Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Giuse, người cha tuyệt vời
Jos. Vinc. Ngọc Biển
08:57 16/03/2014
THÁNH GIUSE, NGƯỜI CHA TUYỆT VỜI
(Lễ thánh Giuse ngày 19-3-2014)
Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy chỉ nhắc đến tên và một số đặc tính của thánh Giuse, chứ tuyệt nhiên không hề có chỗ nào ghi lại lời nói của ngài. Tuy nhiên, chỉ nhắc tới ngài thôi, thì cũng đủ để cho chúng ta thấy được vai trò ưu tuyển của ngài trong lịch sử cứu độ và nơi truyền thống của Giáo Hội.
Thật vậy, từ lâu, Giáo Hội đã tuyên xưng ngài là “đấng công chính”; “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”; là “bạn trăm năm của Đức Nữ Trinh”; là “đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội”; là “mẫu gương sống động cho những người cha nơi các gia đình”.
Vậy do đâu và tại sao ngài lại được ân thưởng những đặc ân cao quý như vậy?
1. Thánh Giuse là đấng công chính
Có lẽ xét về góc độ bề ngoài, thánh Giuse không có gì trổi vượt, thậm chí là một người bình thường như mọi người đàn ông nông dân khác thời bấy giờ. Nhưng xét về góc độ niềm tin, chúng ta dễ dàng nhận ra ngài là một anh hùng vì can đảm và tín trung.
Khi gọi ngài là “đấng công chính”, Giáo Hội muốn nói với con cái mình rằng: thánh Giuse là người thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn, vì đã gắn bó và trung thành tuân giữ lời của Thiên Chúa cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh.
Lần giở lại Kinh Thánh, chúng ta thấy việc Thiên Chúa sai sứ thần mộng báo cho thánh Giuse luôn mang tính đột ngột. Nhưng thái độ đáp ứng của thánh nhân cũng mau mắn đến độ đột ngột không kém.
Trong lần báo mộng đầu tiên, ý Thiên Chúa muốn thánh Giuse đón nhận Mẹ Maria về chung sống, để Con Thiên Chúa có một mái ấm gia đình bình thường như mọi gia đình khác trên trần gian. Nhưng đặt mình trong hoàn cảnh của thánh nhân lúc bấy giờ, thì việc đón nhận thánh ý Thiên Chúa thật không dễ, vì thai nhi Giêsu đang lớn dần trong cung lòng Mẹ Maria không phải của ngài, mà do quyền năng Chúa Thánh Thần. Xét theo góc độ con người thì việc đón nhận này không dễ. Tuy nhiên, thánh nhân đã không ngần ngại khi được giả thích, nên sẵn lòng đón Đức Mẹ về sống chung để cùng nhau xây dựng một gia đình thánh.
Tiếp theo là lần báo mộng thứ hai, ý Thiên Chúa mặc khải cho biết bạo chúa Hêrôđê đang tìm cách giết Con Trẻ, vì thế phải trốn sang Aicập ngay trong đêm; thánh nhân cũng mau mắn thi hành cách vội vã vì sự an toàn của tính mạng Con Thiên Chúa.
Lần cuối cùng, thánh nhân được báo mộng là đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lại Nazareth, vì hòa bình đã lập lại; thánh Giuse không ngần ngại đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lạ quê hương xứ sở của mình cách an toàn.
Thêm vào đó, sau khi đi lễ đền thờ, lúc trở về, ngài phát hiện được Hài Nhi Giêsu không về chung với mọi người thân thuộc, nên đã cùng với Đức Maria tức tốc trở lại đền thờ để tìm con.
Và, mặc dù không nói, nhưng chắc chắn rằng: suốt cuộc đời sống âm thầm nơi làng quê Nazareth... thánh Giuse luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa qua mọi biến cố thăng trần của cuộc sống được thể hiện qua vai trò người chồng và người cha trong gia đình. Thật vậy, thánh nhân là người rất nhạy bén với thánh ý của Thiên Chúa và mau mắn thi hành. Chính sự cộng tác cách tuyệt đối này của thánh Giuse mà lịch sử cứu độ chuyển sang trang sử mới.
Bởi vậy, thánh Giuse xứng đáng được gọi là “đấng công chính” và là “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”.
Khi trở thành dưỡng phụ của Đức Giêsu, lẽ đương nhiên, ngài trở thành “bạn trăm năm của Đức Maria”. Ngài là người chồng chung thủy và hết lòng yêu mến Mẹ Maria.
2. Thánh Giuse là đấng bầu chữa cho Giáo Hội
Thánh Giuse còn được gọi là đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội:
Thật thế, trải qua dòng lịch sử, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự bầu chữa của thánh nhân. Ngài luôn nâng đỡ những người nghèo khổ, kém may măn trong cuộc đời và nơi cuộc sống. Hình ảnh thánh Giuse hay làm phép lạ được truyền tai nhau khắp nơi. Đến nỗi người ta có thể nói rằng: ngài không quên ai chạy đến để cầu cứu ngài. Thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila đã viết: “Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh vinh phúc này”; thánh Têrêsa Avila viết tiếp: “Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Ngài với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Ngài, mà nhận mọi lời Ngài cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm”.
Ý thức được tầm quan trọng của thánh nhân trong đời sống đức tin của Giáo Hội, và hết lòng tôn kính Ngài, vì thế, ngày 01.01.2013, Giáo Hội không ngần ngại khi đưa tên của thánh nhân vào trong Kinh Nguyện Thánh Thể với sắc lệnh số 215/11/L của Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Các Bí Tích. Vì thế, các Kinh Nguyện Thánh Thể đã nhắc tới danh xưng “Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ” như một niềm tôn vinh và cũng như một lòng trông cậy.
Như vậy, thánh nhân thật xứng đáng trở nên Vị Bảo Trợ cho cả và Giáo Hội. Bên cạnh đó, ngài còn là mẫu gương các gia trưởng nơi các gia đình. Bởi vì, ngài là người chồng, người cha mẫu mực khôn ngoan.
3. Bài học rút ra từ cuộc đời thánh Giuse
Mừng lễ thánh Giuse, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng nhìn lên thánh nhân như một mẫu gương về lòng trung tín với Thiên Chúa, chung thủy với Đức Maria, luôn chu toàn trách vụ của người cha trong gia đình.
Thật vậy, thánh nhân là một con người thinh lặng, trầm tư, cầu nguyện... nên ngài dễ dàng nhận ra Thiên Ý và sẵn sàng mau mắn thi hành ý của Thiên Chúa trong cuộc đời. Sự thinh lặng của thánh nhân đã biến cuộc đời của ngài trở nên cuộc đời sống vì yêu. Yêu Chúa để thi hành mệnh lệnh. Yêu Mẹ Maria để sống chung thủy. Yêu mến Đức Giêsu để hết mực chăm lo. Yêu mến Giáo Hội để luôn bầu cử, trợ giúp... điều này thật đúng với tác giả Philippon, OP. đã nhận định về sự thinh lặng: “Ai yêu mến sự thinh lặng, sẽ được dẫn tới sự thinh lặng của mến yêu”.
Đối với Giáo Hội Việt Nam, giáo dân đất Việt có lòng yêu mến ngài đặc biệt. Nhiều gia đình, dòng tu, chủng viện, học viện đã tôn nhận ngài là Đấng Bảo Trợ. Nhiều nhà thờ lấy tước hiệu của ngài. Nhiều đền đài được dựng lên tỏ lòng tôn kính. Nhiều cụ ông, và anh em đã chọn ngài làm bổn mạng. Khi gặp bất trắc gì trong cuộc sống, chúng ta đều chạy đến với Ngài.
Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng chưa tôn kính ngài cho đủ, và cũng nhiều khi chúng ta chưa noi gương ngài thực sự. Vì thế, mừng lễ thánh Giuse, nhất là năm nay, là năm “Phúc Âm hóa đời sống gia đình”, chúng ta hãy xin thánh nhân bầu cử cho các gia đình chúng ta, luôn giữ được lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội như ngài; mặt khác, khi Giáo Hội dành trọn tháng 3 để tôn kính thánh nhân, mà theo niên lịch phụng vụ thì thường rơi vào Mùa Chay, mà Mùa Chay là mùa sám hối, vì thế, cách này, cáh khác, Giáo Hội muốn mời gọi mỗi chúng ta hãy trở về với sự thinh lặng, để gắn bó với Chúa, nhận ra thánh ý Chúa trên cuộc đời và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Chúa như thánh Giuse.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con mẫu gương tuyệt vời là thánh Giuse. Xin Chúa đón nhận lời bầu cử của thánh nhân mà ban cho chúng con được can đảm, trung thành và yêu mến luật Chúa; đồng thời đem ra thi hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.
(Lễ thánh Giuse ngày 19-3-2014)
Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy chỉ nhắc đến tên và một số đặc tính của thánh Giuse, chứ tuyệt nhiên không hề có chỗ nào ghi lại lời nói của ngài. Tuy nhiên, chỉ nhắc tới ngài thôi, thì cũng đủ để cho chúng ta thấy được vai trò ưu tuyển của ngài trong lịch sử cứu độ và nơi truyền thống của Giáo Hội.
Thật vậy, từ lâu, Giáo Hội đã tuyên xưng ngài là “đấng công chính”; “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”; là “bạn trăm năm của Đức Nữ Trinh”; là “đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội”; là “mẫu gương sống động cho những người cha nơi các gia đình”.
Vậy do đâu và tại sao ngài lại được ân thưởng những đặc ân cao quý như vậy?
1. Thánh Giuse là đấng công chính
Có lẽ xét về góc độ bề ngoài, thánh Giuse không có gì trổi vượt, thậm chí là một người bình thường như mọi người đàn ông nông dân khác thời bấy giờ. Nhưng xét về góc độ niềm tin, chúng ta dễ dàng nhận ra ngài là một anh hùng vì can đảm và tín trung.
Khi gọi ngài là “đấng công chính”, Giáo Hội muốn nói với con cái mình rằng: thánh Giuse là người thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn, vì đã gắn bó và trung thành tuân giữ lời của Thiên Chúa cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh.
Lần giở lại Kinh Thánh, chúng ta thấy việc Thiên Chúa sai sứ thần mộng báo cho thánh Giuse luôn mang tính đột ngột. Nhưng thái độ đáp ứng của thánh nhân cũng mau mắn đến độ đột ngột không kém.
Trong lần báo mộng đầu tiên, ý Thiên Chúa muốn thánh Giuse đón nhận Mẹ Maria về chung sống, để Con Thiên Chúa có một mái ấm gia đình bình thường như mọi gia đình khác trên trần gian. Nhưng đặt mình trong hoàn cảnh của thánh nhân lúc bấy giờ, thì việc đón nhận thánh ý Thiên Chúa thật không dễ, vì thai nhi Giêsu đang lớn dần trong cung lòng Mẹ Maria không phải của ngài, mà do quyền năng Chúa Thánh Thần. Xét theo góc độ con người thì việc đón nhận này không dễ. Tuy nhiên, thánh nhân đã không ngần ngại khi được giả thích, nên sẵn lòng đón Đức Mẹ về sống chung để cùng nhau xây dựng một gia đình thánh.
Tiếp theo là lần báo mộng thứ hai, ý Thiên Chúa mặc khải cho biết bạo chúa Hêrôđê đang tìm cách giết Con Trẻ, vì thế phải trốn sang Aicập ngay trong đêm; thánh nhân cũng mau mắn thi hành cách vội vã vì sự an toàn của tính mạng Con Thiên Chúa.
Lần cuối cùng, thánh nhân được báo mộng là đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lại Nazareth, vì hòa bình đã lập lại; thánh Giuse không ngần ngại đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lạ quê hương xứ sở của mình cách an toàn.
Thêm vào đó, sau khi đi lễ đền thờ, lúc trở về, ngài phát hiện được Hài Nhi Giêsu không về chung với mọi người thân thuộc, nên đã cùng với Đức Maria tức tốc trở lại đền thờ để tìm con.
Và, mặc dù không nói, nhưng chắc chắn rằng: suốt cuộc đời sống âm thầm nơi làng quê Nazareth... thánh Giuse luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa qua mọi biến cố thăng trần của cuộc sống được thể hiện qua vai trò người chồng và người cha trong gia đình. Thật vậy, thánh nhân là người rất nhạy bén với thánh ý của Thiên Chúa và mau mắn thi hành. Chính sự cộng tác cách tuyệt đối này của thánh Giuse mà lịch sử cứu độ chuyển sang trang sử mới.
Bởi vậy, thánh Giuse xứng đáng được gọi là “đấng công chính” và là “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”.
Khi trở thành dưỡng phụ của Đức Giêsu, lẽ đương nhiên, ngài trở thành “bạn trăm năm của Đức Maria”. Ngài là người chồng chung thủy và hết lòng yêu mến Mẹ Maria.
2. Thánh Giuse là đấng bầu chữa cho Giáo Hội
Thánh Giuse còn được gọi là đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội:
Thật thế, trải qua dòng lịch sử, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự bầu chữa của thánh nhân. Ngài luôn nâng đỡ những người nghèo khổ, kém may măn trong cuộc đời và nơi cuộc sống. Hình ảnh thánh Giuse hay làm phép lạ được truyền tai nhau khắp nơi. Đến nỗi người ta có thể nói rằng: ngài không quên ai chạy đến để cầu cứu ngài. Thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila đã viết: “Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh vinh phúc này”; thánh Têrêsa Avila viết tiếp: “Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Ngài với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Ngài, mà nhận mọi lời Ngài cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm”.
Ý thức được tầm quan trọng của thánh nhân trong đời sống đức tin của Giáo Hội, và hết lòng tôn kính Ngài, vì thế, ngày 01.01.2013, Giáo Hội không ngần ngại khi đưa tên của thánh nhân vào trong Kinh Nguyện Thánh Thể với sắc lệnh số 215/11/L của Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Các Bí Tích. Vì thế, các Kinh Nguyện Thánh Thể đã nhắc tới danh xưng “Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ” như một niềm tôn vinh và cũng như một lòng trông cậy.
Như vậy, thánh nhân thật xứng đáng trở nên Vị Bảo Trợ cho cả và Giáo Hội. Bên cạnh đó, ngài còn là mẫu gương các gia trưởng nơi các gia đình. Bởi vì, ngài là người chồng, người cha mẫu mực khôn ngoan.
3. Bài học rút ra từ cuộc đời thánh Giuse
Mừng lễ thánh Giuse, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng nhìn lên thánh nhân như một mẫu gương về lòng trung tín với Thiên Chúa, chung thủy với Đức Maria, luôn chu toàn trách vụ của người cha trong gia đình.
Thật vậy, thánh nhân là một con người thinh lặng, trầm tư, cầu nguyện... nên ngài dễ dàng nhận ra Thiên Ý và sẵn sàng mau mắn thi hành ý của Thiên Chúa trong cuộc đời. Sự thinh lặng của thánh nhân đã biến cuộc đời của ngài trở nên cuộc đời sống vì yêu. Yêu Chúa để thi hành mệnh lệnh. Yêu Mẹ Maria để sống chung thủy. Yêu mến Đức Giêsu để hết mực chăm lo. Yêu mến Giáo Hội để luôn bầu cử, trợ giúp... điều này thật đúng với tác giả Philippon, OP. đã nhận định về sự thinh lặng: “Ai yêu mến sự thinh lặng, sẽ được dẫn tới sự thinh lặng của mến yêu”.
Đối với Giáo Hội Việt Nam, giáo dân đất Việt có lòng yêu mến ngài đặc biệt. Nhiều gia đình, dòng tu, chủng viện, học viện đã tôn nhận ngài là Đấng Bảo Trợ. Nhiều nhà thờ lấy tước hiệu của ngài. Nhiều đền đài được dựng lên tỏ lòng tôn kính. Nhiều cụ ông, và anh em đã chọn ngài làm bổn mạng. Khi gặp bất trắc gì trong cuộc sống, chúng ta đều chạy đến với Ngài.
Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng chưa tôn kính ngài cho đủ, và cũng nhiều khi chúng ta chưa noi gương ngài thực sự. Vì thế, mừng lễ thánh Giuse, nhất là năm nay, là năm “Phúc Âm hóa đời sống gia đình”, chúng ta hãy xin thánh nhân bầu cử cho các gia đình chúng ta, luôn giữ được lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội như ngài; mặt khác, khi Giáo Hội dành trọn tháng 3 để tôn kính thánh nhân, mà theo niên lịch phụng vụ thì thường rơi vào Mùa Chay, mà Mùa Chay là mùa sám hối, vì thế, cách này, cáh khác, Giáo Hội muốn mời gọi mỗi chúng ta hãy trở về với sự thinh lặng, để gắn bó với Chúa, nhận ra thánh ý Chúa trên cuộc đời và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Chúa như thánh Giuse.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con mẫu gương tuyệt vời là thánh Giuse. Xin Chúa đón nhận lời bầu cử của thánh nhân mà ban cho chúng con được can đảm, trung thành và yêu mến luật Chúa; đồng thời đem ra thi hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.
Thánh Giuse gương mẫu cho người trưởng gia
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08:58 16/03/2014
Thánh Giuse gương mẫu cho người trưởng gia
Suy niệm lễ Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria
(Mt 1, 16. 18-21.24)
Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.
1. Bạn hiền Trinh Nữ
Tin Mừng ghi lại : “ Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kính đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22) ; “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ) ; “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ) ; cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
2. Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2 , 48 - 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
3. Gưỡng mẫu cho người trưởng gia
Ngày hôm nay có biết bao người đang vui mừng làm ông nội, ông ngoại, làm bố, và đang hồi hộp chờ đợi đứa con đầu lòng, tức là sắp được làm bố, với bao trách nhiệm gia đình phải gánh vác. Họ không biết làm ông, làm bố thế nào cho phải cho nên. Xem ra họ phải chấp nhận mọi hy sinh vì điều thiện hảo cho gia đình của họ. Họ mong ước được người vợ và con cái chia sẻ tình thương để bù lại cho những mệt nhọc phải chịu. Thì thánh Giuse là mẫu gương sống động cho chính họ học đòi bắt chước, trong vai trò làm chồng cách quảng đại, làm cha gương mẫu và làm chủ gia đình cách tận tụy sáng suốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho tất cả các người cha và bảo vệ những người làm cha trong gia đình. Ước chi mỗi người trong họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa trong khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình.
Nguyện xin thánh Giuse và Mẹ Maria rất thánh, Nữ Vương các gia đình và là Mẹ của Giáo Hội, (nguyện xin hai Ðấng) cầu cùng Chúa cho chúng con được hồng ân chúng con xin. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm lễ Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria
(Mt 1, 16. 18-21.24)
Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.
1. Bạn hiền Trinh Nữ
Tin Mừng ghi lại : “ Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kính đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22) ; “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ) ; “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ) ; cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
2. Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2 , 48 - 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
3. Gưỡng mẫu cho người trưởng gia
Ngày hôm nay có biết bao người đang vui mừng làm ông nội, ông ngoại, làm bố, và đang hồi hộp chờ đợi đứa con đầu lòng, tức là sắp được làm bố, với bao trách nhiệm gia đình phải gánh vác. Họ không biết làm ông, làm bố thế nào cho phải cho nên. Xem ra họ phải chấp nhận mọi hy sinh vì điều thiện hảo cho gia đình của họ. Họ mong ước được người vợ và con cái chia sẻ tình thương để bù lại cho những mệt nhọc phải chịu. Thì thánh Giuse là mẫu gương sống động cho chính họ học đòi bắt chước, trong vai trò làm chồng cách quảng đại, làm cha gương mẫu và làm chủ gia đình cách tận tụy sáng suốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho tất cả các người cha và bảo vệ những người làm cha trong gia đình. Ước chi mỗi người trong họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa trong khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình.
Nguyện xin thánh Giuse và Mẹ Maria rất thánh, Nữ Vương các gia đình và là Mẹ của Giáo Hội, (nguyện xin hai Ðấng) cầu cùng Chúa cho chúng con được hồng ân chúng con xin. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
10 điểm đặc trưng trong năm đầu tiên triều đại Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Đặng Tự Do
01:26 16/03/2014
Đức Thánh Cha Phanxicô đã được bầu lên trong một hoàn cảnh bất thường mà hơn 600 năm qua mới xảy ra một lần đó là sau biến cố tuyên bố thoái vị của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16. Hoàn cảnh bất thường này cùng với phong cách đặc biệt của ngài đã gây nên một sự chú ý lớn trên thế giới.
Trong suốt năm đầu tiên triều đại Giáo Hoàng của ngài, 10 điều mới mẻ sau đây đã được Rome Reports ghi nhận.
1. Xin cầu nguyện.
Khi giới thiệu mình với thế giới, mong muốn đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ từ ban công của Đền Thờ Thánh Phêrô với hàng trăm ngàn người tụ tập tại quảng trường cũng như hơn một tỷ người Công Giáo trên thế giới là hãy cầu nguyện cho ngài.
Đức Thánh Cha nói:
“Và giờ đây tôi sẽ ban phép lành cho anh chị em, nhưng trước hết tôi xin anh chị em điều này. Trước khi tôi ban phép lành cho anh chị em xin anh chị em cầu xin Chúa ban phép lành cho tôi – trong lời cầu nguyện của người dân cho vị Giám Mục của mình. Anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi trong im lặng.”
Điều này ngay sau đó đã trở thành điểm nổi bật của vị tân Giáo Hoàng. Câu nói " Hãy cầu nguyện cho tôi." được lặp đi lại trong những buổi tiếp các nguyên thủ quốc gia, các nhà lãnh đạo Công Giáo, các tín hữu, đặc biệt là những bạn trẻ trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Rio De Janeiro, và cả với đại diện các tôn giáo khác.
2. Thắt lưng buộc bụng
Phong cách cá nhân của ngài cũng gây sự chú ý của thế giới. Từ phong cách ăn mặc đơn giản cho đến việc di chuyển trên những chiếc xe rẻ tiền.
Ngài vẫn sử dụng những đôi giày đen ngài đã dùng trước Mật Nghị Hồng Y bầu Tân Giáo Hoàng hồi tháng Ba năm ngoái và cây thánh giá bằng bạc đeo trước ngực. Ngài đã từ chối sử dụng những chiếc Mercedes được dành cho vị Giáo Hoàng, và thay vào đó là một chiếc xe cũ người bình dân Ý thường dùng.
Không chỉ ở Italia. Ở Brazil, trong Ngày Giới trẻ Thế giới, ngài cũng đã chọn một chiếc xe đơn giản không có kính chắn đạn.
Hôm thứ Hai 22 tháng 7 năm 2013, sau khi rời khỏi phi trường quốc tế Antonio Carlos Jobim, Đức Thánh Cha đã ngồi trên một chiếc xe hơi nhỏ đơn giản có 4 cửa. Dọc đường vào thành phố Rio De Janeiro, Đức Thánh Cha đã được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Khi đến đại lộ Sampa, dân chúng hai bên đường đã ùa ra bao quanh chiếc xe chở Đức Thánh Cha. Các nhân viên an ninh đã phải mất vài phút vất vả giải tán đám đông dân chúng để xe có thể chạy tiếp.
Trong lúc hỗn độn này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã rất bình tĩnh. Ngài thậm chí còn kéo cửa kính xuống để bắt tay với đám đông dân chúng.
Sau khi vào đến trung tâm thành phố, Đức Thánh Cha đã đổi sang chiếc xe popemobile mà chúng ta vẫn thường thấy ngài dùng trong những ngày mưa gió. Đây không phải là chiếc popemobile có kính chắn đạn. Tấm kính trên mui xe chỉ có tác dụng che mưa gió.
3. Phong cách họp báo.
Nhiều ký giả trên thế giới không chút nghi ngờ rằng phong cách của Đức Thánh Cha Phanxicô đã được thể hiện rõ nét nhất trong buổi họp báo ứng khẩu trên chuyến bay từ Rio De Janeiro trở về Rôma.
Với phát ngôn viên của Tòa Thánh đứng bên cạnh, Đức Giáo Hoàng đã chấp nhận trả lời mọi câu hỏi. Không có câu hỏi nào bị coi là quá giới hạn. Ngài trả lời liên tục trong một giờ 22 phút.
Điều này đánh dấu một tiền lệ mới. Thật vậy, đến nay, ngài đã đồng ý trả lời hơn năm cuộc phỏng vấn.
4. Người bệnh
Đức Thánh Cha Phanxicô có một vị trí thương mến đặc biệt trong lòng những người bệnh. Trước khi cử hành thánh lễ đầu tiên trong triều Giáo Hoàng của ngài, Đức Thánh Cha đã dừng chiếc popemobile nhiều lần, ban phép lành và và ôm vào lòng những người bệnh. Đó là những khoảng khắc đầy xúc động và ngài đã lặp đi lặp lại những cử chỉ này không biết bao nhiêu lần.
5. Những người nhập cư.
Hoàn cảnh khó khăn của những người tị nạn và nhập cư, những người đã phải bỏ lại mọi thứ sau lưng là một mối quan tâm lớn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trong thánh lễ hôm 8 tháng 7 năm 2013, trước 10,000 người, ngài đã mạnh mẽ tố giác sự dửng dưng đối với số phận những người tị nạn, những thuyền nhân chết trên biển cả và những kẻ lợi dụng sự nghèo đói của người khác để làm giàu.
Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào bài đọc sách Sáng Thế trong đó Chúa hỏi Cain, kẻ đã giết em mình là Abel: Ngươi ở đâu? Máu em ngươi ở đâu!
Đức Thánh Cha nói ngài muốn thức tỉnh lương tâm của nhiều người trên thế giới, tất cả mọi người, đặc biệt là các giới hữu trách, về thảm trạng người di dân và tị nạn, và về nguy cơ “toàn cầu hóa sự thờ ơ” trước tình cảnh bi đát của người khác.
"Chúng ta nhìn thấy một người, trên bờ vực của cái chết, nằm trên đường phố và chúng ta nghĩ ‘tội nghiệp quá’. Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục với công việc hàng ngày của chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng: Đó không phải là trách nhiệm của tôi ... và chúng ta cảm thấy hợp lý. Ai đã khóc cho những người bị mất mạng trên một con thuyền? cho các bà mẹ trẻ đi chung với con cái của họ? cho những người đàn ông, đang tìm kiếm phương tiện để hỗ trợ gia đình của mình? Chúng ta là một xã hội mà đã hết biết rơi nước mắt, trước những trạng huống đau khổ trong bối cảnh toàn cầu hóa sự thờ ơ."
6. Hòa bình
Trước những đám mây đen u ám của cuộc không kích mà Mỹ muốn đánh vào Syria, chiều tối ngày thứ Bẩy mùng 7 tháng 9, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi canh thức cầu nguyện cho hòa bình tại Quảng trường Thánh Phêrô quy tụ hàng trăm ngàn người.
Cuộc không kích đã bị hủy bỏ và Đức Thánh Cha được đề nghị trao giải Nobel về hòa bình.
7. Đáng yêu.
Một trong những khoảnh khắc đáng yêu nhất đã xảy ra tại "Hội nghị Thế giới về Gia Đình” khi một cậu bé 6 tuổi người Colombia muốn được đứng bên cạnh Đức Giáo Hoàng tại mọi thời điểm, ngay cả khi Đức Giáo Hoàng đọc bài diễn văn.
Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng đã tỏ ra yêu mến trẻ em và không e ngại gì về điều này.
8. Hài hước
Trong nhiều trường hợp Đức Thánh Cha Phanxicô tỏ ra là một người rất có khiếu hài hước.
Trong buổi gặp gỡ các đôi hứa hôn ngày lễ tình nhân Valentine 14 tháng Hai vừa qua, Đức Thánh Cha nói:
“Chúng ta đều biết không có gia đình hoàn hảo hết mực, cũng chẳng có người chồng hay người vợ nào hoàn toàn tuyệt vời. Nói chi tới mấy bà mẹ chồng, mẹ vợ."
Trong buổi gặp gỡ tổng thống Brazil hôm thứ Sáu 21 tháng Hai sau khi nhận qùa của tổng thống, Đức Thánh Cha bông đùa:
"Món quà này có ý nghĩa là Đức Giáo Hoàng phải cầu nguyện để có đội Brazil giật được World Cup phải không?"
9. Chiếc cặp của Đức Giáo Hoàng:
Lịch trình của Đức Giáo Hoàng luôn luôn kín mít. Ngài có những cuộc họp vào buổi sáng và vào buổi chiều, vì thế ngài phải luôn luôn sẵn sàng để làm việc. Hình ảnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô mang theo chiếc cặp lên máy bay đến Brazil, thể hiện những ý định của ngài. Ngài không để ngày Giới Trẻ Thế Giới là một cuộc du lịch. Ngài đã sẵn sàng cho những điều cần được thực hiện.
10. Quan hệ với Đức Thánh Cha danh dự Bênêđíctô thứ 16
Hình ảnh hai vị giáo hoàng cầu nguyện cùng nhau được loan truyền trên toàn cầu. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viếng thăm Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 ít nhất bốn lần. Ngài mô tả Đức Giáo Hoàng danh dự như một người ông đầy khôn ngoan trong nhà mà ngài có thể tham khảo ý kiến. Lần cuối cùng hai vị gặp nhau là trong buổi lễ tấn phong Hồng Y ngày thứ Bẩy 22 tháng Hai.
Bắt đầu năm thứ hai triều đại giáo hoàng của ngài, nhiều khoảnh khắc xúc động và đáng ngạc nhiên được dự kiến, đặc biệt là khi ngài đến thăm Thánh Điạ vào tháng Năm và sau đó chủ tọa Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vào tháng 10.
Trong suốt năm đầu tiên triều đại Giáo Hoàng của ngài, 10 điều mới mẻ sau đây đã được Rome Reports ghi nhận.
1. Xin cầu nguyện.
Khi giới thiệu mình với thế giới, mong muốn đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ từ ban công của Đền Thờ Thánh Phêrô với hàng trăm ngàn người tụ tập tại quảng trường cũng như hơn một tỷ người Công Giáo trên thế giới là hãy cầu nguyện cho ngài.
Đức Thánh Cha nói:
“Và giờ đây tôi sẽ ban phép lành cho anh chị em, nhưng trước hết tôi xin anh chị em điều này. Trước khi tôi ban phép lành cho anh chị em xin anh chị em cầu xin Chúa ban phép lành cho tôi – trong lời cầu nguyện của người dân cho vị Giám Mục của mình. Anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi trong im lặng.”
Điều này ngay sau đó đã trở thành điểm nổi bật của vị tân Giáo Hoàng. Câu nói " Hãy cầu nguyện cho tôi." được lặp đi lại trong những buổi tiếp các nguyên thủ quốc gia, các nhà lãnh đạo Công Giáo, các tín hữu, đặc biệt là những bạn trẻ trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Rio De Janeiro, và cả với đại diện các tôn giáo khác.
2. Thắt lưng buộc bụng
Phong cách cá nhân của ngài cũng gây sự chú ý của thế giới. Từ phong cách ăn mặc đơn giản cho đến việc di chuyển trên những chiếc xe rẻ tiền.
Ngài vẫn sử dụng những đôi giày đen ngài đã dùng trước Mật Nghị Hồng Y bầu Tân Giáo Hoàng hồi tháng Ba năm ngoái và cây thánh giá bằng bạc đeo trước ngực. Ngài đã từ chối sử dụng những chiếc Mercedes được dành cho vị Giáo Hoàng, và thay vào đó là một chiếc xe cũ người bình dân Ý thường dùng.
Không chỉ ở Italia. Ở Brazil, trong Ngày Giới trẻ Thế giới, ngài cũng đã chọn một chiếc xe đơn giản không có kính chắn đạn.
Hôm thứ Hai 22 tháng 7 năm 2013, sau khi rời khỏi phi trường quốc tế Antonio Carlos Jobim, Đức Thánh Cha đã ngồi trên một chiếc xe hơi nhỏ đơn giản có 4 cửa. Dọc đường vào thành phố Rio De Janeiro, Đức Thánh Cha đã được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Khi đến đại lộ Sampa, dân chúng hai bên đường đã ùa ra bao quanh chiếc xe chở Đức Thánh Cha. Các nhân viên an ninh đã phải mất vài phút vất vả giải tán đám đông dân chúng để xe có thể chạy tiếp.
Trong lúc hỗn độn này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã rất bình tĩnh. Ngài thậm chí còn kéo cửa kính xuống để bắt tay với đám đông dân chúng.
Sau khi vào đến trung tâm thành phố, Đức Thánh Cha đã đổi sang chiếc xe popemobile mà chúng ta vẫn thường thấy ngài dùng trong những ngày mưa gió. Đây không phải là chiếc popemobile có kính chắn đạn. Tấm kính trên mui xe chỉ có tác dụng che mưa gió.
3. Phong cách họp báo.
Nhiều ký giả trên thế giới không chút nghi ngờ rằng phong cách của Đức Thánh Cha Phanxicô đã được thể hiện rõ nét nhất trong buổi họp báo ứng khẩu trên chuyến bay từ Rio De Janeiro trở về Rôma.
Với phát ngôn viên của Tòa Thánh đứng bên cạnh, Đức Giáo Hoàng đã chấp nhận trả lời mọi câu hỏi. Không có câu hỏi nào bị coi là quá giới hạn. Ngài trả lời liên tục trong một giờ 22 phút.
Điều này đánh dấu một tiền lệ mới. Thật vậy, đến nay, ngài đã đồng ý trả lời hơn năm cuộc phỏng vấn.
4. Người bệnh
Đức Thánh Cha Phanxicô có một vị trí thương mến đặc biệt trong lòng những người bệnh. Trước khi cử hành thánh lễ đầu tiên trong triều Giáo Hoàng của ngài, Đức Thánh Cha đã dừng chiếc popemobile nhiều lần, ban phép lành và và ôm vào lòng những người bệnh. Đó là những khoảng khắc đầy xúc động và ngài đã lặp đi lặp lại những cử chỉ này không biết bao nhiêu lần.
5. Những người nhập cư.
Hoàn cảnh khó khăn của những người tị nạn và nhập cư, những người đã phải bỏ lại mọi thứ sau lưng là một mối quan tâm lớn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trong thánh lễ hôm 8 tháng 7 năm 2013, trước 10,000 người, ngài đã mạnh mẽ tố giác sự dửng dưng đối với số phận những người tị nạn, những thuyền nhân chết trên biển cả và những kẻ lợi dụng sự nghèo đói của người khác để làm giàu.
Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào bài đọc sách Sáng Thế trong đó Chúa hỏi Cain, kẻ đã giết em mình là Abel: Ngươi ở đâu? Máu em ngươi ở đâu!
Đức Thánh Cha nói ngài muốn thức tỉnh lương tâm của nhiều người trên thế giới, tất cả mọi người, đặc biệt là các giới hữu trách, về thảm trạng người di dân và tị nạn, và về nguy cơ “toàn cầu hóa sự thờ ơ” trước tình cảnh bi đát của người khác.
"Chúng ta nhìn thấy một người, trên bờ vực của cái chết, nằm trên đường phố và chúng ta nghĩ ‘tội nghiệp quá’. Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục với công việc hàng ngày của chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng: Đó không phải là trách nhiệm của tôi ... và chúng ta cảm thấy hợp lý. Ai đã khóc cho những người bị mất mạng trên một con thuyền? cho các bà mẹ trẻ đi chung với con cái của họ? cho những người đàn ông, đang tìm kiếm phương tiện để hỗ trợ gia đình của mình? Chúng ta là một xã hội mà đã hết biết rơi nước mắt, trước những trạng huống đau khổ trong bối cảnh toàn cầu hóa sự thờ ơ."
6. Hòa bình
Trước những đám mây đen u ám của cuộc không kích mà Mỹ muốn đánh vào Syria, chiều tối ngày thứ Bẩy mùng 7 tháng 9, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi canh thức cầu nguyện cho hòa bình tại Quảng trường Thánh Phêrô quy tụ hàng trăm ngàn người.
Cuộc không kích đã bị hủy bỏ và Đức Thánh Cha được đề nghị trao giải Nobel về hòa bình.
7. Đáng yêu.
Một trong những khoảnh khắc đáng yêu nhất đã xảy ra tại "Hội nghị Thế giới về Gia Đình” khi một cậu bé 6 tuổi người Colombia muốn được đứng bên cạnh Đức Giáo Hoàng tại mọi thời điểm, ngay cả khi Đức Giáo Hoàng đọc bài diễn văn.
Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng đã tỏ ra yêu mến trẻ em và không e ngại gì về điều này.
8. Hài hước
Trong nhiều trường hợp Đức Thánh Cha Phanxicô tỏ ra là một người rất có khiếu hài hước.
Trong buổi gặp gỡ các đôi hứa hôn ngày lễ tình nhân Valentine 14 tháng Hai vừa qua, Đức Thánh Cha nói:
“Chúng ta đều biết không có gia đình hoàn hảo hết mực, cũng chẳng có người chồng hay người vợ nào hoàn toàn tuyệt vời. Nói chi tới mấy bà mẹ chồng, mẹ vợ."
Trong buổi gặp gỡ tổng thống Brazil hôm thứ Sáu 21 tháng Hai sau khi nhận qùa của tổng thống, Đức Thánh Cha bông đùa:
"Món quà này có ý nghĩa là Đức Giáo Hoàng phải cầu nguyện để có đội Brazil giật được World Cup phải không?"
9. Chiếc cặp của Đức Giáo Hoàng:
Lịch trình của Đức Giáo Hoàng luôn luôn kín mít. Ngài có những cuộc họp vào buổi sáng và vào buổi chiều, vì thế ngài phải luôn luôn sẵn sàng để làm việc. Hình ảnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô mang theo chiếc cặp lên máy bay đến Brazil, thể hiện những ý định của ngài. Ngài không để ngày Giới Trẻ Thế Giới là một cuộc du lịch. Ngài đã sẵn sàng cho những điều cần được thực hiện.
10. Quan hệ với Đức Thánh Cha danh dự Bênêđíctô thứ 16
Hình ảnh hai vị giáo hoàng cầu nguyện cùng nhau được loan truyền trên toàn cầu. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viếng thăm Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 ít nhất bốn lần. Ngài mô tả Đức Giáo Hoàng danh dự như một người ông đầy khôn ngoan trong nhà mà ngài có thể tham khảo ý kiến. Lần cuối cùng hai vị gặp nhau là trong buổi lễ tấn phong Hồng Y ngày thứ Bẩy 22 tháng Hai.
Bắt đầu năm thứ hai triều đại giáo hoàng của ngài, nhiều khoảnh khắc xúc động và đáng ngạc nhiên được dự kiến, đặc biệt là khi ngài đến thăm Thánh Điạ vào tháng Năm và sau đó chủ tọa Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vào tháng 10.
Đức Giám Mục Công Giáo nghi lễ La Tinh của Crimea chỉ trích thái độ đạo đức gỉa của phương Tây
Đặng Tự Do
05:29 16/03/2014
Nhà lãnh đạo Công Giáo nghi lễ La Tinh cao nhất tại Crimea đã lên tiếng chỉ trích phản ứng của phương Tây trước sự can thiệp quân sự của Nga ở đó.
Đức Cha Bronislaw Bernacki của giáo phận Odessa – Simferopol nói:
"Thế giới này bàn tán, chỉ trích Putin và thực hiện chính xác những gì ông ta mong đợi – đó là nói xuông không làm gì cả. Tách Crimea ra khỏi Ukraine chỉ là bước khởi đầu. Sau đó, người Nga sẽ tính đến phần phiá Đông Ukraine và cả phần phiá Nam, và sau đó có lẽ cả nước."
Lịch sử của Ukraine đã chỉ ra rằng trong những trường hợp bị Nga xâm lược như thế này, thế giới sẽ lên tiếng một cách chiếu lệ, rồi sau đó để mặc cho người Nga muốn làm gì thì làm tại Ukraine.
Đa số cư dân tại Crimea, một nước cộng hòa tự trị của Ukraine là những hậu duệ người Nga đã được đưa di dân sang Ukraine trong một chính sách thôn tính lâu dài của Nga từ hàng thế kỷ trước. Sau sự sụp đổ của Tổng thống Viktor Yanukovych vào tháng Hai, quân đội Nga đã xâm lược Crimea.
Ngày 11 tháng Ba, quốc hội Crimea tuyên bố tách khỏi Ukraine, và hôm Chúa Nhật 16 tháng Ba trong trò hề bầu cử tại Crimea đã quyết định sát nhập Crimea thành một phần của Nga.
Sự sáp nhập này chắc chắn sẽ dẫn đến việc khủng bố thẳng tay Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp tại Ukraine.
Cha Mykhailo Milchakovskyi , một linh mục chính xứ của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp ở Crimea nói:
"Nhiều người không dám đến nhà thờ, sau khi bị dán cho những nhãn hiệu như những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc và phát xít. Họ bị dân chúng địa phương khiêu khích và hăm dọa".
Ngài giải thích thêm:
" Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp của chúng tôi không được cấp tư cách pháp nhân tại Liên bang Nga, vì vậy nếu Crimea bị sáp nhập vào Nga, chúng tôi sợ các nhà thờ sẽ bị tịch thu và hàng giáo sĩ của chúng tôi sẽ bị bắt. "
Đức Cha Bronislaw Bernacki của giáo phận Odessa – Simferopol nói:
"Thế giới này bàn tán, chỉ trích Putin và thực hiện chính xác những gì ông ta mong đợi – đó là nói xuông không làm gì cả. Tách Crimea ra khỏi Ukraine chỉ là bước khởi đầu. Sau đó, người Nga sẽ tính đến phần phiá Đông Ukraine và cả phần phiá Nam, và sau đó có lẽ cả nước."
Lịch sử của Ukraine đã chỉ ra rằng trong những trường hợp bị Nga xâm lược như thế này, thế giới sẽ lên tiếng một cách chiếu lệ, rồi sau đó để mặc cho người Nga muốn làm gì thì làm tại Ukraine.
Đa số cư dân tại Crimea, một nước cộng hòa tự trị của Ukraine là những hậu duệ người Nga đã được đưa di dân sang Ukraine trong một chính sách thôn tính lâu dài của Nga từ hàng thế kỷ trước. Sau sự sụp đổ của Tổng thống Viktor Yanukovych vào tháng Hai, quân đội Nga đã xâm lược Crimea.
Ngày 11 tháng Ba, quốc hội Crimea tuyên bố tách khỏi Ukraine, và hôm Chúa Nhật 16 tháng Ba trong trò hề bầu cử tại Crimea đã quyết định sát nhập Crimea thành một phần của Nga.
Sự sáp nhập này chắc chắn sẽ dẫn đến việc khủng bố thẳng tay Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp tại Ukraine.
Cha Mykhailo Milchakovskyi , một linh mục chính xứ của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp ở Crimea nói:
"Nhiều người không dám đến nhà thờ, sau khi bị dán cho những nhãn hiệu như những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc và phát xít. Họ bị dân chúng địa phương khiêu khích và hăm dọa".
Ngài giải thích thêm:
" Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp của chúng tôi không được cấp tư cách pháp nhân tại Liên bang Nga, vì vậy nếu Crimea bị sáp nhập vào Nga, chúng tôi sợ các nhà thờ sẽ bị tịch thu và hàng giáo sĩ của chúng tôi sẽ bị bắt. "
Làn sóng bách hại tại Crimea đã bắt đầu - Một linh mục Công Giáo Công giáo Hy Lạp Ukraine bị bắt cóc
Đặng Tự Do
05:30 16/03/2014
Trong một loạt những leo thang nghiêm trọng đang diễn ra tại bán đảo Crimea, một linh mục Công Giáo Hy Lạp Ukraine đã bị bắt cóc sáng thứ Bảy 15 tháng Ba.
Radio Vatican cho biết Cha Mykola Kvych, một linh mục tuyên úy quân đội Ukraine, đã bị bắt cóc bởi các thành phần thân Nga sau khi ngài cử hành thánh lễ sáng thứ Bẩy.
Đức Cha Borys Gudziak Giám Mục Công Giáo Hy Lạp Ukraine của giáo phận Odessa – Simferopol nói:
" Bắt cóc là một sự kiện khủng khiếp cho tất cả những ai có liên quan. Đó là một sự vi phạm trắng trợn các quyền con người và phẩm giá mà Chúa đã ban cho."
Sau khi tổng thống Viktor Yanukovych bị lật đổ, anh chị em tín hữu Công Giáo tại Crimea thường xuyên bị đe dọa đến mức nhiều người đang cố mà bán nhà và chuyển đến các nơi khác của Ukraine.
Trong thời Liên Xô, Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương ở Ukraine bị nằm ngoài vòng pháp luật. Các tín hữu có đức tin mạnh mẽ vẫn phải sống đạo bí mật, trong khi những tín hữu khác phải dự lễ ở nhà thờ Chính Thống giáo hoặc không đi nhà thờ. Cộng sản Liên Xô đã tịch thu tất cả tài sản của Giáo Hội Công Giáo, đưa một số tòa nhà cho Chính Thống giáo, số còn lại giao cho các cơ quan nhà nước sử dụng.
Đức Cha Borys đã đưa ra một lời kêu gọi đến các vị thẩm quyền của Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga can thiệp trao trả tự do cho cha Mykola Kvych.
Radio Vatican cho biết Cha Mykola Kvych, một linh mục tuyên úy quân đội Ukraine, đã bị bắt cóc bởi các thành phần thân Nga sau khi ngài cử hành thánh lễ sáng thứ Bẩy.
Đức Cha Borys Gudziak Giám Mục Công Giáo Hy Lạp Ukraine của giáo phận Odessa – Simferopol nói:
" Bắt cóc là một sự kiện khủng khiếp cho tất cả những ai có liên quan. Đó là một sự vi phạm trắng trợn các quyền con người và phẩm giá mà Chúa đã ban cho."
Sau khi tổng thống Viktor Yanukovych bị lật đổ, anh chị em tín hữu Công Giáo tại Crimea thường xuyên bị đe dọa đến mức nhiều người đang cố mà bán nhà và chuyển đến các nơi khác của Ukraine.
Trong thời Liên Xô, Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương ở Ukraine bị nằm ngoài vòng pháp luật. Các tín hữu có đức tin mạnh mẽ vẫn phải sống đạo bí mật, trong khi những tín hữu khác phải dự lễ ở nhà thờ Chính Thống giáo hoặc không đi nhà thờ. Cộng sản Liên Xô đã tịch thu tất cả tài sản của Giáo Hội Công Giáo, đưa một số tòa nhà cho Chính Thống giáo, số còn lại giao cho các cơ quan nhà nước sử dụng.
Đức Cha Borys đã đưa ra một lời kêu gọi đến các vị thẩm quyền của Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga can thiệp trao trả tự do cho cha Mykola Kvych.
Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin: 16-3-2014
LM. Trần Đức Anh OP
15:56 16/03/2014
VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 60 ngàn tín hữu hành hương trưa Chúa Nhật 16-3-2014, ĐTC kêu gọi mọi người hãy mang sách Phúc Âm nhỏ theo người và đọc mỗi ngày một đoạn. Ngài cũng mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân máy bay của hãng Malaysia bị mất tích.
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại biến cố Chúa Giêsu hiển dung trên núi trước ba môn đệ và ngài mời gọi mọi người cũng hãy ”lên núi” gặp gỡ Chúa trong kinh nguyện thinh lặng, và xuống núi, chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng cũng như giúp đỡ các anh chị em đang gặp khó khăn. ĐTC nói:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Hiển dung. Đây là giai đoạn thứ hai trong hành trình mùa chay: giai đoạn thứ I là những cám dỗ trong hoang địa, Chúa Nhật tuần trước; giai đoạn thứ II là cuộc Hiển dung. Chúa Giêsu ”mang theo ngài Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngài dẫn họ ra một nơi riêng, trên một núi cao” (Mt 17,1). Núi trong Kinh Thánh tượng trưng nơi gần gũi với Thiên Chúa và cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa; đó là nơi cầu nguyện, ở trước sự hiện diện của Chúa. Trên núi ấy, Chúa Giêsu tỏ mình cho 3 môn đệ, Ngài hiển dung, sáng láng, rất đẹp; và rồi có ông Môisê và Elia hiện ra, chuyện vãn với Ngài. Khuôn mặt Ngài sáng ngời và áo Ngài trắng tinh đến độ Phêrô ngỡ ngàng, muốn ở lại đó, như thể thời gian ngưng lại. Bất chợt từ trên cao có tiếng Chúa Cha tuyên bố Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, và nói: ”Các ngươi hãy nghe lời Ngài” (v.5). Lời này rất quan trọng. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và Chúa nói với chúng ta nữa: ”Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con Ta yêu dấu”. Trong tuần này, chúng ta hãy giữ lời ấy trong tâm trí: ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”. Đây không phải là lời Giáo Hoàng nói, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả mọi người: với tôi, với anh chị em, với tất cả! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”.
Lời mời này của Chúa Cha rất quan trọng. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở thành những người lắng nghe tiếng Chúa và coi trọng những lời của Ngài. Để lắng nghe Chúa Giêsu, cần đi theo Ngài, như đám đông trong Phúc Âm đã làm, đi theo Chúa trên những nẻo đường xứ Palestine. Chúa Giêsu không có nhà thờ chính tòa hoặc tòa giảng cố định, nhưng Ngài là một bậc thầy lưu động, trình bày giáo huấn dọc theo những con đường ngài đi qua, những nẻo đường không luôn luôn có thể đoán trước, và nhiều khi không dễ dàng. Theo Chúa Giêsu để nghe Ngài. Nhưng chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu trong lời Ngài đã được viết ra, trong Phúc Âm. Tôi hỏi anh chị em: anh chị em mỗi ngày có đọc một đoạn Phúc Âm hay không? Đó là một điều tốt đẹp. Có một cuốn Phúc Âm nhỏ, mang trong mình, trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn nhỏ bất kỳ lúc nào trong ngày. Trong đó Chúa Giêsu nói với chúng ta, trong Phúc Âm. Anh chị em hãy nghĩ đến điều đó, không khó đâu, cũng không cần 4 sách Phúc Âm, 1 trong 4 cuốn. Luôn mang Phúc Âm theo người, vì đó là Lời Chúa Giêsu để có thể nghe Ngài.
ĐTC nói thêm rằng:
”Từ biến cố Chúa Hiển Dung, tôi muốn nêu lên hai yếu tố ý nghĩa, có thể tóm gọn trong hai từ: đi lên và đi xuống. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và nhận thức rõ hơn tiếng Chúa. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện tái thúc đẩy chúng ta xuống núi, và trở xuống cánh đồng, nơi chúng ta gặp gỡ bao nhiêu anh chị em đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng. Chúng ta được mời gọi mang hoa trái kinh nghiệm của chúng ta với Thiên Chúa cho những anh chị em ấy, chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được. Đây là điều lạ lùng. Khi chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu, chúng ta có Lời ấy trong con tim, Lời tăng trưởng. Và anh chị em có biết Lời tăng trưởng như thế nào không? Thưa bằng cách trao cho người khác. Lời Chúa Kitô trong chúng ta tăng trưởng khi chúng ta công bố lời ấy, khi chúng ta trao cho người khác. Và đó là đời sống Kitô. Đó là một sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, của tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa: lắng nghe Chúa Giêsu và trao tặng Ngài cho người khác. Anh chị em đừng quên điều này: trong tuần này, hãy nghe Chúa Giêsu! Rồi tuần tới Anh chị em sẽ nói với tôi xem anh chị em có làm điều này không: có một cuốn sách Phúc Âm nhỏ trong túi hoặc trong sắc, để đọc một đoạn nhỏ trong ngày”.
Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria, Mẹ chúng ta và phó thác mình cho sự hướng dẫn của Mẹ để tiếp tục hành trình mùa chay này trong đức tin và lòng quảng đại, học cách leo lên hơn nữa bằng kinh nguyện, và đi xuống bằng tình bác ái huynh đệ.
Chào thăm
Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã chào thăm tất cả các tín hữu Roma và tín hữu hành hương. Ngài đặc biệt chào những người đến từ giáo phận Valencia bên Tây Ban Nha, các nhóm đến từ thành phố Mannheim bên Đức, và từ Skara bên Thụy Điển.
ĐTC nói thêm rằng: Tôi chào thăm và cám ơn các ban nhạc và ca đoàn đến từ miền Piemonte, Liguria, Emilia và Toscana của Italia cũng như một số chính quyền dân sự. ”Tôi đặc biệt chào Cộng đoàn ĐGH Gioan 23 do cha Oreste Benzi thành lập. Tối thứ sáu tới đây, Cộng đoàn sẽ thực hiện một đàng thánh giá đặc biệt qua các con đường ở trung tâm thành Roma này để cầu cho các phụ nữ nạn nhân của nạn buôn người”.
Tôi mời gọi anh chị em nhớ đến trong kinh nguyện những hành khách và phi hành đoàn của máy bay Malaysia và gia đình họ. Chúng ta hãy gần gũi họ trong lúc khó khăn này”.
ĐTC không quên chào thăm nhiều nhóm tín hữu ở các nơi tại Roma này, các nữ tu dòng Phan sinh hèn mọn Thánh Tâm, đông đảo các trường học ở Italia và các nước khác, đặc biệt là trường Công Giáo Mar Qardakh ở thành Erbil thuộc miền Kurdistan và trường của giáo phận London, bang Ontario, Canada.
Thăm giáo xứ
Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 16-3-2014, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm giáo xứ Đức Mẹ cầu nguyện ở khu vực Setteville di Guidonia, ngoại ô Roma, về hướng đông bắc, cách Vatican gần 24 cây số.
Đây là giáo xứ thứ 5 thuộc giáo phận Roma được ĐTC đương kim đến viếng thăm. Khi đến đây, ngài gặp gỡ trước tiên là các bệnh nhân và người khuyết tật, rồi gặp các trẻ em, đặc biệt là 150 em sẽ được xưng tội rước lễ lần đầu sau Phục Sinh sắp tới và 73 em sẽ chịu phép thêm sức, trước khi gặp cộng đoàn Con đường tân dự tòng. Như thường lệ, ngài cũng giải tội cho một số tín hữu rồi cử hành thánh lễ cho các tín hữu, trước khi trở về Vatican lúc 8 giờ rưỡi tối.
Ngài đến đây vào lúc 4 giờ chiều, gặp gỡ các thành phần tín hữu trong xứ đạo và cử hành thánh lễ vào lúc 6 giờ chiều.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, cha sở Francesco Bagalà cho biết tại giáo xứ này vẫn còn thiết các dịch vụ xã hội, trường học, nơi sinh hoạt và các dịch vụ khác. Dân chúng tại đây là người trẻ, ban sáng khoảng 6 giờ họ đi làm và trở về nhà lúc 8 giờ tối. Đây là một khu vực nhà ngủ. Rõ ràng là ở đây không có trường học thật là điều bất tiện. Giáo xứ đảm trách các trường học trong toàn vùng. Đây là một thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng trường sắp được thiết lập tại đây
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại biến cố Chúa Giêsu hiển dung trên núi trước ba môn đệ và ngài mời gọi mọi người cũng hãy ”lên núi” gặp gỡ Chúa trong kinh nguyện thinh lặng, và xuống núi, chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng cũng như giúp đỡ các anh chị em đang gặp khó khăn. ĐTC nói:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Hiển dung. Đây là giai đoạn thứ hai trong hành trình mùa chay: giai đoạn thứ I là những cám dỗ trong hoang địa, Chúa Nhật tuần trước; giai đoạn thứ II là cuộc Hiển dung. Chúa Giêsu ”mang theo ngài Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngài dẫn họ ra một nơi riêng, trên một núi cao” (Mt 17,1). Núi trong Kinh Thánh tượng trưng nơi gần gũi với Thiên Chúa và cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa; đó là nơi cầu nguyện, ở trước sự hiện diện của Chúa. Trên núi ấy, Chúa Giêsu tỏ mình cho 3 môn đệ, Ngài hiển dung, sáng láng, rất đẹp; và rồi có ông Môisê và Elia hiện ra, chuyện vãn với Ngài. Khuôn mặt Ngài sáng ngời và áo Ngài trắng tinh đến độ Phêrô ngỡ ngàng, muốn ở lại đó, như thể thời gian ngưng lại. Bất chợt từ trên cao có tiếng Chúa Cha tuyên bố Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, và nói: ”Các ngươi hãy nghe lời Ngài” (v.5). Lời này rất quan trọng. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và Chúa nói với chúng ta nữa: ”Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con Ta yêu dấu”. Trong tuần này, chúng ta hãy giữ lời ấy trong tâm trí: ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”. Đây không phải là lời Giáo Hoàng nói, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả mọi người: với tôi, với anh chị em, với tất cả! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”.
Lời mời này của Chúa Cha rất quan trọng. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở thành những người lắng nghe tiếng Chúa và coi trọng những lời của Ngài. Để lắng nghe Chúa Giêsu, cần đi theo Ngài, như đám đông trong Phúc Âm đã làm, đi theo Chúa trên những nẻo đường xứ Palestine. Chúa Giêsu không có nhà thờ chính tòa hoặc tòa giảng cố định, nhưng Ngài là một bậc thầy lưu động, trình bày giáo huấn dọc theo những con đường ngài đi qua, những nẻo đường không luôn luôn có thể đoán trước, và nhiều khi không dễ dàng. Theo Chúa Giêsu để nghe Ngài. Nhưng chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu trong lời Ngài đã được viết ra, trong Phúc Âm. Tôi hỏi anh chị em: anh chị em mỗi ngày có đọc một đoạn Phúc Âm hay không? Đó là một điều tốt đẹp. Có một cuốn Phúc Âm nhỏ, mang trong mình, trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn nhỏ bất kỳ lúc nào trong ngày. Trong đó Chúa Giêsu nói với chúng ta, trong Phúc Âm. Anh chị em hãy nghĩ đến điều đó, không khó đâu, cũng không cần 4 sách Phúc Âm, 1 trong 4 cuốn. Luôn mang Phúc Âm theo người, vì đó là Lời Chúa Giêsu để có thể nghe Ngài.
ĐTC nói thêm rằng:
”Từ biến cố Chúa Hiển Dung, tôi muốn nêu lên hai yếu tố ý nghĩa, có thể tóm gọn trong hai từ: đi lên và đi xuống. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và nhận thức rõ hơn tiếng Chúa. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện tái thúc đẩy chúng ta xuống núi, và trở xuống cánh đồng, nơi chúng ta gặp gỡ bao nhiêu anh chị em đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng. Chúng ta được mời gọi mang hoa trái kinh nghiệm của chúng ta với Thiên Chúa cho những anh chị em ấy, chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được. Đây là điều lạ lùng. Khi chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu, chúng ta có Lời ấy trong con tim, Lời tăng trưởng. Và anh chị em có biết Lời tăng trưởng như thế nào không? Thưa bằng cách trao cho người khác. Lời Chúa Kitô trong chúng ta tăng trưởng khi chúng ta công bố lời ấy, khi chúng ta trao cho người khác. Và đó là đời sống Kitô. Đó là một sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, của tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa: lắng nghe Chúa Giêsu và trao tặng Ngài cho người khác. Anh chị em đừng quên điều này: trong tuần này, hãy nghe Chúa Giêsu! Rồi tuần tới Anh chị em sẽ nói với tôi xem anh chị em có làm điều này không: có một cuốn sách Phúc Âm nhỏ trong túi hoặc trong sắc, để đọc một đoạn nhỏ trong ngày”.
Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria, Mẹ chúng ta và phó thác mình cho sự hướng dẫn của Mẹ để tiếp tục hành trình mùa chay này trong đức tin và lòng quảng đại, học cách leo lên hơn nữa bằng kinh nguyện, và đi xuống bằng tình bác ái huynh đệ.
Chào thăm
Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã chào thăm tất cả các tín hữu Roma và tín hữu hành hương. Ngài đặc biệt chào những người đến từ giáo phận Valencia bên Tây Ban Nha, các nhóm đến từ thành phố Mannheim bên Đức, và từ Skara bên Thụy Điển.
ĐTC nói thêm rằng: Tôi chào thăm và cám ơn các ban nhạc và ca đoàn đến từ miền Piemonte, Liguria, Emilia và Toscana của Italia cũng như một số chính quyền dân sự. ”Tôi đặc biệt chào Cộng đoàn ĐGH Gioan 23 do cha Oreste Benzi thành lập. Tối thứ sáu tới đây, Cộng đoàn sẽ thực hiện một đàng thánh giá đặc biệt qua các con đường ở trung tâm thành Roma này để cầu cho các phụ nữ nạn nhân của nạn buôn người”.
Tôi mời gọi anh chị em nhớ đến trong kinh nguyện những hành khách và phi hành đoàn của máy bay Malaysia và gia đình họ. Chúng ta hãy gần gũi họ trong lúc khó khăn này”.
ĐTC không quên chào thăm nhiều nhóm tín hữu ở các nơi tại Roma này, các nữ tu dòng Phan sinh hèn mọn Thánh Tâm, đông đảo các trường học ở Italia và các nước khác, đặc biệt là trường Công Giáo Mar Qardakh ở thành Erbil thuộc miền Kurdistan và trường của giáo phận London, bang Ontario, Canada.
Thăm giáo xứ
Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 16-3-2014, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm giáo xứ Đức Mẹ cầu nguyện ở khu vực Setteville di Guidonia, ngoại ô Roma, về hướng đông bắc, cách Vatican gần 24 cây số.
Đây là giáo xứ thứ 5 thuộc giáo phận Roma được ĐTC đương kim đến viếng thăm. Khi đến đây, ngài gặp gỡ trước tiên là các bệnh nhân và người khuyết tật, rồi gặp các trẻ em, đặc biệt là 150 em sẽ được xưng tội rước lễ lần đầu sau Phục Sinh sắp tới và 73 em sẽ chịu phép thêm sức, trước khi gặp cộng đoàn Con đường tân dự tòng. Như thường lệ, ngài cũng giải tội cho một số tín hữu rồi cử hành thánh lễ cho các tín hữu, trước khi trở về Vatican lúc 8 giờ rưỡi tối.
Ngài đến đây vào lúc 4 giờ chiều, gặp gỡ các thành phần tín hữu trong xứ đạo và cử hành thánh lễ vào lúc 6 giờ chiều.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, cha sở Francesco Bagalà cho biết tại giáo xứ này vẫn còn thiết các dịch vụ xã hội, trường học, nơi sinh hoạt và các dịch vụ khác. Dân chúng tại đây là người trẻ, ban sáng khoảng 6 giờ họ đi làm và trở về nhà lúc 8 giờ tối. Đây là một khu vực nhà ngủ. Rõ ràng là ở đây không có trường học thật là điều bất tiện. Giáo xứ đảm trách các trường học trong toàn vùng. Đây là một thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng trường sắp được thiết lập tại đây
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ giỗ Cha Phanxico Xavier Trương Bửu Diệp tại Nhà thờ Our Lady Maidstone.
Trần Văn Minh.
09:05 16/03/2014
Với lòng mến mộ cha Trương Bửu Diệp cách đặc biệt, rất đông giáo dân đủ mọi thành phần nam, phụ, lão, có những em còn rất trẻ đi theo cha mẹ, cùng với các cụ đầu bạc phơ phải dùng xe lăn hay chống gậy được con cái chở đến để dự lễ giỗ lần thứ 68 của Cha Phanxicô Xavier. Thánh lễ đặc biệt được Ca đoàn Nữ Vương Giáo xứ Our Lady phụ trách phần Thánh ca đã làm cho buổi lễ tăng thêm phần sốt sắng và long trọng.
Như mọi năm, để tỏ lòng kính trọng cha Phanxicô, trên khu vực gần gian cung Thánh, trước tòa rao giảng tin mừng, một bàn thờ nhỏ với hoa đèn kết chung quanh, cùng với di ảnh Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp. Bên trên là hàng chữ: Mừng lễ giỗ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, hai bên có hai hàng chữ thẳng đứng mang nội dung như sau: Tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa và bên đối diện là: Hy sinh kiếp sống giúp con người. Để diễn tả cuộc đời linh mục của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Đã sống hết mình phục vụ Thiên Chúa và bảo vệ đàn chiên do người chăn dắt và chịu hy sinh tử đạo.
Trong phần chia sẻ Linh mục Nguyễn Văn Xưa đã công bố Tin mừng của Thánh Mathêu: 5, 43-48 nói về lời Chúa dậy chúng ta phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Trong mùa chay, chúng ta cũng nên sống trong tình tha thứ để cho tâm hồn nhẹ nhàng, có cuộc sống vui và lành mạnh, cùng được hưởng những ân sủng mà làm con cái Thiên Chúa, hưởng ơn cứu độ mùa Phục Sinh.
Nhân ngày giỗ của Cha Phanxicô Xavier, cha cũng chia sẻ qua tiểu sử của Ngài khi còn coi sóc Họ Đạo Tắc Sậy cách nay gần 80 năm trước, với trọng trách của một linh mục, Ngài luôn sống cùng con chiên và chịu chết để bênh vực cho họ.
Ngày nay, rất nhiều người biết đến danh cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp, từ trong nước, cũng như nơi hải ngoại, từ người Công Giáo cho đến lương dân, họ biết đến ngài qua sự giúp đỡ bằng lời cầu bầu cùng Thiên Chúa ban những ơn lành, để họ vượt qua những khó khăn, thử thách. Mỗi khi gặp gian nan họ đều chạy đến ngài xin giúp đỡ xin ơn lành. Hình ảnh một linh mục Công Giáo đã được cả giáo dân và lương dân đặt trên bàn thờ như một sự tri ân. Giáo dân Melbourne hằng năm vẫn tổ chức lễ giỗ để cảm tạ Thiên Chúa và cầu nguyện cho Cha Phanxicô.
Trong phần cuối lễ, Bà Đỗ Thị Nhơn đã thay mặt ban đại diện, lên cám ơn quý cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể cộng đoàn, quý ân nhân đã bớt chút thời gian về hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn, và bằng cách này cách khác giúp đỡ cho ban đại diện có điều kiện tổ chức Thánh lễ cũng như có thêm tài chánh để làm những việc từ thiện, giúp đỡ những người tàn tật, cơ nhỡ, bệnh hoạn, đang chịu khổ đau ở quê nhà. Số tiền tuy không nhiều, nhưng cũng góp phần xoa dịu các nỗi đau cả về vật chất cũng như tinh thần của nhiều anh em kém may mắn hơn chúng ta nơi quê nhà.
Ban tổ chức đã cho chiếu slide show hình ảnh xem qua màn ảnh lớn, những nơi mà ban đại diện đã giúp đỡ, gửi qùa. Tổng số tiền mà quý ân nhân hảo tâm đã tặng trong niên khóa 2013, và ban tổ chức cũng đã chi dùng toàn bộ số tiền có được để giúp qua các cơ quan từ thiện nuôi dưỡng trẻ bất hạnh, tàn tật kém may mắn hơn chúng ta.
Dịp này, ban tổ chức cũng có một món qùa là những đĩa CD và chuỗi Mân côi do những gia đình hảo tâm gửi tặng để làm món qùa tinh thần được trao tận tay đến mọi người.
Sau Thánh lễ, từng đoàn người đã lên viếng ảnh Cha Phaxicô Xavier Trương Bửu Diệp và đọc kinh cầu nguyện và xin khấn. Riêng ban tổ chức năm nay cũng như mọi năm, có tổ chức bữa tiệc nhỏ, để cảm ơn và là nhịp cầu nối kết mọi người, được mọi người nhiệt tình tham dự trong tình thương yêu.
Cuối cùng ban tổ chức đã cho bán xổ số gây quỹ làm từ thiện để giúp đỡ những người kém may mắn nơi quê nhà. Được mọi người nhiệt liệt tham gia hưởng ứng.
Melbourne Ngày 15-03-2014.
Bế giảng tuần tập huấn Giáo lý viên giáo hạt Đông Tháp tại giáo xứ Nghi Lộc
Giáo xứ Nghi Lộc
09:12 16/03/2014
Sáng thứ Bảy, ngày 15.03.2014, tại thánh đường giáo xứ Nghi Lộc đã diễn ra chương trình tổng kết, thánh lễ và nghi thức bế giảng tuần tập huấn Giáo lý viên của giáo hạt Đông Tháp.
Như tin chúng tôi đã đưa, đợt tập huấn này khai mạc vào ngày thứ Hai 10.03.2014 và đã diễn ra trong thời gian một tuần. Trong suốt một tuần qua, các thầy cô Giáo lý viên đến từ các giáo xứ Phi Lộc, Phú Linh, Xuân Phong, Trung Song, Vĩnh Hoà và giáo xứ chủ nhà đã được Ban giảng huấn là các giảng viên của Giáo phận bồi dưỡng, cung cấp nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm giảng dạy.
Xem Hình
Được biết, để chuẩn bị cho khóa huấn luyện này, Cha quản xứ JB. Đinh Công Đoàn và HĐMV giáo xứ Nghi Lộc đã lo lắng chu đáo từ trước. Theo đó, ngoài các ban phục vụ tại trường giáo lý Thiên Khải Đường thì mỗi gia đình ở gần nhà thờ đón từ 3 - 4 học viên ở xa về trú ngụ và ăn uống, sinh hoạt cùng gia đình trong suốt thời gian diễn ra đợt tập huấn.
Thánh lễ bế mạc diễn ra lúc 10 giờ sáng. Thánh lễ do Cha Phêrô Nguyễn Xuân Chính, quản xứ Phú Linh, chủ tế. Cùng đồng tế có Cha JB. Đinh Công Đoàn, giáo xứ chủ nhà; Cha JB. Nguyễn Thụy Sỹ, quản xứ Phi Lộc; Cha quê hương Giuse Nguyễn Văn Hiệu, quản xứ Xuân Phong; Cha Antôn Hồ Hữu Thông OP, quản xứ Trung Song, cùng các thầy cô Giáo lý viên tham dự khóa huấn luyện và đông đảo bà con giáo dân Nghi Lộc.
Trước khi bắt đầu thánh lễ, đã diễn ra chương trình tổng kết khóa huấn luyện. Đại diện các thầy cô Giáo lý viên gửi lời cám ơn đến quý Ban giảng huấn, cám ơn tinh thần quảng đại và nhiệt thành của Cha quản xứ, Hội đồng mục vụ và cộng đoàn giáo xứ Nghi Lộc. Chính tinh thần quảng đại của Cha quản xứ và cộng đoàn nơi đây với hơn 2700 giáo dân là một điều kiện quan trọng làm nên thành công của khóa học.
Sau thánh lễ, nghi thức Sai đi diễn ra với những cử hành sống động, đầy ý nghĩa. Cha chủ tế đã trao Kinh Thánh và nến sáng cho các thầy cô như là những hành trang thiết yếu trên hành trình sứ vụ mà các thầy cô được mời gọi dấn thân.
Một tuần lễ tập huấn thật ngắn ngủi! Sau ngày đầu bỡ ngỡ và lạ lẫm, các học viên đã thực sự được thấm nhuần các bài học, các bài thực hành về nhân bản Kitô giáo, suy chiêm Lời Chúa, chia sẻ thiêng liêng, được thực tập đứng lớp và những cách thức để tìm hiểu, giảng dạy giáo lý cách hữu hiệu…
Thánh lễ bế giảng đầy ắp tình Chúa và tình người, cùng nghi thức Sai đi trang trọng và ý nghĩa, như một khởi điểm mới. Mỗi người như được tái sinh, được mặc lấy tinh thần, khí thế mới thúc bách dấn thân, yêu mến và phục vụ.
Như tin chúng tôi đã đưa, đợt tập huấn này khai mạc vào ngày thứ Hai 10.03.2014 và đã diễn ra trong thời gian một tuần. Trong suốt một tuần qua, các thầy cô Giáo lý viên đến từ các giáo xứ Phi Lộc, Phú Linh, Xuân Phong, Trung Song, Vĩnh Hoà và giáo xứ chủ nhà đã được Ban giảng huấn là các giảng viên của Giáo phận bồi dưỡng, cung cấp nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm giảng dạy.
Xem Hình
Được biết, để chuẩn bị cho khóa huấn luyện này, Cha quản xứ JB. Đinh Công Đoàn và HĐMV giáo xứ Nghi Lộc đã lo lắng chu đáo từ trước. Theo đó, ngoài các ban phục vụ tại trường giáo lý Thiên Khải Đường thì mỗi gia đình ở gần nhà thờ đón từ 3 - 4 học viên ở xa về trú ngụ và ăn uống, sinh hoạt cùng gia đình trong suốt thời gian diễn ra đợt tập huấn.
Thánh lễ bế mạc diễn ra lúc 10 giờ sáng. Thánh lễ do Cha Phêrô Nguyễn Xuân Chính, quản xứ Phú Linh, chủ tế. Cùng đồng tế có Cha JB. Đinh Công Đoàn, giáo xứ chủ nhà; Cha JB. Nguyễn Thụy Sỹ, quản xứ Phi Lộc; Cha quê hương Giuse Nguyễn Văn Hiệu, quản xứ Xuân Phong; Cha Antôn Hồ Hữu Thông OP, quản xứ Trung Song, cùng các thầy cô Giáo lý viên tham dự khóa huấn luyện và đông đảo bà con giáo dân Nghi Lộc.
Trước khi bắt đầu thánh lễ, đã diễn ra chương trình tổng kết khóa huấn luyện. Đại diện các thầy cô Giáo lý viên gửi lời cám ơn đến quý Ban giảng huấn, cám ơn tinh thần quảng đại và nhiệt thành của Cha quản xứ, Hội đồng mục vụ và cộng đoàn giáo xứ Nghi Lộc. Chính tinh thần quảng đại của Cha quản xứ và cộng đoàn nơi đây với hơn 2700 giáo dân là một điều kiện quan trọng làm nên thành công của khóa học.
Sau thánh lễ, nghi thức Sai đi diễn ra với những cử hành sống động, đầy ý nghĩa. Cha chủ tế đã trao Kinh Thánh và nến sáng cho các thầy cô như là những hành trang thiết yếu trên hành trình sứ vụ mà các thầy cô được mời gọi dấn thân.
Một tuần lễ tập huấn thật ngắn ngủi! Sau ngày đầu bỡ ngỡ và lạ lẫm, các học viên đã thực sự được thấm nhuần các bài học, các bài thực hành về nhân bản Kitô giáo, suy chiêm Lời Chúa, chia sẻ thiêng liêng, được thực tập đứng lớp và những cách thức để tìm hiểu, giảng dạy giáo lý cách hữu hiệu…
Thánh lễ bế giảng đầy ắp tình Chúa và tình người, cùng nghi thức Sai đi trang trọng và ý nghĩa, như một khởi điểm mới. Mỗi người như được tái sinh, được mặc lấy tinh thần, khí thế mới thúc bách dấn thân, yêu mến và phục vụ.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Người Việt đang sống trong hòa bình?
Hà Minh Thảo
13:15 16/03/2014
(Tiếp theo)
III.- XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN.
Nhà nước pháp quyền thực thi nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy quyền làm chủ đất nước, xã hội và làm chủ nhà nước. Nhà nước phải bảo đảm và phát triển quyền làm chủ của người dân quy định bởi Hiến pháp và luật lệ.
Đảng cộng sản Việt Nam tạo ra nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo là để tạo môi trường cho đảng viên tham nhũng công quỷ, do dân đóng thuế. Các tập đoàn, công ty quốc doanh nuôi béo đảng cộng sản, trong lúc đồng bào lao động chắt mót từng đồng trong khó khăn và cực nhọc. Tin Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) làm ăn ‘thua lỗ’ làm thâm thủng công quỷ hơn 86.565 tỷ đồng. Ngày 01.11.2010, khi thảo luận kinh tế và xã hội tại Quốc hội, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đã yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên chính phủ có liên quan đến vụ Vinashin, kể cả Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì ông đã bổ nhiệm Chủ tịch Vinashin Nguyễn Thanh Bình, người bị bắt vì trách nhiệm món nợ của tập đoàn này, lên tới 4,3 tỷ mỹ kim (tin RFI online cùng ngày). Cuối cùng, không viên chức chính phủ nào chịu trách nhiệm. Do đó, có một Tập đoàn thâm thủng công quỷ thì cũng đã xảy ra Tổng Công ty nhà nước thứ nhì…
Đó là Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vietnam National Shipping Lines -Vinalines). Tháng 9.2011, Thanh tra Chính phủ công bố quyết định chính thức về việc thanh tra việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý và sử dụng vốn, tài sản tại Vinalines. Ngày 06.02.2012, khi C48 (Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng) đang tiến hành điều tra vụ án ‘tham ô’, ‘cố ý làm trái…’ tại Vinalines, ông Dương Chí Dũng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vinalines, được Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 142 cho thôi giữ chức Chủ tịch HĐQT Vinalines để Bộ trưởng Giao thông Vận tải bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam. Việc sử dụng nguồn vốn huy động này từ trái phiếu sai mục đích, quản lý nguồn vốn, quản lý nợ phải thu chưa tốt, có khoản nợ với số tiền 23.062 tỉ đồng (trên 1 tỷ mỹ kim) kéo dài nhiều năm chưa thu được và có nguy cơ không thu được.
(Xin xem nội vụ Vinalines và bản án sơ thẩm dành cho họ tại địa chỉ : http://vietcatholic.net/News/Html/121106.htm ). Từ đó, phát sinh ra vụ án 'cố ý làm lộ bí mật nhà nước' liên quan đến thượng tướng Phạm Quý Ngọ, cần phải điều tra trong tình trạng tế nhị vì ông là Ủy viên Trung ương Đảng, một cơ quan đầy quyền lực đảng cộng sản. Do đó, muốn khởi tố điều tra, đảng và chính phủ phải thực hiện các điều sau đối với ông Ngọ :
- Khai trừ khỏi vị trí ủy viên trung ương đảng ;
- Khai trừ các chức vụ đảng trong đảng ủy bộ công an ;
- 'Miễn nhiệm' chức vụ thứ trưởng bộ công an ;
- Đình chỉ công tác ;
- Khai trừ khỏi đảng.
(Đây là nguyên tắc, nhưng 16 đồng chí Bộ Chính trị có quyền ‘đốt giai đoạn’.)
Căn cứ vào những lời ông Dương Chí Dũng, ông Ngọ phải bị khởi tố ít nhất 5 tội danh sau:
- Nhận hối lộ: Ít nhất là 1,5 triệu mỹ kim ;
- Bao che, tiếp tay cho tội phạm bỏ trốn, nhờ cương vị trưởng ban chuyên án điều tra Vinalines, ông đã thông cung để ông Dương Chí Dũng trốn đi ;
- Không tố giác tội phạm ;
- Cố ý lộ bí mật công tác ;
- Làm sai lệch kết quả điều tra: các cán bộ dưới quyền ông Ngọ đã ép cung, đe dọa, làm sai lệch những lời khai liên quan đến tướng Ngọ.
Khoảng giữa tháng 02.2014, bộ ảnh thật đầy đủ về đám cưới xa hoa của ông Phạm Mạnh Hùng, con trai thứ trưởng bộ Công an Phạm Quý Ngọ, được tung lên Internet tại : http://www.youtube.com/watch?v=bOT52Yhvv_Y và http://www.youtube.com/watch?v=9wCUfswn9FM . Đám cưới diễn ra tại khách sạn 5 sao J.W. Marriott, sang trọng bậc nhất Hà nội nằm trong Trung tâm Hội nghị Quốc gia và Hội trường Ba Đình, ngày 11.12.2013, độ một tháng trước ngày tướng Ngọ bị 'ngã ngựa'. Cả tướng Ngọ lẫn ông Hùng đều được ông Dương Chí Dũng nêu đích danh trong lời khai về các khoản hối lộ, chạy án vụ Vinalines hôm 07.01.2014 tại tòa. Ông Hùng được tố là đã dẫn ông Dương Chí Dũng đến nhà riêng đại tá Trần Duy Thanh - cục trưởng C48 để ông Dũng hối lộ đại tá Thanh 20,000 mỹ kim để nhờ chạy án : « Tôi nhờ anh Hùng, con trai anh Ngọ, dẫn đến nhà anh Thanh. Tối 06.05, tôi đến nhà anh Ngọ, tôi điện cho Hùng nhờ dẫn sang nhà anh Thanh. Tôi gặp anh Thanh, đưa quà cho anh Thanh 20.000 mỹ kim và một chai rượu. Tôi biếu anh Thanh với mục đích anh giúp tôi trong việc bị triệu tập điều tra việc mua ụ nổi 83M ». Sự kiện này tố cáo sự giàu sang, vượt xa lương bổng của một tướng công an…
Ngày 17.02.2014, báo chí trong nước loan tin Ban Nội chính Trung ương cho biết Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ có thể bị tạm đình chỉ công tác để đảm bảo việc điều tra về những tố cáo của Dương Chí Dũng mà Tòa án Hà nội đã khởi tố vụ án ‘Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước’ do liên quan đến người đã mật báo cho ông Dũng bỏ trốn. Ông Phạm Anh Tuấn, Phó ban Nội chính Trung ương, khi được hỏi về khả năng tạm đình chỉ công tác của ông Ngọ để bảo đảm cho việc điều tra, đã nói ‘Về nguyên tắc thì phải tạm đình chỉ, nhưng do ông Ngọ đang bệnh nặng nên việc này nhạy cảm’. Đây là lần đầu tiên một quan chức Việt Nam khẳng định ông Ngọ ‘đang bị bệnh nặng’ (tin RFI cùng ngày).
Ngày 18.02.2014, bản tin PetroTimes, lúc 19 giờ 58, đã loan tin ‘tướng Ngọ đã từ trần vào hồi 21h20 ngày 18/2. (Vào lúc 16h30, tim của tướng Phạm Quý Ngọ đã ngừng đập. Nhưng được các bác sĩ khoa cấp cứu A11 Bệnh viện Quân đội Trung ương 108 hồi sức tích cực, nên trái tim đã đập trở lại. Tuy nhiên, đến 21h20 thì ngừng hẳn). Ông Ngọ từ ba tháng nay đã chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác.’ Sự kiện nhanh nhẹn loan tin này (lúc 19 giờ 58 đưa tin xảy ra lúc 21 giờ 20) của PetroTimes đã tạo cơ hội cho ‘người ta’ đặt điều nghi ngờ trước cái chết của tướng Ngọ, như phải chăng Nguyễn Như Phong, được ai đó trong ‘nhóm lợi ích’ có liên quan tội trạng vội báo ‘tin mừng’ là đã ‘xử lý’ xong tướng Ngọ, giữa lúc họ đang rất cần giành lại thế thượng phong, bằng tận dụng cả công vụ tuyên truyền? Ngoài ra, giờ ‘từ trần’ của tướng Ngọ, PetroTimes đã ‘rất khác’ với báo Công an nhân dân đăng ‘Đồng chí Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an do lâm bệnh nặng, đã từ trần vào hồi 21h05 ngày 18/2/2014 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108’ và chỉ loan đi vào lúc 7 giờ 30 ngày 19.02.2014.
Bản tin đài RFI (Pháp) ngày 18.02.2014, với tựa đề ‘Những câu hỏi đặt ra sau cái chết của ơng Phạm Quý Ngọ’ đã cho biết : Ông sinh năm 1954 tại Thái Bình, được dư luận biết nhiều qua việc xử lý vụ nổi dậy ở Thái Bình năm 1997, vụ cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng vào đầu năm 2012. Với cái chết của ông, ngón đòn cuối cùng ‘phe bảo thủ’ đánh vào ‘phe lợi ích’, nhiều câu hỏi đã được đặt ra. Trước hết, đây có phải là một cái chết bình thường hay không ? Và tại sao cái chết này lại xảy ra ngay sát thời điểm Ban Nội chính Trung ương tuyên bố có thể đình chỉ công tác đối với ông Ngọ ? Như vậy với việc ông qua đời, có nghĩa là một đầu mối điều tra hết sức quan trọng có khả năng bị bế tắc hoàn toàn, không thể dẫn tới một ‘siêu án’ như dư luận đang chờ đợi. Liệu đây có phải là ‘cú thoát hiểm ngoạn mục’ của phe lợi ích, và từ nay phe này sẽ chuyển sang phản công ?
Sau khi ông Phạm Quý Ngọ qua đời, vấn đề được không ít người đặt ra là “Đình chỉ vụ án ‘Làm lộ bí mật Nhà nước’ hay không ?”. Luật tố tụng hình sự quy định : « Khi đã khởi tố vụ án mà chưa khởi tố bị can, tức chưa xác định được người bị tố cáo có phạm tội hay không. Vì vậy, khi người này qua đời, vụ án vẫn được cơ quan có thẩm quyền tiếp tục điều tra để xác định các đối tượng liên quan ». Trong trường hợp này, ông Dương Chí Dũng tố cáo ông Ngọ mật báo cho ông bỏ trốn ra nước ngoài, cơ quan tố tụng mới khởi tố vụ án theo điều 286 Bộ luật hình sự để điều tra nhưng chưa khởi tố bị can, tức chưa khẳng định ông Ngọ có liên quan trong vụ án này hay không. Do đó, sau khi ông Ngọ chết, cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra vụ án như đã khởi tố để tìm ra người nào báo tin cho Dương Chí Dũng. Nếu xác định được dấu hiệu tội phạm ở những nghi can khác, cơ quan điều tra có thể khởi tố bị can đối với những người này. Nếu ông Ngọ được xác định là nghi can duy nhất của vụ án, nay ông Ngọ đã chết, cơ quan điều tra phải ban hành quyết định đình chỉ vụ án, kết thúc điều tra, theo điều 107 Luật Tố tụng hình sự quy định.
Trong trường hợp ‘chết là hết chuyện’ như nhiều người đang hí hửng vang xin như vậy thì thật tội nghiệp cho ông Ngọ khi ‘tâm nguyện ông là mong được cơ quan chức năng minh oan cho’, nhưng các đồng chí của ông chỉ muốn ‘đình chỉ vụ án’ mà thôi. Do đó, người ta đã dành cho ông một đám táng linh đình để đền bù. Tình nghĩa ‘côn(g) an’ chỉ có thế mà thôi !!!
IV.- NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM DO NHÂN DÂN LÀM CHỦ.
Đó là những chữ mà chúng ta đọc tại Điều 2 Hiến pháp 2013 có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2014 ‘Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân’. Ngoài ra, Điều 3 ghi ‘Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…’. Thêm vào đó, Điều 4 còn cho phép ‘Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình’. Nhưng, một tình huống bi hài đã diễn ra trong đời sống xã hội Việt Nam khi người dân thực hành hai điều đầu trên, nói chi đến điều 4 khẳng định ‘Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’.
Chiếu điều 4 này, các đại biểu Quốc hội đã ‘vâng lịnh’ biểu quyết Luật Hình sự cho phép các quan chức nhà nước bắt và xử tù người dân bởi các điều 79 (lật đổ), 87 (phá hoại đoàn kết), 88 (tuyên truyền chống nhà nước), 89 (phá rối an ninh) và 258 (xâm phạm lợi ích nhà nước) đang gia tăng đáng kể. Do đó, Bộ công an có đến khoảng 180 tướng (trong có một gái Thiếu tướng Bùi Tuyết Minh, Giám đốc Công an Kiên Giang), đông nhất thế giới. Do ‘lạm phát’ và tàn bạo với đồng bào, nên người dân gọi là ‘côn an’ và, trong buổi UPR (xem dưới đây), Đại diện Mozambique đề nghị Việt Nam nên huấn luyện công an về Nhân quyền (trong ngôn ngữ ngoại giao, đó có nghĩa là : công an vi phạm nhân quyền vì vô học thức).
Buổi Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR, http://vietcatholic.net/News/Html/121269.htm ) về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam vào lúc 14 giờ 30 và kéo dài khoảng 3 tiếng rưỡi, ngày 05.02.2014 tại trụ sở Liên hiệp quốc Genève (Thụy sĩ), dưới sự điều hợp chủ tọa của ‘troika’, gồm ba quốc gia: Kazakhstan, Kenya và Costa Rica. 107 quốc gia thành viên Liên hiệp quốc đã lên tiếng góp ý.
Trước đó, ngày 04.02.2014, nhiều thanh niên nam nữ thuộc các tổ chức dân sự độc lập (Mạng lưới Blogger Việt Nam, Dân làm báo, Con đường Việt Nam, Phật giáo Hòa hảo Truyền thống, No-U Việt Nam, Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị-Tôn giáo Việt Nam và VOICE, đã có những nỗ lực nhằm vận động quốc tế lên tiếng mạnh mẽ hơn về tình trạng nhân quyền Việt Nam nhân dịp 'Ngày Việt Nam' tại trụ sở Liên hiệp quốc với sự hiện diện của phái đoàn Costa Rica (thuộc nhóm Troika) và sự tham dự của nhiều phái đoàn ngoại giao và các tổ chức quốc tế. Chân thành cám ơn những bạn trẻ đã dấn thân nói Sự Thật, một yếu tố của Hòa bình.
Sau phát biểu khai mạc của vị Chủ tọa, phái đoàn Việt Nam gồm khoảng 16 người đọc bản báo cáo lối 20 trang, tuyên truyền về cái gọi là 'thành tích nhân quyền' của chính phủ. Thứ trưởng ngoại giao Hà Kim Ngọc nhấn mạnh những thành tựu Nhà nước đã đạt trong việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền. u tiên hàng đầu Việt Nam là phát triển kinh tế-xã hội, kiện toàn hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền con người và xây dựng nhà nước pháp quyền. Sự kiện thông qua hiến pháp năm 2013 rất quan trọng trong đời sống chính trị đất nước.
{Hiến pháp này có từ năm 1992, nhưng chưa được thực thi. Nguyên do, Quốc hội bao gồm những đại biểu không biết viết Đề nghị luật, chỉ chờ biểu quyết những Dự luật do chính phủ chuyển sang theo lệnh Đảng. Vương quốc Anh không có Hiến pháp thành văn, nhưng sinh hoạt dân chủ diễ ra một cách tuyệt hảo. Ngoài ra, Việt Nam là một nước Cộng hòa, nhưng con cái các quan chức cao cấp đang chuẩn bị ‘nối ngôi cha’ như tại Bắc Hàn.}
Trong phiên họp, đa số các quốc gia kiến nghị Việt Nam :
- bảo đảm quyền tự do ngôn luận cả trên mạng và ngoài đời ;
- sửa đổi Bộ luật Hình sự và bổ sung các điều luật liên quan theo hướng bảo vệ nhân quyền ;
- tiến tới giảm án tử hình ;
- tiếp tục chủ động tham gia các cơ chế nhân quyền, nhất là cơ chế bảo vệ quyền phụ nữ và chống buôn người.
Đặc biệt, Đại diện Mỹ phát biểu rất nhanh : « Chúng tôi cảm ơn bài diễn văn của đoàn Việt Nam, cũng như hoan nghênh việc Viêt Nam ký Công ước Chống Tra tấn và có những bước đi trong việc cải thiện quyền của người đồng tính (LGBT). Tuy nhiên, chúng tôi lo ngại vì Việt Nam vẫn tiếp tục sách nhiễu và bắt giam những người thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp; tiếp tục hạn chế tự do tôn giáo, sách nhiễu các nhà thờ, công đoàn độc lập, và thực hiện lao động cưỡng bức. ngăn chặn khối xã hội dân sự tham gia tiến trình UPR. Chúng tôi kiến nghị:
1. Việt Nam xem xét lại tất cả các đạo luật mơ hồ
2. Việt Nam trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân lương tâm, đặc biệt là: Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Điếu Cày, và Trần Huỳnh Duy Thức...
3. Thúc đẩy quyền của người lao động, và khẩn trương ký phê chuẩn Công ước Chống Tra tấn ».
Chiều ngày 07.02.2014, Nhóm Công tác (the Working Group) thuộc UPR, chu kỳ II Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc họp tại Genève (Thụy sỹ) đã trao cho Việt Nam 227 Điểm khuyến nghị yêu cầu xem xét để bảo vệ Nhân quyền, trong đó có 5 lĩnh vực quan trọng cần được thực thi ngay là:
1) Tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí trên Internet và bên ngoài, tự do hội họp ;
2) Quyền tự to tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt của các sắc dân thiểu số ;
3) Hủy bỏ án tử hình hoặc xét lại hình phạt quá nặng này đối với các tội phạm Kinh tế vá các tội không nghiêm trọng khác ;
4) Hủy bỏ hoặc tu chính các Điều 79, 88, 258 mơ hồ và bị lạm dụng nhằm hạn chế tự do của Bộ Luật hình sự ;
5) Yêu cầu sửa lại hai Nghị định 72 và 174 vì đã hạn chế và kiểm soát hoạt động của Truyền thông Xã hội và các Tổ chức Phi Chính phủ. Yêu cầu sớm có Luật quy định quyền tự do hội họp và biểu tình ôn hòa phù hợp với Công ước Quốc tế về quyền Công dân và Chính trị.
Xin nhắc lại : Năm 2009, trong Chu kỳ I của ‘Cơ chế kiểm định kỳ phổ quát’ chỉ có 123 yêu cầu của 60 nước tham dự. Việt Nam chỉ chấp nhận thi hành 96 đề nghị.
(Còn một bài đặc biệt về trường hợp Luật sư Công Giáo Lê Quốc Quân).
Gần bốn mươi năm qua!
lykhách
20:34 16/03/2014
Đảng của các ông đã mang lại những gì cho đất nước?
Sau khi chiếm Miền Nam, cả nước thêm nhiều trại giam
Đứa tiểu nhân thắng cuộc bắt đầu trả thù bên thua cuộc!
Miền Nam đã khá tự do và văn minh trước khi các ông vào
Chỉ vài phần trăm trong số hơn hai mươi triệu dân Miền Nam tin vào đảng cộng sản lãnh đạo
“Bác Hồ vĩ đại” của các ông thời ấy Miền Nam chỉ những thằng điên mới tự xưng bác- cháu?
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa quá nghèo đói, lạc hậu so với Miền Nam văn minh, có chi đáng tự hào?
Dưới chiêu bài đánh Mỹ-Ngụy, các ông làm tay sai cho cộng sản Nga, Tàu
Chúng giúp súng đạn, đảng đẩy tuổi trẻ vào Nam gieo rắc xương máu
Pháo kích, đặt mìn…kích động hận thù vì một chủ thuyết vô nhân bất đạo
Mụ mị tuyên truyền lũ cho lũ cộng sản quốc tế Lê-nin, Sịt-ta-lin, Mao…
Năm 1975, than ôi! thằng ác thắng kẻ lành!
Bắc vào Nam, dân dần dần hiểu đảng đã tuyên truyền lưu manh
Hơn hai mươi năm nội chiến máu xương cho một thứ nhân danh thần thánh
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa man rợ đã nhuộm đỏ một Miền Nam nhân bản, văn minh
Như Miền Bắc sau Năm-Tư, đảng phát động đấu tố ở Miền Nam sau Bảy-Lăm
Phân rẽ giai cấp, réo gọi hận thù giữa những tầng lớp nhân dân
Thay vì tình nghĩa đồng bào nên hòa giải bên thua - bên thắng trận
Đảng đã chọn trả thù, theo Tàu, đấu tranh giai cấp chia rẽ nhân dân!
Đảng khiến người thành thú người với nhau - hơn triệu người đã bỏ nước ra đi
Trên những con thuyền mong manh mạng chuông treo mành chỉ
Lũ hải quan, công an, hải tặc… nhan nhãn hiện thân dã man bầy ác quỷ
Cướp giết, hãm hiếp…có lẽ đã hơn triệu người mất xác trong cuộc di tản thế kỷ
Lịch sử đẫm đầy trang máu lệ, nghẹn ngào!
Cha ông xưa dẫu thắng ngoại xâm vẫn tâm niệm rằng:
“Lấy chí nhân mà thay cường bạo
Đem chính nghĩa để thắng hung tàn!”
Đảng đã chọn trả thù mà thay lòng nhân đạo
Đem chủ nghĩa cộng sản quốc tế để tiêu diệt nghĩa tình dân tộc Việt Nam!
Những thuyền nhân mà một thời đảng gọi là “bọn phản quốc”
“Bám chân đế quốc, bơ thừa sữa cặn” đảng đã lớn tiếng sỉ nhục
Bây giờ đảng gọi họ là “Kiều bào thân yêu - ngàn dặm xa khúc ruột!”
Như xưa nay vẫn thế - đảng quen kiểu tự nhổ rồi liếm nuốt!
Gần bốn mươi năm nhưng hận thù chưa thể hàn gắn được
Bởi đảng vẫn kiểu gian manh, dốt nát, hẹp dạ tiểu nhân
Hỏi ai lưu vong mà không từng xót xa thương dân nhớ nước
Muốn làm hòa với Việt kiều ư? trước hết đảng hãy tử tế với chính nhân dân!
Ai có thể tin khi đảng vẫn đối xử tàn độc với chính dân mình
Hèn với giặc - ác với dân…bầy đàn lợi ích riêng cấu kết làm thinh
Nhân danh quy hoạch vĩ mô để cướp đất dân nghèo…
…để bọn chủ ngoại quốc cỡi cổ đè đầu tầng lớp công nhân trên chính quê hương mình thất thế
Xem quả biết cây - hãy chỉ cho thấy đâu là cái vĩ đại của đảng, của tư tưởng Hồ Chí Minh?
Chắc chắn rồi một ngày đảng sẽ bị tiêu diệt, xác ướp sẽ được đem chôn
Hãy thức tỉnh hỡi bầy đàn lãnh đạo bất lương
Thứ chủ nghĩa mà lương tri nhân loại giờ ghê tởm
Đảng ký sinh trùng vẫn cố bám vào xương máu, mồ hôi, nước mắt nhân dân!
Gần bốn mươi năm các ông thống nhất Việt Nam
Đất nước chẳng độc lập, dân không tự do và ngày càng vô phúc
Đảng ngày càng khiếp nhược trước giặc Tàu thủ đoạn gian tham
Bịt miệng nhân dân, cúi đầu trước quốc nhục!
(Than ôi! nội xâm câu kết với ngoại xâm - hỏi bao giờ mất nước?!)
Gần bốn mươi năm đảng thống nhất giang san
Hỏi có bao giờ như thời này: xã tắc suy vong, con người ăn chơi, ơ thờ quên chung nhục?!
Hỏi cái gì đã làm cho đảng các ông bà ngày càng đâm ra khiếp nhược?
Hễ thêm hèn với giặc lại càng ác với dân, đảng hiện rõ hình sâu bầy hại nước!
Sâu bọ câu kết lắm kiểu, nhiều bầy, ngày càng giầu ra
Càng tham của dân ắt càng sinh hèn hạ
Nông dân lún sâu kiếp cơ cực không thoát cảnh ăn đong vất vả
Công nhân nô lệ đời áo cơm vào đám chủ ngoại kiều câu kết với bầy tư bản đỏ
Trên đất nước, biển, rừng… giờ nhan nhãn bầy Tàu quen Tàu lạ
Hỏi đảng đã làm gì gần bốn mươi năm qua?
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hôn nhân bất khả tiêu: trả lời luận điểm muốn xét lại vấn đề (1)
Vũ Văn An
23:57 16/03/2014
Bài này là để trả lời bài của Kenneth Himes và James Coriden đăng trên số tháng Chín năm 2004 của tập san Theological Studies nói về việc nên xem sét lại giáo huấn về tính bất khả tiêu của hôn nhân, mà chúng tôi đã trình bày trong bốn phần liên tiếp trên Vietcatholic dưới tiêu đề Cuộc Tranh Luận Về Tính Bất Khả Tiêu của Hôn Nhân.
Tác giả bài này là Peter F. Ryan, S.J. và German Grisez. Linh mục Ryan, S.J., tháng Năm 2013 vừa qua, được đề cử làm giám đốc điều hành Văn Phòng Tín Lý và Giáo Luật Sự Vụ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Ngài vốn là giám đốc huấn luyện linh đạo và là giáo sư thần học luân lý tại chủng viện Kenrick-Gennon ở St. Louis từ tháng Giêng, năm 2012. Và trước đó, ngài là giáo sư thần học luân lý tại chủng viện Mount St. Mary’s ở Emmitsburg, Maryland, từ năm 2001 tới năm 2011 và là giáo sư phụ tá về thần học tại Học Viện Loyola tại Maryland, 1994-2001.
Cha Ryan có bằng thạc sĩ (licentiate) và tiến sĩ thần học của ĐH Gregorian tại Rôma; bằng cao học thần học tại Regis College, Toronto; cao học văn chương Anh và thạc sĩ triết học tại ĐH Gonzaga ở Spokane; và bằng cử nhân chính trị học tại Học Viện Loyola ở Maryland.
Ngài là thành viên của Hiệp Hội Học Giả Công Giáo, và phục vụ hội đồng điều hành của tổ chức này ba nhiệm kỳ. Ngài cũng là học giả nghiên cứu của Viện Westchester về Đạo Đức Học và Con Người Nhân Bản, thành lập năm 1998 để đổi mới, đào sâu và phát huy truyền thống tư duy luân lý tại Tây Phương.
Cha Ryan viết rất nhiều về các vấn đề đạo đức học và thần học trên các tạp chí bác học như Theological Studies, Fellowship of Catholic Scholars Quarterly, Homiletic and Pastoral Review, the National Catholic Bioethical Quarterly, American Catholic Philosophical Quarterly và American Journal of Jurisprudence. Ngài nói và đọc tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Đức và đọc được cả chữ La Tinh và chữ Tây Ban Nha.
Còn Germain Grisez, sinh năm 1929, là một triết gia Mỹ gốc Pháp. Việc ông khai triển các ý niệm của Thánh Tôma Aquinô đã tái định hướng tư duy Công Giáo và thay đổi phương thức tiếp cận nền triết học luân lý thế tục. Trong cuốn “The First Principle of Practical Reason: A Commentary on the Summa Theologiae, I-II, Q. 94, A. 2” (1965) (Nguyên Tắc Thứ Nhất Của Lý Trí Thực Tiễn: Nhận Định Về Summa Theologiae, câu hỏi 94, điều 2), Grisez tấn công lối giải thích tân kinh viện về Thánh Tôma, vì họ cho rằng các qui luật luân lý được dẫn khởi từ hiểu biết có trước về bản chất con người. Grisez bênh vực ý niệm ý niệm tự do chọn lựa có tính siêu hình và đề xuất lý thuyết luật tự nhiên trong suy luận thực tiễn và phán đoán luân lý.
Ông đậu tiến sĩ triết học tại ĐH Chicago và hiện là giáo sư hưu trí về Đạo Đức Học Kitô Giáo tại ĐH Mount St Mary ở Emmitsburg, Maryland, nơi ông giảng dạy suốt 30 năm từ 1979 tới 2009, sau khi làm giáo sư phụ khảo tại ĐH Georgetown từ năm 1957. Công trình chính của ông tại đây là nghiên cứu và viết bộ “The Way of the Lord Jesus” (3 cuốn). Dù về hưu, ông vẫn cư ngụ trong khuôn viên Đại Học và được sự yểm trợ về mọi mặt của Đại Học.
Ông nổi tiếng trong cuộc tranh luận về ngừa thai giữa thập niên 1960. Ta biết, cuộc tranh luận này nổ ra năm 1963. Grisez vốn tin giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề này đúng và không thể thay đổi. Ông tìm cách giải thích giáo huấn này cách tốt hơn. Năm 1965, ông cho xuất bản cuốn sách đầu tay của mình tựa là Contraception and the Natural Law (Ngừa Thai và Luật Tự Nhiên). Trước khi cho xuất bản, ông nhờ Linh Mục John C. Ford, Dòng Tên, đọc lại bản thảo. Linh Mục Ford vốn là người được Đức Phaolô VI cử vào Ủy Ban Giáo Hoàng về Dân Số, Gia Đình, và Sinh Suất. Thế là, Grisez giúp Linh Mục Ford trong vai trò này từ mùa xuân 1965 tới đầu tháng Bẩy năm 1966. Hai người làm việc toàn thời gian tại Rôma, giúp Ủy Ban hoàn tất nghị trình và soạn thảo bản nhận định về phúc trình sau hết theo lời yêu cầu của Đức HY Alfredo Ottaviani, Bộ Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin hồi ấy.
Ta biết tại Ủy Ban, đa số nghiêng về quan điểm phải thay đổi giáo huấn để cho phép ngừa thai nhân tạo. Linh Mục Ford và Grisez đứng về phe thiểu số, chủ trương duy trì giáo huấn chính thức. Bản nhận định của nhóm Linh Mục Ford, sau này, được gọi là phúc trình của phe thiểu số, nghịch với phúc trình của phe đa số. Kết quả: Đức Phaolô đã nghiêng về phe thiểu số để duy trì giáo huấn chính thống, coi việc sử dụng các phương thế nhân tạo là trái luân lý, trong thông điệp Humanae Vitae ban hành năm 1968.
Việc ban hành trên gây chống đối mãnh liệt tại các xã hội Tây Phương. Tổng Giáo Phận Washington mau chóng trở thành tâm điểm của chống đối, với đa số các linh mục tại đó cho hay: họ muốn gạt giáo huấn của Humanae Vitae qua một bên. Do đó, Đức HY Patrick O’Boyle đã cầu cứu với ĐH Georgetown cho Grisez một năm nghỉ (1968-1969) để giúp ngài “phản công”. Nhờ thế, ông cho xuất bản (1970) tác phẩm: Abortion: The Myths, the Realities, and the Arguments. Do việc làm này, năm 1972, ông và vợ được Đức Phaolô VI ban huy chương Pro ecclesia et pontifice (Vì Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng).
Tiền lệ liên hệ tới thông điệp Humanae Vitae trên đây rất có thể được lặp lại trong những ngày tới. Thực vậy, có người nhận định rằng: bất chấp những đồn thổi và suy đoán nóng bỏng hiện nay liên quan tới cuộc tranh luận về những trường hợp tái hôn của những người Công Giáo ly dị, Đức Phanxicô rất có thể “ngả về phe thiểu số” như Đức Phaolô VI từng làm trước đây năm 1968. Cuộc phỏng vấn mới đây của tờ Corriere della sera hé cho thấy viễn ảnh này có thể trở thành sự thực, vì Đức Phanxicô ca ngợi tính tiên tri và can đảm của Đức Phaolô VI trong thông điệp Humanae Vitae nhằm bảo vệ kỷ luật luân lý.
Chúng tôi xin trình bày nội dung quan điểm của Cha Ryan và của Grisez về tính bất khả tiêu của hôn nhân.
*****
Hai tác giả Kenneth Himes và James Coriden (từ đây tắt là HC) cho rằng “Đối diện với các dữ kiện, người ta sẽ không hợp lý khi quả quyết rằng giáo huấn về tính bất khả tiêu của hôn nhân là một vấn đề phải được coi như một tín điều dứt khoát hay một học lý định tín” (1).
Họ “đưa ra một số xem sét để gợi ý rằng giáo huấn về bất khả tiêu nên được xét lại để có thể cho phép một số ngoại lệ ngay trong các trường hợp đã thành hiệu và hoàn hợp” (2).
Nhưng Cha Ryan và Grisez (từ đây tắt là RG) cho rằng, giáo huấn bất khả tiêu chỉ có thể hoặc đúng hoặc sai mà thôi. Nếu đúng, nó không thể thay đổi được; còn nếu sai, Giáo Hội phải sửa đổi. Dù HC không nói thế, nhưng các luận chứng của họ cho thấy Giáo Hội sai lầm khi đã và đang dạy rằng mọi cuộc hôn nhân thành hiệu và hoàn hợp đều bất khả tiêu. Đối với giáo huấn này, họ viết: “quả là quá mạo muội khi nghĩ rằng… việc xét lại một cách đáng kể là điều không thể có” (3).
Dù có nguy cơ bị coi là mạo muội, RG cũng sẽ biện luận rằng việc xét lại một cách đáng kể quả là điều không thể có. Trong bài này, họ sẽ (a) phê bình luận chứng chính của HC ủng hộ việc khả tiêu; (b) giải thích tại sao việc ưng thuận đối với cuộc hôn nhân giao ước, hoàn hợp là điều không thể thu hồi; (c) xem sét học lý của Thánh Phaolô về bất khả tiêu; (d) xem sét học lý Tin Lành về bất khả tiêu; và (e) lý luận rằng học lý Công Giáo về bất khả tiêu là học lý có tính định tín.
Luận chứng chính của HC đối với tính khả tiêu
Câu đầu tiên trong bài báo của HC là “tan vỡ hôn nhân là một trải nghiệm thông thường trong nền văn hóa của ta” (4). Thuật ngữ “tan vỡ hôn nhân” của HC có ý nói tới điều xẩy ra cho các người Công Giáo ly dị nhưng tái hôn (5).
Nếu cuộc hôn nhân tan vỡ, dây hôn phối có còn không?
HC quả quyết rằng Vatican II đặt hôn nhân vào ngữ cảnh hiện đại và coi nó như “‘một chung chia thân mật đời sống và tình yêu’ mà hai người bước vào nhờ một giao ước (chứ không phải khế ước) trong đó, ‘các người chung chia hiến mình cho nhau cách hỗ tương’” (6). Họ cho rằng quan điểm này phát sinh từ chủ nghĩa lãng mạn hiện đại (7). RG cho rằng đối với HC, hôn nhân khác với các mối liên hệ nhân bản khác; lời thề ước hôn nhân “hướng về cam kết suốt đời” (8). Tuy nhiên, khi thảo luận tới “các giới hạn của cam kết” (9), HC lại đi xem sét các lý do khiến người ta lỡ hẹn một buổi ăn tối. Họ nhận định rằng một vài lý do có thể biện minh cho việc phá vỡ các thỏa thuận loại này, và cho rằng dù các lời thề trong hôn nhân quan trọng hơn các lời hứa hẹn ăn tối, nhưng “khuôn mẫu dùng sự ưng thuận tự do để đưa ra cam kết rồi phá vỡ cam kết ấy thì cũng giống nhau” (10).
HC cũng cho rằng Vatican II “sử dụng ngôn ngữ giao ước (foedus)” và “rời khỏi ngôn ngữ luật pháp về tính bất khả tiêu của hôn nhân” (11). Họ cho rằng tình yêu vợ chồng tạo nên dây liên kết: “liên hệ hữu vị của tình yêu tạo nên sợi dây luân lý đòi vợ chồng phải trung tín với nhau trong tuyên bố cam kết tự hiến của họ” (12). Nghĩa vụ hỗ tương của vợ chồng phát sinh từ cam kết của họ: dây hôn phối “tạo ra ‘một bắt buộc luân lý cố hữu trong kết hợp hôn nhân’. Sự ‘bắt buộc’này là nghĩa vụ luân lý phải giữ các lời hứa của mình, phải đi cho hết các cam kết của mình” (13). Các cam kết này có nghĩa “nhường cho người khác quyền được đòi hỏi trên chính chúng ta, một đòi hỏi phải là và phải làm những gì ta đã hứa hẹn” (14). HC chủ trương rằng “tình yêu vợ chồng trói buộc họ về luân lý, lễ cưới của họ trói buộc họ về dân sự, còn việc tham dự bí tích của họ trói buộc họ về tôn giáo” (15). Họ cho rằng chỉ vợ chồng mới có thể bẻ gẫy sợi dây luân lý, và gợi ý rằng khi họ làm thế, những gì còn lại trong cuộc hôn nhân của họ về luật pháp và tôn giáo thì có thể hủy tiêu (16).
HC cho rằng luật hôn phối của Giáo Hội “ủng hộ quan điểm coi hôn nhân như dây liên kết, chứ không như liên hệ nhân bản, như thể đó là hai thực tại tách biệt: thực tại này hết hiện hữu thì thực tại kia vẫn tiếp tục”. Họ nghĩ rằng cách tiếp cận này tiền giả định “mô thức khế ước về hôn nhân vì mô thức này không đòi hỏi việc thân mật chung chia sự sống”. Họ bảo: “trong mô thức giao ước về hôn nhân, khó mà thấy làm thế nào sợi dây lại thiếu vắng một liên hệ hôn nhân thực sự” (17).
Khi thảo luận về thực tại tính của dây hôn phối, HC quả quyết rằng “Trong các năm qua, trận đồ nhân bản của hôn nhân đã được mô tả khác nhau, nhưng tại Vatican II nó được định tính là việc chia sẻ thân mật sự sống trong một chung sống yêu thương”. Rồi họ đặt một câu hỏi đầy hoa mỹ “Nếu mối liên hệ giữa vợ chồng đã tan vỡ một cách hoàn toàn và không thể phục hồi được nữa thì tính bất khả tiêu bám vào điều gì?” Họ bảo: “theo giáo huấn hiện thời, câu trả lời là dây hôn phối”. Rồi họ hỏi: “Nhưng dây này là gì? Liệu nó có thể hiện hữu tách biệt với thực tại nhân bản là giao ước phu phụ được không?” (18).
Theo RG, khi bắt đầu trả lời cho câu hỏi trên, HC chủ trương rằng “sợi dây là sợi dây của tình yêu vợ chồng và nếu liên hệ vợ chồng đã chấm dứt thì sợi dây cũng chấm dứt theo” (19). Sau đó, họ kết luận “nếu sợi dây không hiện hữu, thì không còn lại điều gì để đặc điểm hay đặc tính bất khả tiêu có thể nói là bám vào được” (20). RG cho rằng luận điểm của HC có thể được tóm tắt như sau: nếu cuộc hôn nhân tan vỡ hoàn toàn, thì không còn lại điều gì có thể có đặc tính bất khả tiêu; nhưng các cuộc hôn nhân đều có thể và đôi lúc thực sự tan vỡ hoàn toàn, thì bất cứ điều gì còn lại trong đó đều hủy tiêu được. Do đó, hôn nhân là điều có thể tiêu hủy.
Truyền thống trước Công Đồng Trent có ủng hộ quan điểm của HC không?
Khi bênh vực quan điểm của mình, HC đưa ra một số nhận xét tổng quát liên hệ tới truyền thống. Họ nhận định rằng: “từ ngữ ‘bất khả tiêu’ liên hệ tới hôn nhân không phải là từ ngữ trong Thánh Kinh” (21). Tuy nhiên, theo RG, những từ như homoousios (đồng bản tính) và hypostasis (ngôi) cũng không có trong Thánh Kinh, nhưng các tín điều sử dụng những từ đó để minh giải các sự thật mạc khải. HC cũng cho rằng “không có hệ thống luật lệ nào qui định hôn nhân trong Giáo Hội tiên khởi cả” (22). Tuy nhiên, theo RG, luật Giáo Hội được khai triển từ từ, và việc nó vắng mặt ở buổi đầu không hề gợi ý rằng hôn nhân lúc ấy được coi là khả tiêu. Đúng hơn, việc đối xử với tái hôn khi luật Giáo Hội đã phát triển cho thấy nó đã hệ thống hóa xác tín của cộng đồng Kitô Giáo rằng hôn nhân là điều bất khả tiêu.
HC cho rằng các Kitô hữu lấy nhau “theo luật lệ và phong tục của xã hội họ sống” (23). RG cho rằng dù các Kitô hữu có theo phong tục xã hội của họ để kết hôn, thì cũng không thể kết luận là họ chấp nhận cái hiểu của xã hội coi hôn nhân là điều khả tiêu. Vả lại HC không hề cung cấp được bằng chứng nào là các Kitô hữutiên khởi chấp nhận cái hiểu của xã hội đương thời. HC cũng nhận xét rằng “‘các can thiệp nguyên khởi của Giáo Hội vào hôn nhân của Kitô hữu trước nhất có bản chất mục vụ’. Giáo Hội lo lắng trong việc nhắc các cặp vợ chồng nhớ tới nghĩa vụ phải trung tín với nhau và phải bác bỏ việc ly dị” (24). Nhưng theo RG, việc Giáo Hội bắt đầu trợ giúp mục vụ để các cặp vợ chồng trung tín với nhau khó có thể chứng tỏ rằng Giáo Hội coi hôn nhân là điều khả tiêu.
RG cho rằng thay vì xem sét toàn bộ truyền thống của Giáo Hội về hôn nhân, HC lại chỉ muốn “chỉ ra các yếu tố trong truyền thống Giáo Hội vốn làm nổi dậy các vấn nạn về giáo huấn bất khả tiêu hiện thời” (25). Họ bắt đầu với Thánh Basilêô thành Xêdarê và Thánh Gioan Kim Khẩu, những vị mà họ cho rằng “đã đưa ra các phán quyết cho phép một số cuộc hôn nhân thứ hai sau khi ly dị” (26). Tuy nhiên, theo RG, sau khi phân tích sâu rộng các bản văn từng được dùng để bênh vực chủ trương cho rằng Thánh Basilêô coi một số cuộc hôn nhân đã hoàn hợp, hợp bí tích là khả tiêu, Henri Crouzel kết luận: “một sự kiện đã được thiết lập và chắc chắn là: người ta không thể quả quyết rằng Thánh Basilêô, trong các thư chính thức của ngài, cho phép người chồng đã ly dị được kết ước cuộc hôn nhân thứ hai, hợp thức và hợp pháp trước mặt Giáo Hội, khi người vợ của ông còn sống” (27).
Còn về Thánh Gioan Kim Khẩu, HC lập tức cải biến lối phát biểu của họ: “không chắc là ngài cho phép tái hôn nhưng rõ ràng ngài ủng hộ ý niệm ly dị, coi ngoại tình là nguyên nhân để tiêu hủy hôn nhân” (28). Thực ra, theo RG, Thánh Kim Khẩu không hề cho phép tái hôn. Paul Palmer ghi nhận rằng Thánh Kim Khẩu “nói về một cuộc hôn nhân như ‘đã bị tiêu hủy rồi’ vì người vợ phạm tội ngoại tình, khiến người chồng trở thành người chia sẻ tội ác với nàng nếu ông tiếp tục liên hệ với nàng. Ấy thế nhưng, Thánh Kim Khẩu không rút ra kết luận cho rằng người chồng bị tổn thương kia có thể tái hôn” (29). Còn Crouzel thì nhận xét rằng không ở chỗ nào, Thánh Kim Khẩu “minh nhiên nói rằng ai đuổi vợ đi một cách có thể biện minh được thì có thể tái hôn, và mọi bản văn bình luận về các đoạn nói tới việc xua đuổi này luôn luôn quả quyết điều ngược lại” (30).
HC nhận định rằng trong hai thế kỷ thứ bẩy và thứ tám, một số sách ân giải “cho phép ly dị và tái hôn trong nhiều hoàn cảnh khó khăn khác nhau” (31). Nhưng RG cho rằng sách ân giải không phải là văn kiện của huấn quyền. Antoine Villien phúc trình rằng các bản văn huấn quyền trong thời kỳ này một là tuyệt đối loại trừ ly dị hoặc loại trừ tái hôn bao lâu người phối ngẫu kia còn sống sờ sờ (32). Và dù sách ân giải của Theodore, một trong hai vị được HC nhắc đến, có nói ngược lại giáo huấn của Giáo Hội về tính bất khả tiêu hôn nhân, nhưng Theodore đã chủ trì một công đồng từng xác nhận nó (33).
HC cũng cho rằng “Trong thế kỷ thứ tám, Đức Grêgôriô II khuyên Thánh Bonifaxiô rằng khi xử lý một người đàn ông có vợ hết còn khả nang giao hợp tính dục với ông nữa thì có thể cho phép ông tái hôn bao lâu ông tiếp tục trợ giúp người vợ đầu về vật chất” (34). Nhưng theo RG, HC chỉ giả dụ người vợ hết khả năng giao hợp tính dục. Villien thì nhận định rằng vấn đề ở đây rất có thể là việc người vợ “bất lực trước khi kết hôn”, trong trường hợp này “bản văn không đặt ra bất cứ khó khăn nào” (35).
Cuối cùng, HC nói rằng không nơi nào tại Công Đồng Lyon II hay Công Đồng Florence, “tính bất khả tiêu của hôn nhân được các tham dự viên xem như giáo huấn bất khả đảo ngược hay có tính định tín” (36). Tuy nhiên, theo RG, tại cả hai công đồng này, giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về bất khả tiêu không hề bị coi là có thể đảo ngược (37). Vấn đề đã không được Công Đồng Florence giải quyết trước khi việc tái hợp với các Giáo Hội Hy Lạp được thực hiện; nhưng sau đó, Đức GH Eugêniô IV “triệu tập các giám mục Hy Lạp, vẫn còn đang ở kinh thành và thông tri cho họ hay: ly dị là một trong những điều cần được điều chỉnh trong thực hành của người Hy Lạp” (38). Hơn nữa, “Sắc lệnh dành cho người Ácmêni” của Công Đồng Florence dạy rằng một trong các thiện ích của hôn nhân là “tính bất khả phân chia [indivisibilitas], vì nó tượng trưng cho sự kết hợp không thể phân chia giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Mặc dù việc ly cách giường chiếu là điều hợp pháp trong trường hợp dâm bôn [ngoại tình], nhưng sẽ không hợp pháp nếu kết ước một cuộc hôn nhân khác, vì dây hôn phối đã kết ước hợp pháp vốn có tính vĩnh viễn” (39).
Vatican II có ủng hộ quan điểm của HC không?
Giáo huấn của Vatican II về hôn nhân trong Gaudium et spes bắt đầu như sau: “giao ước, hay lời ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi, của hôn nhân tạo ra sự chia sẻ thân mật cuộc sống và tình yêu vợ chồng như đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và được luật của Thiên Chúa điều hòa” (40). Câu trích dẫn của HC không đầy đủ, họ bỏ khúc tái xác nhận sự thật này là hôn nhân được Thiên Chúa thiết lập và điều hòa (41).
HC bắt đầu bàn tới giáo huấn của Công Đồng về hôn nhân bằng cách quả quyết rằng Gaudium et spes chứa đựng giáo huấn nghiêm túc và sâu rộng nhất về hôn nhân. Nó thay đổi định nghĩa về hôn nhân… và sử dụng ngôn ngữ giao ước (foedus ) hơn là ngôn từ khế ước để mô tả nó. Nó khẳng định tính bất khả tiêu, nhưng đặt căn bản của nó trên giao ước vợ chồng, tức sự kết hợp thân mật các con người và các hoạt động, sự hiến thân hỗ tương của hai con người cũng như thiện ích con cái. Ở đây, chính sự kết hợp của họ mới được gọi là bất khả tiêu (số 48). Trong số kế tiếp, chính tình yêu vợ chồng mới trung tín một cách không thể tiêu hủy (số 49). Và cuối cùng, trong số nói tới tính hoa trái của hôn nhân (số 50), ta được nhắc nhớ rằng hôn nhân duy trì tính bất khả tiêu của nó, dù không có con cái. Khi xác nhận tính vĩnh viễn suốt đời của hôn nhân, Công Đồng đã rời bỏ ngôn ngữ luật pháp khi nói về tính bất khả tiêu của hôn nhân (42). Trong câu cuối cùng của đoạn văn cho rằng tính bất khả tiêu của dây hôn phối là một ý niệm luật pháp, HC có đính kèm một chú thích ở bên dưới: “Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân (28 tháng Mười [sic], 1965), số 11, có nhắc qua tới bổn phận người giáo dân ‘phải biểu lộ và chứng tỏ bằng cuộc sống của mình tính bất khả tiêu và tính thánh thiện của dây hôn phối’” (43). Theo RG, cho dù việc nhắc này chỉ là việc nhắc qua, nhưng khó có thể nói Vatican II kêu gọi người giáo dân làm chứng cho một điều được Công Đồng coi như một ý niệm luật lệ xuông. Việc nhắc này rõ ràng chứng tỏ: Công Đồng coi dây hôn phối bất khả tiêu như một thực tại thánh thiêng, một trong các thực tại được Thiên Chúa mạc khải mà Công Đồng muốn kêu gọi người giáo dân làm chứng cho. Hơn nữa, quả thực, đây không phải là một việc nhắc qua. Nó diễn ra ở phần Sắc Lệnh nói tới hôn nhân và cuộc sống gia đình như là một lãnh vực làm việc tông đồ, và trong câu văn mô tả các bổn phận riêng của lãnh vực này (44).
Theo RG, vì HC chủ trương rằng Vatican II ủng hộ quan điểm của họ coi hôn nhân có thể hủy tiêu được, nên họ phải giải thích các tuyên bố của Công Đồng về tính bất khả thu hồi và tính bất khả tiêu. Họ bắt đầu làm thế với việc giải thích các số 48, 49 và 50 của Gaudium et spes. Nhưng nếu đọc kỹ các đoạn này, ta thấy chúng không ủng hộ luận đề của HC. Thực vậy, số 48 và số 50 còn chứng minh nó sai nữa.
RG cho rằng sau khi bắt đầu với sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi (số 48), Vatican II lập tức giải thích điều làm cho sự ưng thuận thành bất khả thu hồi: “hành vi nhân bản qua đó vợ chồng tự hiến cho nhau và chấp nhận lẫn nhau kết thành một định chế có tính bền vững theo sự sắp xếp của Thiên Chúa và dưới con mắt của xã hội nữa. Sợi dây thánh thiêng này [hoc vinculum sacrum]. . . không tùy thuộc quyết định con người. Mà là chính Thiên Chúa, Đấng là tác giả của hôn nhân” (45). Như thế, không như HC nghĩ, ở đây, Công Đồng minh nhiên nói tới sợi dây (vinculum), một sợi dây, vì có tính giao ước (sacrum), nên đã được tạo nên không phải chỉ bởi vợ chồng, mà còn bởi cả Thiên Chúa nữa.
Còn đối với chủ trương của HC cho rằng “trong số kế tiếp, chính tình yêu vợ chồng mới trung tín một cách bất khả tiêu” (số 49) (46), Vatican II, khi mô tả nhân đức nói lên qui luật luân lý, đã dạy rằng tình yêu của vợ chồng phải dự phần vào tính bất khả tiêu của hôn nhân, nghĩa là phải trung tín một cách kiên vững: “tình yêu này, khi được thành thực củng cố bằng sự trung tín hỗ tương, và nhất là được làm cho thánh thiện nhờ bí tích của Chúa Kitô, thì có tính trung tín một cách bất khả tiêu cả về thể lý lẫn tâm trí lúc thịnh vượng cũng như lúc gian nan, và do đó xa lánh mọi thứ ngoại tình và ly dị” (47). Được nhân đức thông tri, lúc nào cũng nên như thế, tình yêu giao ước của vợ chồng phải kéo dài như chính giao ước vậy.
Sau cùng, theo RG, sự kiện Vatican II gọi hôn nhân là bất khả tiêu chứ không phải sợi dây (Gaudium et spes số 50) không có nghĩa là: Công Đồng chỉ đơn thuần khuyên vợ chồng cố gắng sống với nhau vĩnh viễn. Lối giải thích này bị chính đoạn cuối của số này bác bỏ, là đoạn cho thấy ngay cả các cặp vợ chồng không con cũng phải chung chia và phát huy tình yêu vợ chồng, chính là bởi vì hôn nhân có tính bất khả tiêu: “chính bản chất của giao ước bất khả tiêu [indissolubilis] giữa vợ chồng và thiện ích con cái [nếu có] cũng đòi rằng tình yêu hỗ tương của vợ chồng phải được phát biểu cách đúng đắn và phải phát triển và chín mùi” (48).
Thực ra, theo RG, HC đã bác bỏ giáo huấn của Vatican II dạy rằng sự kết hợp của vợ chồng được thiết lập bởi “giao ước, hay sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi, của hôn nhân”. Sau khi nhắc đến giáo huấn “hiện thời” của Giáo Hội rằng dây hôn phối, một khi đã được tạo lập, “là một thực tại, do đó, là bất khả thu hồi” (49), HC nêu câu hỏi “nhưng nó có thực sự bất khả thu hồi không? Điều gì trong lời thề hứa này làm cho sức trói buộc của nó thành tuyệt đối?” Họ quả quyết rằng “một hành vi lúc cưới nhau mà thôi không thể mang theo sức nặng của một cam kết bất khả thu hồi” và “việc tự hiến của một người tốt nhất chỉ nên được coi như một diễn trình gồm nhiều quyết định và hành vi”. Theo RG, mặc dù HC chủ trương rằng những người đưa ra sự ưng thuận ước vọng “một sự tự hiến toàn diện và dứt khoát vốn là mục đích riêng của hôn nhân”, nhưng họ lại không chấp nhận điều này “một lời thề hứa bất khả thu hồi tuyệt đối đã diễn ra một lần cho mãi mãi vào lúc đưa ra lời ưng thuận theo nghi lễ” (50).
Trong cuộc thảo luận tiếp theo về ý nghĩa bí tích, HC, sau khi nhắc đến các số 48 và 49 của Gaudium et spes (51), cho rằng, theo Vatican II, tính bất khả tiêu là “thành tựu của các Kitô hữu, những người mà tình yêu được ơn thánh của bí tích củng cố” chứ không phải là đặc tính của “một sợi dây không liên hệ gì tới tình huống thực sự của mối liên hệ nhân bản và dửng dưng đối với ý chí nhân bản của vợ chồng” (52).
Theo RG, chủ trương trên đi ngược lại tuyên bố minh nhiên của Công Đồng: “Sợi dây thánh thiêng này… không tùy thuộc quyết định của con người [non ex humano arbitrio pendet].” (53)
Còn tiếp
___________________________________________________________________________
Chú thích
(1) Kenneth R. Himes and James A. Coriden, “The Indissolubility of Marriage: Reasons to Reconsider,” Theological Studies 65 (2004) 453–99, tại trang 465. Từ nay gọi tắt là HC.
(2) HC 465.
(3) HC 478. Theological Studies 72 (2011) 369
(4) HC 453.
(5) Xem HC 453–55. Vì chữ “ly dị” ngày nay có nhiều nghĩa, nên cần xác định: ở đây RG hiểu ly dị là việc hủy tiêu hôn nhân vốn không thể xẩy ra.
(6) HC 481; trích dẫn từ Gaudium et spes số 48.
(7) HC 480; trích dẫn từ Edward Schillebeeckx, “Christian Marriage and the Reality of Complete Marital Breakdown,” trong Catholic Divorce: The Deception of Annulments, ed. Pierre Hegy and Joseph Martos [New York:Continuum, 2000] 82–107, tại tr. 90).
(8) HC 489.
(9) HC 488.
(10) HC 489.
(11) HC 459.
(12) HC 487 số 105.
(13) HC 487; trích dẫn từ Richard McCormick, The Critical Calling: Reflections on Moral Dilemmas since Vatican II (Washington: Georgetown University, 1989) 248.
(14) HC 486, trích Margaret Farley, “Divorce and Remarriage: A Moral Perspective,” trong Commitment to Partnership: Explorations of the Theology of Marriage, ed. William Roberts (New York: Paulist, 1987) 107–27, tại tr. 114.
(15) HC 487 số 105.
(16) Xem HC 487 các số 105, 106.
(17) HC 486.
(18)HC 485.
(19) HC 486.
(20) HC 490.
(21) HC 457.
(22) HC 471.
(23) Ibid.
(24) Ibid.; trích dẫn từ Roch Pagé, “Marriage: Sacrament of Love or Sacrament of Bond?” Studia canonical 34 (2000) 5–21, tại tr. 9.
(25) HC 470.
(26) HC 471.
(27) Henri Crouzel, L’Église primitive face au divorce: Du premier au cinquième siècle (Paris: Beauchesne, 1971) 147 (mọi lời dịch đều của RG, ngoại trừ khi chỉ khác). Crouzel trích dẫn Fulbert Cayré, “Le divorce au IVe siècle dans la loi civile et les canons de saint Basile,” Echos d’Orient 19 (1920) 295–321, tại tr. 319. Crouzel đồng ý với Cayré rằng giải thích sai về Thánh Basilêô là do hiểu sai việc ngài chấp nhận những việc đền tội nhẹ hơn đối với người tái hôn hơn là người phạm tội ngoại tình (xem 137-147). Sau khi phân tích bản văn hay được trích dẫn hơn cả của Thánh Basilêô, George Hayward Joyce, một tác giả được HC khuyên nên đọc (xem 470, số 55), cũng kết luận rằng nó “không cung cấp cơ sở nào bất cứ để nghĩ rằng Thánh Basilêô khoan thứ việc ly dị và tái hôn” (Christian Marriage: An Historical and Doctrinal Study, 2nd ed. [London: Sheed & Ward, 1948] 327; xem 324–28).
(28) HC 471.
(29) Paul F. Palmer, S.J., “Christian Marriage: Contract or Covenant?” Theological Studies 33 (1972) 617–65, tại tr. 627 số19; cũng nên xem Joyce, Christian Marriage 329–30.
(30) L’Eglise primitive 203. Crouzel cung cấp một phân tích sâu sắc về việc Thánh Kim Khẩu bàn tới hôn nhân (xem 177–204) và đã trả lời một cách vững vàng luận điểm từng suy diễn một cách sai lầm rằng sự im lặng của Thánh Kim Khẩu có nghĩa ngài chấp nhận ly dị và tái hôn (xem 215–16).
(31) HC 474.
(32) “Divorce,” Dictionnaire de theologie catholique (Paris: 1899–1950), vol. 4, part 2, cols. 1455–78, tại cột 1466.
(33) Xem Joyce, Christian Marriage 340–43; muốn biết ngữ cảnh lịch sử của các lạm dụng, xin xem 331–61. Villien nhấn mạnh rằng một số công đồng, trong đó có Chalon (813), đã đưa ra các phán quyết chống lại những sách ân giải này chỉ vì chúng không duy trì tính bất khả tiêu của hôn nhân. Công Đồng Paris (829) ra lệnh đốt các sách thiếu sót này (xem “Divorce” cột 1468).
(34) HC 474.
(35) “Divorce” col. 1467. Joyce nhấn mạnh rằng vì “ta không có được lá thư của Thánh Bonifaxiô, cho nên lời lẽ chính xác của cuộc điều tra này chỉ có tính cách đoán chừng” (Christian Marriage 333).
(36) HC 463.
(37) Xem nguồn của HC: Theodore Mackin, Divorce and Remarriage (New York: Paulist, 1984) 374–77.
(38) Joyce, Christian Marriage 390. Mặc dù các giám mục trả lời rằng các ngài thiếu thẩm quyền để thừa nhận vấn đề nên đã bênh vực thực hành của các ngài liên quan tới ly dị, Joyce giải thích: “Chắc chắn Toà Thánh không hề có ý định bỏ qua một sai lầm nghiêm trọng như thế” (ibid.).
(39) Trong “Decrees of the Ecumenical Councils, 2 vols., ed. Norman P. Tanner [Washington: Georgetown University, 1990] 1:550). Từ đây, RG gọi công trình này là “Tanner”. Đoạn trích dẫn cho thấy rõ tính “bất khả phân chia” (indivisibilitas) của Công Đồng Flotrence loại bỏ việc tái hôn y như tính bất khả tiêu vậy; thực vậy, Tanner dịch chữ indivisibilitas là bất khả tiêu (indissolubility).
(40) “Intima communitas vitae et amoris coniugalis, a creatore condita suisque legibus instructa, foedere coniugii seu irrevocabili consensu personali instauratur” (Gaudium et spes [December 7, 1965] số. 48; Tanner 2:1100).
(41) “Sự chung chia thân mật đời sống và tình yêu vợ chồng… bắt nguồn từ giao ước hôn nhân [foedus coniugale] của lời ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi” (HC 481 số 87). Câu trích rút ngắn này có lợi cho câu tuyên bố của HC rằng “sự ưng thuận hữu vị, vốn bất khả thu hồi, tạo ra giao ước”. Việc HC bỏ câu “đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và được điều hòa bằng lề luật của Người” cho thấy rằng theo quan điểm của họ, Đấng Tạo Hóa không ăn nhằm gì tới việc tạo ra giao ước hôn nhân. Ngay khi bàn tới hôn nhân trong trạng thái tinh ròng của Sáng Thế, HC cũng tập chú vào hành động của vợ chồng: “Từ nguyên thủy, Thiên Chúa muốn nam nữ thiết lập sự kết hợp, thành một thân xác” (HC 467).
(42) HC 459.
(43) HC 459 số 16.
(44) “Điều trước đây luôn luôn là bổn phận của vợ chồng thì nay trở thành một phần rất quan trọng của ơn gọi làm tông đồ của họ: để biểu lộ và chứng minh bằng đời sống họ tính bất khả tiêu và tính thánh thiện của dây hôn phối (indissolubilitatem et sanctitatem vinculi matrimonialis)” (Tanner 2:989). Sắc Lệnh, công bố ngày 18 tháng 11 năm 1965, đã được 2,340 phiếu thuận, chỉ có 2 phiếu chống (xem Ferdinand Klostermann, “Decree on the Apostolate of the Laity: History of the Text,” trong Commentary on the Documents of Vatican II, 5 vols., ed. Herbert Vorgrimler [New York: Herder & Herder, 1968]
3:273, 301–2). Khi chấp nhận Gaudium et spes vào ngày 7 tháng 12, 1965, các nghị phụ Công Đồng chắc chắn không quên cũng như không gạt qua một bên một điều mà 19 ngày trước đó các ngài đã kêu gọi tín hữu làm chứng cho.
(45) Tanner 2:1100.
(46) HC 459.
(47) Tanner 2:1102.
(48) Tanner 2:1103.
(49) “Theo giáo huấn hiện thời, dây hôn phối, được tạo ra nhờ ‘hành vi nhân bản tự do của vợ chồng và sự hoàn hợp hôn nhân của họ, là một thự ctại, do đó, bất khả thu hồi” (HC 489; trích từ Sách Giáo Lý, số 1640).
Tuy nhiên, ngữ cảnh từ đó HC rút trích dẫn cho thấy rõ: hôn nhân là một giao ước bất khả tiêu, do Thiên Chúa bảo đảm: “Như thế, dây hôn phối đã được chính Thiên Chúa thiết lập một cách khiến cho cuộc hôn nhân giữa những người đã rửa tội ký kết và hoàn hợp thì không bao giờ có thể bị hủy tiêu. Sợi dây phát sinh từ hành vi nhân bản tự do của các người phối ngẫu này và việc hoàn hợp cuộc hôn nhân của họ, là một thực tại, do đó, không thể thu hồi, và nó phát sinh ra một giao ước được lòng trung tín của Thiên Chúa bảo đảm” (Sách Giáo Lý, số 1640).
(50) HC 489.
(51) Xem HC 496 số 126.
(52) HC 496.
(53) Tanner 2:1100. Chú giải ý niệm ưng thuận bất khả thu hồi của Vatican II, Bernhard Haring viết: “ý nghĩa khách quan của lời ưng thuận vợ chồng là chấp nhận hôn nhân như một cộng đồng tình yêu; do đó, nếu tình yêu trở nên lịm dần, các người phối ngẫu phải làm mọi sự để học lại nó. Dù sao, Gaudium et spes, phần 2, chương 1 cũng minh xác đi minh xác lại rằng nó không có ý nói tới thứ tình yêu chỉ có tính xúc cảm. Điều chính trong vấn đề này là: nó là một cộng đồng, mục đích và bản chất của cộng đồng này không lệ thuộc sự tự do võ đoán của con người muốn làm gì thì làm. Điều này được phát biểu rõ trong câu ‘được Đấng Tạo Hóa thiết lập và điều hòa bằng lề luật của Người”. Haring nhận định rằng: trái lại, “con người thời nay nghĩ tới khế ước như một thoả thuận mà nội dung có thể do chính các bên ký kết xác định và sau đó có thể thu hồi qua một ưng thuận hỗ tương” (“Part II, Chapter 1: Fostering the Nobility of Marriage and the Family,” trong Commentary on the Documents of Vatican II 5:225–45, tại tr. 232).
Tác giả bài này là Peter F. Ryan, S.J. và German Grisez. Linh mục Ryan, S.J., tháng Năm 2013 vừa qua, được đề cử làm giám đốc điều hành Văn Phòng Tín Lý và Giáo Luật Sự Vụ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Ngài vốn là giám đốc huấn luyện linh đạo và là giáo sư thần học luân lý tại chủng viện Kenrick-Gennon ở St. Louis từ tháng Giêng, năm 2012. Và trước đó, ngài là giáo sư thần học luân lý tại chủng viện Mount St. Mary’s ở Emmitsburg, Maryland, từ năm 2001 tới năm 2011 và là giáo sư phụ tá về thần học tại Học Viện Loyola tại Maryland, 1994-2001.
Cha Ryan có bằng thạc sĩ (licentiate) và tiến sĩ thần học của ĐH Gregorian tại Rôma; bằng cao học thần học tại Regis College, Toronto; cao học văn chương Anh và thạc sĩ triết học tại ĐH Gonzaga ở Spokane; và bằng cử nhân chính trị học tại Học Viện Loyola ở Maryland.
Ngài là thành viên của Hiệp Hội Học Giả Công Giáo, và phục vụ hội đồng điều hành của tổ chức này ba nhiệm kỳ. Ngài cũng là học giả nghiên cứu của Viện Westchester về Đạo Đức Học và Con Người Nhân Bản, thành lập năm 1998 để đổi mới, đào sâu và phát huy truyền thống tư duy luân lý tại Tây Phương.
Cha Ryan viết rất nhiều về các vấn đề đạo đức học và thần học trên các tạp chí bác học như Theological Studies, Fellowship of Catholic Scholars Quarterly, Homiletic and Pastoral Review, the National Catholic Bioethical Quarterly, American Catholic Philosophical Quarterly và American Journal of Jurisprudence. Ngài nói và đọc tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Đức và đọc được cả chữ La Tinh và chữ Tây Ban Nha.
Còn Germain Grisez, sinh năm 1929, là một triết gia Mỹ gốc Pháp. Việc ông khai triển các ý niệm của Thánh Tôma Aquinô đã tái định hướng tư duy Công Giáo và thay đổi phương thức tiếp cận nền triết học luân lý thế tục. Trong cuốn “The First Principle of Practical Reason: A Commentary on the Summa Theologiae, I-II, Q. 94, A. 2” (1965) (Nguyên Tắc Thứ Nhất Của Lý Trí Thực Tiễn: Nhận Định Về Summa Theologiae, câu hỏi 94, điều 2), Grisez tấn công lối giải thích tân kinh viện về Thánh Tôma, vì họ cho rằng các qui luật luân lý được dẫn khởi từ hiểu biết có trước về bản chất con người. Grisez bênh vực ý niệm ý niệm tự do chọn lựa có tính siêu hình và đề xuất lý thuyết luật tự nhiên trong suy luận thực tiễn và phán đoán luân lý.
Ông đậu tiến sĩ triết học tại ĐH Chicago và hiện là giáo sư hưu trí về Đạo Đức Học Kitô Giáo tại ĐH Mount St Mary ở Emmitsburg, Maryland, nơi ông giảng dạy suốt 30 năm từ 1979 tới 2009, sau khi làm giáo sư phụ khảo tại ĐH Georgetown từ năm 1957. Công trình chính của ông tại đây là nghiên cứu và viết bộ “The Way of the Lord Jesus” (3 cuốn). Dù về hưu, ông vẫn cư ngụ trong khuôn viên Đại Học và được sự yểm trợ về mọi mặt của Đại Học.
Ông nổi tiếng trong cuộc tranh luận về ngừa thai giữa thập niên 1960. Ta biết, cuộc tranh luận này nổ ra năm 1963. Grisez vốn tin giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề này đúng và không thể thay đổi. Ông tìm cách giải thích giáo huấn này cách tốt hơn. Năm 1965, ông cho xuất bản cuốn sách đầu tay của mình tựa là Contraception and the Natural Law (Ngừa Thai và Luật Tự Nhiên). Trước khi cho xuất bản, ông nhờ Linh Mục John C. Ford, Dòng Tên, đọc lại bản thảo. Linh Mục Ford vốn là người được Đức Phaolô VI cử vào Ủy Ban Giáo Hoàng về Dân Số, Gia Đình, và Sinh Suất. Thế là, Grisez giúp Linh Mục Ford trong vai trò này từ mùa xuân 1965 tới đầu tháng Bẩy năm 1966. Hai người làm việc toàn thời gian tại Rôma, giúp Ủy Ban hoàn tất nghị trình và soạn thảo bản nhận định về phúc trình sau hết theo lời yêu cầu của Đức HY Alfredo Ottaviani, Bộ Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin hồi ấy.
Ta biết tại Ủy Ban, đa số nghiêng về quan điểm phải thay đổi giáo huấn để cho phép ngừa thai nhân tạo. Linh Mục Ford và Grisez đứng về phe thiểu số, chủ trương duy trì giáo huấn chính thức. Bản nhận định của nhóm Linh Mục Ford, sau này, được gọi là phúc trình của phe thiểu số, nghịch với phúc trình của phe đa số. Kết quả: Đức Phaolô đã nghiêng về phe thiểu số để duy trì giáo huấn chính thống, coi việc sử dụng các phương thế nhân tạo là trái luân lý, trong thông điệp Humanae Vitae ban hành năm 1968.
Việc ban hành trên gây chống đối mãnh liệt tại các xã hội Tây Phương. Tổng Giáo Phận Washington mau chóng trở thành tâm điểm của chống đối, với đa số các linh mục tại đó cho hay: họ muốn gạt giáo huấn của Humanae Vitae qua một bên. Do đó, Đức HY Patrick O’Boyle đã cầu cứu với ĐH Georgetown cho Grisez một năm nghỉ (1968-1969) để giúp ngài “phản công”. Nhờ thế, ông cho xuất bản (1970) tác phẩm: Abortion: The Myths, the Realities, and the Arguments. Do việc làm này, năm 1972, ông và vợ được Đức Phaolô VI ban huy chương Pro ecclesia et pontifice (Vì Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng).
Tiền lệ liên hệ tới thông điệp Humanae Vitae trên đây rất có thể được lặp lại trong những ngày tới. Thực vậy, có người nhận định rằng: bất chấp những đồn thổi và suy đoán nóng bỏng hiện nay liên quan tới cuộc tranh luận về những trường hợp tái hôn của những người Công Giáo ly dị, Đức Phanxicô rất có thể “ngả về phe thiểu số” như Đức Phaolô VI từng làm trước đây năm 1968. Cuộc phỏng vấn mới đây của tờ Corriere della sera hé cho thấy viễn ảnh này có thể trở thành sự thực, vì Đức Phanxicô ca ngợi tính tiên tri và can đảm của Đức Phaolô VI trong thông điệp Humanae Vitae nhằm bảo vệ kỷ luật luân lý.
Chúng tôi xin trình bày nội dung quan điểm của Cha Ryan và của Grisez về tính bất khả tiêu của hôn nhân.
*****
Hai tác giả Kenneth Himes và James Coriden (từ đây tắt là HC) cho rằng “Đối diện với các dữ kiện, người ta sẽ không hợp lý khi quả quyết rằng giáo huấn về tính bất khả tiêu của hôn nhân là một vấn đề phải được coi như một tín điều dứt khoát hay một học lý định tín” (1).
Họ “đưa ra một số xem sét để gợi ý rằng giáo huấn về bất khả tiêu nên được xét lại để có thể cho phép một số ngoại lệ ngay trong các trường hợp đã thành hiệu và hoàn hợp” (2).
Nhưng Cha Ryan và Grisez (từ đây tắt là RG) cho rằng, giáo huấn bất khả tiêu chỉ có thể hoặc đúng hoặc sai mà thôi. Nếu đúng, nó không thể thay đổi được; còn nếu sai, Giáo Hội phải sửa đổi. Dù HC không nói thế, nhưng các luận chứng của họ cho thấy Giáo Hội sai lầm khi đã và đang dạy rằng mọi cuộc hôn nhân thành hiệu và hoàn hợp đều bất khả tiêu. Đối với giáo huấn này, họ viết: “quả là quá mạo muội khi nghĩ rằng… việc xét lại một cách đáng kể là điều không thể có” (3).
Dù có nguy cơ bị coi là mạo muội, RG cũng sẽ biện luận rằng việc xét lại một cách đáng kể quả là điều không thể có. Trong bài này, họ sẽ (a) phê bình luận chứng chính của HC ủng hộ việc khả tiêu; (b) giải thích tại sao việc ưng thuận đối với cuộc hôn nhân giao ước, hoàn hợp là điều không thể thu hồi; (c) xem sét học lý của Thánh Phaolô về bất khả tiêu; (d) xem sét học lý Tin Lành về bất khả tiêu; và (e) lý luận rằng học lý Công Giáo về bất khả tiêu là học lý có tính định tín.
Luận chứng chính của HC đối với tính khả tiêu
Câu đầu tiên trong bài báo của HC là “tan vỡ hôn nhân là một trải nghiệm thông thường trong nền văn hóa của ta” (4). Thuật ngữ “tan vỡ hôn nhân” của HC có ý nói tới điều xẩy ra cho các người Công Giáo ly dị nhưng tái hôn (5).
Nếu cuộc hôn nhân tan vỡ, dây hôn phối có còn không?
HC quả quyết rằng Vatican II đặt hôn nhân vào ngữ cảnh hiện đại và coi nó như “‘một chung chia thân mật đời sống và tình yêu’ mà hai người bước vào nhờ một giao ước (chứ không phải khế ước) trong đó, ‘các người chung chia hiến mình cho nhau cách hỗ tương’” (6). Họ cho rằng quan điểm này phát sinh từ chủ nghĩa lãng mạn hiện đại (7). RG cho rằng đối với HC, hôn nhân khác với các mối liên hệ nhân bản khác; lời thề ước hôn nhân “hướng về cam kết suốt đời” (8). Tuy nhiên, khi thảo luận tới “các giới hạn của cam kết” (9), HC lại đi xem sét các lý do khiến người ta lỡ hẹn một buổi ăn tối. Họ nhận định rằng một vài lý do có thể biện minh cho việc phá vỡ các thỏa thuận loại này, và cho rằng dù các lời thề trong hôn nhân quan trọng hơn các lời hứa hẹn ăn tối, nhưng “khuôn mẫu dùng sự ưng thuận tự do để đưa ra cam kết rồi phá vỡ cam kết ấy thì cũng giống nhau” (10).
HC cũng cho rằng Vatican II “sử dụng ngôn ngữ giao ước (foedus)” và “rời khỏi ngôn ngữ luật pháp về tính bất khả tiêu của hôn nhân” (11). Họ cho rằng tình yêu vợ chồng tạo nên dây liên kết: “liên hệ hữu vị của tình yêu tạo nên sợi dây luân lý đòi vợ chồng phải trung tín với nhau trong tuyên bố cam kết tự hiến của họ” (12). Nghĩa vụ hỗ tương của vợ chồng phát sinh từ cam kết của họ: dây hôn phối “tạo ra ‘một bắt buộc luân lý cố hữu trong kết hợp hôn nhân’. Sự ‘bắt buộc’này là nghĩa vụ luân lý phải giữ các lời hứa của mình, phải đi cho hết các cam kết của mình” (13). Các cam kết này có nghĩa “nhường cho người khác quyền được đòi hỏi trên chính chúng ta, một đòi hỏi phải là và phải làm những gì ta đã hứa hẹn” (14). HC chủ trương rằng “tình yêu vợ chồng trói buộc họ về luân lý, lễ cưới của họ trói buộc họ về dân sự, còn việc tham dự bí tích của họ trói buộc họ về tôn giáo” (15). Họ cho rằng chỉ vợ chồng mới có thể bẻ gẫy sợi dây luân lý, và gợi ý rằng khi họ làm thế, những gì còn lại trong cuộc hôn nhân của họ về luật pháp và tôn giáo thì có thể hủy tiêu (16).
HC cho rằng luật hôn phối của Giáo Hội “ủng hộ quan điểm coi hôn nhân như dây liên kết, chứ không như liên hệ nhân bản, như thể đó là hai thực tại tách biệt: thực tại này hết hiện hữu thì thực tại kia vẫn tiếp tục”. Họ nghĩ rằng cách tiếp cận này tiền giả định “mô thức khế ước về hôn nhân vì mô thức này không đòi hỏi việc thân mật chung chia sự sống”. Họ bảo: “trong mô thức giao ước về hôn nhân, khó mà thấy làm thế nào sợi dây lại thiếu vắng một liên hệ hôn nhân thực sự” (17).
Khi thảo luận về thực tại tính của dây hôn phối, HC quả quyết rằng “Trong các năm qua, trận đồ nhân bản của hôn nhân đã được mô tả khác nhau, nhưng tại Vatican II nó được định tính là việc chia sẻ thân mật sự sống trong một chung sống yêu thương”. Rồi họ đặt một câu hỏi đầy hoa mỹ “Nếu mối liên hệ giữa vợ chồng đã tan vỡ một cách hoàn toàn và không thể phục hồi được nữa thì tính bất khả tiêu bám vào điều gì?” Họ bảo: “theo giáo huấn hiện thời, câu trả lời là dây hôn phối”. Rồi họ hỏi: “Nhưng dây này là gì? Liệu nó có thể hiện hữu tách biệt với thực tại nhân bản là giao ước phu phụ được không?” (18).
Theo RG, khi bắt đầu trả lời cho câu hỏi trên, HC chủ trương rằng “sợi dây là sợi dây của tình yêu vợ chồng và nếu liên hệ vợ chồng đã chấm dứt thì sợi dây cũng chấm dứt theo” (19). Sau đó, họ kết luận “nếu sợi dây không hiện hữu, thì không còn lại điều gì để đặc điểm hay đặc tính bất khả tiêu có thể nói là bám vào được” (20). RG cho rằng luận điểm của HC có thể được tóm tắt như sau: nếu cuộc hôn nhân tan vỡ hoàn toàn, thì không còn lại điều gì có thể có đặc tính bất khả tiêu; nhưng các cuộc hôn nhân đều có thể và đôi lúc thực sự tan vỡ hoàn toàn, thì bất cứ điều gì còn lại trong đó đều hủy tiêu được. Do đó, hôn nhân là điều có thể tiêu hủy.
Truyền thống trước Công Đồng Trent có ủng hộ quan điểm của HC không?
Khi bênh vực quan điểm của mình, HC đưa ra một số nhận xét tổng quát liên hệ tới truyền thống. Họ nhận định rằng: “từ ngữ ‘bất khả tiêu’ liên hệ tới hôn nhân không phải là từ ngữ trong Thánh Kinh” (21). Tuy nhiên, theo RG, những từ như homoousios (đồng bản tính) và hypostasis (ngôi) cũng không có trong Thánh Kinh, nhưng các tín điều sử dụng những từ đó để minh giải các sự thật mạc khải. HC cũng cho rằng “không có hệ thống luật lệ nào qui định hôn nhân trong Giáo Hội tiên khởi cả” (22). Tuy nhiên, theo RG, luật Giáo Hội được khai triển từ từ, và việc nó vắng mặt ở buổi đầu không hề gợi ý rằng hôn nhân lúc ấy được coi là khả tiêu. Đúng hơn, việc đối xử với tái hôn khi luật Giáo Hội đã phát triển cho thấy nó đã hệ thống hóa xác tín của cộng đồng Kitô Giáo rằng hôn nhân là điều bất khả tiêu.
HC cho rằng các Kitô hữu lấy nhau “theo luật lệ và phong tục của xã hội họ sống” (23). RG cho rằng dù các Kitô hữu có theo phong tục xã hội của họ để kết hôn, thì cũng không thể kết luận là họ chấp nhận cái hiểu của xã hội coi hôn nhân là điều khả tiêu. Vả lại HC không hề cung cấp được bằng chứng nào là các Kitô hữutiên khởi chấp nhận cái hiểu của xã hội đương thời. HC cũng nhận xét rằng “‘các can thiệp nguyên khởi của Giáo Hội vào hôn nhân của Kitô hữu trước nhất có bản chất mục vụ’. Giáo Hội lo lắng trong việc nhắc các cặp vợ chồng nhớ tới nghĩa vụ phải trung tín với nhau và phải bác bỏ việc ly dị” (24). Nhưng theo RG, việc Giáo Hội bắt đầu trợ giúp mục vụ để các cặp vợ chồng trung tín với nhau khó có thể chứng tỏ rằng Giáo Hội coi hôn nhân là điều khả tiêu.
RG cho rằng thay vì xem sét toàn bộ truyền thống của Giáo Hội về hôn nhân, HC lại chỉ muốn “chỉ ra các yếu tố trong truyền thống Giáo Hội vốn làm nổi dậy các vấn nạn về giáo huấn bất khả tiêu hiện thời” (25). Họ bắt đầu với Thánh Basilêô thành Xêdarê và Thánh Gioan Kim Khẩu, những vị mà họ cho rằng “đã đưa ra các phán quyết cho phép một số cuộc hôn nhân thứ hai sau khi ly dị” (26). Tuy nhiên, theo RG, sau khi phân tích sâu rộng các bản văn từng được dùng để bênh vực chủ trương cho rằng Thánh Basilêô coi một số cuộc hôn nhân đã hoàn hợp, hợp bí tích là khả tiêu, Henri Crouzel kết luận: “một sự kiện đã được thiết lập và chắc chắn là: người ta không thể quả quyết rằng Thánh Basilêô, trong các thư chính thức của ngài, cho phép người chồng đã ly dị được kết ước cuộc hôn nhân thứ hai, hợp thức và hợp pháp trước mặt Giáo Hội, khi người vợ của ông còn sống” (27).
Còn về Thánh Gioan Kim Khẩu, HC lập tức cải biến lối phát biểu của họ: “không chắc là ngài cho phép tái hôn nhưng rõ ràng ngài ủng hộ ý niệm ly dị, coi ngoại tình là nguyên nhân để tiêu hủy hôn nhân” (28). Thực ra, theo RG, Thánh Kim Khẩu không hề cho phép tái hôn. Paul Palmer ghi nhận rằng Thánh Kim Khẩu “nói về một cuộc hôn nhân như ‘đã bị tiêu hủy rồi’ vì người vợ phạm tội ngoại tình, khiến người chồng trở thành người chia sẻ tội ác với nàng nếu ông tiếp tục liên hệ với nàng. Ấy thế nhưng, Thánh Kim Khẩu không rút ra kết luận cho rằng người chồng bị tổn thương kia có thể tái hôn” (29). Còn Crouzel thì nhận xét rằng không ở chỗ nào, Thánh Kim Khẩu “minh nhiên nói rằng ai đuổi vợ đi một cách có thể biện minh được thì có thể tái hôn, và mọi bản văn bình luận về các đoạn nói tới việc xua đuổi này luôn luôn quả quyết điều ngược lại” (30).
HC nhận định rằng trong hai thế kỷ thứ bẩy và thứ tám, một số sách ân giải “cho phép ly dị và tái hôn trong nhiều hoàn cảnh khó khăn khác nhau” (31). Nhưng RG cho rằng sách ân giải không phải là văn kiện của huấn quyền. Antoine Villien phúc trình rằng các bản văn huấn quyền trong thời kỳ này một là tuyệt đối loại trừ ly dị hoặc loại trừ tái hôn bao lâu người phối ngẫu kia còn sống sờ sờ (32). Và dù sách ân giải của Theodore, một trong hai vị được HC nhắc đến, có nói ngược lại giáo huấn của Giáo Hội về tính bất khả tiêu hôn nhân, nhưng Theodore đã chủ trì một công đồng từng xác nhận nó (33).
HC cũng cho rằng “Trong thế kỷ thứ tám, Đức Grêgôriô II khuyên Thánh Bonifaxiô rằng khi xử lý một người đàn ông có vợ hết còn khả nang giao hợp tính dục với ông nữa thì có thể cho phép ông tái hôn bao lâu ông tiếp tục trợ giúp người vợ đầu về vật chất” (34). Nhưng theo RG, HC chỉ giả dụ người vợ hết khả năng giao hợp tính dục. Villien thì nhận định rằng vấn đề ở đây rất có thể là việc người vợ “bất lực trước khi kết hôn”, trong trường hợp này “bản văn không đặt ra bất cứ khó khăn nào” (35).
Cuối cùng, HC nói rằng không nơi nào tại Công Đồng Lyon II hay Công Đồng Florence, “tính bất khả tiêu của hôn nhân được các tham dự viên xem như giáo huấn bất khả đảo ngược hay có tính định tín” (36). Tuy nhiên, theo RG, tại cả hai công đồng này, giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về bất khả tiêu không hề bị coi là có thể đảo ngược (37). Vấn đề đã không được Công Đồng Florence giải quyết trước khi việc tái hợp với các Giáo Hội Hy Lạp được thực hiện; nhưng sau đó, Đức GH Eugêniô IV “triệu tập các giám mục Hy Lạp, vẫn còn đang ở kinh thành và thông tri cho họ hay: ly dị là một trong những điều cần được điều chỉnh trong thực hành của người Hy Lạp” (38). Hơn nữa, “Sắc lệnh dành cho người Ácmêni” của Công Đồng Florence dạy rằng một trong các thiện ích của hôn nhân là “tính bất khả phân chia [indivisibilitas], vì nó tượng trưng cho sự kết hợp không thể phân chia giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Mặc dù việc ly cách giường chiếu là điều hợp pháp trong trường hợp dâm bôn [ngoại tình], nhưng sẽ không hợp pháp nếu kết ước một cuộc hôn nhân khác, vì dây hôn phối đã kết ước hợp pháp vốn có tính vĩnh viễn” (39).
Vatican II có ủng hộ quan điểm của HC không?
Giáo huấn của Vatican II về hôn nhân trong Gaudium et spes bắt đầu như sau: “giao ước, hay lời ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi, của hôn nhân tạo ra sự chia sẻ thân mật cuộc sống và tình yêu vợ chồng như đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và được luật của Thiên Chúa điều hòa” (40). Câu trích dẫn của HC không đầy đủ, họ bỏ khúc tái xác nhận sự thật này là hôn nhân được Thiên Chúa thiết lập và điều hòa (41).
HC bắt đầu bàn tới giáo huấn của Công Đồng về hôn nhân bằng cách quả quyết rằng Gaudium et spes chứa đựng giáo huấn nghiêm túc và sâu rộng nhất về hôn nhân. Nó thay đổi định nghĩa về hôn nhân… và sử dụng ngôn ngữ giao ước (foedus ) hơn là ngôn từ khế ước để mô tả nó. Nó khẳng định tính bất khả tiêu, nhưng đặt căn bản của nó trên giao ước vợ chồng, tức sự kết hợp thân mật các con người và các hoạt động, sự hiến thân hỗ tương của hai con người cũng như thiện ích con cái. Ở đây, chính sự kết hợp của họ mới được gọi là bất khả tiêu (số 48). Trong số kế tiếp, chính tình yêu vợ chồng mới trung tín một cách không thể tiêu hủy (số 49). Và cuối cùng, trong số nói tới tính hoa trái của hôn nhân (số 50), ta được nhắc nhớ rằng hôn nhân duy trì tính bất khả tiêu của nó, dù không có con cái. Khi xác nhận tính vĩnh viễn suốt đời của hôn nhân, Công Đồng đã rời bỏ ngôn ngữ luật pháp khi nói về tính bất khả tiêu của hôn nhân (42). Trong câu cuối cùng của đoạn văn cho rằng tính bất khả tiêu của dây hôn phối là một ý niệm luật pháp, HC có đính kèm một chú thích ở bên dưới: “Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân (28 tháng Mười [sic], 1965), số 11, có nhắc qua tới bổn phận người giáo dân ‘phải biểu lộ và chứng tỏ bằng cuộc sống của mình tính bất khả tiêu và tính thánh thiện của dây hôn phối’” (43). Theo RG, cho dù việc nhắc này chỉ là việc nhắc qua, nhưng khó có thể nói Vatican II kêu gọi người giáo dân làm chứng cho một điều được Công Đồng coi như một ý niệm luật lệ xuông. Việc nhắc này rõ ràng chứng tỏ: Công Đồng coi dây hôn phối bất khả tiêu như một thực tại thánh thiêng, một trong các thực tại được Thiên Chúa mạc khải mà Công Đồng muốn kêu gọi người giáo dân làm chứng cho. Hơn nữa, quả thực, đây không phải là một việc nhắc qua. Nó diễn ra ở phần Sắc Lệnh nói tới hôn nhân và cuộc sống gia đình như là một lãnh vực làm việc tông đồ, và trong câu văn mô tả các bổn phận riêng của lãnh vực này (44).
Theo RG, vì HC chủ trương rằng Vatican II ủng hộ quan điểm của họ coi hôn nhân có thể hủy tiêu được, nên họ phải giải thích các tuyên bố của Công Đồng về tính bất khả thu hồi và tính bất khả tiêu. Họ bắt đầu làm thế với việc giải thích các số 48, 49 và 50 của Gaudium et spes. Nhưng nếu đọc kỹ các đoạn này, ta thấy chúng không ủng hộ luận đề của HC. Thực vậy, số 48 và số 50 còn chứng minh nó sai nữa.
RG cho rằng sau khi bắt đầu với sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi (số 48), Vatican II lập tức giải thích điều làm cho sự ưng thuận thành bất khả thu hồi: “hành vi nhân bản qua đó vợ chồng tự hiến cho nhau và chấp nhận lẫn nhau kết thành một định chế có tính bền vững theo sự sắp xếp của Thiên Chúa và dưới con mắt của xã hội nữa. Sợi dây thánh thiêng này [hoc vinculum sacrum]. . . không tùy thuộc quyết định con người. Mà là chính Thiên Chúa, Đấng là tác giả của hôn nhân” (45). Như thế, không như HC nghĩ, ở đây, Công Đồng minh nhiên nói tới sợi dây (vinculum), một sợi dây, vì có tính giao ước (sacrum), nên đã được tạo nên không phải chỉ bởi vợ chồng, mà còn bởi cả Thiên Chúa nữa.
Còn đối với chủ trương của HC cho rằng “trong số kế tiếp, chính tình yêu vợ chồng mới trung tín một cách bất khả tiêu” (số 49) (46), Vatican II, khi mô tả nhân đức nói lên qui luật luân lý, đã dạy rằng tình yêu của vợ chồng phải dự phần vào tính bất khả tiêu của hôn nhân, nghĩa là phải trung tín một cách kiên vững: “tình yêu này, khi được thành thực củng cố bằng sự trung tín hỗ tương, và nhất là được làm cho thánh thiện nhờ bí tích của Chúa Kitô, thì có tính trung tín một cách bất khả tiêu cả về thể lý lẫn tâm trí lúc thịnh vượng cũng như lúc gian nan, và do đó xa lánh mọi thứ ngoại tình và ly dị” (47). Được nhân đức thông tri, lúc nào cũng nên như thế, tình yêu giao ước của vợ chồng phải kéo dài như chính giao ước vậy.
Sau cùng, theo RG, sự kiện Vatican II gọi hôn nhân là bất khả tiêu chứ không phải sợi dây (Gaudium et spes số 50) không có nghĩa là: Công Đồng chỉ đơn thuần khuyên vợ chồng cố gắng sống với nhau vĩnh viễn. Lối giải thích này bị chính đoạn cuối của số này bác bỏ, là đoạn cho thấy ngay cả các cặp vợ chồng không con cũng phải chung chia và phát huy tình yêu vợ chồng, chính là bởi vì hôn nhân có tính bất khả tiêu: “chính bản chất của giao ước bất khả tiêu [indissolubilis] giữa vợ chồng và thiện ích con cái [nếu có] cũng đòi rằng tình yêu hỗ tương của vợ chồng phải được phát biểu cách đúng đắn và phải phát triển và chín mùi” (48).
Thực ra, theo RG, HC đã bác bỏ giáo huấn của Vatican II dạy rằng sự kết hợp của vợ chồng được thiết lập bởi “giao ước, hay sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi, của hôn nhân”. Sau khi nhắc đến giáo huấn “hiện thời” của Giáo Hội rằng dây hôn phối, một khi đã được tạo lập, “là một thực tại, do đó, là bất khả thu hồi” (49), HC nêu câu hỏi “nhưng nó có thực sự bất khả thu hồi không? Điều gì trong lời thề hứa này làm cho sức trói buộc của nó thành tuyệt đối?” Họ quả quyết rằng “một hành vi lúc cưới nhau mà thôi không thể mang theo sức nặng của một cam kết bất khả thu hồi” và “việc tự hiến của một người tốt nhất chỉ nên được coi như một diễn trình gồm nhiều quyết định và hành vi”. Theo RG, mặc dù HC chủ trương rằng những người đưa ra sự ưng thuận ước vọng “một sự tự hiến toàn diện và dứt khoát vốn là mục đích riêng của hôn nhân”, nhưng họ lại không chấp nhận điều này “một lời thề hứa bất khả thu hồi tuyệt đối đã diễn ra một lần cho mãi mãi vào lúc đưa ra lời ưng thuận theo nghi lễ” (50).
Trong cuộc thảo luận tiếp theo về ý nghĩa bí tích, HC, sau khi nhắc đến các số 48 và 49 của Gaudium et spes (51), cho rằng, theo Vatican II, tính bất khả tiêu là “thành tựu của các Kitô hữu, những người mà tình yêu được ơn thánh của bí tích củng cố” chứ không phải là đặc tính của “một sợi dây không liên hệ gì tới tình huống thực sự của mối liên hệ nhân bản và dửng dưng đối với ý chí nhân bản của vợ chồng” (52).
Theo RG, chủ trương trên đi ngược lại tuyên bố minh nhiên của Công Đồng: “Sợi dây thánh thiêng này… không tùy thuộc quyết định của con người [non ex humano arbitrio pendet].” (53)
Còn tiếp
___________________________________________________________________________
Chú thích
(1) Kenneth R. Himes and James A. Coriden, “The Indissolubility of Marriage: Reasons to Reconsider,” Theological Studies 65 (2004) 453–99, tại trang 465. Từ nay gọi tắt là HC.
(2) HC 465.
(3) HC 478. Theological Studies 72 (2011) 369
(4) HC 453.
(5) Xem HC 453–55. Vì chữ “ly dị” ngày nay có nhiều nghĩa, nên cần xác định: ở đây RG hiểu ly dị là việc hủy tiêu hôn nhân vốn không thể xẩy ra.
(6) HC 481; trích dẫn từ Gaudium et spes số 48.
(7) HC 480; trích dẫn từ Edward Schillebeeckx, “Christian Marriage and the Reality of Complete Marital Breakdown,” trong Catholic Divorce: The Deception of Annulments, ed. Pierre Hegy and Joseph Martos [New York:Continuum, 2000] 82–107, tại tr. 90).
(8) HC 489.
(9) HC 488.
(10) HC 489.
(11) HC 459.
(12) HC 487 số 105.
(13) HC 487; trích dẫn từ Richard McCormick, The Critical Calling: Reflections on Moral Dilemmas since Vatican II (Washington: Georgetown University, 1989) 248.
(14) HC 486, trích Margaret Farley, “Divorce and Remarriage: A Moral Perspective,” trong Commitment to Partnership: Explorations of the Theology of Marriage, ed. William Roberts (New York: Paulist, 1987) 107–27, tại tr. 114.
(15) HC 487 số 105.
(16) Xem HC 487 các số 105, 106.
(17) HC 486.
(18)HC 485.
(19) HC 486.
(20) HC 490.
(21) HC 457.
(22) HC 471.
(23) Ibid.
(24) Ibid.; trích dẫn từ Roch Pagé, “Marriage: Sacrament of Love or Sacrament of Bond?” Studia canonical 34 (2000) 5–21, tại tr. 9.
(25) HC 470.
(26) HC 471.
(27) Henri Crouzel, L’Église primitive face au divorce: Du premier au cinquième siècle (Paris: Beauchesne, 1971) 147 (mọi lời dịch đều của RG, ngoại trừ khi chỉ khác). Crouzel trích dẫn Fulbert Cayré, “Le divorce au IVe siècle dans la loi civile et les canons de saint Basile,” Echos d’Orient 19 (1920) 295–321, tại tr. 319. Crouzel đồng ý với Cayré rằng giải thích sai về Thánh Basilêô là do hiểu sai việc ngài chấp nhận những việc đền tội nhẹ hơn đối với người tái hôn hơn là người phạm tội ngoại tình (xem 137-147). Sau khi phân tích bản văn hay được trích dẫn hơn cả của Thánh Basilêô, George Hayward Joyce, một tác giả được HC khuyên nên đọc (xem 470, số 55), cũng kết luận rằng nó “không cung cấp cơ sở nào bất cứ để nghĩ rằng Thánh Basilêô khoan thứ việc ly dị và tái hôn” (Christian Marriage: An Historical and Doctrinal Study, 2nd ed. [London: Sheed & Ward, 1948] 327; xem 324–28).
(28) HC 471.
(29) Paul F. Palmer, S.J., “Christian Marriage: Contract or Covenant?” Theological Studies 33 (1972) 617–65, tại tr. 627 số19; cũng nên xem Joyce, Christian Marriage 329–30.
(30) L’Eglise primitive 203. Crouzel cung cấp một phân tích sâu sắc về việc Thánh Kim Khẩu bàn tới hôn nhân (xem 177–204) và đã trả lời một cách vững vàng luận điểm từng suy diễn một cách sai lầm rằng sự im lặng của Thánh Kim Khẩu có nghĩa ngài chấp nhận ly dị và tái hôn (xem 215–16).
(31) HC 474.
(32) “Divorce,” Dictionnaire de theologie catholique (Paris: 1899–1950), vol. 4, part 2, cols. 1455–78, tại cột 1466.
(33) Xem Joyce, Christian Marriage 340–43; muốn biết ngữ cảnh lịch sử của các lạm dụng, xin xem 331–61. Villien nhấn mạnh rằng một số công đồng, trong đó có Chalon (813), đã đưa ra các phán quyết chống lại những sách ân giải này chỉ vì chúng không duy trì tính bất khả tiêu của hôn nhân. Công Đồng Paris (829) ra lệnh đốt các sách thiếu sót này (xem “Divorce” cột 1468).
(34) HC 474.
(35) “Divorce” col. 1467. Joyce nhấn mạnh rằng vì “ta không có được lá thư của Thánh Bonifaxiô, cho nên lời lẽ chính xác của cuộc điều tra này chỉ có tính cách đoán chừng” (Christian Marriage 333).
(36) HC 463.
(37) Xem nguồn của HC: Theodore Mackin, Divorce and Remarriage (New York: Paulist, 1984) 374–77.
(38) Joyce, Christian Marriage 390. Mặc dù các giám mục trả lời rằng các ngài thiếu thẩm quyền để thừa nhận vấn đề nên đã bênh vực thực hành của các ngài liên quan tới ly dị, Joyce giải thích: “Chắc chắn Toà Thánh không hề có ý định bỏ qua một sai lầm nghiêm trọng như thế” (ibid.).
(39) Trong “Decrees of the Ecumenical Councils, 2 vols., ed. Norman P. Tanner [Washington: Georgetown University, 1990] 1:550). Từ đây, RG gọi công trình này là “Tanner”. Đoạn trích dẫn cho thấy rõ tính “bất khả phân chia” (indivisibilitas) của Công Đồng Flotrence loại bỏ việc tái hôn y như tính bất khả tiêu vậy; thực vậy, Tanner dịch chữ indivisibilitas là bất khả tiêu (indissolubility).
(40) “Intima communitas vitae et amoris coniugalis, a creatore condita suisque legibus instructa, foedere coniugii seu irrevocabili consensu personali instauratur” (Gaudium et spes [December 7, 1965] số. 48; Tanner 2:1100).
(41) “Sự chung chia thân mật đời sống và tình yêu vợ chồng… bắt nguồn từ giao ước hôn nhân [foedus coniugale] của lời ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi” (HC 481 số 87). Câu trích rút ngắn này có lợi cho câu tuyên bố của HC rằng “sự ưng thuận hữu vị, vốn bất khả thu hồi, tạo ra giao ước”. Việc HC bỏ câu “đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và được điều hòa bằng lề luật của Người” cho thấy rằng theo quan điểm của họ, Đấng Tạo Hóa không ăn nhằm gì tới việc tạo ra giao ước hôn nhân. Ngay khi bàn tới hôn nhân trong trạng thái tinh ròng của Sáng Thế, HC cũng tập chú vào hành động của vợ chồng: “Từ nguyên thủy, Thiên Chúa muốn nam nữ thiết lập sự kết hợp, thành một thân xác” (HC 467).
(42) HC 459.
(43) HC 459 số 16.
(44) “Điều trước đây luôn luôn là bổn phận của vợ chồng thì nay trở thành một phần rất quan trọng của ơn gọi làm tông đồ của họ: để biểu lộ và chứng minh bằng đời sống họ tính bất khả tiêu và tính thánh thiện của dây hôn phối (indissolubilitatem et sanctitatem vinculi matrimonialis)” (Tanner 2:989). Sắc Lệnh, công bố ngày 18 tháng 11 năm 1965, đã được 2,340 phiếu thuận, chỉ có 2 phiếu chống (xem Ferdinand Klostermann, “Decree on the Apostolate of the Laity: History of the Text,” trong Commentary on the Documents of Vatican II, 5 vols., ed. Herbert Vorgrimler [New York: Herder & Herder, 1968]
3:273, 301–2). Khi chấp nhận Gaudium et spes vào ngày 7 tháng 12, 1965, các nghị phụ Công Đồng chắc chắn không quên cũng như không gạt qua một bên một điều mà 19 ngày trước đó các ngài đã kêu gọi tín hữu làm chứng cho.
(45) Tanner 2:1100.
(46) HC 459.
(47) Tanner 2:1102.
(48) Tanner 2:1103.
(49) “Theo giáo huấn hiện thời, dây hôn phối, được tạo ra nhờ ‘hành vi nhân bản tự do của vợ chồng và sự hoàn hợp hôn nhân của họ, là một thự ctại, do đó, bất khả thu hồi” (HC 489; trích từ Sách Giáo Lý, số 1640).
Tuy nhiên, ngữ cảnh từ đó HC rút trích dẫn cho thấy rõ: hôn nhân là một giao ước bất khả tiêu, do Thiên Chúa bảo đảm: “Như thế, dây hôn phối đã được chính Thiên Chúa thiết lập một cách khiến cho cuộc hôn nhân giữa những người đã rửa tội ký kết và hoàn hợp thì không bao giờ có thể bị hủy tiêu. Sợi dây phát sinh từ hành vi nhân bản tự do của các người phối ngẫu này và việc hoàn hợp cuộc hôn nhân của họ, là một thực tại, do đó, không thể thu hồi, và nó phát sinh ra một giao ước được lòng trung tín của Thiên Chúa bảo đảm” (Sách Giáo Lý, số 1640).
(50) HC 489.
(51) Xem HC 496 số 126.
(52) HC 496.
(53) Tanner 2:1100. Chú giải ý niệm ưng thuận bất khả thu hồi của Vatican II, Bernhard Haring viết: “ý nghĩa khách quan của lời ưng thuận vợ chồng là chấp nhận hôn nhân như một cộng đồng tình yêu; do đó, nếu tình yêu trở nên lịm dần, các người phối ngẫu phải làm mọi sự để học lại nó. Dù sao, Gaudium et spes, phần 2, chương 1 cũng minh xác đi minh xác lại rằng nó không có ý nói tới thứ tình yêu chỉ có tính xúc cảm. Điều chính trong vấn đề này là: nó là một cộng đồng, mục đích và bản chất của cộng đồng này không lệ thuộc sự tự do võ đoán của con người muốn làm gì thì làm. Điều này được phát biểu rõ trong câu ‘được Đấng Tạo Hóa thiết lập và điều hòa bằng lề luật của Người”. Haring nhận định rằng: trái lại, “con người thời nay nghĩ tới khế ước như một thoả thuận mà nội dung có thể do chính các bên ký kết xác định và sau đó có thể thu hồi qua một ưng thuận hỗ tương” (“Part II, Chapter 1: Fostering the Nobility of Marriage and the Family,” trong Commentary on the Documents of Vatican II 5:225–45, tại tr. 232).
Hôn nhân bất khả tiêu: trả lời luận điểm muốn xét lại vấn đề (2)
Vũ Văn An
23:57 16/03/2014
Tại sao việc ưng thuận hôn nhân giao ước lại bất khả thu hồi
HC giả thiết rằng vì ưa thích ngôn ngữ giao ước hơn ngôn ngữ khế ước, Vatican II đã định nghĩa lại hôn nhân. Tuy nhiên, theo RG, Công Đồng không hề nói ngược lại bất cứ điều gì Giáo Hội trước đó vẫn thường dạy về bản chất của hôn nhân hay các đặc tính chủ yếu của nó (54).
Cam kết hay ưng thuận?
HC chủ trương rằng liên hệ hôn nhân “lớn hơn tình bạn” (55) và lời ưng thuật kết hôn lớn hơn cam kết trong các liên hệ thông thường (56). Nhưng đối với HC, liên hệ vợ chồng, trong yếu tính, cũng tương tự như liên hệ của những tình bạn thông thường. Người ta gặp nhau, cảm nhận sự âu yếm, bắt đầu hứa hẹn, và cuối cùng trở thành cam kết với nhau một cách sâu sắc. Đối với HC, việc ưng thuận kết hôn cũng hành động tương tự như thế. Nó là một cam kết, được thúc đẩy bởi tình yêu, một cam kết, giống các hứa hẹn bạn bè làm với nhau, đều có tính bất khả thu hồi. Do đó, HC phản biện rằng “Không trong lãnh vực hứa hẹn nhân bản nào, truyền thống Công Giáo lại chủ trương tính bất khả thu hồi của cam kết nhân bản cả” (57) và coi như “không những sai lầm, mà còn không thể nào gác qua một bên các nghĩa vụ phát sinh từ các lời thề hứa mà các cá nhân đã đưa ra” (58). Nhưng, như RG sẽ minh giải, HC hiểu lầm “sự ưng thuận bất khả thu hồi”.
Nghĩa trong phát biểu của Vatican II trở nên rõ ràng khi ta xem xét hai yếu tố khác biệt trong “Lời Ưng Thuận” của nghi lễ hôn phối: chữ “nhận” và chữ “hứa” của vợ chồng. “Nhận”là việc họ chọn nhau làm người phối ngẫu (Anh [em] X nhận em [anh] Y làm vợ [chồng]). “Hứa” là cam kết của họ sẽ chu toàn các trách nhiệm vợ chồng (anh [em] hứa sẽ giữ lòng chung thủy…). Ta có thể gọi câu trước là “ưng thuận đơn thuần” (sheer consent) và câu sau là “cam kết” (59). RG cho rằng HC coi ưng thuận như thể chỉ là cam kết. Rồi, vì cam kết có thể thu hồi được, nên họ giả thiết rằng vợ chồng cảm nhận cuộc hôn nhân của họ tan vỡ hoàn toàn lúc, sau khi phá bỏ các thề hứa, cuối cùng đã thu hồi cam kết căn bản của họ.
Tuy nhiên, theo RG, Giáo Hội không dạy rằng lời thề hứa với nhau của vợ chồng là bất khả tiêu; Giáo Hội dạy rằng cuộc kết hợp vợ chồng của họ, được dẫn khởi bởi việc ưng thuận đơn thuần và hoàn hợp, là điều bất khả tiêu. HC đã không lưu ý tới “ưng thuận đơn thuần” (sheer consent). Mặt khác, hôn nhân không phải là trường hợp duy nhất trong đó ưng thuận với việc thủ diễn thân xác đem đến một kết hợp không thể bẻ gẫy. Trong phép Rửa, ý muốn và tác phong rửa của Chúa Giêsu và của những người được rửa kết hợp họ một cách bất khả hủy tiêu với Người. Ngay cả khi người được rửa tội từ bỏ đức tin, họ vẫn là chi thể của Chúa Kitô (60).
Hiệp thông hữu vị bất khả tiêu
RG cho rằng: khi sử dụng ngôn ngữ giao ước để nói về hôn nhân, Vatican II không thích ứng một ý niệm lãng mạn hiện đại mà là phục hồi một ý niệm tôn giáo thời xưa (61). Ngay những người ngoại giáo đôi khi cũng thực hiện một giao ước: tức “một thỏa hiệp long trọng giữa các quốc gia, giữa các dân tộc, giữa các cá nhân, tạo ra một liên hệ có tính trói buộc và bất khả vi phạm” (62). Giao ước xử lý với những con người chứ không phải sự vật. Giao ước lấy Thiên Chúa (hay các thần minh), chứ không phải chỉ là thế giá phàm nhân làm chứng nhân và người bảo đảm, và do đó là vĩnh viễn chứ không tạm bợ. Giao ước là thánh thiêng chứ không phàm tục (63).
Sau khi Thiên Chúa cứu Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, Người đề nghị với Môsê một giao ước và cho ông hay điều Người muốn thấy nơi dân. Môsê chuyển đề nghị của Thiên Chúa cho dân, và họ ưng thuận: “mọi lời Thiên Chúa đã nói chúng tôi sẽ làm” (Xh 24:3) (64). Môsê sau đó đã dâng hy lễ; máu đã “được đổ lên bàn thờ vốn biểu tượng cho Giavê, và được rẩy lên những người giao ước, do đó, đã thiết lập ra một giao ước máu hay một thứ quan hệ thân thuộc giữa Thiên Chúa và dân Người (65). Khi đề nghị của Thiên Chúa đã được chấp nhận và giao ước đã được sinh động nhờ máu, Môsê và các nhà lãnh đạo khác “đã được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, và được ăn uống” (Xh 24:11; xem 9-11). Như thế, nhờ khởi xướng cuộc sống với nhau, Thiên Chúa và Israel đã hoàn toàn thiết lập ra giao ước Sinai (66).
Nơi và nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa đề nghị với nhân loại một giao ước. Chúa Giêsu nói với người ta điều Thiên Chúa mong chờ nơi họ và, vì luôn làm theo thánh ý Chúa Cha, Người đã dẫn dắt các môn đệ của Người tới việc ưng thuận lời đề nghị của Thiên Chúa. Những ai chấp nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu đều cột nối sự ưng thuận của họ vào sự ưng thuận của Người qua hành vi đức tin lúc rửa tội. Khi vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tự ý chấp nhận sự chết và dâng chính máu Người để đem lại sinh khí cho giao ước mới. Khi người chịu phép rửa tham dự Thánh Thể và rước Lễ, họ hoàn toàn được tháp nhập vào hiệp thông của giao ước mới và bắt đầu chia sẻ cuộc sống chung của hiệp thông này. Khi không những ăn và uống trước mặt Thiên Chúa mà còn ăn mình và uống máu Thiên Chúa làm người, các Kitô hữu trở thành chi thể của chính thân thể Người, là Giáo Hội, vốn là Hiền Thê của Người, một Hiền Thê vốn được kết hợp với Người bằng một sợi dây bất khả tiêu (67).
“Kết hợp bằng một sợi dây” có nghĩa gì? Kiểu nói này có thể có nhiều ý nghĩa đôi chút khác nhau. Nó có thể khiến ta nghĩ tới đoàn tù bị xiềng xích với nhau. Vì ngoại tại với họ, xiềng xích này không thể kết hợp họ trong một hiệp thông hữu vị và cũng không thể kết hợp họ một cách bất khả tiêu. Xiềng xích này rất dễ bị tháo bỏ. Khi Michelangelo vẽ sơn lên vữa tường, hai chất này được liên kết với nhau đến nỗi dù không có bất cứ sợi dây ngoại tại nào, chúng đã trở thành một bức bích họa. Trong thực tại mới duy nhất này, sơn và vữa tường đã kết hợp một cách bất khả tiêu, và chỉ có việc tiêu hủy chúng mới có thể tiêu hủy được bức bích họa. Tuy nhiên, sự kết hợp bất khả tiêu giữa sơn và vữa tường không phải là một hiệp thông hữu vị. Vì bàn tay là nội tại của người ta, nên việc nắm tay nhau có thể kết hợp một cặp nào đó trong một hiệp thông hữu vị, nhưng không bất khả tiêu. Bất kể cái nắm tay nhau này nồng nàn đến đâu, bàn tay của mỗi người đều dễ dàng bị rút lại và thủ thế khi tình âu yếm nguội đi.
Trái lại, hiệp thông hữu vị bất khả tiêu có tính giao ước. Giao ước mới giữa Thiên Chúa với nhân loại, chẳng hạn, không kết hợp hai bên bằng bất cứ điều gì ngoại tại đối với họ hay bằng các hành động của họ mà thôi, mà bằng Chúa Giêsu, Đấng duy nhất vừa là người vừa là Thiên Chúa. Khi nối kết với nhau, dù không đánh mất bất cứ điều gì nơi bản thân, Chúa Giêsu và các chi thể của Người trở thành một thực tại mới duy nhất, tức Nhiệm Thể, một Nhiệm Thể cuối cùng sẽ được biến đổi thành vương quốc mãi mãi. Như thế, là các chi thể của Chúa Giêsu, những ai thừa hưởng nước này sẽ sống mãi trong hiệp thông hữu vị cận kề và bất khả tiêu với Thiên Chúa.
Giáo huấn của Chúa Giêsu về tính bất khả tiêu
Hôn nhân cũng là một giao ước bất khả tiêu, mà Chúa Giêsu, dù không dùng các chữ này, đã chứng tỏ khi được hỏi liệu ly dị có phải là “điều hợp pháp” hay không (68). Người bắt đầu luận chứng của Người bằng cách nhắc nhớ việc thiết lập ra hôn nhân khi Thiên Chúa dựng nên nó (“Há các ông không đọc rằng Đấng dựng nên họ ngay từ đầu đã dựng nên họ có nam có nữ, và phán, ‘vì lẽ đó, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và kết hợp với vợ, và cả hai sẽ trở nên một thân xác?’”). Rồi Người rút ra kết luận đầu tiên: cả hai là một thân xác (“Do đó, họ không còn là hai mà chỉ là một thân xác”) (69). Từ đó, Người rút ra thêm một kết luận nữa: vì được Thiên Chúa đem tới, việc kết hợp của đôi lứa có tính thánh thiêng và bất khả vi phạm, đến nỗi ly dị là không hợp luật (“sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”). Đối với phản biện cho rằng Môsê cho phép ly dị, Chúa Giêsu trả lời rằng các cuộc hôn nhân như thế không phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa (“từ nguyên thủy, không phải như vậy”). Người long trọng xác quyết (“Tôi cho các ông hay”) rằng bất cứ mưu toan nào nhằm tiêu hủy một kết hợp hôn phối do Thiên Chúa thiết lập đều thiết yếu sai lầm (“bất cứ ai ly dị vợ mình (70), trừ trường hợp dâm bôn, và cưới một người khác, là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị ly dị, cũng phạm tội ngoại tình”) (Mt 19:3-9; xem 5:31-32, Mc 10:2-12, Lc6:18) (71).
Luận chứng của Chúa Giêsu có thể được giải thích về phương diện thần học (72). Vì Thiên Chúa tạo nên người nam và người nữ, nếu để họ “một mình” thì “không tốt” (St 2:18), nên hôn nhân là điều tốt tự nhiên. Sự tốt lành này dẫn người đàn ông và người bà tới quyết định chia sẻ nó (ưng thuận lấy nhau) đến độ sẵn sàng phân ly khỏi gia đình gốc. Là vợ là chồng, họ dính kết với nhau (hoàn hợp hôn nhân của họ), và do đó, cột chặt lại với nhau, không còn là hai mà đã trở nên một thân xác (sợi dây này có tính nội tại, đến nỗi, dù dị biệt, họ vẫn chỉ là một thực tại mới duy nhất). Như một điều thực sự mới mẻ, sự nên một này chỉ có thể do Đấng Tạo Hóa tạo nên, và một khi đã được tạo nên, nó không còn lệ thuộc quyết định nhân bản nữa; do đó, không nên mưu toan ly dị(sự kết hợp nội tại không đơn thuần là một khế ước, mà là một giao ước). Khi một cặp lấy nhau theo giao ước mưu toan phá bỏ hôn nhân và tái hôn, thì thực sự họ không được làm thế (sợi dây giao ước, tức sự kết hợp vợ chồng do Thiên Chúa ban cho, chỉ có thể bị tiêu hủy bằng sự chết). Họ đã phạm tội ngoại tình.
Sự hoàn hợp đem lại điều gì?
HC cho rằng “Hoàn hợp muốn nói tới việc hoàn tất điều gì đó hay đem điều gì đó tới hoàn thành” và đặt câu hỏi liệu người ta có thể nhận diện cách hợp lý hành vi giao hợp đầu tiên sau khi ưng thuận “như là hoàn tất dứt khoát giao ước tự hiến trọn vẹn của hôn nhân” (73). HC cho rằng việc nhận diện này hợp luận lý khi hiểu hôn nhân theo nghĩa khế ước tức nghĩa coi hôn nhân như một trao đổi quyền hưởng tính dục, vì “cuộc trao đổi này được đóng ấn bởi việc thi hành lần đầu quyền ấy” (74). Nhưng nếu hiểu hôn nhân theo nghĩa giao ước, tức nghĩa coi hôn nhân như việc chung chia (consortium) sự thân mật kéo dài suốt đời, thì người ta ít thấy rõ việc lần đầu giao hợp ấy “biểu tượng thích đáng cho việc hoàn hợp” (75).
RG cho rằng “Biểu tượng hoàn hợp” của HC rõ ràng sai lạc. Trong giáo huấn và luật học của Giáo Hội, hành vi giao hợp đầu tiên của vợ chồng không biểu tượng cho hoàn hợp mà là tạo nên sự hoàn hợp. Ý nghĩa chuyên biệt của hành vi ấy không phải là đóng ấn một trao đổi bằng việc thi hành một quyền lợi lần đầu tiên. Đúng hơn, hành vi giao hợp vợ chồng lần đầu hoàn tất việc họ cộng tác vào diễn trình hình thành việc kết hợp của hai thân xác thành một theo giao ước (the coming-to-be of their two-in-one-flesh covenantal union).
Mặc dù sự ưng thuận hỗ tương của vợ chồng tức việc họ tự ý hiến mình đã khởi diễn sự hiệp thông vợ chồng, nhưng như Đức Gioan Phaolô II từng dạy, sự ưng thuận này có nghĩa một thực tại chỉ đạt tới hiện hữu hoàn toàn nhờ sự hoàn hợp. Ngài giải thích: sự ưng thuận tự nó chỉ là dấu chỉ việc tiến vào hiện hữu của hôn nhân (coming into being of marriage). Và việc tiến vào hiện hữu của hôn nhân này khác với sự hoàn hợp của nó ở chỗ không có sự hoàn hợp này, hôn nhân chưa được thiết dựng trong tính thực tại đầy đủ của nó. Sự kiện hôn nhân đã được ký kết về phương diện luật pháp nhưng chưa được hoàn hợp (ratum – non consummatum) tương ứng với sự kiện nó chưa được thiết dựng đầy đủ như một hôn nhân. Thực vậy, theo RG, chính những lời “anh nhận em làm vợ”, hay “em nhận anh làm chồng” không những nói đến một thực tại nhất định, nhưng chúng chỉ được hoàn thành nhờ việc vợ chồng giao hợp. Hơn nữa, thực tại này (việc vợ chồng giao hợp), ngay từ đầu, đã được xác định bởi định chế của Đấng Tạo Hóa: “Do đó, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình và gắn bó với vợ, và họ trở nên một thân xác” (xem St 2:24) (76).
Trích dẫn từ Sách Sáng Thế trên đã tạo cơ sở cho câu tuyên bố của Chúa Giêsu rằng mưu toan tái hôn sau khi ly dị là phạm tội ngoại tình. Như thế rõ ràng là Người có ý nói tới mưu toan tái hôn sau khi cả hai đã trở thành một thân xác: cho tới khi vợ chồng hoàn hợp hôn nhân của họ qua hành vi giao hợp phu phụ đầu tiên ấy, họ vẫn chưa được Thiên Chúa kết hợp mật thiết đến độ không gì, trừ sự chết, mới phân rẽ được họ. Như thế, thực hành của Giáo Hội trong việc hủy tiêu các cuộc hôn nhân chưa hoàn hợp là nhất quán với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Bỏ qua ý nghĩa ấy của hành vi giao hợp vợ chồng lần đầu, HC đã coi hoàn hợp không phải là diễn trình hình thành việc kết hợp vợ chồng mà là việc hoàn thiện hóa liên hệ vợ chồng. RG cho rằng: tuy nhiên, nếu mối liên hệ ấy tương tự như tình bạn, như HC chủ trương, thì ta khó nắm được ý nghĩa của sự hoàn hảo hóa này. Tình bạn luôn thịnh suy và không bao giờ hoàn hảo cả. Như thế, theo quan điểm của HC, chính vợ chồng cũng không bao giờ biết cuộc hôn nhân của họ đã được hoàn hợp hay chưa (77).
Hôn nhân – giao ước hay chỉ là khế ước?
Theo RG, lời tuyên bố của Vatican II, rằng “Giao ước, hay sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi, của hôn nhân tạo ra sự chia sẻ thân mật cuộc sống và tình yêu vợ chồng như đã được Tạo Hóa thiết lập” (78), đã tóm lược chân lý này rằng sự ưng thuận kết hôn, trong ý định của Thiên Chúa, là một sự ưng thuận có tính giao ước, và cô dâu cùng chú rể, khi hoàn hợp sự ưng thuận này bằng cách trở nên một trong hành vi giao hợp phu phụ, thực đã được Thiên Chúa kết hợp một cách bất khả tiêu. Dây hôn phối bất khả tiêu không là gì khác ngoài chính sự kết hợp có tính giao ước này. Không phải chỉ là một ý niệm luật pháp, dây này chính là vợ chồng, được coi như không còn phải là hai nữa mà chỉ là một.
Ấy thế nhưng, theo RG, HC đã coi dây hôn phối, về phương diện hữu thể học, tương tự như những sợi dây do các sinh hoạt như ăn chung một bữa tối tạo ra, và nhấn mạnh rằng nó “không hơn không kém chính là mối liên hệ nhân bản” (79), và chủ trương rằng nó “cố hữu ngay trong những con người tạo nên mối liên hệ” (80). Nại tới “nền triết học kinh viện cổ truyền” để hỗ trợ cho quan điểm của mình, HC giải thích liên hệ như là tùy thể (accident) theo nghĩa Aristốt, và kết luận rằng “Do đó, khi nói tới thực tại tính của dây hôn phối, hẳn Giáo Hội muốn nói tới thực tại tính của người đàn ông và của người đàn bà, những người đã đem lại cho đời mình một xu hướng toàn diện bằng cách thề hứa rằng mình sẽ sống chung với nhau như chồng và vợ” (81).
RG cho rằng không may, triết học Kinh Viện dựa trên luận lý học và siêu hình học của Aristốt không có chỗ nào dành cho kết hợp giao ước cả. Giản lược sợi dây giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo Hội vào tùy thể rõ rệt của mối liên hệ cố hữu giữa hai chủ thể này là bênh vực tính khả tiêu đến độ bác bỏ thực tại của chính sự kết hợp này. Thực hiện một sự giản lược tương tự như thế đối với sợi dây giao ước giữa hai người phối ngẫu là bác bỏ thực tại tính của hôn nhân (82). Hơn nữa, bênh vực tính khả tiêu này là hàm nghĩa đã sai lầm trong ý niệm coi các ngôi vị thần linh cũng như nhân bản như các bản thể cá vị theo nghĩa Aristốt mà tính tách biệt không thể bị vượt qua dù là bởi những kết hợp yêu thương do Thiên Chúa đem đến.
Theo RG, nếu hôn nhân chỉ là một khế ước, thì việc HC bác bỏ tính bất khả tiêu có thể có nghĩa, vì như Haring từng nhận định, người ta thường hiểu rằng một khế ước có thể “bị thu hồi do thoả thuận hỗ tương” (83). Nhưng đôi lứa Công Giáo khi “kết ước” hôn nhân, luôn hiểu rằng chỉ sự chết mới kết liễu được nó. Bất kể dùng chữ “giao ước” hay chỉ vui hưởng một liên hệ lãng mạn, cái hiểu của họ về hôn nhân vẫn thực sự có tính giao ước (84).
Nói tóm lại, RG cho rằng hôn nhân khác với các liên hệ khác của con người: nó là một sự chung chia đầy thân mật cuộc sống và sự chung chia này có định hướng kéo dài mãi mãi. Trong khi ấy HC lại coi sợi dây luân lý, trong yếu tính, vẫn như nhau dù là trong hôn nhân hay trong tình bạn. Cho nên, theo quan điểm luân lý, hôn nhân đến rồi đi giống như tình bạn vậy. Như thế, liên hệ hôn nhân có thể đổ vỡ hòan tòan, và khi nó đổ vỡ, điều còn lại là điều có thể tiêu hủy được. HC cho rằng họ tìm thấy trong giáo huấn của Vatican II nhiều điều ủng hộ chủ trương của họ. Tuy nhiên, thực tế ra, khi coi hôn nhân như một giao ước, Công Đồng chỉ lặp lại bằng ngôn từ Thánh Kinh và khai triển đáng kể giáo huấn truyền thống, tức giáo huấn dạy rằng sự kết hợp của vợ chồng không phải chỉ do hai vợ chồng mà còn Do Thiên Chúa đem lại, và do đó bất khả tiêu. Theo RG, trong cách giải thích của HC về giao ước hôn nhân, tình yêu lãng mạn đã thay thế “sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi”. Giản lược sự ưng thuận vào cam kết mà thôi, làm ngơ ý nghĩa của hoàn hợp, và bất kể vai trò của Thiên Chúa trong việc phát sinh ra sự kết hợp giao ước, HC đã rất hợp luận lý nhưng rất sai lầm khi bênh vực tính khả tiêu dù là trong các cuộc hôn nhân đã thành hiệu và hoàn hợp.
_______________________________________________________________________________________________________________________
Chú thích
[54] Thí dụ, tương phản của HC giữa giao ước và khế ước không vững vàng bao nhiêu: “Tuy nhiên, Công Đồng không dùng giao ước để loại bỏ hẳn sự hiện diện của các yếu tố khế ước trong các lời thề ước hôn nhân (điều hơn có thể chứa điều kém), nhưng Công Đồng muốn các yếu tố có nghĩa hẹp về luật pháp được lồng vào ngữ cảnh thánh” (Ladislas Orsy, Marriage in Canon Law: Texts and Comments, Reflections and Questions [Wilmington, Del.: Michael Glazier, 1988] 50).
[55] HC 481.
[56] “Lời thề hứa hôn nhân chắc chắn hướng tới cam kết suốt đời, người đưa ra lời thề hứa khát mong có được sự tự hiến toàn diện và dứt khoát vốn là mục đích riêng của hôn nhân” (HC 489). Dù không nhắc tới những cuộc hôn nhân đa ái (polyamorous), đa hôn hay đồng tính, ý niệm hôn nhân của HC có thể bị khai thác để hỗ trợ cho quan điểm chủ trương rằng miễn là các bên cam kết chia sẻ trọn cuộc đời với nhau, thì những mối liên hệ như thế đều là những cuộc hôn nhân “giao ước” cả.
[57] HC 489.
[58] HC 490.
[59] The Rites of the Catholic Church as Revised by Decree of the Second Vatican Council . . . , 2 vols. (New York: Pueblo, 1976) 1:541; hình thức thay thế được chấp thuận cho Hoa Kỳ để nói lời “ưng thuận đơn thuần” là “Anh T. lấy Em T. … cho đến chết mới chia tay”, còn nói “cam kết” là “khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan…” (541–42).
[60] Xem Sách Giáo Lý số 1272.
[61] Xem Palmer, “Christian Marriage” 617–39.
[62] Ibid. 618.
[63] Xem ibid. 618, 639.
[64] Mọi trích dẫn Thánh Kinh của RG đều lấy từ RSV, ấn bản Công Giáo.
[65] Palmer, “Christian Marriage” 654; xem XH 24:5–8.
[66] Bắt đầu với Hôsê, một số tiên tri “mô tả giao ước của Giavê với Israel theo ngôn từ hôn nhân nhân bản”, và trong Malaki, vào khoảng ba thế kỷ sau Hôsê, “từ ngữ ‘giao ước’được trực tiếp áp dụng cho hôn nhân giữa người Do Thái với nhau”. Malaki “tìm thấy trong lòng bất trung của cá nhân Do Thái đối với vợ mình lý do để Giavê từ khước chấp nhận lễ hy sinh họ dâng lên Người. ‘Chính bởi vì Giavê đứng làm chứng nhân giữa ngươi và vợ ngươi, người vợ ngươi đã bẻ gẫy niềm tin , dù nàng vốn là vợ ngươi theo giao ước… Vì Ta ghét ly dị, Giavê, Đấng Thiên Chúa của Israel, phán thế’ (2:14–15)” (Palmer, “Christian Marriage” 620–21). Như thế, ly dị là điều kinh tởm đối với Thiên Chúa chính bởi vì hôn nhân có tính giao ước.
[67] Xem ibid. 654.
[68] Trong khi Malaki nói rõ: ly dị là điều kinh tởm đối với Thiên Chúa vì hôn nhân có tính giao ước (2:13–16), thì Chúa Giêsu mạc khải rằng đặc tính bất khả tiêu của hôn nhân khiến ly dị ra kinh tởm. Sự nhất quán của điều Môsê nhân nhượng với tính bất khả tiêu của giao ước hôn nhân được bàn tới trong bản văn đi kèm các số 89-100; sự nhất quán của thuật ngữ porneia với tính bất khả tiêu được bàn tới trong bản văn đi kèm các số 117-24.
[69] Bản dịch RSV (tiếng Anh) bỏ chữ “thân xác” nhưng có ghi chú: “Bản Hy Lạp một thân xác”.
[70] “Trước khi Chúa Giêsu tái lập hôn nhân trở lại tư cách giao ước, Người phải tái lập cho người đàn bà các quyền hôn nhân người ta từng bác bỏ nơi nàng. Do đó, ít nhất đối với xã hội Do Thái, đặc tính cách mạng trong tuyên bố của Chúa Giêsu đã được Máccô ghi lại như sau: ‘Bất cứ ai ly dị vợ mình và cưới người đàn bà khác là phạm ngoại tình đối với nàng’ (10:11)” (Palmer, “Christian Marriage” 623). Tuy vậy, khi cảnh cáo chống ly dị, Chúa Giêsu tập chú vào đàn ông, vì ly dị nói chung đều cho người chồng quyết định, chứ không phải người vợ.
[71] Gần đây, lời chú giải được nhiều người coi trọng về Mt 19:3-9 xác nhận rằng Chúa Giêsu tuyệt đối loại bỏ ly dị. Joseph A. Fitzmyer nhận định: “điều hết sức ngạc nhiên trong cuộc nghiên cứu hiện đại về các Tin Mừng và nhất là về các đoạn nói tới ly dị là con số các nhà chú giải cho rằng nguồn gốc một số hình thức ngăn cấm ly dị phát sinh từ Chúa Giêsu, và thường có tính tuyệt đối. Nếu lối phân tích tôi đã theo đuổi trên đây có chút giá trị nào, thì hẳn nó sẽ dẫn ta tới kết luận rằng việc tuyệt đối ngăn cấm ly dị đã phát sinh từ chính Chúa Giêsu. Ngày nay, khi nghe nói các nhà chú giải sử dụng các nguyên tắc phân tích hình thức hay phân tích soạn thảo (redaction criticism) để phân tích các bản văn Tin Mừng, người ta ít nhiều mong học được từ họ một lối giải thích cấp tiến hay ‘giải phóng’ nào đó. Nhưng trong trường hợp này, sự việc không như vậy. Phán đoán theo lối phê bình hình thức, các bản văn ly dị trong Tân Ước cho thấy hình thức nguyên sơ nhất của việc ngăn cấm ly dị có tính tuyệt đối” (“The Matthean Divorce Texts and Some New Palestinian Evidence,” Theological Studies 37 [1976] 197–226, at 223–24). Một học giả không Công Giáo, Ulrich Luz, trình bày một lối đọc Mt 19:3-9 gần gũi về cấu trúc và nội dung với lối giải thích của RG (xem Matthew 8–20: A Commentary, trans. James E. Crouch [Minneapolis, Minn.: Augsburg Fortress, 2001] 486–94). Tuy nhiên, Luz, khi xem sét “ý nghĩa cho ngày nay” của đoạn này về phương diện thần học, đã cho rằng Tân Ước, như một toàn bộ, ban quyền cho các Giáo Hội Kitô Giáo được phép cho ly dị (xem 494–96).
[72] Dù đoạn song song trong Mc 10:2-12 khác Mt 19:3-9 một số khía cạnh, các yếu tố được lời giải thích về thần học này bao trùm đều như nhau.
[73] HC 484.
[74]HC 483.
[75] HC 484.
[76] Buổi yết kiến (5 tháng Giêng, 1983) số 2, Insegnamenti di Giovanni Paolo II, vol. 6, part 1 (Vatican City: Libreria Editrice Vaticana, 1983) 42; L’Osservatore Romano , Engl. ed., January 3–10, 1983, p. 7.
[77] Như thế, người ta có lẽ sẽ nói: khi vợ chồng ở với nhau cho tới chết, cuộc hôn nhân của họ mới hoàn hợp; khi họ ly thân vĩnh viễn, cuộc hôn nhân của họ không bao giờ hoàn hợp cả.
[78] Tanner 2:1100.
[79] HC 485–86.
[80] HC 485.
[81] HC 485; luận điểm của HC dựa vào và trích dẫn Michael Lawler, “Blessed Are Spouses Who Love, For Their Marriages Will be Permanent: A Theology of
the Bonds in Marriage,” Jurist 55 (1995) 218–42, at 221.
[82] Đức Gioan Phaolô II viết: “Hôn nhân ‘là’ bất khả tiêu: đặc tính này nói lên chiều kích hiện hữu khách quan của nó, nó không phải là một sự kiện đơn thuần chủ quan. Thành ra, điều tốt của bất khả tiêu cũng là điều tốt của chính hôn nhân; và không hiểu đặc tính bất khả tiêu là không hiểu yếu tính của hôn nhân” (Diễn Văn với Tòa Tối Cao Rôma, 28 tháng Giêng, 2002, số 4) http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/speeches/2002/january/documents/hf_jp-ii_spe_20020128_roman-rota_en.html).
[83] Xem ghi chú số 53.
[84] “Dù các giáo luật gia và các thần học gia thảo luận hôn nhân theo ngôn từ khế ước, nhưng các Kitô hữu luôn kết hôn trong phụng vụ giao ước, trong đó, họ trao đổi lời thề hứa, nói lên tình yêu của mình, và tiếp nhận nhau bất chấp thịnh vượng hay gian nan cho tới chết mới xa nhau” (Palmer, “Christian Marriage” 639).
HC giả thiết rằng vì ưa thích ngôn ngữ giao ước hơn ngôn ngữ khế ước, Vatican II đã định nghĩa lại hôn nhân. Tuy nhiên, theo RG, Công Đồng không hề nói ngược lại bất cứ điều gì Giáo Hội trước đó vẫn thường dạy về bản chất của hôn nhân hay các đặc tính chủ yếu của nó (54).
Cam kết hay ưng thuận?
HC chủ trương rằng liên hệ hôn nhân “lớn hơn tình bạn” (55) và lời ưng thuật kết hôn lớn hơn cam kết trong các liên hệ thông thường (56). Nhưng đối với HC, liên hệ vợ chồng, trong yếu tính, cũng tương tự như liên hệ của những tình bạn thông thường. Người ta gặp nhau, cảm nhận sự âu yếm, bắt đầu hứa hẹn, và cuối cùng trở thành cam kết với nhau một cách sâu sắc. Đối với HC, việc ưng thuận kết hôn cũng hành động tương tự như thế. Nó là một cam kết, được thúc đẩy bởi tình yêu, một cam kết, giống các hứa hẹn bạn bè làm với nhau, đều có tính bất khả thu hồi. Do đó, HC phản biện rằng “Không trong lãnh vực hứa hẹn nhân bản nào, truyền thống Công Giáo lại chủ trương tính bất khả thu hồi của cam kết nhân bản cả” (57) và coi như “không những sai lầm, mà còn không thể nào gác qua một bên các nghĩa vụ phát sinh từ các lời thề hứa mà các cá nhân đã đưa ra” (58). Nhưng, như RG sẽ minh giải, HC hiểu lầm “sự ưng thuận bất khả thu hồi”.
Nghĩa trong phát biểu của Vatican II trở nên rõ ràng khi ta xem xét hai yếu tố khác biệt trong “Lời Ưng Thuận” của nghi lễ hôn phối: chữ “nhận” và chữ “hứa” của vợ chồng. “Nhận”là việc họ chọn nhau làm người phối ngẫu (Anh [em] X nhận em [anh] Y làm vợ [chồng]). “Hứa” là cam kết của họ sẽ chu toàn các trách nhiệm vợ chồng (anh [em] hứa sẽ giữ lòng chung thủy…). Ta có thể gọi câu trước là “ưng thuận đơn thuần” (sheer consent) và câu sau là “cam kết” (59). RG cho rằng HC coi ưng thuận như thể chỉ là cam kết. Rồi, vì cam kết có thể thu hồi được, nên họ giả thiết rằng vợ chồng cảm nhận cuộc hôn nhân của họ tan vỡ hoàn toàn lúc, sau khi phá bỏ các thề hứa, cuối cùng đã thu hồi cam kết căn bản của họ.
Tuy nhiên, theo RG, Giáo Hội không dạy rằng lời thề hứa với nhau của vợ chồng là bất khả tiêu; Giáo Hội dạy rằng cuộc kết hợp vợ chồng của họ, được dẫn khởi bởi việc ưng thuận đơn thuần và hoàn hợp, là điều bất khả tiêu. HC đã không lưu ý tới “ưng thuận đơn thuần” (sheer consent). Mặt khác, hôn nhân không phải là trường hợp duy nhất trong đó ưng thuận với việc thủ diễn thân xác đem đến một kết hợp không thể bẻ gẫy. Trong phép Rửa, ý muốn và tác phong rửa của Chúa Giêsu và của những người được rửa kết hợp họ một cách bất khả hủy tiêu với Người. Ngay cả khi người được rửa tội từ bỏ đức tin, họ vẫn là chi thể của Chúa Kitô (60).
Hiệp thông hữu vị bất khả tiêu
RG cho rằng: khi sử dụng ngôn ngữ giao ước để nói về hôn nhân, Vatican II không thích ứng một ý niệm lãng mạn hiện đại mà là phục hồi một ý niệm tôn giáo thời xưa (61). Ngay những người ngoại giáo đôi khi cũng thực hiện một giao ước: tức “một thỏa hiệp long trọng giữa các quốc gia, giữa các dân tộc, giữa các cá nhân, tạo ra một liên hệ có tính trói buộc và bất khả vi phạm” (62). Giao ước xử lý với những con người chứ không phải sự vật. Giao ước lấy Thiên Chúa (hay các thần minh), chứ không phải chỉ là thế giá phàm nhân làm chứng nhân và người bảo đảm, và do đó là vĩnh viễn chứ không tạm bợ. Giao ước là thánh thiêng chứ không phàm tục (63).
Sau khi Thiên Chúa cứu Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, Người đề nghị với Môsê một giao ước và cho ông hay điều Người muốn thấy nơi dân. Môsê chuyển đề nghị của Thiên Chúa cho dân, và họ ưng thuận: “mọi lời Thiên Chúa đã nói chúng tôi sẽ làm” (Xh 24:3) (64). Môsê sau đó đã dâng hy lễ; máu đã “được đổ lên bàn thờ vốn biểu tượng cho Giavê, và được rẩy lên những người giao ước, do đó, đã thiết lập ra một giao ước máu hay một thứ quan hệ thân thuộc giữa Thiên Chúa và dân Người (65). Khi đề nghị của Thiên Chúa đã được chấp nhận và giao ước đã được sinh động nhờ máu, Môsê và các nhà lãnh đạo khác “đã được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, và được ăn uống” (Xh 24:11; xem 9-11). Như thế, nhờ khởi xướng cuộc sống với nhau, Thiên Chúa và Israel đã hoàn toàn thiết lập ra giao ước Sinai (66).
Nơi và nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa đề nghị với nhân loại một giao ước. Chúa Giêsu nói với người ta điều Thiên Chúa mong chờ nơi họ và, vì luôn làm theo thánh ý Chúa Cha, Người đã dẫn dắt các môn đệ của Người tới việc ưng thuận lời đề nghị của Thiên Chúa. Những ai chấp nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu đều cột nối sự ưng thuận của họ vào sự ưng thuận của Người qua hành vi đức tin lúc rửa tội. Khi vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tự ý chấp nhận sự chết và dâng chính máu Người để đem lại sinh khí cho giao ước mới. Khi người chịu phép rửa tham dự Thánh Thể và rước Lễ, họ hoàn toàn được tháp nhập vào hiệp thông của giao ước mới và bắt đầu chia sẻ cuộc sống chung của hiệp thông này. Khi không những ăn và uống trước mặt Thiên Chúa mà còn ăn mình và uống máu Thiên Chúa làm người, các Kitô hữu trở thành chi thể của chính thân thể Người, là Giáo Hội, vốn là Hiền Thê của Người, một Hiền Thê vốn được kết hợp với Người bằng một sợi dây bất khả tiêu (67).
“Kết hợp bằng một sợi dây” có nghĩa gì? Kiểu nói này có thể có nhiều ý nghĩa đôi chút khác nhau. Nó có thể khiến ta nghĩ tới đoàn tù bị xiềng xích với nhau. Vì ngoại tại với họ, xiềng xích này không thể kết hợp họ trong một hiệp thông hữu vị và cũng không thể kết hợp họ một cách bất khả tiêu. Xiềng xích này rất dễ bị tháo bỏ. Khi Michelangelo vẽ sơn lên vữa tường, hai chất này được liên kết với nhau đến nỗi dù không có bất cứ sợi dây ngoại tại nào, chúng đã trở thành một bức bích họa. Trong thực tại mới duy nhất này, sơn và vữa tường đã kết hợp một cách bất khả tiêu, và chỉ có việc tiêu hủy chúng mới có thể tiêu hủy được bức bích họa. Tuy nhiên, sự kết hợp bất khả tiêu giữa sơn và vữa tường không phải là một hiệp thông hữu vị. Vì bàn tay là nội tại của người ta, nên việc nắm tay nhau có thể kết hợp một cặp nào đó trong một hiệp thông hữu vị, nhưng không bất khả tiêu. Bất kể cái nắm tay nhau này nồng nàn đến đâu, bàn tay của mỗi người đều dễ dàng bị rút lại và thủ thế khi tình âu yếm nguội đi.
Trái lại, hiệp thông hữu vị bất khả tiêu có tính giao ước. Giao ước mới giữa Thiên Chúa với nhân loại, chẳng hạn, không kết hợp hai bên bằng bất cứ điều gì ngoại tại đối với họ hay bằng các hành động của họ mà thôi, mà bằng Chúa Giêsu, Đấng duy nhất vừa là người vừa là Thiên Chúa. Khi nối kết với nhau, dù không đánh mất bất cứ điều gì nơi bản thân, Chúa Giêsu và các chi thể của Người trở thành một thực tại mới duy nhất, tức Nhiệm Thể, một Nhiệm Thể cuối cùng sẽ được biến đổi thành vương quốc mãi mãi. Như thế, là các chi thể của Chúa Giêsu, những ai thừa hưởng nước này sẽ sống mãi trong hiệp thông hữu vị cận kề và bất khả tiêu với Thiên Chúa.
Giáo huấn của Chúa Giêsu về tính bất khả tiêu
Hôn nhân cũng là một giao ước bất khả tiêu, mà Chúa Giêsu, dù không dùng các chữ này, đã chứng tỏ khi được hỏi liệu ly dị có phải là “điều hợp pháp” hay không (68). Người bắt đầu luận chứng của Người bằng cách nhắc nhớ việc thiết lập ra hôn nhân khi Thiên Chúa dựng nên nó (“Há các ông không đọc rằng Đấng dựng nên họ ngay từ đầu đã dựng nên họ có nam có nữ, và phán, ‘vì lẽ đó, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và kết hợp với vợ, và cả hai sẽ trở nên một thân xác?’”). Rồi Người rút ra kết luận đầu tiên: cả hai là một thân xác (“Do đó, họ không còn là hai mà chỉ là một thân xác”) (69). Từ đó, Người rút ra thêm một kết luận nữa: vì được Thiên Chúa đem tới, việc kết hợp của đôi lứa có tính thánh thiêng và bất khả vi phạm, đến nỗi ly dị là không hợp luật (“sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”). Đối với phản biện cho rằng Môsê cho phép ly dị, Chúa Giêsu trả lời rằng các cuộc hôn nhân như thế không phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa (“từ nguyên thủy, không phải như vậy”). Người long trọng xác quyết (“Tôi cho các ông hay”) rằng bất cứ mưu toan nào nhằm tiêu hủy một kết hợp hôn phối do Thiên Chúa thiết lập đều thiết yếu sai lầm (“bất cứ ai ly dị vợ mình (70), trừ trường hợp dâm bôn, và cưới một người khác, là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị ly dị, cũng phạm tội ngoại tình”) (Mt 19:3-9; xem 5:31-32, Mc 10:2-12, Lc6:18) (71).
Luận chứng của Chúa Giêsu có thể được giải thích về phương diện thần học (72). Vì Thiên Chúa tạo nên người nam và người nữ, nếu để họ “một mình” thì “không tốt” (St 2:18), nên hôn nhân là điều tốt tự nhiên. Sự tốt lành này dẫn người đàn ông và người bà tới quyết định chia sẻ nó (ưng thuận lấy nhau) đến độ sẵn sàng phân ly khỏi gia đình gốc. Là vợ là chồng, họ dính kết với nhau (hoàn hợp hôn nhân của họ), và do đó, cột chặt lại với nhau, không còn là hai mà đã trở nên một thân xác (sợi dây này có tính nội tại, đến nỗi, dù dị biệt, họ vẫn chỉ là một thực tại mới duy nhất). Như một điều thực sự mới mẻ, sự nên một này chỉ có thể do Đấng Tạo Hóa tạo nên, và một khi đã được tạo nên, nó không còn lệ thuộc quyết định nhân bản nữa; do đó, không nên mưu toan ly dị(sự kết hợp nội tại không đơn thuần là một khế ước, mà là một giao ước). Khi một cặp lấy nhau theo giao ước mưu toan phá bỏ hôn nhân và tái hôn, thì thực sự họ không được làm thế (sợi dây giao ước, tức sự kết hợp vợ chồng do Thiên Chúa ban cho, chỉ có thể bị tiêu hủy bằng sự chết). Họ đã phạm tội ngoại tình.
Sự hoàn hợp đem lại điều gì?
HC cho rằng “Hoàn hợp muốn nói tới việc hoàn tất điều gì đó hay đem điều gì đó tới hoàn thành” và đặt câu hỏi liệu người ta có thể nhận diện cách hợp lý hành vi giao hợp đầu tiên sau khi ưng thuận “như là hoàn tất dứt khoát giao ước tự hiến trọn vẹn của hôn nhân” (73). HC cho rằng việc nhận diện này hợp luận lý khi hiểu hôn nhân theo nghĩa khế ước tức nghĩa coi hôn nhân như một trao đổi quyền hưởng tính dục, vì “cuộc trao đổi này được đóng ấn bởi việc thi hành lần đầu quyền ấy” (74). Nhưng nếu hiểu hôn nhân theo nghĩa giao ước, tức nghĩa coi hôn nhân như việc chung chia (consortium) sự thân mật kéo dài suốt đời, thì người ta ít thấy rõ việc lần đầu giao hợp ấy “biểu tượng thích đáng cho việc hoàn hợp” (75).
RG cho rằng “Biểu tượng hoàn hợp” của HC rõ ràng sai lạc. Trong giáo huấn và luật học của Giáo Hội, hành vi giao hợp đầu tiên của vợ chồng không biểu tượng cho hoàn hợp mà là tạo nên sự hoàn hợp. Ý nghĩa chuyên biệt của hành vi ấy không phải là đóng ấn một trao đổi bằng việc thi hành một quyền lợi lần đầu tiên. Đúng hơn, hành vi giao hợp vợ chồng lần đầu hoàn tất việc họ cộng tác vào diễn trình hình thành việc kết hợp của hai thân xác thành một theo giao ước (the coming-to-be of their two-in-one-flesh covenantal union).
Mặc dù sự ưng thuận hỗ tương của vợ chồng tức việc họ tự ý hiến mình đã khởi diễn sự hiệp thông vợ chồng, nhưng như Đức Gioan Phaolô II từng dạy, sự ưng thuận này có nghĩa một thực tại chỉ đạt tới hiện hữu hoàn toàn nhờ sự hoàn hợp. Ngài giải thích: sự ưng thuận tự nó chỉ là dấu chỉ việc tiến vào hiện hữu của hôn nhân (coming into being of marriage). Và việc tiến vào hiện hữu của hôn nhân này khác với sự hoàn hợp của nó ở chỗ không có sự hoàn hợp này, hôn nhân chưa được thiết dựng trong tính thực tại đầy đủ của nó. Sự kiện hôn nhân đã được ký kết về phương diện luật pháp nhưng chưa được hoàn hợp (ratum – non consummatum) tương ứng với sự kiện nó chưa được thiết dựng đầy đủ như một hôn nhân. Thực vậy, theo RG, chính những lời “anh nhận em làm vợ”, hay “em nhận anh làm chồng” không những nói đến một thực tại nhất định, nhưng chúng chỉ được hoàn thành nhờ việc vợ chồng giao hợp. Hơn nữa, thực tại này (việc vợ chồng giao hợp), ngay từ đầu, đã được xác định bởi định chế của Đấng Tạo Hóa: “Do đó, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình và gắn bó với vợ, và họ trở nên một thân xác” (xem St 2:24) (76).
Trích dẫn từ Sách Sáng Thế trên đã tạo cơ sở cho câu tuyên bố của Chúa Giêsu rằng mưu toan tái hôn sau khi ly dị là phạm tội ngoại tình. Như thế rõ ràng là Người có ý nói tới mưu toan tái hôn sau khi cả hai đã trở thành một thân xác: cho tới khi vợ chồng hoàn hợp hôn nhân của họ qua hành vi giao hợp phu phụ đầu tiên ấy, họ vẫn chưa được Thiên Chúa kết hợp mật thiết đến độ không gì, trừ sự chết, mới phân rẽ được họ. Như thế, thực hành của Giáo Hội trong việc hủy tiêu các cuộc hôn nhân chưa hoàn hợp là nhất quán với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Bỏ qua ý nghĩa ấy của hành vi giao hợp vợ chồng lần đầu, HC đã coi hoàn hợp không phải là diễn trình hình thành việc kết hợp vợ chồng mà là việc hoàn thiện hóa liên hệ vợ chồng. RG cho rằng: tuy nhiên, nếu mối liên hệ ấy tương tự như tình bạn, như HC chủ trương, thì ta khó nắm được ý nghĩa của sự hoàn hảo hóa này. Tình bạn luôn thịnh suy và không bao giờ hoàn hảo cả. Như thế, theo quan điểm của HC, chính vợ chồng cũng không bao giờ biết cuộc hôn nhân của họ đã được hoàn hợp hay chưa (77).
Hôn nhân – giao ước hay chỉ là khế ước?
Theo RG, lời tuyên bố của Vatican II, rằng “Giao ước, hay sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi, của hôn nhân tạo ra sự chia sẻ thân mật cuộc sống và tình yêu vợ chồng như đã được Tạo Hóa thiết lập” (78), đã tóm lược chân lý này rằng sự ưng thuận kết hôn, trong ý định của Thiên Chúa, là một sự ưng thuận có tính giao ước, và cô dâu cùng chú rể, khi hoàn hợp sự ưng thuận này bằng cách trở nên một trong hành vi giao hợp phu phụ, thực đã được Thiên Chúa kết hợp một cách bất khả tiêu. Dây hôn phối bất khả tiêu không là gì khác ngoài chính sự kết hợp có tính giao ước này. Không phải chỉ là một ý niệm luật pháp, dây này chính là vợ chồng, được coi như không còn phải là hai nữa mà chỉ là một.
Ấy thế nhưng, theo RG, HC đã coi dây hôn phối, về phương diện hữu thể học, tương tự như những sợi dây do các sinh hoạt như ăn chung một bữa tối tạo ra, và nhấn mạnh rằng nó “không hơn không kém chính là mối liên hệ nhân bản” (79), và chủ trương rằng nó “cố hữu ngay trong những con người tạo nên mối liên hệ” (80). Nại tới “nền triết học kinh viện cổ truyền” để hỗ trợ cho quan điểm của mình, HC giải thích liên hệ như là tùy thể (accident) theo nghĩa Aristốt, và kết luận rằng “Do đó, khi nói tới thực tại tính của dây hôn phối, hẳn Giáo Hội muốn nói tới thực tại tính của người đàn ông và của người đàn bà, những người đã đem lại cho đời mình một xu hướng toàn diện bằng cách thề hứa rằng mình sẽ sống chung với nhau như chồng và vợ” (81).
RG cho rằng không may, triết học Kinh Viện dựa trên luận lý học và siêu hình học của Aristốt không có chỗ nào dành cho kết hợp giao ước cả. Giản lược sợi dây giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo Hội vào tùy thể rõ rệt của mối liên hệ cố hữu giữa hai chủ thể này là bênh vực tính khả tiêu đến độ bác bỏ thực tại của chính sự kết hợp này. Thực hiện một sự giản lược tương tự như thế đối với sợi dây giao ước giữa hai người phối ngẫu là bác bỏ thực tại tính của hôn nhân (82). Hơn nữa, bênh vực tính khả tiêu này là hàm nghĩa đã sai lầm trong ý niệm coi các ngôi vị thần linh cũng như nhân bản như các bản thể cá vị theo nghĩa Aristốt mà tính tách biệt không thể bị vượt qua dù là bởi những kết hợp yêu thương do Thiên Chúa đem đến.
Theo RG, nếu hôn nhân chỉ là một khế ước, thì việc HC bác bỏ tính bất khả tiêu có thể có nghĩa, vì như Haring từng nhận định, người ta thường hiểu rằng một khế ước có thể “bị thu hồi do thoả thuận hỗ tương” (83). Nhưng đôi lứa Công Giáo khi “kết ước” hôn nhân, luôn hiểu rằng chỉ sự chết mới kết liễu được nó. Bất kể dùng chữ “giao ước” hay chỉ vui hưởng một liên hệ lãng mạn, cái hiểu của họ về hôn nhân vẫn thực sự có tính giao ước (84).
Nói tóm lại, RG cho rằng hôn nhân khác với các liên hệ khác của con người: nó là một sự chung chia đầy thân mật cuộc sống và sự chung chia này có định hướng kéo dài mãi mãi. Trong khi ấy HC lại coi sợi dây luân lý, trong yếu tính, vẫn như nhau dù là trong hôn nhân hay trong tình bạn. Cho nên, theo quan điểm luân lý, hôn nhân đến rồi đi giống như tình bạn vậy. Như thế, liên hệ hôn nhân có thể đổ vỡ hòan tòan, và khi nó đổ vỡ, điều còn lại là điều có thể tiêu hủy được. HC cho rằng họ tìm thấy trong giáo huấn của Vatican II nhiều điều ủng hộ chủ trương của họ. Tuy nhiên, thực tế ra, khi coi hôn nhân như một giao ước, Công Đồng chỉ lặp lại bằng ngôn từ Thánh Kinh và khai triển đáng kể giáo huấn truyền thống, tức giáo huấn dạy rằng sự kết hợp của vợ chồng không phải chỉ do hai vợ chồng mà còn Do Thiên Chúa đem lại, và do đó bất khả tiêu. Theo RG, trong cách giải thích của HC về giao ước hôn nhân, tình yêu lãng mạn đã thay thế “sự ưng thuận hữu vị bất khả thu hồi”. Giản lược sự ưng thuận vào cam kết mà thôi, làm ngơ ý nghĩa của hoàn hợp, và bất kể vai trò của Thiên Chúa trong việc phát sinh ra sự kết hợp giao ước, HC đã rất hợp luận lý nhưng rất sai lầm khi bênh vực tính khả tiêu dù là trong các cuộc hôn nhân đã thành hiệu và hoàn hợp.
_______________________________________________________________________________________________________________________
Chú thích
[54] Thí dụ, tương phản của HC giữa giao ước và khế ước không vững vàng bao nhiêu: “Tuy nhiên, Công Đồng không dùng giao ước để loại bỏ hẳn sự hiện diện của các yếu tố khế ước trong các lời thề ước hôn nhân (điều hơn có thể chứa điều kém), nhưng Công Đồng muốn các yếu tố có nghĩa hẹp về luật pháp được lồng vào ngữ cảnh thánh” (Ladislas Orsy, Marriage in Canon Law: Texts and Comments, Reflections and Questions [Wilmington, Del.: Michael Glazier, 1988] 50).
[55] HC 481.
[56] “Lời thề hứa hôn nhân chắc chắn hướng tới cam kết suốt đời, người đưa ra lời thề hứa khát mong có được sự tự hiến toàn diện và dứt khoát vốn là mục đích riêng của hôn nhân” (HC 489). Dù không nhắc tới những cuộc hôn nhân đa ái (polyamorous), đa hôn hay đồng tính, ý niệm hôn nhân của HC có thể bị khai thác để hỗ trợ cho quan điểm chủ trương rằng miễn là các bên cam kết chia sẻ trọn cuộc đời với nhau, thì những mối liên hệ như thế đều là những cuộc hôn nhân “giao ước” cả.
[57] HC 489.
[58] HC 490.
[59] The Rites of the Catholic Church as Revised by Decree of the Second Vatican Council . . . , 2 vols. (New York: Pueblo, 1976) 1:541; hình thức thay thế được chấp thuận cho Hoa Kỳ để nói lời “ưng thuận đơn thuần” là “Anh T. lấy Em T. … cho đến chết mới chia tay”, còn nói “cam kết” là “khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan…” (541–42).
[60] Xem Sách Giáo Lý số 1272.
[61] Xem Palmer, “Christian Marriage” 617–39.
[62] Ibid. 618.
[63] Xem ibid. 618, 639.
[64] Mọi trích dẫn Thánh Kinh của RG đều lấy từ RSV, ấn bản Công Giáo.
[65] Palmer, “Christian Marriage” 654; xem XH 24:5–8.
[66] Bắt đầu với Hôsê, một số tiên tri “mô tả giao ước của Giavê với Israel theo ngôn từ hôn nhân nhân bản”, và trong Malaki, vào khoảng ba thế kỷ sau Hôsê, “từ ngữ ‘giao ước’được trực tiếp áp dụng cho hôn nhân giữa người Do Thái với nhau”. Malaki “tìm thấy trong lòng bất trung của cá nhân Do Thái đối với vợ mình lý do để Giavê từ khước chấp nhận lễ hy sinh họ dâng lên Người. ‘Chính bởi vì Giavê đứng làm chứng nhân giữa ngươi và vợ ngươi, người vợ ngươi đã bẻ gẫy niềm tin , dù nàng vốn là vợ ngươi theo giao ước… Vì Ta ghét ly dị, Giavê, Đấng Thiên Chúa của Israel, phán thế’ (2:14–15)” (Palmer, “Christian Marriage” 620–21). Như thế, ly dị là điều kinh tởm đối với Thiên Chúa chính bởi vì hôn nhân có tính giao ước.
[67] Xem ibid. 654.
[68] Trong khi Malaki nói rõ: ly dị là điều kinh tởm đối với Thiên Chúa vì hôn nhân có tính giao ước (2:13–16), thì Chúa Giêsu mạc khải rằng đặc tính bất khả tiêu của hôn nhân khiến ly dị ra kinh tởm. Sự nhất quán của điều Môsê nhân nhượng với tính bất khả tiêu của giao ước hôn nhân được bàn tới trong bản văn đi kèm các số 89-100; sự nhất quán của thuật ngữ porneia với tính bất khả tiêu được bàn tới trong bản văn đi kèm các số 117-24.
[69] Bản dịch RSV (tiếng Anh) bỏ chữ “thân xác” nhưng có ghi chú: “Bản Hy Lạp một thân xác”.
[70] “Trước khi Chúa Giêsu tái lập hôn nhân trở lại tư cách giao ước, Người phải tái lập cho người đàn bà các quyền hôn nhân người ta từng bác bỏ nơi nàng. Do đó, ít nhất đối với xã hội Do Thái, đặc tính cách mạng trong tuyên bố của Chúa Giêsu đã được Máccô ghi lại như sau: ‘Bất cứ ai ly dị vợ mình và cưới người đàn bà khác là phạm ngoại tình đối với nàng’ (10:11)” (Palmer, “Christian Marriage” 623). Tuy vậy, khi cảnh cáo chống ly dị, Chúa Giêsu tập chú vào đàn ông, vì ly dị nói chung đều cho người chồng quyết định, chứ không phải người vợ.
[71] Gần đây, lời chú giải được nhiều người coi trọng về Mt 19:3-9 xác nhận rằng Chúa Giêsu tuyệt đối loại bỏ ly dị. Joseph A. Fitzmyer nhận định: “điều hết sức ngạc nhiên trong cuộc nghiên cứu hiện đại về các Tin Mừng và nhất là về các đoạn nói tới ly dị là con số các nhà chú giải cho rằng nguồn gốc một số hình thức ngăn cấm ly dị phát sinh từ Chúa Giêsu, và thường có tính tuyệt đối. Nếu lối phân tích tôi đã theo đuổi trên đây có chút giá trị nào, thì hẳn nó sẽ dẫn ta tới kết luận rằng việc tuyệt đối ngăn cấm ly dị đã phát sinh từ chính Chúa Giêsu. Ngày nay, khi nghe nói các nhà chú giải sử dụng các nguyên tắc phân tích hình thức hay phân tích soạn thảo (redaction criticism) để phân tích các bản văn Tin Mừng, người ta ít nhiều mong học được từ họ một lối giải thích cấp tiến hay ‘giải phóng’ nào đó. Nhưng trong trường hợp này, sự việc không như vậy. Phán đoán theo lối phê bình hình thức, các bản văn ly dị trong Tân Ước cho thấy hình thức nguyên sơ nhất của việc ngăn cấm ly dị có tính tuyệt đối” (“The Matthean Divorce Texts and Some New Palestinian Evidence,” Theological Studies 37 [1976] 197–226, at 223–24). Một học giả không Công Giáo, Ulrich Luz, trình bày một lối đọc Mt 19:3-9 gần gũi về cấu trúc và nội dung với lối giải thích của RG (xem Matthew 8–20: A Commentary, trans. James E. Crouch [Minneapolis, Minn.: Augsburg Fortress, 2001] 486–94). Tuy nhiên, Luz, khi xem sét “ý nghĩa cho ngày nay” của đoạn này về phương diện thần học, đã cho rằng Tân Ước, như một toàn bộ, ban quyền cho các Giáo Hội Kitô Giáo được phép cho ly dị (xem 494–96).
[72] Dù đoạn song song trong Mc 10:2-12 khác Mt 19:3-9 một số khía cạnh, các yếu tố được lời giải thích về thần học này bao trùm đều như nhau.
[73] HC 484.
[74]HC 483.
[75] HC 484.
[76] Buổi yết kiến (5 tháng Giêng, 1983) số 2, Insegnamenti di Giovanni Paolo II, vol. 6, part 1 (Vatican City: Libreria Editrice Vaticana, 1983) 42; L’Osservatore Romano , Engl. ed., January 3–10, 1983, p. 7.
[77] Như thế, người ta có lẽ sẽ nói: khi vợ chồng ở với nhau cho tới chết, cuộc hôn nhân của họ mới hoàn hợp; khi họ ly thân vĩnh viễn, cuộc hôn nhân của họ không bao giờ hoàn hợp cả.
[78] Tanner 2:1100.
[79] HC 485–86.
[80] HC 485.
[81] HC 485; luận điểm của HC dựa vào và trích dẫn Michael Lawler, “Blessed Are Spouses Who Love, For Their Marriages Will be Permanent: A Theology of
the Bonds in Marriage,” Jurist 55 (1995) 218–42, at 221.
[82] Đức Gioan Phaolô II viết: “Hôn nhân ‘là’ bất khả tiêu: đặc tính này nói lên chiều kích hiện hữu khách quan của nó, nó không phải là một sự kiện đơn thuần chủ quan. Thành ra, điều tốt của bất khả tiêu cũng là điều tốt của chính hôn nhân; và không hiểu đặc tính bất khả tiêu là không hiểu yếu tính của hôn nhân” (Diễn Văn với Tòa Tối Cao Rôma, 28 tháng Giêng, 2002, số 4) http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/speeches/2002/january/documents/hf_jp-ii_spe_20020128_roman-rota_en.html).
[83] Xem ghi chú số 53.
[84] “Dù các giáo luật gia và các thần học gia thảo luận hôn nhân theo ngôn từ khế ước, nhưng các Kitô hữu luôn kết hôn trong phụng vụ giao ước, trong đó, họ trao đổi lời thề hứa, nói lên tình yêu của mình, và tiếp nhận nhau bất chấp thịnh vượng hay gian nan cho tới chết mới xa nhau” (Palmer, “Christian Marriage” 639).
Văn Hóa
Lễ kính Thánh Cả Giuse 19/3: Hành trình Bạch Huệ
Đinh Văn Tiến Hùng
11:41 16/03/2014
![]() |
Yêu thương, công chính, khó nghèo, khôn ngoan.
Giu-se nhân đức mọi đàng,
Trách nhiệm Dưỡng Phụ cao sang tuyệt vời.
Thánh Giu-se âm thầm nơi trần thế,
Làm Cha Nuôi Con Thiên Chúa Tối Cao,
Cùng Bạn Đời Trinh Nữ Ma-ri-a.
Suốt đời Ngài luôn tuân hành Thánh ý,
Nêu gương sáng một cuộc đời tuyệt mỹ,
Đặt tin yêu trong Tay Chúa Toàn Năng,
Dù khó nghèo lòng vẫn giữ trắng trong,
Như Bạch Huệ vươn cao ngoài nắng đẹp.
Ba lần được hiển linh qua giấc điệp.
Vâng lệnh Sứ Thần Thiên Chúa báo tin,
Đón về nhà Bạn Trinh Nữ dịu hiền.
Đêm tuyết rơi cũng vội vàng trỗi dậy,
Sang Ai Cập với một lòng trông cậy,
Để Hài Nhi và Gia thất an bình,
Tránh Hê-rót tìm giết trẻ sơ sinh.
Xa quê hương luôn nguyện cầu ký thác,
Đến khi bạo chúa chôn vùi thân xác,
Lại hành trang vội vã trở về quê,
Ứng nghiệm tiên báo qua các tiên tri.
Na-za-rét nơi thôn làng nghèo khó,
Nuôi Thánh Gia nghề tầm thường thợ mộc.
Sống lặng thầm dâng hiến cả cuộc đời,
Trong Phúc Âm không để lại một lời,
Được Chúa nâng lên vô cùng cao trọng !
*Hành trình Thánh Phụ đã đi,
Con luôn tâm niệm khắc ghi trong lòng,
Thuyền đời biển cả mênh mông,
Vững tay tay chèo chống con trông cậy Người.
Đinh văn Tiến Hùng
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Về Trong Vườn Chớm Xuân
Vũ đình Huyến, Lm CMC
21:24 16/03/2014
![]() |
Ảnh của Vũ đình Huyến, Lm. (CMC)
Sáng nay xuân về giữa nắng xanh
Cây khô hồi sinh, lộc thắm cành.
(Trích thơ của Song Nhi)

