần Luật ơi, hãy can đảm lên chúng tôi ở bên anh.
Giáo dân Nghệ An
16:37 07/03/2009
Anh Luật Sư Lê Trần Luật ơi, hãy can đảm lên chúng tôi ở bên anh.

Ra giêng thật rảnh rỗi với một vùng quê làng chài như chúng tôi, biển bàu thì thất bát, nghề du lịch thì mãi mùng 1 tháng 5 dương mới khai trương và lúc đó có làm gì đó để kiếm thêm chút tiền do ngành du lịch mang lại. Còn bây giờ vào những ngày này nhất là vào tuổi ngụ tuần, lục tuần như chúng tôi là cả một thời gian rảnh rỗi, vì vậy mà mấy nhà có vi tính nối mạng tối nào cũng đông vui bên ấm nước chè xanh đặc quánh để xem tin tức trên mạng. mấy hôm nay tin nóng nhất để mọi người chú ý và cầu nguyện cho linh hồn Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng vừa được Chúa gọi về hưởng vinh phúc cùng Cha.

Và rồi một sự kiện mà chúng tôi hốt hoảng là tin tức đưa sáng ngày 25/2 lúc Anh Luật sư đáng kính của dân Việt chúng ta đi công tác ra Hà Nội thì bị công an TP HCM chặn lại không cho đi, và rồi vào nhà để lấy đi một số dụng cụ tài sản của Anh, khi đọc những tin trên chúng tôi vô cùng căm phẫn trước những hành động đê hèn, khốn nạn, vô lương bấp chấp tất cả mà người đứng đàng sau là "chỉ đạo từ cấp trên" chúng tôi là những người dân ít học, ít biết nhưng cũng giữ những vấn đề cốt lõi căn bản để làm người thì không ai là không có, chẳng hạn tôn trọng pháp luật, không vô luân thường đạo lý, tôn trọng sự thật, công lý và công bằng xã hội v v và v v. Đàng này mấy người " có học" chắc là có học lắm chứ làm tới thủ trưởng, cấp này cấp nọ, nhà báo, nhà đài, ông này, bà nọ v v, chắc là học nhiều, ít ra cũng hết lớp 12/12 thế mà xử sự không bằng những người vô học.

Tôi sực nhớ một câu trong cuốn sách nào đó đã ghi thế này "có học thức mà không có trí thức thì khác chi một tên cao bồi"

Thật đáng mừng khi có những người dám đứng ra bênh vực cho dân oan, dám nói tiếng nói của sự thật, dám vạch mặt bung ra ánh sáng những khuất tất của một "số người " luôn chà đạp trên pháp luật, làm sai, luôn sử dụng "luật rừng".

Thời nào cũng có anh hùng của thời đó để họ đi vào sử sách thơm lừng danh cho trang sữ mai sau; như Đức Tổng Kiệt, anh Trần Luật và các đồng sự của anh v v. chúng tôi những người dân thường nghèo xơ xác, thất nghiệp tràn lan, thất vọng tột cùng với chế độ "độc tài đảng trị" trên đầu trên cổ của hơn 83 triệu con người bằng nhà tù, còng tay, dùi cui, bạo lực hà hiếp, luật rừng, dùng mấy thứ đó để cai trị dân. Chúng tôi may còn được chút an ủi, động viên hy vọng để mà tiếp tục sống dù là sống "thoi thóp", chút an ủi đó là các vị trí thức có lương tri dám đứng ra bênh đỡ cho dân Việt yêu dấu của mình. họ đã bất chấp tất cả, hy sinh tất cả có khi cả mạng sống, như Anh Trần Luật đây, từ Sài Gòn bỏ công bỏ của, bất chấp cả tính mạng bị đe doạ, để đi đi về về Hà Nội,Sài Gòn, Sài Gòn, Hà Nội làm chứng nhân cho công lý, bảo vệ sự thật. Cái gì đã thúc đẩy Anh ? động lực nào làm cho Anh bất chấp tất cả mọi khó khăn kể cả phải bị đe soạ đến tính mạng? Mấy hôm nay tất cả từng nhóm trong làng chúng tôi đưa ra câu hỏi này để thảo luận và mỗi nhóm cử một vài người để nghi lại các câu trả lời, xem đa số mọi người trả lời thế nào và tối hôm nay 7/3 chúng tôi thu tập các câu trả lời của các nhóm và kiểm phiếu, bà con có biết đa số phiếu có câu trả lời thế nào không? Đó là câu trả lời được nhiều người ghi phiếu nhiều nhất là " Ông ấy yêu thương dân" hoặc "Ông ấy vì Tình Yêu"

Thật tuyệt vời phải không bà con, đúng là chỉ có tình yêu và khi đã yêu thật sự rồi thì không còn chỗ cho sự tính toán ở đây nữa, mà trong tình yêu tự nó có những cử chỉ, hành động " điên khờ" của nó. Cám ơn Ls Lê Trần Luật, Chúc anh luôn kiên cường, chúng tôi tin rằng tất cả những người dân Việt đang đứng bên anh, dõi theo và cầu nguyện cho anh và các đồng sự của anh. Xin Thiên Chúa trả công vô cùng cho anh và các đồng sự, chúng tôi tin rằng Chúa và mẹ Hằng Cứu Giúp luôn dõi theo và chở che quan phòng để anh và các đồng sự vượt qua thử thách gian truân này.

Chúc anh và các đồng sự của anh an bình hạnh phúc.
 
Văn Hóa
Đoản khúc mầu tím kỷ niệm
Đinh văn Tiến Hùng
15:39 07/03/2009
Đoản khúc mầu tím kỷ niệm

Xưa hoa trải tím đường quê,

Hương soan theo gíó tìm về Mùa Thương

Nay mang thân phận tha hương,

Nhìn màu phượng tím vấn vương tâm hồn
.

Sau gần mười năm lao khổ trong ngục tù Cộng sản và gần hai mươi năm lặn lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, tôi đã đến lúc được thảnh thơi phần nào. Con gái đem tôi từ Miền Đông Bắc giá lạnh sang Miền nắng ấm Cali. Những ngày đầu nắng hạ khi vừa tới đây, sáng sớm tôi thường dạo quanh những khu phố vắng. Những hàng cây ven đường đang nở rộ một màu hoa tím, tôi không biết đó là loại hoa gì. Con gái nói với tôi: “Hoa học trò đấy bố ạ!”. Tôi chợt hiểu là hoa phượng tím. Nhìn những chiếc lá đan hình răng lược thật giống phượng đỏ quê nhà.

Phượng vĩ đỏ Quê xưa. Hoa học trò rực rõ phủ ngập sân trường cùng tiếng ve gọi hè. Tuổi học trò ghi bao kỷ niệm đẹp: chia tay lưu luyến bạn bè, thày cô; trao nhau tập lưu bút ngày xanh; lời hẹn còn gặp lại hay giã từ để bước vào đời…Ôi những giấc mơ đẹp tuổi học trò thơ ngây! Riêng tôi không được ôm ấp những kỷ niệm đó để nhớ nhung mãi vì song thân tôi mất sớm nên tôi phải lặn lội vào đời trong lúc bạn bè đang còn cắp sách đến trường. Vì thế màu phượng đỏ đầy kỷ niệm, gợi bao cảm xúc cho thi nhân nhạc sĩ, nhưng với tôi chỉ là những hình ảnh mờ nhạt không để lại những ấn tượng khó quên.

Giờ đây, nhìn phượng tím –màu tím kỷ niệm khác xưa hiện về - đã hằn sâu như những vết đục trên pho tượng thời gian bị chôn vùi trong quên lãng bỗng được moi lên dưới ánh nắng mặt trời.

Màu tím đầu đời tuổi bé thơ – Không phải màu tím Mimosa hay màu tím đồi sim lãng mạn trữ tình. Nhưng là màu tím hoa soan: hoa mùa Thương Khó khi tôi còn được sống hạnh phúc bên cha mẹ nơi làng quê xưa. Mỗi lần nhìn hoa soan tím nở rộ, những cánh hoa cuốn theo từng cơn gió mang theo hương thơm ngào ngạt, tâm hồn thơ dại lại thấy nôn nao đón chờ một tín hiệu rất gần gũi thân thương. Phải rồi Mùa Chay hay Mùa Thương Khó đã đến. Ông Trùm Họ đi từng nhà trong xóm đạo chia Ngắm

Thương Khó và chuẩn bị hoạt cảnh Tuần Thánh, chọn người đóng 12 Tông Đồ… Bọn trẻ chúng tôi sẽ được hôn kính Chân Chúa, được những nắm bổng (bắp rang) trắng toát nở đẹp thơm phức, ăn mãi không chán, nên cứ loanh quanh luẩn quẩn để hôn Chân Chùa lần nữa…Bàn thờ trải khăn tím, tượng Thánh phủ vải tím, cha chủ lễ mặc áo tím và mấy chú giúp lễ cũng mặc màu tím dễ thương, sân nhà thờ, đường trong xóm đạo phủ đầy hoa soan tím…Ôi Màu Tím Thương Khó ôm ấp bao kỷ niệm!

Rồi khi trưởng thành, tôi gĩa từ cuộc sống phẳng lặng, từ biệt đám học trò phố huyện nghèo nhưng đầy tình nghĩa. Tôi chọn một Binh chủng hiểm nguy lao vào cuộc chiến đang lên cơn sốt. Sau nhiều lần thập tử nhất sinh, đồng đội nhiều người đã vĩnh viễn ra đi để lại lòng tôi thêm xót xa cô quạnh…Những ngày dưỡng quân chờ đợi đợt xâm nhập kế tiếp, tôi thường hay lang thang trên bãi biển Nha trang nơi hậu cứ đóng quân. Rặng núi ngoài xa với đàn hải âu dập dờn trên sóng. Những chàng trai khoẻ mạnh rám nắng, những cô gái trẻ trung tràn đầy sức sống cười vang đuổi theo từng đợt sóng xô bờ. Tôi so sánh hai cuộc sống:hai mảnh đất trên cùng Quê hương sao khác biệt thế nhỉ ? Một đàng ung dung nhàn hạ vui chơi như không muốn biết sự hiện diện của chiến tranh. Trong khi nơi rừng sâu núi thăm, chúng tôi lần mò theo dấu địch, cận kề với tử thần, nhìn vết bom đạn cầy nát từng tấc đất Quê hương. Tổ quốc đau thương!Thân phận nghiệt ngã cuốn trôi hạnh phúc con người….

Đuổi theo suy tư với dấu giầy trận còn in hằn trên cát. Nơi đây tôi đã gặp một người con gái từ Miền Cao Nguyên mới xuống – nước da trắng nổi bật trong chiếc áo dài màu tím đã làm tâm hồn tôi vấn vương xao động…. Rồi những chuyến hành quân biên giới, tôi có dịp vội vã ghé thăm nàng…. Những ngày tháng trôi qua…cuộc đời tôi lại cuốn hút vào một Màu Tím Định Mệnh …và cũng từ ngày ấy, cuộc đời chúng tôi đã trải qua gần 40 năm với nhiều Màu Tím hơn Màu Hồng!…

Và mới đây Màu Tím Tang Thương trào dâng không riêng tâm hồn tôi mà cả Giáo Hội Việt Nam – Khi Người Cha Chung Đức độ - Vị Chủ Chăn Từ Ái là Đức Hồng Y Phaolô –Giuse Phạm Đình Tụng đã lặng lẽ ra đi cũng như cuộc đời âm thầm nhưng đầy can đảm. Ngài vĩnh biệt chúng ta đầu Mùa Chay Thánh phủ đầy Màu Tím

Hồng Ân để mở đầu Mùa Xuân Hy Vọng cho Giáo Hội Việt Nam…

Phải chăng cuộc đời tôi có nhiều duyên phận với Màu Tím!

Màu Tím là Màu Kỷ niệm và cũng là Màu Định Mệnh của đời tôi! Vui buồn pha trộn tạo nên hương vị cuộc đời. Cây cỏ hoa lá thay đổi sắc màu theo mùa càng tăng thêm phần khởi sắc hài hoà. Phải chăng Thượng Đế đã cho phượng vĩ sắc đỏ rực rỡ trên Quê hương mình để giảm bớt phần sầu khổ, nhưng Ngài lại cho phượng vĩ nơi đây màu tím dịu dàng để xoa dịu cuộc sống đầy căng thẳng phóng túng. Ôi sự thay đổi sắc màu cũng là sự an bài công bình của Thượng Đế!

Dù chưa đến mùa Phượng tím. Nhưng Màu Tím Kỷ Niệm đã dâng phủ hồn tôi. Màu tím Hoa Soan, màu tím Mùa Chay – Mùa Thống Hối cũng chính là Mùa Xuân Hy Vọng đang đến với tôi.

Xưa hoa trải tím đường quê,

Hương soan theo gíó tìm về Mùa Thương.

Nay mang thân phận tha hương,

Nhìn màu phượng tím vấn vương tâm hồn
.

( Màu tím Thống Hối 2009 )
 
Thư ngỏ: Hãy cứ bán đi tất cả phần mình, nhưng xin giữ lại lương tri
Tuấn Khanh
19:58 07/03/2009
Hãy cứ bán đi tất cả phần mình, nhưng xin giữ lại lương tri

Thư ngỏ

Về tác phẩm Ma Chiến Hữu của Mạc Ngôn

NXB Văn học liên kết với Công ty văn hóa Phương Nam ấn hành 2008.

Kính gửi: Các ông Triệu Xuân và Ông Mạc Nguyên, biên tập

Ông Trần Trung Hỷ, dịch giả

Ông Nguyễn Cừ, chịu trách nhiệm xuất bản


Nội dung của lá thư ngỏ này liên quan đến cuốn sách mang tên Ma Chiến Hữu của nhà văn Mạc Ngôn (Trung Quốc) được các ngài thực hiện và hoàn chỉnh ấn hành cho người đọc Việt Nam, qua hệ thống phát hành của nhà sách Phương Nam.

Với tư cách của một người dân, tôi luôn ý thức rằng các hệ thống cầm quyền từ ngàn xưa cho đến hiện nay ở phương Bắc luôn coi Việt Nam như một đất nước phải thu hồi, và lớp lớp các thế hệ người Việt đều ý thức được đâu là kẻ thù xâm lược.

Tôi thật sự ngạc nhiên khi biết quyển sách của các ngài thực hiện, lại là một tác phẩm ngợi ca các binh lính xâm lược Trung Quốc năm 1979 đã tiến đánh Việt Nam, mà nơi đó được họ mô tả như một vùng đất hoang sơ và man rợ.

Là một công dân Việt, gìn giữ trong mình huyết thống trải ngàn đời của hàng triệu anh linh đã hy sinh những dưới tay lính Trung Quốc xâm lược, tôi tin mình có đủ tư cách là chứng nhân của phần lịch sử đẫm máu đó của dân tộc để lên tiếng với các ngài, và tôi cũng muốn nhắc rằng chính phần lịch sử bi hùng đó cũng đã bảo đảm sự an bình cho chính dòng tộc gia đình và cá nhân của các ngài.

Tôi thật sự căm phẫn khi đọc dòng quảng cáo “một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng” trên bìa sách. Một bìa sách được trau chuốt công phu và số phận được nâng đỡ đầy may mắn, so với những tác phẩm trong nước như tập thơ Trần Dần hay Rồng Đá của Vũ Ngọc Tiến.

Mạc Ngôn có quyền ca ngợi dân tộc mình, có quyền phủ nhận chủ quyền của các quốc gia khác. Đó là sứ mệnh của một nhà văn quốc tịch Trung Quốc, ông ta xứng đáng được kính trọng với tài năng và chủ kiến của mình. Tiến Anh Hào, nhân vật trong quyền tiếu thuyết cũng có thể là một siêu anh hùng khi giết người Việt Nam, tàn phá đất nước Việt Nam để xứng đáng với thế giới sống và suy nghĩ của một nước Trung Quốc Cộng Sản.

Nhưng chắc chắn, một người Việt Nam phải có chủ kiến của mình và biết phân định lẽ phải theo lịch sử và lòng kiêu hãnh của dân tộc mình. Phân định điều đó có thể không cần bằng học thức, mà chỉ cần bắt đầu bằng chút lương tri của người ít học ở ngoài hè phố.

Tôi tin là các ngài đã nhận được ít nhiều những phản ứng từ cộng đồng đọc. Và tôi cũng hy vọng các ngài sẽ dành chút thời gian suy nghĩ về những điều mình đã làm.

Một vài người bạn kể với tôi rằng, để trả lời với bên ngoài, ai đó trong số các ngài đã biện minh rằng quả có chút sai sót, và thật lòng chỉ sai sót trên tình thần của những người làm cái việc chạy theo đồng tiền trong ngành buôn bán sách vở.

Thật lòng, tôi cảm thấy tuyệt vọng cho một lớp trí thức của Việt Nam mỗi ngày càng cơ hội - con buôn và đang phát rồ vì lợi nhuận, một lớp người tự vẽ mặt trí thức để vượt qua mọi ngưỡng tự trọng và lương tri.

Đâu đó, có những kẻ bệnh hoạn học đòi tính nguyên tắc yêu nước theo chỉ đạo, hùa nhau dồn đuổi việc dựng tượng nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản ở Bến Tre, phỉ nhổ vào tổ tiên của mình, còn ở nơi khác thì rước những thần tượng xâm lược Trung Quốc vào để bái lạy qua văn chương, chữ nghĩa.

Những lời phỉ nhổ vào Phan Thanh Giản hay ca ngợi Tiến Anh Hào, rốt cuộc cũng chỉ là chuyện buôn bán: buôn bán anh linh hy sinh ngàn đời của tổ tiên mình phải chăng là con đường nhanh nhất để kiếm được địa vị hoặc được dự phần thái thú trong hệ thống thuộc địa kiểu mới mang nhãn hàng made in China.

Các ngài đang là kẻ chỉ đường cho bọn xâm lược dồn đuổi dân tộc mình đến chỗ khốn cùng. Vì tôi, các ngài và cùng sống chung trên một mảnh đất thấm máu cha ông. Tôi muốn nói thẳng rằng: các ngài, kể cả những ai còn giấu mặt có tham vọng bịt mắt dân tộc này, tất cả các ngài, nếu có thể, thì cứ tự do bán đi tất cả thuộc về các ngài, nhưng hãy giữ lại lương tri của tổ tiên truyền lại, để cứu chuộc cho chính bản thân mình.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Bên Ghềnh Mù Sương
Lê Ngọc Minh
06:17 07/03/2009

BÊN GHỀNH MÙ SƯƠNG



Ảnh của Lê Ngọc Minh (Hình chụp tại Juneau Alaska)

Những mái nhà xa những mái nhà

những mái nhà không phải của ta

Đứng chơi giữa một mùa thu lạnh

ta thấy ngoài kia những mái nhà…

(Trích thơ của Nguyễn Bá Trạc)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền