Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:27 25/03/2011
ĐỔI NGỰA
Một người cưỡi lừa, khi đi trên đường thì nhìn thấy có một người cưỡi ngựa từ xa đi tới, ông ta càng nhìn thì càng thấy con ngựa quả là thật đẹp. Thế là vội vàng nhảy xuống khỏi con lừa, chấp tay vái người cưỡi ngựa một cái rồi nói:
- “Tôi muốn đem con lừa này của tôi đổi lấy con ngựa của ngài”.
Người cưỡi con ngựa cười cười, nói:
- “Người như ông sao mà ngu thế hử ?”
Người cưỡi lừa nói rất chính xác:
- “Ngài dám đổi ngựa cho tôi, thì tôi mới nhận thấy ngài là người ngu !”
Suy tư:
Không ai đem đồ quý giá của mình đi đổi đồ không có giá trị, vì như thế là người ngu; cũng chẳng có ai mở miệng xin đem cái xấu của mình để đổi lấy cái tốt của người khác, vì như thế không những bị người ta cho là người ngớ ngẫn và tham lam.
Ma quỷ đã đánh đổi hạnh phúc đời đời của mình bằng kiêu ngạo nên bị phạt đời đời đau khổ trong hỏa ngục, mối hận này vẫn cứ mãi mãi đi với ma quỷ, cho nên nó tìm đủ mọi cách để đem cái xấu đi đổi cái tốt là linh hồn của con người, nhất là linh hồn của người Ki-tô hữu đã được Chúa Giê-su Ki-tô cứu chuộc bằng giá máu rất thánh của Ngài.
Trong cuộc sống của người Ki-tô hữu đã có rất nhiều lần chúng ta đem cái tốt mà Chúa ban cho mình đi đổi cái xấu của ma quỷ:
- Đem tài năng Chúa ban cho để giúp người làm điều ác.
- Đem sự thông minh Chúa ban cho để lừa dối người.
- Đem sức khỏe Chúa ban cho để ăn chơi trác táng.
- Đem sắc đẹp Chúa ban cho để hủy hoại cuộc đời mình trong thác loạn.v.v...
Ân sủng Chúa ban cho là để chúng ta sống xứng đáng là con cái của Ngài ở đời này, và đời sau hưởng hạnh phúc vĩnh hằng trên trời, nhưng chúng ta lại đem ân sủng ấy đi đổi lấy cái chết đời đời với ma quỷ trong hỏa ngục.
Nếu không có ơn Chúa, nếu không có giáo huấn của Hội Thánh thì chúng ta đúng là ngu thật: đem con ngựa đổi lấy con lừa. Ha ha ha.
----------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
![]() |
| N2T |
Một người cưỡi lừa, khi đi trên đường thì nhìn thấy có một người cưỡi ngựa từ xa đi tới, ông ta càng nhìn thì càng thấy con ngựa quả là thật đẹp. Thế là vội vàng nhảy xuống khỏi con lừa, chấp tay vái người cưỡi ngựa một cái rồi nói:
- “Tôi muốn đem con lừa này của tôi đổi lấy con ngựa của ngài”.
Người cưỡi con ngựa cười cười, nói:
- “Người như ông sao mà ngu thế hử ?”
Người cưỡi lừa nói rất chính xác:
- “Ngài dám đổi ngựa cho tôi, thì tôi mới nhận thấy ngài là người ngu !”
Suy tư:
Không ai đem đồ quý giá của mình đi đổi đồ không có giá trị, vì như thế là người ngu; cũng chẳng có ai mở miệng xin đem cái xấu của mình để đổi lấy cái tốt của người khác, vì như thế không những bị người ta cho là người ngớ ngẫn và tham lam.
Ma quỷ đã đánh đổi hạnh phúc đời đời của mình bằng kiêu ngạo nên bị phạt đời đời đau khổ trong hỏa ngục, mối hận này vẫn cứ mãi mãi đi với ma quỷ, cho nên nó tìm đủ mọi cách để đem cái xấu đi đổi cái tốt là linh hồn của con người, nhất là linh hồn của người Ki-tô hữu đã được Chúa Giê-su Ki-tô cứu chuộc bằng giá máu rất thánh của Ngài.
Trong cuộc sống của người Ki-tô hữu đã có rất nhiều lần chúng ta đem cái tốt mà Chúa ban cho mình đi đổi cái xấu của ma quỷ:
- Đem tài năng Chúa ban cho để giúp người làm điều ác.
- Đem sự thông minh Chúa ban cho để lừa dối người.
- Đem sức khỏe Chúa ban cho để ăn chơi trác táng.
- Đem sắc đẹp Chúa ban cho để hủy hoại cuộc đời mình trong thác loạn.v.v...
Ân sủng Chúa ban cho là để chúng ta sống xứng đáng là con cái của Ngài ở đời này, và đời sau hưởng hạnh phúc vĩnh hằng trên trời, nhưng chúng ta lại đem ân sủng ấy đi đổi lấy cái chết đời đời với ma quỷ trong hỏa ngục.
Nếu không có ơn Chúa, nếu không có giáo huấn của Hội Thánh thì chúng ta đúng là ngu thật: đem con ngựa đổi lấy con lừa. Ha ha ha.
----------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Sống & Chia Sẻ Lời Chúa - Chị Cho Tôi Nước Uống
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
01:26 25/03/2011
Sống và chia sẻ Lời Chúa CN3TN/A (Ga 4, 5-42)
CHỊ CHO TÔI CHÚT NƯỚC UỐNG-NƯỚC HẰNG SỐNG
“THỜ PHƯỢNG TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT”
Chuyển các Gia đình-Qúy chức-Nhóm-Hội đoàn-Phong trào
A- Bạn và tôi cùng cảm nghiệm Sống và chia sẻ theo Lời Chúa:
1/ Chúa ban Nước Hằng Sống: Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng: “Chị tôi xin chút nước uống !” (c. 7) - Chị không cho, nên Ngài nói: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là Người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và Người ấy đã ban cho chị Nước Hằng Sống.” (c. 10)
a/ Bạn cho biết nước đây chỉ về những gì trong đời sống tâm linh ?
b/Tôi có cảm nhận được Chúa đang muốn tôi cần thứ nước nào?
c/Mạch Nước tôi cho sẽ… vọt lên, đem lại sự sống đời đời là gì ?
d/Chúa Thánh Thần có phải là Nước Hằng Sống không ? Tại sao ?
2- Cách thờ phượng hôm nay: Chị liền hăm hở xin cho được thứ nước kể trên, nên ngài nói: “Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (c. 23)
a/ Đọc kinh, đi lễ… có phải là thờ phượng đích thực không? Tại sao?
b/Cảm nhận Chúa hiện diện mọi nơi, mọi lúc là thờ phượng thế nào?
c/Khiêm tốn đọc Lời Chúa, chia sẻ kinh nghiệm sống là gì? Tại sao?
d/Bạn cho biết vài cách thờ phượng Chúa tại Gia đình, Nhóm …?
e/ Thế nào là thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật ?
g/ Hãy nói những hoa trái của Thánh linh đang hoạt động trong tôi?
B- Câu Kinh thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn sống:
“THIÊN CHÚA LÀ THẦN KHÍ, VÀ NHỮNG KẺ THỜ PHƯỢNG NGƯỜI PHẢI THỜ PHƯỢNG TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT.” (c. 24). –Ngay bây giờ bạn và tôi phải làm gì?
1/Tôi thờ phượng Chúa theo sự dẫn dắt của Thánh Linh, gọi Chúa là Cha, không theo sự thỏa mãn của xác thịt và những lợi lộc trần thế.
2/ Bạn thờ Chúa trong sự thật là theo ý Chúa Cha, qua sự mặc khải của Đức Giêsu về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người.
* Hoa thơm cỏ lạ: HOẢ HOẠN CỦA ĐỜI SẺ KHÔNG THIÊU HỦY BẠN, NẾU BẠN ĐƯỢC TƯỚI BẰNG NƯỚC SỰ SỐNG.
Ptế GBM Nguyễn Định
CHỊ CHO TÔI CHÚT NƯỚC UỐNG-NƯỚC HẰNG SỐNG
“THỜ PHƯỢNG TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT”
Chuyển các Gia đình-Qúy chức-Nhóm-Hội đoàn-Phong trào
A- Bạn và tôi cùng cảm nghiệm Sống và chia sẻ theo Lời Chúa:
1/ Chúa ban Nước Hằng Sống: Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng: “Chị tôi xin chút nước uống !” (c. 7) - Chị không cho, nên Ngài nói: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là Người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và Người ấy đã ban cho chị Nước Hằng Sống.” (c. 10)
a/ Bạn cho biết nước đây chỉ về những gì trong đời sống tâm linh ?
b/Tôi có cảm nhận được Chúa đang muốn tôi cần thứ nước nào?
c/Mạch Nước tôi cho sẽ… vọt lên, đem lại sự sống đời đời là gì ?
d/Chúa Thánh Thần có phải là Nước Hằng Sống không ? Tại sao ?
2- Cách thờ phượng hôm nay: Chị liền hăm hở xin cho được thứ nước kể trên, nên ngài nói: “Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (c. 23)
a/ Đọc kinh, đi lễ… có phải là thờ phượng đích thực không? Tại sao?
b/Cảm nhận Chúa hiện diện mọi nơi, mọi lúc là thờ phượng thế nào?
c/Khiêm tốn đọc Lời Chúa, chia sẻ kinh nghiệm sống là gì? Tại sao?
d/Bạn cho biết vài cách thờ phượng Chúa tại Gia đình, Nhóm …?
e/ Thế nào là thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật ?
g/ Hãy nói những hoa trái của Thánh linh đang hoạt động trong tôi?
B- Câu Kinh thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn sống:
“THIÊN CHÚA LÀ THẦN KHÍ, VÀ NHỮNG KẺ THỜ PHƯỢNG NGƯỜI PHẢI THỜ PHƯỢNG TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT.” (c. 24). –Ngay bây giờ bạn và tôi phải làm gì?
1/Tôi thờ phượng Chúa theo sự dẫn dắt của Thánh Linh, gọi Chúa là Cha, không theo sự thỏa mãn của xác thịt và những lợi lộc trần thế.
2/ Bạn thờ Chúa trong sự thật là theo ý Chúa Cha, qua sự mặc khải của Đức Giêsu về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người.
* Hoa thơm cỏ lạ: HOẢ HOẠN CỦA ĐỜI SẺ KHÔNG THIÊU HỦY BẠN, NẾU BẠN ĐƯỢC TƯỚI BẰNG NƯỚC SỰ SỐNG.
Ptế GBM Nguyễn Định
Đức Giêsu - Mạch nước sự sống
Lm Jude Siciliano, OP
05:52 25/03/2011
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY A
Xuất hành 17: 3-7; Tv 95; Rm 5: 1-2,5-8; Ga: 4: 5-42
Chúng ta đang ở trong năm phụng vụ A. Vì vậy, chúng ta có cơ may nghe những tường thuật vĩ đại của Tin mừng Gioan trong ba Chúa nhật Mùa chay (Chúa nhật thứ 3,4 và 5). Hôm nay, chúng ta gặp một người phụ nữ ở bên bờ giếng, tuần tới là người đàn ông mù từ thuở mới sinh và tiếp theo là việc làm cho Nazarô sống lại.
Hôm nay, chúng ta bắt đầu với nước. Xét về mặt thể lý, nước là phần tất yếu của sự sống. Cuộc đời của chúng ta bắt đầu trong cung lòng mẹ, được nước bao quanh và chúng ta cần nước để tồn tại suốt đời mình. Nước cũng đưa chúng ta vào sự sống với Chúa trong Bí tích Rửa tội. Vì thế, như chúng ta thấy hôm nay, nước là một trong những biểu tượng của Thánh Thần – nước sự sống tuôn trào bên trong chúng ta và mang lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Trong bài đọc trích sách Xuất hành hôm nay, hãy đừng quá khắt khe với dân Israel, những người càu nhàu đòi nước trong sa mạc. Họ đã phải làm nô lệ khổ cực bên Aicập và ngay từ đầu họ đã nhận ra rằng, trốn thoát vào sa mạc và cuộc hành trình dài sau đó chẳng giống như chuyện bách bộ trong công viên. Sống ở thời hiện đại, khi khát chúng ta chỉ cần đi đến bình nước và thỏa mãn cơn khát.
Nhưng với nhiều người ngày nay điều đó cũng không phải như vậy – nhất là ở Châu Phi, nơi sa mạc Sahara mỗi năm mỗi rộng hơn. Cơn khát của chúng ta hầu như chỉ là cảm giác khó chịu, nhưng trong sa mạc thì nó đe dọa cuộc sống.
Toàn cảnh của cuộc Xuất hành là đầy rẫy những căng thẳng như việc dân Israel lầm bầm kêu ca với Môisê và việc Môisê than thở, nài xin với Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là chúng nén đá con!” Và rồi, như một bằng chứng rằng Thiên Chúa không quên những khó khăn của dân du mục này, Người đã ra lệnh cho Môisê đập vào tảng đá – và nước chảy ra.
Thiên Chúa làm những điều đó cho con người; giúp chúng ta trong những lúc khó khăn và những nơi hiểm nghèo. Bằng những cách lạ thường và qua những con người không mong đợi, cơn khát của chúng ta được thỏa mãn.
Một phụ nữ vừa trải qua một thời gian khó khăn, nói với tôi rằng cô đã tham dự Thánh lễ suốt nhiều tuần mà chẳng thấy được an ủi hay nhẹ nhõm chút nào. Chị ngồi lặng lẽ trong nhà thờ, tuần này qua tuần khác. Chị chú ý đến một “bà già ăn xin” nghèo ngồi ở hàng ghế gần chỗ mình, xung quanh là những thứ linh tinh bà cất đầy trong những túi giấy.
Một hôm người đàn bà ấy đến gần và nói với chị: “Này, tôi đã thấy cô ngồi đây hàng tuần. Nhìn cô buồn lắm và tôi đã cầu nguyên cho cô.” Cả hai bắt đầu nói chuyện và sau đó cùng ra quán café. Sau này, người phụ nữ này nói, “Chính người đàn bà hầu như chẳng có gì này lại chính là nguồn thanh thản và khích lệ đối với tôi!” Trong những nơi chẳng ra sao ấy, Thiên Chúa có thể hồi phục chúng ta với nước trong chính sa mạc chúng ta.
Người Dothái có một truyền thuyết kể rằng tảng đá Môisê gõ vào, làm cho nước chảy ra, đã đi cùng với họ suốt hành trình trong sa mạc và cung cấp nước cho họ. Câu chuyện này có thật hay không? Có vẻ là không. Câu chuyện này thật không? Thật – đối với những ai đã được thỏa mãn cơn khát bằng những nguồn mạch lạ thường vào những lúc khó khăn trong cuộc đời họ. Họ có kinh nghiệm cá nhân về tảng đá theo họ trong sa mạc và đã thỏa mãn cơn khát của họ.
Ai là người khát nước trong trình thuật của Gioan? Dĩ nhiên là người phụ nữ, nhưng không chỉ có mình chị. Chị đã đến giếng nước vào lúc nóng bức trong ngày – có lẽ không phải lúc thích hợp để lấy nước. Nhưng người đầu tiên tỏ ra khát nước lại là Đức Giêsu, và Người đã xin chị phụ nữ Samaria nước uống. Với yêu cầu đơn giản ấy, Đức Giêsu đã đẩy xa hơn biên giới của tôn giáo và văn hóa thời của Người. Người Dothái không được phép nói chuyện với người Samaria, và cũng không được dùng chung vò nước với họ. Đàn ông Dothái và phụ nữ không được nói chuyện với nhau nơi công cộng -- và chắc chắn một người đàn ông Dothái không được nói chuyện với phụ nữ Samaria!
Nhưng, Đức Giêsu nối liền hai bờ vực thẳm và phá vỡ những cấm kị khi Người mở lời với người phụ nữ để xin chút nước. Người phụ nữ nay ra như cũng quên mất địa vị của mình khi thách thức đức Giêsu phá vỡ tập tục truyền thống, “Sao ông có thể hỏi tôi, một phụ nữ Samaria, để xin chút nước?” Đặc trưng của những trình thuật của Gioan là có những tầng ý nghĩa nằm bên dưới bề mặt của trình thuật. Điều này đặc biệt đúng trong cuộc nói chuyện của Người. Cơn khát của người phụ nữ, với cuộc đời bị chia cắt của cô, thì sâu xa hơn cơn khát thể lý. Đức Giêsu biết cơn khát mà chỉ mình Người mới có thể làm thỏa mãn; vì chính Người là nguồn nước không làm thất vọng hay cạn kiệt.
Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã mệt vì hành trình dài và đến ngồi bên giếng nước. Cơn khát của Đức Giêsu cho thấy cơn khát sâu thẳm hơn Thiên Chúa dành cho chúng ta. (“Ta khát,” như Người thốt lên khi ở trên thập giá.)
Thiên Chúa khao khát chúng ta và đã đi tìm kiếm chúng ta. Vì thế, Đức Giêsu đến bất cứ nơi đâu có thể tìm thấy những người đang khát và trao ban nguồn nước không bao giờ cạn nhưng sôi sục trong chúng ta khi cuộc sống căng thẳng và làm chúng ta khát. Như những người du hành trong sa mạc, họ đi từ ốc đảo này sang ốc đảo khác, từ hố nước này đến hố nước khác. Đức Giêsu sẽ không mang lại nguồn nước theo từng thời kỳ, nhưng là một “dòng nước mang lại sự sống vĩnh cửu,” đi cùng với chúng ta từng bước trong suốt hành trình.
Nước mà Đức Giêsu nói đến là Thánh Thần, người đồng hành bền bỉ với chúng ta: nguồn vui của chúng ta và ý thức trong suốt thời gian khỏe mạnh, sự an ủi của chúng ta và sự hồi sinh trong những khi cuộc sống đầy những căng thẳng. Như nước, Thánh Thần hiện diện ngay khi chúng ta khởi sự đời sống mới trong phép Thánh tẩy, cũng như nguồn canh tân trong suốt cuộc đời chúng ta.
Điều gì xảy ra với người phụ nữ khi chị gặp Đức Giêsu và được người ban tặng nước sự sống? Trước hết, chị từ bỏ lối sống cũ, dấu hiệu là chị bỏ cái xô lại bên giếng. (Đoạn này không có trong trích đoạn Tin mừng hôm nay). Và rồi, với món quà của sự sống mới, chị trở nên người thi hành sứ vụ đầu tiên và chạy vào báo cho những người cùng thành của mình về những gì chị tìm thấy – hay là về Đấng chị nhìn thấy!
Người phụ nữ Samaria chỉ là người đứng đầu hàng trong hàng dài những chứng nhân của đời sống mới mà chúng ta có trong Đức Giêsu. Chúng ta là hậu nhân của chị, vì Thiên Chúa đã khao khát chúng ta và đã tìm thấy chúng ta, ban cho chúng ta nguồn nước mang lại sự sống. Chúng ta đã uống thứ nước này trong bí tích Rửa tội. Nhưng chúng ta bị khát lại do những đấu tranh trong cuộc sống và cuộc đời Kitô hữu trong những bối cảnh không được đón tiếp. Chúng ta cũng trở lại để được tẩy rửa nhờ nguồn nước sự sống vì những bước chân sai lầm của chúng ta, khi chúng ta đi xa khỏi sự kết hiệp với Chúa Kitô. Chúng ta đã được đổi mới một lần nữa khi “nguồn nước dẫn đến sự sống vĩnh cửu” qua Lời và Bí tích mà chúng ta cử hành hôm nay.
Người phụ nữ Samariaa là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Những gì chị nhận được và khám phá ra nơi Đức Kitô, chị nhanh chóng nói cho những người trong thành biết. Chị biết rõ họ là ai; chị cũng biết họ đang khát và cũng đang tìm nước. Đức tin của chúng ta là đức tin đi truyền giáo. Chúng ta không thể giữ cho riêng mình những gì chúng ta khám phá ra nơi Đức Giêsu.
Giống như người phụ nữ kia, chúng ta cũng nhận ra cơn khát của những người thân cận, những cơn khát của họ chỉ có thể được thỏa mãn nơi Đức Giêsu. Có thể họ đã nói cho chúng ta về cơn khát của họ: “tôi đang cô đơn”. “Vợ tôi mới qua đời tháng trước”. “Lòng đạo trong tôi đã khô khan”. “Tôi biết mình cần có mục đích sống, nhưng tôi chẳng biết đó là gì”.… Khi họ nói với chúng ta những điều này, thì họ đã chọn đúng người để nói, vì chúng ta cũng từng khát. Nhưng chúng ta biết phải đi tới đâu – chúng ta đi đến bên giếng nước và thấy Đức Giêsu đã ở đó và chúng ta đã uống thỏa thuê thứ nước Người cho chúng ta.
Thánh Thần thì như thế nào? Trong Kinh thánh có rất nhiều hình ảnh mô tả Thánh Thần. Trình thuật Tin mừng hôm nay mô tả Thánh Thần như một giếng nước không ngừng tuôn trào. Đó không phải là thác nước; đó là giếng nước, một nguồn sức sống đến từ sâu thẳm bên trong một người.
Hôm nay, nước đóng vai trò như một biểu tượng thích hợp cho Thánh Thần, trong ánh sáng của vai trò chứng nhân của người phụ nữ. Chẳng lẽ quý vị lại không thích nước chảy – các đại dương, sông ngòi và thậm chí chảy lặng lẽ trong các ao hồ hay sao? Nếu chúng ta đã nghe thông điệp hôm nay từ Lời và để cho Lời ấy cư ngụ trong chúng ta, thì chúng ta giống như những dòng nước đang chảy và chảy đến với những ai đang khát. Giống như người phụ nữ này, chúng ta không cần phải học một lớp đặc biệt để làm điều đó – dù một số trong chúng ta liên quan đến những sứ vụ chính thức của giáo hội thì có thể có học. Nhưng hơn thế nữa, chính tương quan của chúng ta với những người khác sẽ hướng dẫn chúng ta chia sẻ nguồn nước sự sống đã tuôn trào trong cuộc đời chúng ta. Việc làm chứng của chúng ta không chỉ gói gém trong phạm vi những buổi họp mặt trong giáo hội chúng ta. Như bài Tin mừng hôm nay, nơi chốn không phải là vấn đề quan yếu – người lắng nghe Lời và đáp lại trong thờ phượng, là “nơi thích hợp” để những ai đang khát có thể gặp được Đức Giêsu.
Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp
3rd SUNDAY OF LENT (A) -
Exodus 17: 3-7; Psalm 95; Romans 5: 1-2,5-8; John 4: 5-42
We are in Year A of the liturgical cycle and so we will get an opportunity to hear the great narratives from John's gospel for these three Sundays in Lent (3rd, 4th and 5th). Today we meet the woman at the well, next week the man born blind and then we will be there for the raising of Lazarus.
We begin today with water. On a physical level it is essential for life. Our lives began in the womb surrounded by water and we need water to survive throughout our lives. Water also brought us to life with God in our baptism. Hence, as we shall see today, water is one of the symbols of the Holy Spirit--the living water that wells up within us to give us eternal life.
In today's Exodus reading let's not be too harsh on the Israelites who are grumbling for water in the desert. Their's had been a harsh slavery in Egypt and from the beginning they realized the desert escape and long journey afterwards was not going to be a walk in the park. When we moderns thirst we can go to a fountain and quench it.
That's not true for many people in the world today--especially in Africa, where the Sahara is expanding each year. Our thirst is, at most, and inconvenience, but in the desert it can be life threatening.
The Exodus scene is fraught with tension as the grumbling Israelites complain to Moses and a besieged Moses laments to God: "What shall I do with these people? A little more and they will stone me!" Then, as proof that God has not forgotten the struggling nomads, God orders Moses to strike the rock--and water flows.
God does that for people; helps us during the hard times and in the hard places. In the most unlikely ways and through the most unlikely people, our thirst is quenched.
A woman who had been through a rough time told me that she had attended Mass for weeks without any consolation or relief. She sat in church numb, week after week. She had noticed a poor "bag lady" who sat in a pew near her each week, surrounded by her possessions stashed in overflowing paper bags.
One day the woman came up to her and said, "Dear, I've watched you here at church week after week. You look so sad and so I've been praying for you." The two struck up a conversation and went out for coffee. Later, the woman said, "Here was this woman with practically nothing, yet she was such a grace of comfort and encouragement to me!" From the most unlikely places God can refresh us with water in our deserts.
The Jews have a legend that says the rock Moses struck, which yielded water, traveled with them through the desert and provided water for their needs. True story? No, not likely. True story? Yes -- for those whose thirst has been quenched from the most unlikely sources during a hard time in their lives. They have had personal experience that the rock followed them in their desert and quenched their thirst.
Who is the thirsty one in John's narrative? Why the woman of course; but she is not the only one. She has come to the well in the heat of the day--perhaps not the best time to gather water. But the first to express thirst is Jesus and he asks the Samaritan woman for a drink. By his simple request Jesus is pushing the religious and cultural boundaries of his day. Jews were not allowed to speak to Samaritans, nor use the same vessels they did. Jewish men and women did not speak to each other in public--much less that a Jewish man would speak to a Samaritan woman!
But Jesus bridges the chasm and violates the taboos as he opens with his request for water from the woman. She seems to forget her position as well, as she challenges Jesus for breaking the custom, "How can you ask me, a Samaritan woman, for a drink?" As is typical in John's gospel there are layers of meaning beneath the surface of the narrative. This is especially true in his dialogues. The woman's thirst, judging from her disconnected life, is deeper than just her need for physical water. Jesus notes the thirst that he alone can satisfy; for he is the source of the water that will not disappoint or run out.
John tells us that Jesus was tired by his trip and sat at the well. Jesus' thirst reveals the deeper thirst God has for us. ("I thirst," he will say from the cross.)
God thirsts for us and has come out looking for us. Hence, Jesus goes to wherever thirsty people can be found and offers a water that will not run dry, but will bubble up for us when life stresses and makes us parched. As desert people travel they go from one oasis to another, one watering hole to the next. Jesus isn't offering an occasional supply of water, but a "spring of water welling up to eternal life," which will be with us each step of our journey.
The water Jesus speaks of is the Holy Spirit, our constant companion: our source of joy and awareness during periods of well-being and our consolation and refreshment during the stress-filled times. Like water, the Holy Spirit is present at the very beginning of our new life in baptism, as well as a source of renewal throughout our lives.
What happens to the woman as a result of her encounter with Jesus and his gift of living waters? First of all she leaves her old way of life behind, symbolized by the bucket she leaves at the well. (These verses are omitted from today's Lectionary selection.) Then, with the gift of new life she has received, she becomes the first missionary and rushes off to tell her townspeople what she has found -- or about the One who found her!
The Samaritan woman is just the first in a long line of witnesses to the new life we have in Jesus. We are her descendants, for God has thirsted for us and found us, offering us life-giving waters. We have drunk of these waters starting at our baptism. But we have been made thirsty again by our struggles to live the Christian life in less-than welcoming settings. We also come back to be cleansed by the living waters because of our missteps, when we have wandered from our full-time commitment to Christ. We have been renewed once again as the "spring of water [wells] up to eternal life" through the Word and Sacrament we celebrate together today.
The Samaritan woman is a model for us. What she has received and discovered in Christ she can't wait to rush off to tell her townspeople. She knows who they are; she also knows they are thirsty and looking for water too. Ours is a missionary faith. We cannot keep to ourselves what we have discovered in Jesus.
Like the woman, we also know the thirsts of people close to us, those whose thirsts only Jesus can quench. They probably have worded their thirsts to us: "I am lonely." "My wife died last month." "Religion has dried up for me." "I know I must have some purpose in life, but I don't know what it is." Etc. When they tell us these things they are talking to the right person, for we too have been thirsty. But we knew where to go -- we went to the well and found Jesus already there and we drank deeply of the living waters he gave us.
What is the Holy Spirit like? The Scriptures are rich with many images for the Spirit. Today's narrative describes the Spirit as a continuously flowing and gushing well. It's not a waterfall; it's a well, a source of life that comes from down deep in a person.
Water serves as an appropriate symbol for the Holy Spirit today, in light of the witnessing role of the woman. Don't your prefer moving water -- oceans, rivers, even the subtle moving waters of a pond or lake? If we have heard today's message from the Word and allowed it to make a home in us, we will be like flowing water and move out to find those who are thirsty. Like the woman, we won't need to take a special class to learn how to do it--though some of us involved in more official church ministry may. Rather, our relationship to others will be our guide to sharing the living water that has bubbled up in our lives. Our witnessing isn't restricted to the confines of our church meetings. As in today's gospel, place is not the issue -- a person who has heard the Word and responded in worship, is a "proper place" for someone who is thirsting to meet Jesus.
Xuất hành 17: 3-7; Tv 95; Rm 5: 1-2,5-8; Ga: 4: 5-42
Chúng ta đang ở trong năm phụng vụ A. Vì vậy, chúng ta có cơ may nghe những tường thuật vĩ đại của Tin mừng Gioan trong ba Chúa nhật Mùa chay (Chúa nhật thứ 3,4 và 5). Hôm nay, chúng ta gặp một người phụ nữ ở bên bờ giếng, tuần tới là người đàn ông mù từ thuở mới sinh và tiếp theo là việc làm cho Nazarô sống lại.
Hôm nay, chúng ta bắt đầu với nước. Xét về mặt thể lý, nước là phần tất yếu của sự sống. Cuộc đời của chúng ta bắt đầu trong cung lòng mẹ, được nước bao quanh và chúng ta cần nước để tồn tại suốt đời mình. Nước cũng đưa chúng ta vào sự sống với Chúa trong Bí tích Rửa tội. Vì thế, như chúng ta thấy hôm nay, nước là một trong những biểu tượng của Thánh Thần – nước sự sống tuôn trào bên trong chúng ta và mang lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Trong bài đọc trích sách Xuất hành hôm nay, hãy đừng quá khắt khe với dân Israel, những người càu nhàu đòi nước trong sa mạc. Họ đã phải làm nô lệ khổ cực bên Aicập và ngay từ đầu họ đã nhận ra rằng, trốn thoát vào sa mạc và cuộc hành trình dài sau đó chẳng giống như chuyện bách bộ trong công viên. Sống ở thời hiện đại, khi khát chúng ta chỉ cần đi đến bình nước và thỏa mãn cơn khát.
Nhưng với nhiều người ngày nay điều đó cũng không phải như vậy – nhất là ở Châu Phi, nơi sa mạc Sahara mỗi năm mỗi rộng hơn. Cơn khát của chúng ta hầu như chỉ là cảm giác khó chịu, nhưng trong sa mạc thì nó đe dọa cuộc sống.
Toàn cảnh của cuộc Xuất hành là đầy rẫy những căng thẳng như việc dân Israel lầm bầm kêu ca với Môisê và việc Môisê than thở, nài xin với Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là chúng nén đá con!” Và rồi, như một bằng chứng rằng Thiên Chúa không quên những khó khăn của dân du mục này, Người đã ra lệnh cho Môisê đập vào tảng đá – và nước chảy ra.
Thiên Chúa làm những điều đó cho con người; giúp chúng ta trong những lúc khó khăn và những nơi hiểm nghèo. Bằng những cách lạ thường và qua những con người không mong đợi, cơn khát của chúng ta được thỏa mãn.
Một phụ nữ vừa trải qua một thời gian khó khăn, nói với tôi rằng cô đã tham dự Thánh lễ suốt nhiều tuần mà chẳng thấy được an ủi hay nhẹ nhõm chút nào. Chị ngồi lặng lẽ trong nhà thờ, tuần này qua tuần khác. Chị chú ý đến một “bà già ăn xin” nghèo ngồi ở hàng ghế gần chỗ mình, xung quanh là những thứ linh tinh bà cất đầy trong những túi giấy.
Một hôm người đàn bà ấy đến gần và nói với chị: “Này, tôi đã thấy cô ngồi đây hàng tuần. Nhìn cô buồn lắm và tôi đã cầu nguyên cho cô.” Cả hai bắt đầu nói chuyện và sau đó cùng ra quán café. Sau này, người phụ nữ này nói, “Chính người đàn bà hầu như chẳng có gì này lại chính là nguồn thanh thản và khích lệ đối với tôi!” Trong những nơi chẳng ra sao ấy, Thiên Chúa có thể hồi phục chúng ta với nước trong chính sa mạc chúng ta.
Người Dothái có một truyền thuyết kể rằng tảng đá Môisê gõ vào, làm cho nước chảy ra, đã đi cùng với họ suốt hành trình trong sa mạc và cung cấp nước cho họ. Câu chuyện này có thật hay không? Có vẻ là không. Câu chuyện này thật không? Thật – đối với những ai đã được thỏa mãn cơn khát bằng những nguồn mạch lạ thường vào những lúc khó khăn trong cuộc đời họ. Họ có kinh nghiệm cá nhân về tảng đá theo họ trong sa mạc và đã thỏa mãn cơn khát của họ.
Ai là người khát nước trong trình thuật của Gioan? Dĩ nhiên là người phụ nữ, nhưng không chỉ có mình chị. Chị đã đến giếng nước vào lúc nóng bức trong ngày – có lẽ không phải lúc thích hợp để lấy nước. Nhưng người đầu tiên tỏ ra khát nước lại là Đức Giêsu, và Người đã xin chị phụ nữ Samaria nước uống. Với yêu cầu đơn giản ấy, Đức Giêsu đã đẩy xa hơn biên giới của tôn giáo và văn hóa thời của Người. Người Dothái không được phép nói chuyện với người Samaria, và cũng không được dùng chung vò nước với họ. Đàn ông Dothái và phụ nữ không được nói chuyện với nhau nơi công cộng -- và chắc chắn một người đàn ông Dothái không được nói chuyện với phụ nữ Samaria!
Nhưng, Đức Giêsu nối liền hai bờ vực thẳm và phá vỡ những cấm kị khi Người mở lời với người phụ nữ để xin chút nước. Người phụ nữ nay ra như cũng quên mất địa vị của mình khi thách thức đức Giêsu phá vỡ tập tục truyền thống, “Sao ông có thể hỏi tôi, một phụ nữ Samaria, để xin chút nước?” Đặc trưng của những trình thuật của Gioan là có những tầng ý nghĩa nằm bên dưới bề mặt của trình thuật. Điều này đặc biệt đúng trong cuộc nói chuyện của Người. Cơn khát của người phụ nữ, với cuộc đời bị chia cắt của cô, thì sâu xa hơn cơn khát thể lý. Đức Giêsu biết cơn khát mà chỉ mình Người mới có thể làm thỏa mãn; vì chính Người là nguồn nước không làm thất vọng hay cạn kiệt.
Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã mệt vì hành trình dài và đến ngồi bên giếng nước. Cơn khát của Đức Giêsu cho thấy cơn khát sâu thẳm hơn Thiên Chúa dành cho chúng ta. (“Ta khát,” như Người thốt lên khi ở trên thập giá.)
Thiên Chúa khao khát chúng ta và đã đi tìm kiếm chúng ta. Vì thế, Đức Giêsu đến bất cứ nơi đâu có thể tìm thấy những người đang khát và trao ban nguồn nước không bao giờ cạn nhưng sôi sục trong chúng ta khi cuộc sống căng thẳng và làm chúng ta khát. Như những người du hành trong sa mạc, họ đi từ ốc đảo này sang ốc đảo khác, từ hố nước này đến hố nước khác. Đức Giêsu sẽ không mang lại nguồn nước theo từng thời kỳ, nhưng là một “dòng nước mang lại sự sống vĩnh cửu,” đi cùng với chúng ta từng bước trong suốt hành trình.
Nước mà Đức Giêsu nói đến là Thánh Thần, người đồng hành bền bỉ với chúng ta: nguồn vui của chúng ta và ý thức trong suốt thời gian khỏe mạnh, sự an ủi của chúng ta và sự hồi sinh trong những khi cuộc sống đầy những căng thẳng. Như nước, Thánh Thần hiện diện ngay khi chúng ta khởi sự đời sống mới trong phép Thánh tẩy, cũng như nguồn canh tân trong suốt cuộc đời chúng ta.
Điều gì xảy ra với người phụ nữ khi chị gặp Đức Giêsu và được người ban tặng nước sự sống? Trước hết, chị từ bỏ lối sống cũ, dấu hiệu là chị bỏ cái xô lại bên giếng. (Đoạn này không có trong trích đoạn Tin mừng hôm nay). Và rồi, với món quà của sự sống mới, chị trở nên người thi hành sứ vụ đầu tiên và chạy vào báo cho những người cùng thành của mình về những gì chị tìm thấy – hay là về Đấng chị nhìn thấy!
Người phụ nữ Samaria chỉ là người đứng đầu hàng trong hàng dài những chứng nhân của đời sống mới mà chúng ta có trong Đức Giêsu. Chúng ta là hậu nhân của chị, vì Thiên Chúa đã khao khát chúng ta và đã tìm thấy chúng ta, ban cho chúng ta nguồn nước mang lại sự sống. Chúng ta đã uống thứ nước này trong bí tích Rửa tội. Nhưng chúng ta bị khát lại do những đấu tranh trong cuộc sống và cuộc đời Kitô hữu trong những bối cảnh không được đón tiếp. Chúng ta cũng trở lại để được tẩy rửa nhờ nguồn nước sự sống vì những bước chân sai lầm của chúng ta, khi chúng ta đi xa khỏi sự kết hiệp với Chúa Kitô. Chúng ta đã được đổi mới một lần nữa khi “nguồn nước dẫn đến sự sống vĩnh cửu” qua Lời và Bí tích mà chúng ta cử hành hôm nay.
Người phụ nữ Samariaa là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Những gì chị nhận được và khám phá ra nơi Đức Kitô, chị nhanh chóng nói cho những người trong thành biết. Chị biết rõ họ là ai; chị cũng biết họ đang khát và cũng đang tìm nước. Đức tin của chúng ta là đức tin đi truyền giáo. Chúng ta không thể giữ cho riêng mình những gì chúng ta khám phá ra nơi Đức Giêsu.
Giống như người phụ nữ kia, chúng ta cũng nhận ra cơn khát của những người thân cận, những cơn khát của họ chỉ có thể được thỏa mãn nơi Đức Giêsu. Có thể họ đã nói cho chúng ta về cơn khát của họ: “tôi đang cô đơn”. “Vợ tôi mới qua đời tháng trước”. “Lòng đạo trong tôi đã khô khan”. “Tôi biết mình cần có mục đích sống, nhưng tôi chẳng biết đó là gì”.… Khi họ nói với chúng ta những điều này, thì họ đã chọn đúng người để nói, vì chúng ta cũng từng khát. Nhưng chúng ta biết phải đi tới đâu – chúng ta đi đến bên giếng nước và thấy Đức Giêsu đã ở đó và chúng ta đã uống thỏa thuê thứ nước Người cho chúng ta.
Thánh Thần thì như thế nào? Trong Kinh thánh có rất nhiều hình ảnh mô tả Thánh Thần. Trình thuật Tin mừng hôm nay mô tả Thánh Thần như một giếng nước không ngừng tuôn trào. Đó không phải là thác nước; đó là giếng nước, một nguồn sức sống đến từ sâu thẳm bên trong một người.
Hôm nay, nước đóng vai trò như một biểu tượng thích hợp cho Thánh Thần, trong ánh sáng của vai trò chứng nhân của người phụ nữ. Chẳng lẽ quý vị lại không thích nước chảy – các đại dương, sông ngòi và thậm chí chảy lặng lẽ trong các ao hồ hay sao? Nếu chúng ta đã nghe thông điệp hôm nay từ Lời và để cho Lời ấy cư ngụ trong chúng ta, thì chúng ta giống như những dòng nước đang chảy và chảy đến với những ai đang khát. Giống như người phụ nữ này, chúng ta không cần phải học một lớp đặc biệt để làm điều đó – dù một số trong chúng ta liên quan đến những sứ vụ chính thức của giáo hội thì có thể có học. Nhưng hơn thế nữa, chính tương quan của chúng ta với những người khác sẽ hướng dẫn chúng ta chia sẻ nguồn nước sự sống đã tuôn trào trong cuộc đời chúng ta. Việc làm chứng của chúng ta không chỉ gói gém trong phạm vi những buổi họp mặt trong giáo hội chúng ta. Như bài Tin mừng hôm nay, nơi chốn không phải là vấn đề quan yếu – người lắng nghe Lời và đáp lại trong thờ phượng, là “nơi thích hợp” để những ai đang khát có thể gặp được Đức Giêsu.
Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp
3rd SUNDAY OF LENT (A) -
Exodus 17: 3-7; Psalm 95; Romans 5: 1-2,5-8; John 4: 5-42
We are in Year A of the liturgical cycle and so we will get an opportunity to hear the great narratives from John's gospel for these three Sundays in Lent (3rd, 4th and 5th). Today we meet the woman at the well, next week the man born blind and then we will be there for the raising of Lazarus.
We begin today with water. On a physical level it is essential for life. Our lives began in the womb surrounded by water and we need water to survive throughout our lives. Water also brought us to life with God in our baptism. Hence, as we shall see today, water is one of the symbols of the Holy Spirit--the living water that wells up within us to give us eternal life.
In today's Exodus reading let's not be too harsh on the Israelites who are grumbling for water in the desert. Their's had been a harsh slavery in Egypt and from the beginning they realized the desert escape and long journey afterwards was not going to be a walk in the park. When we moderns thirst we can go to a fountain and quench it.
That's not true for many people in the world today--especially in Africa, where the Sahara is expanding each year. Our thirst is, at most, and inconvenience, but in the desert it can be life threatening.
The Exodus scene is fraught with tension as the grumbling Israelites complain to Moses and a besieged Moses laments to God: "What shall I do with these people? A little more and they will stone me!" Then, as proof that God has not forgotten the struggling nomads, God orders Moses to strike the rock--and water flows.
God does that for people; helps us during the hard times and in the hard places. In the most unlikely ways and through the most unlikely people, our thirst is quenched.
A woman who had been through a rough time told me that she had attended Mass for weeks without any consolation or relief. She sat in church numb, week after week. She had noticed a poor "bag lady" who sat in a pew near her each week, surrounded by her possessions stashed in overflowing paper bags.
One day the woman came up to her and said, "Dear, I've watched you here at church week after week. You look so sad and so I've been praying for you." The two struck up a conversation and went out for coffee. Later, the woman said, "Here was this woman with practically nothing, yet she was such a grace of comfort and encouragement to me!" From the most unlikely places God can refresh us with water in our deserts.
The Jews have a legend that says the rock Moses struck, which yielded water, traveled with them through the desert and provided water for their needs. True story? No, not likely. True story? Yes -- for those whose thirst has been quenched from the most unlikely sources during a hard time in their lives. They have had personal experience that the rock followed them in their desert and quenched their thirst.
Who is the thirsty one in John's narrative? Why the woman of course; but she is not the only one. She has come to the well in the heat of the day--perhaps not the best time to gather water. But the first to express thirst is Jesus and he asks the Samaritan woman for a drink. By his simple request Jesus is pushing the religious and cultural boundaries of his day. Jews were not allowed to speak to Samaritans, nor use the same vessels they did. Jewish men and women did not speak to each other in public--much less that a Jewish man would speak to a Samaritan woman!
But Jesus bridges the chasm and violates the taboos as he opens with his request for water from the woman. She seems to forget her position as well, as she challenges Jesus for breaking the custom, "How can you ask me, a Samaritan woman, for a drink?" As is typical in John's gospel there are layers of meaning beneath the surface of the narrative. This is especially true in his dialogues. The woman's thirst, judging from her disconnected life, is deeper than just her need for physical water. Jesus notes the thirst that he alone can satisfy; for he is the source of the water that will not disappoint or run out.
John tells us that Jesus was tired by his trip and sat at the well. Jesus' thirst reveals the deeper thirst God has for us. ("I thirst," he will say from the cross.)
God thirsts for us and has come out looking for us. Hence, Jesus goes to wherever thirsty people can be found and offers a water that will not run dry, but will bubble up for us when life stresses and makes us parched. As desert people travel they go from one oasis to another, one watering hole to the next. Jesus isn't offering an occasional supply of water, but a "spring of water welling up to eternal life," which will be with us each step of our journey.
The water Jesus speaks of is the Holy Spirit, our constant companion: our source of joy and awareness during periods of well-being and our consolation and refreshment during the stress-filled times. Like water, the Holy Spirit is present at the very beginning of our new life in baptism, as well as a source of renewal throughout our lives.
What happens to the woman as a result of her encounter with Jesus and his gift of living waters? First of all she leaves her old way of life behind, symbolized by the bucket she leaves at the well. (These verses are omitted from today's Lectionary selection.) Then, with the gift of new life she has received, she becomes the first missionary and rushes off to tell her townspeople what she has found -- or about the One who found her!
The Samaritan woman is just the first in a long line of witnesses to the new life we have in Jesus. We are her descendants, for God has thirsted for us and found us, offering us life-giving waters. We have drunk of these waters starting at our baptism. But we have been made thirsty again by our struggles to live the Christian life in less-than welcoming settings. We also come back to be cleansed by the living waters because of our missteps, when we have wandered from our full-time commitment to Christ. We have been renewed once again as the "spring of water [wells] up to eternal life" through the Word and Sacrament we celebrate together today.
The Samaritan woman is a model for us. What she has received and discovered in Christ she can't wait to rush off to tell her townspeople. She knows who they are; she also knows they are thirsty and looking for water too. Ours is a missionary faith. We cannot keep to ourselves what we have discovered in Jesus.
Like the woman, we also know the thirsts of people close to us, those whose thirsts only Jesus can quench. They probably have worded their thirsts to us: "I am lonely." "My wife died last month." "Religion has dried up for me." "I know I must have some purpose in life, but I don't know what it is." Etc. When they tell us these things they are talking to the right person, for we too have been thirsty. But we knew where to go -- we went to the well and found Jesus already there and we drank deeply of the living waters he gave us.
What is the Holy Spirit like? The Scriptures are rich with many images for the Spirit. Today's narrative describes the Spirit as a continuously flowing and gushing well. It's not a waterfall; it's a well, a source of life that comes from down deep in a person.
Water serves as an appropriate symbol for the Holy Spirit today, in light of the witnessing role of the woman. Don't your prefer moving water -- oceans, rivers, even the subtle moving waters of a pond or lake? If we have heard today's message from the Word and allowed it to make a home in us, we will be like flowing water and move out to find those who are thirsty. Like the woman, we won't need to take a special class to learn how to do it--though some of us involved in more official church ministry may. Rather, our relationship to others will be our guide to sharing the living water that has bubbled up in our lives. Our witnessing isn't restricted to the confines of our church meetings. As in today's gospel, place is not the issue -- a person who has heard the Word and responded in worship, is a "proper place" for someone who is thirsting to meet Jesus.
Như nai rừng mong mỏi, tìm về suối nước trong
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
10:37 25/03/2011
Ngày 22/3 vừa qua, tại Nam Phi đã diễn ra nhiều hoạt động quốc tế kỷ niệm Ngày Nước Thế Giới, với chủ đề “Nước cho phát triển đô thị”. Hiện nay, dân số sinh sống tại các đô thị trên thế giới đã đạt đến 3,3 tỉ người và quá trình đô thị hóa vẫn không ngừng phát triển. Nhu cầu cấp thoát nước cho các đô thị đã trở thành vấn đề cấp thiết do nguồn nước bị suy giảm, mực nước sông hạ thấp, nhiều hồ, ao, kênh, mương bị san lấp...đang là những vấn nạn đối với nhiều đô thị.
Tại Việt Nam, Bộ Tài nguyên - Môi trường cũng đã phối hợp với UBND tỉnh Ninh Thuận chính thức tổ chức Mít tinh và các hoạt động quốc gia hưởng ứng Ngày Nước Thế Giới, với các hoạt động nổi bật : hội thảo “Nước cho phát triển đô thị”, triển lãm, chiếu phim về tài nguyên nước...
Có thể nói chưa bao giờ vấn đề nước sạch được đặt ra nghiêm túc như ngày hôm nay. Cũng dễ hiểu, vì nước là yếu tố vô cùng cần thiết cho sự sống con người. Không có nhà cửa, áo quần người ta vẫn có thể sống. Không có ăn, người ta vẫn có thể tồn tại một thời gian dài 5,10 ngày, thậm chí là 15,20 ngày. Nhưng không có nước, sau dăm ba ngày người ta sẽ chết. Bởi vậy người ta nói rằng nếu có cuộc chiến tranh thế giới thứ 3 thì đó sẽ là cuộc chiến tranh vì nguồn nước chứ không phải vì một thứ tài nguyên nào khác. Nguồn năng lượng dầu hoả có thể thay thế bằng năng lượng hạt nhân, năng lượng mặt trời, gió, thuỷ triều hay năng lượng sinh học... Còn nước ngọt thì không thể thay thế được. Mọi vật có sự sống đều cần đến nước. Nước để ăn uống, tắm giặt, sinh hoạt… Nhiều nơi ở vùng Trung Đông hiện nay, nước ngọt vẫn mắc hơn xăng dầu. Trong khoảng thời gian 40 năm trong sa mạc, dân Do thái đã trải qua rất nhiều thử thách. Thiếu nước là một trong những thử thách khắc nghiệt hơn cả (x. Bài đọc I).
Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi hầu như mọi nền văn hoá, văn minh đều lấy nước làm biểu tượng chỉ những gì cần thiết cho tinh thần. Đặc biệt, khi nói về Thiên Chúa, Thánh Kinh rất thích dùng hình ảnh nước. Sách Sáng Thế mô tả vườn địa đàng có một con sông tỏa ra 4 nhánh mang nước đi nuôi sống các sinh vật từ 4 phương trời Tổ Tông loài người sống trong khu vườn dồi dào nước ấy đã rất hạnh phúc. Nhưng rồi khi nguyên tổ phạm tội và bị đuổi khỏi vườn địa đàng thì cuộc sống vô cùng vất vả trên đất đai sỏi đá cỗi cằn (x. St 2,10-16).
“Ngụ ý của tác giả đoạn sách Sáng Thế ấy là: khi con người sống trong thân tình với Thiên Chúa thì cũng giống như sống bên nguồn nước tươi mát; còn khi họ tách rời tình thân với Thiên Chúa thì phải khốn khó như đang ở trong sa mạc khô cằn. Vì thế sách Khải Huyền khi muốn diễn tả hạnh phúc thời cứu độ, đã vẽ lên hình ảnh một thành Giêrusalem mới, trong đó cũng có một dòng sông hằng sống, nước sông tưới mát một cây hằng sống làm cho nó trổ sinh hoa quả suốt 2 tháng quanh năm, trái cây cho người ta ăn, và lá cây dùng làm thuốc chữa hết mọi chứng bệnh” (Trích Sợi Chỉ Đỏ).
Chúa Giêsu trong câu chuyện đối thoại với người phụ nữ trong Tin Mừng cũng đi từ nước tự nhiên đến mạch nước sự sống vĩnh cửu; từ sự khát nước vật chất đã khơi lên niềm khát khao thiêng liêng để làm cho người phụ nữ và cả dân làng của chị tin vào Người.
“Người thiếu phụ xứ Samari mặc dù đang ở bên giếng nước nhưng cõi lòng vẫn khát khao. Nàng khao khát một tình nghĩa đậm đà thiết tha. Nàng tưởng rằng tình đời sẽ thỏa mãn được cơn khát ấy nên nàng đã lăn xả vào những cuộc phiêu lưu tình ái. Nhưng đã trải qua 5 đời chồng rồi, nay đã là đời chồng thứ 6 mà nàng vẫn còn khát. Chỉ sau khi gặp được Đức Giêsu, trò chuyện với ngài và được Ngài ban cho thứ nước siêu nhiên là tình nghĩa với Chúa thì nàng mới hết khát. Nàng còn chạy vào làng rủ thêm nhiều người đến với Đức Gíêsu, Nguồn Nước Hằng Sống đích thực”
“Ngày hôm nay có lẽ chúng ta cũng đang khao khát nhiều điều : khao khát chân lý vì cuộc sống nhiều gian dối. Khao khát tự do trong một xã hội nhiều trói buộc. Khao khát công bình trong một môi trường đầy dẫy bất công. Khao khát yêu thương trong cuộc đời nhiều thù hận. Khao khát hạnh phúc trong cảnh sống bất hạnh. Khao khát niềm tin giữa cảnh đời nhiều nghi nan ..v.v...” (Trích Sợi Chỉ Đỏ).
Tất cả những khao khát đó đều là biểu hiện của một khát vọng sâu xa: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời Hằng Sống”.
“Như nai rừng mong mỏi, tìm về suối nước trong.
Hồn con cũng trông mong, tìm đến Ngài, lạy Chúa”.
Chúa chính là nguồn mạch Nước Hằng Sống mà Chúa Cha ban tặng cho ta. Ước gì tâm hồn ta khát khao yêu mến Chúa luôn, và chỉ khát khao một mình Chúa mà thôi, để được chìm ngập trong suối nguồn tình thương của Chúa. Xin Chúa cũng dạy ta biết ý thức rằng chỉ ở bên Chúa và trong Chúa, đời sống chúng ta mới luôn mãi tươi đẹp như hoa đồng nội bên nguồn suối ngát hương thơm. Amen.
Cuộc gặp gỡ làm nên lịch sử
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
10:38 25/03/2011
Chúa Nhật III Mùa Chay A
Tin Mừng đề cập đến rất nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà bên ngoài xem ra rất thường tình, song lại là những cuộc gặp gỡ làm nên lịch sử. Điển hình là những cuộc gặp gỡ : giữa Chúa Giêsu và Giakêu, Chúa Giêsu và Lêvi, Chúa Giêsu và Simon Phêrô, Chúa Giêsu và người đàn bà ngoại tình, và hôm nay một cuộc gặp gỡ khác, cuộc gặp gỡ rất đặc biệt giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari. Dưới ngòi bút linh động của thánh sử Gioan, thì đây là cuộc gặp gỡ làm nên cuộc “cách mạng” lớn, cuộc “cách mạng” trên 3 bình diện: chủng tộc, giới tính và tôn giáo.
1. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào phân biệt về chủng tộc.
Chúng ta biết rằng mối bất hòa giữa dân Do thái và dân Samaria bắt nguồn từ một câu truyện rất xa xưa. Khoảng năm 720 tcn, người Assyri xâm chiếm và thống trị vương quốc Samaria ở phía bắc. Người Samari bắt đầu cưới gả với người ngoại bang mới đến. Người Do thái coi đó là trọng tội, không thể tha thứ. Vì họ đã làm mất thuần chủng Do thái. Cho đến nay, trong gia đình Do thái có một luật hết sức nghiêm khắc là, nếu có một đứa con trai hay con gái cưới vợ lấy chồng ngoại bang, thì người ta lập tức làm lễ an táng người con ấy, vì bị xem như đã chết rồi. Như vậy, đa số dân xứ Samaria thuộc vương quốc miền bắc bị đầy sang Mêđi và không bao giờ trở về nữa, họ bị đồng hóa với các dân tộc thống trị họ. Số người còn trong xứ lại cưới gả với dân ngoại bang được đưa đến đó, nên họ cũng mất luôn quyền làm công dân Dothái.
Về sau, vương quốc miền Nam, là Giuđêa cũng bị xâm lăng và bại trận. Dân chúng bị đày sang Babylon, nhưng không mất gốc, họ vẫn còn là dân Do thái ngoan cố. Sau thời lưu đày trở về, công việc đầu tiên của họ là tu sửa lại Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy. Người Samaria đến giúp đỡ, vì muốn được cùng làm công việc thánh thiêng ấy, nhưng họ bị khinh miệt và khước từ. Nhục vì bị từ khước, người Samaria quay lại chống đối kịch liệt dân Giuđêa.
Sự bất hòa còn gay gắt hơn, khi người Do thái phản đạo là Manasê tìm cách xây một đền thờ đối lập trên núi Garizim, nằm trung tâm xứ Samaria mà người phụ nữ đã đề cập đến. Về sau, năm 129 tcn, quân Dothái mở cuộc tấn công người Samaria và hủy diệt ngôi Đền thờ tại Garizim. Người Do thái và Samaria lại càng thù ghét nhau hơn. Cuộc bất hòa giữa hai dân tộc, Do thái và Samaria, đã có từ hơn bốn trăm năm, nhưng vẫn gay gắt vào thời Chúa Giêsu. Cho nên người đàn bà Samaria sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu là một người Do thái, lại bắt chuyện với mình, một người Samari. (x. Bài giảng của tác giả NT). Đó là bình diện thứ nhất mà cuộc cách mạng của Chúa Giêsu đã phá đổ, bình diện phân biệt chủng tộc.
2. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào kỳ thị về giới tính.
Người Samaria mà Chúa Giêsu gặp gỡ hôm nay lại là một phụ nữ. Trong khi luật cấm nam nhân chào hỏi phụ nữ giữa những nơi công cộng, cấm ngay cả với vợ, con gái hay chị em của mình nữa. Một số người Biệt phái còn nhắm nghiền mắt lại khi gặp phụ nữ ngoài đường phố. Một đạo sĩ bị bắt gặp nói chuyện công khai với phụ nữ thì kể như tiếng tăm sự nghiệp tiêu tan. Thế nhưng Chúa Giêsu lại trò chuyện với một người, chẳng những là phụ nữ, mà còn là một phụ nữ xấu nết, chồng con lăng nhăng, 5-6 lần rối. Không một người đàn ông đứng đắn nào, chứ đừng nói đến đạo sĩ, hay ngôn sứ chịu để cho người ta thấy mình đứng chung hay trao đổi dù chỉ một lời với bà ta. Vậy mà điều đó lại xảy ra với Chúa Giêsu (x. Bài giảng của tác giả NT). Bởi thế khi các môn đệ trở về, trông thấy sự việc, họ cho là Thầy mình đã gây ra một xì-căng-đan, có nguy cơ “mất phần linh hồn”.
3. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào độc quyền về tôn giáo.
Những người Samari thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Còn những người Dothái thờ phượng Thiên Chúa trên núi Sion, tức Giêrusalem. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Chúa Giêsu khẳng định: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jêrusalem!” Cách nói thân tình của Người diễn tả một mạc khải quan trọng: thời kỳ cũ đã qua rồi và cách thờ phượng cũ đã chấm dứt. Nay là thời thiên sai, thời kỳ của ơn cứu độ phổ quát: "Đã đến lúc những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật”. Thờ phượng trong thần khí là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng trong sự thật là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.
Đức Giêsu đã khai mở và thiết lập giao ước mới. Nghi lễ cũ phải nhường cho nghi lễ mới. Người chính là của lễ mới và là Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa Cha. Những ai tin nhận Người là Đấng Thiên sai, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết, Đấng ban Thánh Thần để con người có sự sống mới của Thiên Chúa cách đích thực. Tôn giáo nào đưa con người gặp gỡ được với Thiên Chúa trong Thánh thần, trong chân lý là tôn giáo được đón nhận. Đây hẳn là một cái nhìn mang tính cách mạng, cách mạng về nơi thờ phượng tôn giáo.
Qua cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã phá vỡ các hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các lề thói chính thống của Do thái giáo. Tại đây Ngài đã thực hiện cuộc cách mạng giải phóng con người khỏi ý thức hệ, vốn trói buộc con người hàng chục thế kỷ. Tại đây tính cách phổ quát của Tin mừng là khởi điểm. Tại đây Thiên Chúa đang yêu thương thế gian, không bằng lý thuyết, nhưng bằng hành động, hành động đem lại ơn cứu độ. Dĩ nhiên chỉ có Đấng là Mêsia, là Thiên Sai mới làm nên điều kỳ diệu đó. Ngài chính là Đấng mà Cựu Ước đã loan báo, Đấng Cứu Độ mà muôn dân đang trông đợi, Đấng đem lại Nước Hằng Sống cho con người. Amen.
Tin Mừng đề cập đến rất nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà bên ngoài xem ra rất thường tình, song lại là những cuộc gặp gỡ làm nên lịch sử. Điển hình là những cuộc gặp gỡ : giữa Chúa Giêsu và Giakêu, Chúa Giêsu và Lêvi, Chúa Giêsu và Simon Phêrô, Chúa Giêsu và người đàn bà ngoại tình, và hôm nay một cuộc gặp gỡ khác, cuộc gặp gỡ rất đặc biệt giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari. Dưới ngòi bút linh động của thánh sử Gioan, thì đây là cuộc gặp gỡ làm nên cuộc “cách mạng” lớn, cuộc “cách mạng” trên 3 bình diện: chủng tộc, giới tính và tôn giáo.
1. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào phân biệt về chủng tộc.
Chúng ta biết rằng mối bất hòa giữa dân Do thái và dân Samaria bắt nguồn từ một câu truyện rất xa xưa. Khoảng năm 720 tcn, người Assyri xâm chiếm và thống trị vương quốc Samaria ở phía bắc. Người Samari bắt đầu cưới gả với người ngoại bang mới đến. Người Do thái coi đó là trọng tội, không thể tha thứ. Vì họ đã làm mất thuần chủng Do thái. Cho đến nay, trong gia đình Do thái có một luật hết sức nghiêm khắc là, nếu có một đứa con trai hay con gái cưới vợ lấy chồng ngoại bang, thì người ta lập tức làm lễ an táng người con ấy, vì bị xem như đã chết rồi. Như vậy, đa số dân xứ Samaria thuộc vương quốc miền bắc bị đầy sang Mêđi và không bao giờ trở về nữa, họ bị đồng hóa với các dân tộc thống trị họ. Số người còn trong xứ lại cưới gả với dân ngoại bang được đưa đến đó, nên họ cũng mất luôn quyền làm công dân Dothái.
Về sau, vương quốc miền Nam, là Giuđêa cũng bị xâm lăng và bại trận. Dân chúng bị đày sang Babylon, nhưng không mất gốc, họ vẫn còn là dân Do thái ngoan cố. Sau thời lưu đày trở về, công việc đầu tiên của họ là tu sửa lại Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy. Người Samaria đến giúp đỡ, vì muốn được cùng làm công việc thánh thiêng ấy, nhưng họ bị khinh miệt và khước từ. Nhục vì bị từ khước, người Samaria quay lại chống đối kịch liệt dân Giuđêa.
Sự bất hòa còn gay gắt hơn, khi người Do thái phản đạo là Manasê tìm cách xây một đền thờ đối lập trên núi Garizim, nằm trung tâm xứ Samaria mà người phụ nữ đã đề cập đến. Về sau, năm 129 tcn, quân Dothái mở cuộc tấn công người Samaria và hủy diệt ngôi Đền thờ tại Garizim. Người Do thái và Samaria lại càng thù ghét nhau hơn. Cuộc bất hòa giữa hai dân tộc, Do thái và Samaria, đã có từ hơn bốn trăm năm, nhưng vẫn gay gắt vào thời Chúa Giêsu. Cho nên người đàn bà Samaria sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu là một người Do thái, lại bắt chuyện với mình, một người Samari. (x. Bài giảng của tác giả NT). Đó là bình diện thứ nhất mà cuộc cách mạng của Chúa Giêsu đã phá đổ, bình diện phân biệt chủng tộc.
2. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào kỳ thị về giới tính.
Người Samaria mà Chúa Giêsu gặp gỡ hôm nay lại là một phụ nữ. Trong khi luật cấm nam nhân chào hỏi phụ nữ giữa những nơi công cộng, cấm ngay cả với vợ, con gái hay chị em của mình nữa. Một số người Biệt phái còn nhắm nghiền mắt lại khi gặp phụ nữ ngoài đường phố. Một đạo sĩ bị bắt gặp nói chuyện công khai với phụ nữ thì kể như tiếng tăm sự nghiệp tiêu tan. Thế nhưng Chúa Giêsu lại trò chuyện với một người, chẳng những là phụ nữ, mà còn là một phụ nữ xấu nết, chồng con lăng nhăng, 5-6 lần rối. Không một người đàn ông đứng đắn nào, chứ đừng nói đến đạo sĩ, hay ngôn sứ chịu để cho người ta thấy mình đứng chung hay trao đổi dù chỉ một lời với bà ta. Vậy mà điều đó lại xảy ra với Chúa Giêsu (x. Bài giảng của tác giả NT). Bởi thế khi các môn đệ trở về, trông thấy sự việc, họ cho là Thầy mình đã gây ra một xì-căng-đan, có nguy cơ “mất phần linh hồn”.
3. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào độc quyền về tôn giáo.
Những người Samari thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Còn những người Dothái thờ phượng Thiên Chúa trên núi Sion, tức Giêrusalem. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Chúa Giêsu khẳng định: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jêrusalem!” Cách nói thân tình của Người diễn tả một mạc khải quan trọng: thời kỳ cũ đã qua rồi và cách thờ phượng cũ đã chấm dứt. Nay là thời thiên sai, thời kỳ của ơn cứu độ phổ quát: "Đã đến lúc những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật”. Thờ phượng trong thần khí là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng trong sự thật là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.
Đức Giêsu đã khai mở và thiết lập giao ước mới. Nghi lễ cũ phải nhường cho nghi lễ mới. Người chính là của lễ mới và là Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa Cha. Những ai tin nhận Người là Đấng Thiên sai, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết, Đấng ban Thánh Thần để con người có sự sống mới của Thiên Chúa cách đích thực. Tôn giáo nào đưa con người gặp gỡ được với Thiên Chúa trong Thánh thần, trong chân lý là tôn giáo được đón nhận. Đây hẳn là một cái nhìn mang tính cách mạng, cách mạng về nơi thờ phượng tôn giáo.
Qua cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã phá vỡ các hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các lề thói chính thống của Do thái giáo. Tại đây Ngài đã thực hiện cuộc cách mạng giải phóng con người khỏi ý thức hệ, vốn trói buộc con người hàng chục thế kỷ. Tại đây tính cách phổ quát của Tin mừng là khởi điểm. Tại đây Thiên Chúa đang yêu thương thế gian, không bằng lý thuyết, nhưng bằng hành động, hành động đem lại ơn cứu độ. Dĩ nhiên chỉ có Đấng là Mêsia, là Thiên Sai mới làm nên điều kỳ diệu đó. Ngài chính là Đấng mà Cựu Ước đã loan báo, Đấng Cứu Độ mà muôn dân đang trông đợi, Đấng đem lại Nước Hằng Sống cho con người. Amen.
Cấm phòng
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
10:43 25/03/2011
"Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt. 11,28).
Chúa Giêsu đã vào hoang địa 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và kết hợp với Chúa Cha (Lc. 4,1). Chúa vào hoang địa tịnh tâm để chuẩn bị sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Noi gương Chúa Giêsu, hằng năm Giáo Hội cho chúng ta 40 ngày chay thánh để tìm về chính nguồn cuộc sống. Thời gian dài đủ để mỗi người có cơ hội cầu nguyện, ăn chay, làm việc bác ái và ăn năn hối cải. Cấm phòng là một thời gian tĩnh lặng trở về với Chúa và với lòng mình.
Cấm phòng còn gọi là tĩnh tâm. Tĩnh tâm cần có bầu khí thanh thoát và yên tịnh. Tĩnh tâm mà xô bồ, xôi động lại làm chúng ta trở thành động tâm. Tôi còn nhớ ngay khi còn ở Tiểu Chủng Viện, mỗi năm có ba ngày cấm phòng cho các chú. Những ngày cấm phòng không phải đi học, nhưng được nghe rất nhiều bài giảng, bài huấn đức và phải giữ im lặng. Im lặng ngay cả trong giờ ăn. Bầu khí xem ra lắng đọng và thánh thiện. Thật ra khi còn trẻ, tôi cũng không hiểu và ý thức nhiều về mục đích của những buổi cấm phòng. Suốt trong những ngày phòng, lúc nào cũng bút mực ghi ghi, chép chép các lời vàng ngọc của cha giảng phòng vào cuốn sổ tay, sau đó cất đi và chẳng mấy khi ngó lại.
Các cuộc cấm phòng nói chung bao gồm những buổi nghe giảng, thuyết trình, chia sẻ và cầu nguyện. Các vị giảng thuyết phải dọn bài để có một số kiến thức suy niệm, hướng dẫn sống đạo và áp dụng hành đạo. Nội dung của các bài giảng và thuyết trình thì rất dồi dào ý tưởng thâm sâu và có ý nghĩa. Những tư tưởng đạo đức này sẽ giúp ích cho mọi người tự phản ảnh và tự kiểm đời mình. Nhưng rồi việc tĩnh tâm và cấm phòng dần dần đi vào cách thức sinh hoạt, hội họp và học hỏi rộng rãi hơn, nên mọi người ít có cơ hội tĩnh lặng bên Chúa thật sự. Tĩnh tâm không phải chỉ đi tìm những sự hiểu biết, cảm xúc hay cảm giác nhất thời mà là một cuộc đổi đời trở về. Là một sự đánh động tâm linh thật sự để trở về cùng Chúa là nguồn tình yêu.
Tôi đã được tham dự rất nhiều buổi cấm phòng. Có những cuộc cấm phòng hằng năm, hằng tháng và những cuộc cấm phòng đặc biệt vào các dịp thụ phong chịu chức. Vào phòng rồi ra phòng, mỗi lần cấm phòng là mỗi lần hâm nóng lại đời sống tâm linh. Gợi nhớ lại những hồng ân Chúa đã trao ban trong cuộc sống và xét mình qua những hoa trái đã sinh lợi, rồi làm một quyết tâm nào đó cho tương lai. Có nhiều cuộc cấm phòng đã qua đi mà chẳng thu lợi được chi. Những giờ cầu nguyện và tham dự phụng vụ có lóe sáng nhưng rồi vụt tắt. Vì có thể chúng ta đã không có một quyết tâm cụ thể nào. Đôi khi chỉ làm một quyết định mơ hồ, ôm đồm nhiều qúa và cũng có thể vì không muốn thay đổi. Sau những ngày phòng, chúng ta trở lại cuộc sống đời thường và mọi sự đâu lại vào đó. Tính nào vẫn tật đó.
Nếu đi cấm phòng chỉ để nghe giảng hay chỉ để học hỏi thêm kiến thức, thì sự cấm phòng mất dần ý nghĩa thiết yếu. Việc quan trọng nhất là đi vào nội tâm và kết hợp với Chúa. Cấm phòng là một cuộc đi nghỉ ở lại bên Chúa. Cần có nhiều phút giây tĩnh lặng và cầu nguyện. Cấm phòng không phải lấp đầy thời gian bằng công việc này hay sinh hoạt kia. Cấm phòng không phải chỉ là bận rộn trong thụ động, mà là phải vận động tâm trí trở về với Chúa và với mình. Đi tận sâu vào tâm can mình để lắng nghe cõi lòng.
Trong cuộc sống, đi đâu chúng ta cũng có thể đi. Đôi khi chúng ta cũng chẳng quản ngại đường xá xa xôi, tiền bạc, công sức và thời gian. Chúng ta cảm thấy vui và phấn khởi khi đi được nhiều nơi và biết thêm nhiều thứ. Chính tôi cũng cảm thấy hình như hướng ngoại thì dễ hơn là hướng nội. Đi vào nội tâm của mình để xét mình thì rất ngại và khó khăn. Có rất nhiều người khi xét mình xưng tội, họ cũng không thể nhớ là đã xưng tội được bao lâu rồi. Nhìn lại mình nó sâu thẳm làm sao. Thật là ngại ngùng khi phải tự vấn lương tâm. Ngồi xét tội và lỗi lầm của người khác thì dễ dàng và dễ chịu hơn nhiều. Tội của mình thì chất đống, mắt bị che mờ và lương tâm cùn nhụt. Chúng ta chẳng muốn nhìn đến cái xấu xa của mình nữa. Chúng ta cứ lấp lém đi cho xong. Đã bao lần chúng ta đi cấm phòng nhưng cuộc sống của chúng ta vẫn thế, chẳng thay đổi được chi!
Điều quan trọng nhất trong việc tĩnh tâm là nhìn biết về chính mình. Biết mình đang sống ở nấc thang nào, để từ đó có thể đi lên hay đi xuống. Khi đời sống đạo đi xuống như bê tha, lười biếng, tội lỗi và thiếu sót bổn phận làm con Chúa. Chúng ta phải cố gắng sửa mình, tập tành nhân đức và hướng tới sự chân thiện. Khi sự hành đạo đang đi lên theo các khuynh hướng phô trương, vụ hình thức, khoe khoang và tự cao tự đại, khi đó chúng ta lại phải bước xuống trong khiêm hạ. Chúng ta nên nhìn vào tận thâm sâu của cách sống đạo và hành đạo. Những sinh hoạt bề ngoài xem ra thành công nhưng đời sống nội tâm đôi khi hời hợt. Chúng ta không nên đánh giá cuộc sống đạo chỉ dựa vào những mặt nổi bên ngoài.
Như xưa, sau một ngày các tông đồ bận rộn, vất vả và mỏi mệt, Chúa khuyên các ông hãy vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." (Mc.6,31). Ai cũng cần có sự nghỉ ngơi dưỡng sức và thư dãn tâm hồn. Trong Giáo Hội có nhiều phương thế giúp cho các tín hữu tìm về nguồn chân thiện. Có nhiều Giáo Xứ mở các Tuần Đại Phúc, Linh Thao và các cuộc cấm phòng kéo dài cả tuần. Nhiều người có cơ hội đi nghe giảng, có giờ cầu nguyện và có giờ suy gẫm và xét mình. Tĩnh tâm luôn là nhu cầu cần thiết cho tâm linh. Cấm phòng có nhiều hình thức. Có những cuộc cấm phòng dài một tháng liền. Có những cuộc cấm phòng một tuần hoặc ba ngày. Cúng có những buổi cấm phòng hay tĩnh tâm ngắn hạn, một buổi hay một vài giờ. Tùy theo hoàn cảnh môi trường và sinh hoạt của mỗi cộng đoàn.
Những sinh hoạt hội họp rất cần thiết về nhiều mặt trong cuộc sống. Hội họp để chia sẻ, góp ý và xây dựng cho nhau. Chúng ta không thể sống đơn côi hay độc hành trong đời sống đạo. Trong đời sống của Đạo Công Giáo, chúng ta rất may mắn có các Hội Đoàn và các Nhóm sinh hoạt. Các Hội Đoàn sống đức tin qua việc phục vụ và làm việc bác ái. Cùng sinh hoạt chung để nâng đỡ và khuyến khích nhau sống đạo tốt và nên trọn lành hơn. Chúng ta hãy quan sát hình ảnh một bếp lò cháy nóng bởi những cục than đỏ hỏn, nhắc nhở rằng mọi người hãy liên kết với nhau và cậy dựa bên nhau làm cho sức nóng tình yêu tỏa lan và sưởi ấm tâm hồn.
Tĩnh tâm hay cấm phòng đúng nghĩa là phải tịnh tâm và đi vào nơi thanh vắng để được kết hợp với Chúa. Chúa là nguồn sống và là niềm an vui cho tâm hồn. Chỉ khi nào chúng ta được an nghỉ trong Chúa, chúng ta mới hưởng nếm niềm vui đích thực. Thánh Augustinô đã miệt mài đi tìm kiếm Chúa khắp nơi qua sách vở, qua các học thuyết và qua kiến thức con người xã hội. Augustinô không thể thỏa mãn được cơn khát khao của tâm hồn. Cuối cùng ngài đã tìm gặp Chúa ngay trong tâm hồn mình. Ngài nói rằng Chúa ở trong con mà con lại đi ra ngoài tìm Chúa. Cho tới khi con tìm gặp được Chúa thì ra Chúa vẫn hiện diện đó trong trái tim con rồi. Thánh Augustinô cũng viết rằng lạy Chúa, trái tim của chúng con được dựng nên cho Chúa và chúng không thể nghỉ yên cho tới khi đươc an nghỉ trong Chúa.
Mỗi người đều mang hình ảnh của Chúa. Gặp gỡ anh chị em chung quanh là chúng ta đang gặp gỡ chính Chúa. Nhưng nếu chúng ta không có Chúa hiện diện trong tâm hồn, chúng ta khó có thể nhận biết Chúa nơi người khác. Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô. Có khi nào chúng ta mời Chúa đến cư ngụ trong tâm hồn của mình chưa? Chúng ta nghe Lời Chúa, rước Mình và Máu Thánh Chúa, nhưng nhiều khi chỉ làm như một thói quen. Chúng ta qúa quen với mầu nhiệm đức tin, nên nghĩ rằng đức tin không còn là mầu nhiệm nữa. Miệng lưỡi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh Chúa Kitô nhưng tâm trí của chúng ta còn mải mê mãi nơi nào. Chúa đến với chúng ta nhưng chúng ta lại mở cửa ra đi. Cho nên mãi mãi chúng ta chẳng gặp được Chúa.
Với sự hợp nhất của cộng đồng của Dân Chúa, khởi đầu mỗi thánh lễ, chủ tế chào chúc mọi người: Chúa ở cùng anh chị em. Chúa ở cùng chúng ta mỗi khi chúng ta tụ họp cầu nguyện. Chúa phán rằng: Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."(Mt. 18,20). Có Chúa hiện diện, chúng ta sẽ có sự bình an và niềm an vui. Sau khi sống lại từ cõi chết, mỗi lần Chúa hiện đến với các tông đồ, Chúa chúc lành cho các ông: Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em! "(Lk. 24,36).
Tiên tri Giêrêmia đã ngụp lặn trong niềm tin vào Thiên Chúa, ngài viết: Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Chúa và có Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại và không ngừng trổ sinh hoa trái (Jer. 17,7-8). Lạy Chúa, trong những ngày chay thánh này, xin cho chúng con được đón nhận Chúa vào lòng chúng con và xin Chúa trở nên gia nghiệp đời chúng con. Xin Cho nguồn ân sủng tràn đổ trong tâm hồn chúng con để chúng con được no say tình Chúa.
Chúa Giêsu đã vào hoang địa 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và kết hợp với Chúa Cha (Lc. 4,1). Chúa vào hoang địa tịnh tâm để chuẩn bị sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Noi gương Chúa Giêsu, hằng năm Giáo Hội cho chúng ta 40 ngày chay thánh để tìm về chính nguồn cuộc sống. Thời gian dài đủ để mỗi người có cơ hội cầu nguyện, ăn chay, làm việc bác ái và ăn năn hối cải. Cấm phòng là một thời gian tĩnh lặng trở về với Chúa và với lòng mình.
Cấm phòng còn gọi là tĩnh tâm. Tĩnh tâm cần có bầu khí thanh thoát và yên tịnh. Tĩnh tâm mà xô bồ, xôi động lại làm chúng ta trở thành động tâm. Tôi còn nhớ ngay khi còn ở Tiểu Chủng Viện, mỗi năm có ba ngày cấm phòng cho các chú. Những ngày cấm phòng không phải đi học, nhưng được nghe rất nhiều bài giảng, bài huấn đức và phải giữ im lặng. Im lặng ngay cả trong giờ ăn. Bầu khí xem ra lắng đọng và thánh thiện. Thật ra khi còn trẻ, tôi cũng không hiểu và ý thức nhiều về mục đích của những buổi cấm phòng. Suốt trong những ngày phòng, lúc nào cũng bút mực ghi ghi, chép chép các lời vàng ngọc của cha giảng phòng vào cuốn sổ tay, sau đó cất đi và chẳng mấy khi ngó lại.
Các cuộc cấm phòng nói chung bao gồm những buổi nghe giảng, thuyết trình, chia sẻ và cầu nguyện. Các vị giảng thuyết phải dọn bài để có một số kiến thức suy niệm, hướng dẫn sống đạo và áp dụng hành đạo. Nội dung của các bài giảng và thuyết trình thì rất dồi dào ý tưởng thâm sâu và có ý nghĩa. Những tư tưởng đạo đức này sẽ giúp ích cho mọi người tự phản ảnh và tự kiểm đời mình. Nhưng rồi việc tĩnh tâm và cấm phòng dần dần đi vào cách thức sinh hoạt, hội họp và học hỏi rộng rãi hơn, nên mọi người ít có cơ hội tĩnh lặng bên Chúa thật sự. Tĩnh tâm không phải chỉ đi tìm những sự hiểu biết, cảm xúc hay cảm giác nhất thời mà là một cuộc đổi đời trở về. Là một sự đánh động tâm linh thật sự để trở về cùng Chúa là nguồn tình yêu.
Tôi đã được tham dự rất nhiều buổi cấm phòng. Có những cuộc cấm phòng hằng năm, hằng tháng và những cuộc cấm phòng đặc biệt vào các dịp thụ phong chịu chức. Vào phòng rồi ra phòng, mỗi lần cấm phòng là mỗi lần hâm nóng lại đời sống tâm linh. Gợi nhớ lại những hồng ân Chúa đã trao ban trong cuộc sống và xét mình qua những hoa trái đã sinh lợi, rồi làm một quyết tâm nào đó cho tương lai. Có nhiều cuộc cấm phòng đã qua đi mà chẳng thu lợi được chi. Những giờ cầu nguyện và tham dự phụng vụ có lóe sáng nhưng rồi vụt tắt. Vì có thể chúng ta đã không có một quyết tâm cụ thể nào. Đôi khi chỉ làm một quyết định mơ hồ, ôm đồm nhiều qúa và cũng có thể vì không muốn thay đổi. Sau những ngày phòng, chúng ta trở lại cuộc sống đời thường và mọi sự đâu lại vào đó. Tính nào vẫn tật đó.
Nếu đi cấm phòng chỉ để nghe giảng hay chỉ để học hỏi thêm kiến thức, thì sự cấm phòng mất dần ý nghĩa thiết yếu. Việc quan trọng nhất là đi vào nội tâm và kết hợp với Chúa. Cấm phòng là một cuộc đi nghỉ ở lại bên Chúa. Cần có nhiều phút giây tĩnh lặng và cầu nguyện. Cấm phòng không phải lấp đầy thời gian bằng công việc này hay sinh hoạt kia. Cấm phòng không phải chỉ là bận rộn trong thụ động, mà là phải vận động tâm trí trở về với Chúa và với mình. Đi tận sâu vào tâm can mình để lắng nghe cõi lòng.
Trong cuộc sống, đi đâu chúng ta cũng có thể đi. Đôi khi chúng ta cũng chẳng quản ngại đường xá xa xôi, tiền bạc, công sức và thời gian. Chúng ta cảm thấy vui và phấn khởi khi đi được nhiều nơi và biết thêm nhiều thứ. Chính tôi cũng cảm thấy hình như hướng ngoại thì dễ hơn là hướng nội. Đi vào nội tâm của mình để xét mình thì rất ngại và khó khăn. Có rất nhiều người khi xét mình xưng tội, họ cũng không thể nhớ là đã xưng tội được bao lâu rồi. Nhìn lại mình nó sâu thẳm làm sao. Thật là ngại ngùng khi phải tự vấn lương tâm. Ngồi xét tội và lỗi lầm của người khác thì dễ dàng và dễ chịu hơn nhiều. Tội của mình thì chất đống, mắt bị che mờ và lương tâm cùn nhụt. Chúng ta chẳng muốn nhìn đến cái xấu xa của mình nữa. Chúng ta cứ lấp lém đi cho xong. Đã bao lần chúng ta đi cấm phòng nhưng cuộc sống của chúng ta vẫn thế, chẳng thay đổi được chi!
Điều quan trọng nhất trong việc tĩnh tâm là nhìn biết về chính mình. Biết mình đang sống ở nấc thang nào, để từ đó có thể đi lên hay đi xuống. Khi đời sống đạo đi xuống như bê tha, lười biếng, tội lỗi và thiếu sót bổn phận làm con Chúa. Chúng ta phải cố gắng sửa mình, tập tành nhân đức và hướng tới sự chân thiện. Khi sự hành đạo đang đi lên theo các khuynh hướng phô trương, vụ hình thức, khoe khoang và tự cao tự đại, khi đó chúng ta lại phải bước xuống trong khiêm hạ. Chúng ta nên nhìn vào tận thâm sâu của cách sống đạo và hành đạo. Những sinh hoạt bề ngoài xem ra thành công nhưng đời sống nội tâm đôi khi hời hợt. Chúng ta không nên đánh giá cuộc sống đạo chỉ dựa vào những mặt nổi bên ngoài.
Như xưa, sau một ngày các tông đồ bận rộn, vất vả và mỏi mệt, Chúa khuyên các ông hãy vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." (Mc.6,31). Ai cũng cần có sự nghỉ ngơi dưỡng sức và thư dãn tâm hồn. Trong Giáo Hội có nhiều phương thế giúp cho các tín hữu tìm về nguồn chân thiện. Có nhiều Giáo Xứ mở các Tuần Đại Phúc, Linh Thao và các cuộc cấm phòng kéo dài cả tuần. Nhiều người có cơ hội đi nghe giảng, có giờ cầu nguyện và có giờ suy gẫm và xét mình. Tĩnh tâm luôn là nhu cầu cần thiết cho tâm linh. Cấm phòng có nhiều hình thức. Có những cuộc cấm phòng dài một tháng liền. Có những cuộc cấm phòng một tuần hoặc ba ngày. Cúng có những buổi cấm phòng hay tĩnh tâm ngắn hạn, một buổi hay một vài giờ. Tùy theo hoàn cảnh môi trường và sinh hoạt của mỗi cộng đoàn.
Những sinh hoạt hội họp rất cần thiết về nhiều mặt trong cuộc sống. Hội họp để chia sẻ, góp ý và xây dựng cho nhau. Chúng ta không thể sống đơn côi hay độc hành trong đời sống đạo. Trong đời sống của Đạo Công Giáo, chúng ta rất may mắn có các Hội Đoàn và các Nhóm sinh hoạt. Các Hội Đoàn sống đức tin qua việc phục vụ và làm việc bác ái. Cùng sinh hoạt chung để nâng đỡ và khuyến khích nhau sống đạo tốt và nên trọn lành hơn. Chúng ta hãy quan sát hình ảnh một bếp lò cháy nóng bởi những cục than đỏ hỏn, nhắc nhở rằng mọi người hãy liên kết với nhau và cậy dựa bên nhau làm cho sức nóng tình yêu tỏa lan và sưởi ấm tâm hồn.
Tĩnh tâm hay cấm phòng đúng nghĩa là phải tịnh tâm và đi vào nơi thanh vắng để được kết hợp với Chúa. Chúa là nguồn sống và là niềm an vui cho tâm hồn. Chỉ khi nào chúng ta được an nghỉ trong Chúa, chúng ta mới hưởng nếm niềm vui đích thực. Thánh Augustinô đã miệt mài đi tìm kiếm Chúa khắp nơi qua sách vở, qua các học thuyết và qua kiến thức con người xã hội. Augustinô không thể thỏa mãn được cơn khát khao của tâm hồn. Cuối cùng ngài đã tìm gặp Chúa ngay trong tâm hồn mình. Ngài nói rằng Chúa ở trong con mà con lại đi ra ngoài tìm Chúa. Cho tới khi con tìm gặp được Chúa thì ra Chúa vẫn hiện diện đó trong trái tim con rồi. Thánh Augustinô cũng viết rằng lạy Chúa, trái tim của chúng con được dựng nên cho Chúa và chúng không thể nghỉ yên cho tới khi đươc an nghỉ trong Chúa.
Mỗi người đều mang hình ảnh của Chúa. Gặp gỡ anh chị em chung quanh là chúng ta đang gặp gỡ chính Chúa. Nhưng nếu chúng ta không có Chúa hiện diện trong tâm hồn, chúng ta khó có thể nhận biết Chúa nơi người khác. Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô. Có khi nào chúng ta mời Chúa đến cư ngụ trong tâm hồn của mình chưa? Chúng ta nghe Lời Chúa, rước Mình và Máu Thánh Chúa, nhưng nhiều khi chỉ làm như một thói quen. Chúng ta qúa quen với mầu nhiệm đức tin, nên nghĩ rằng đức tin không còn là mầu nhiệm nữa. Miệng lưỡi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh Chúa Kitô nhưng tâm trí của chúng ta còn mải mê mãi nơi nào. Chúa đến với chúng ta nhưng chúng ta lại mở cửa ra đi. Cho nên mãi mãi chúng ta chẳng gặp được Chúa.
Với sự hợp nhất của cộng đồng của Dân Chúa, khởi đầu mỗi thánh lễ, chủ tế chào chúc mọi người: Chúa ở cùng anh chị em. Chúa ở cùng chúng ta mỗi khi chúng ta tụ họp cầu nguyện. Chúa phán rằng: Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."(Mt. 18,20). Có Chúa hiện diện, chúng ta sẽ có sự bình an và niềm an vui. Sau khi sống lại từ cõi chết, mỗi lần Chúa hiện đến với các tông đồ, Chúa chúc lành cho các ông: Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em! "(Lk. 24,36).
Tiên tri Giêrêmia đã ngụp lặn trong niềm tin vào Thiên Chúa, ngài viết: Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Chúa và có Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại và không ngừng trổ sinh hoa trái (Jer. 17,7-8). Lạy Chúa, trong những ngày chay thánh này, xin cho chúng con được đón nhận Chúa vào lòng chúng con và xin Chúa trở nên gia nghiệp đời chúng con. Xin Cho nguồn ân sủng tràn đổ trong tâm hồn chúng con để chúng con được no say tình Chúa.
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (CN 3 MC A)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:46 25/03/2011
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY
Tin mừng : Ga 4, 15-19b-26.39a.40-42
“Mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay đã làm một việc mà trong thời Ngài người Do Thái chưa ai làm được, đó là tiếp xúc, trò chuyện thân tình với một người phụ nữ Sa-ma-ri, và quan trọng hơn, qua việc tiếp xúc này, đã có nhiều người Sa-ma-ri trong thành ấy tin vào Ngài.
Noi gương Chúa Giê-su trong việc đối thoại để đem Tin Mừng đến cho mọi người, tôi xin chia sẻ với anh chị em hai điểm sau đây :
1. Đi trước một bước để bắt cầu.
Ai cũng biết người Do Thái và người Sa-ma-ri thì không hòa hợp với nhau, cho nên mới có chuyện tôi thờ lạy Thiên Chúa ở trên núi Ga-ra-zim, còn anh thì bái lạy Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem, từ chỗ khác biệt ấy và những khác biệt khác nữa, nên họ đã không cùng đi lại với nhau và trở thành đối địch nhau.
Chúa Giê-su đã đi trước một bước: Ngài chủ động trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri và xin bà ta nước uống, và thế là Chúa Giê-su đã phá tan tảng băng đóng kín giữa hai người, giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri, hơn thế nữa, chính Ngài đã mặc khải cho người phụ nữ biết Ngài chính là Đấng Mes-si-a, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo, chính Ngài đã đi trước một bước để bắt cầu cảm thông giữa những tâm hồn có thành kiến với nhau.
Chung quanh chúng ta có những tình cảm bị đóng băng vì thiếu đi sự khiêm tốn của chúng ta, chỉ cần một lời thăm hỏi chân tình khi gặp mặt, là chúng ta có thể làm cho tảng băng ấy tan rã và tạo được tình thân; chỉ cần một thái độ ân cần là chúng ta có thể bắt được chiếc cầu hữu nghị giữa chúng ta với người hàng xóm bên cạnh nhà, không cùng tín ngưỡng với chúng ta. Đó là bí quyết truyền giáo của Chúa Giê-su khi Ngài trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri...
2. Quên mình để tha nhân thấy được Thiên Chúa .
Chúa Giê-su khi trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri đã không chỉ trích bà là người ngoại đạo, đã không nói bà là người lăng loàn trắc nết đã có bảy đời chồng, dù Ngài biết rất rõ, Ngài cũng không nói dân thành Sa-ma-ri kém lòng tin vào Ngài. Nhưng chính Chúa Giê-su đã quên mình đi để cho người phụ nữ Sa-ma-ri được cảm thấy gần gủi hơn, để dễ dàng bày tỏ tâm tình của mình hơn, và như thế, chính Ngài đã làm cho bà và dân thành Sa-ma-ri nhận ra Ngài là ai, và tin vào Ngài.
Quên mình đi để người khác tìm thấy Thiên Chúa qua mình, không những là thái độ của người khiêm tốn mà còn là hành vi của người truyền giáo, bởi vì khi chúng ta quên đi chức vụ, thân phận, học vấn của mình, thì chúng ta dễ dàng đối thoại với tha nhân hơn.
Có nhiều người thích tự giới thiệu về mình cách khoe khoang khi đối diện chuyện trò với người khác, nên người ta không tìm được Thiên Chúa trong họ; lại có nhiều người trong chúng ta thích chỉ trích người khác hơn là nói lời khuyến khích, và thích nói những khuyết điểm của người khác ra hơn là cầu nguyện cho họ, nên người khác chưa nhận ra được Thiên Chúa đang hiện diện trong vũ trụ và trên con người chúng ta...
Anh chị em thân mến,
Chỉ cần noi gương Chúa Giê-su đi trước một bước với thái độ chân thành, là chúng ta đã phá bỏ bức tường thành kiến ngăn cách giữa chúng ta với người khác; chỉ cần chúng ta đưa tay ra trước là chúng ta đã nắm được bàn tay của người bên cạnh, và làm cho cách nhìn lâu nay của họ đối với chúng ta thay đổi, cách nhìn ấy của họ chính là họ vẫn cho chúng ta là những Ki-tô hữu giả hình, vì chúng ta không sống như lời của Chúa Giê-su dạy.
Mỗi ngày, bất cứ nơi đâu, chúng ta cũng đều có thể đi trước một bước để hàn gắn những vết thương lòng giữa người với người, có khi vì hiểu lầm. Đó chính là Chúa Giê-su –qua những việc làm tốt lành của chúng ta- đã mặc khải Ngài cho mọi người biết Ngài là Đấng Mes-si-a mà mọi người trông đợi, và đó cũng là tinh thần truyền giáo của Chúa Giê-su ngày xưa và của chúng ta ngày hôm nay vậy !
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
---------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin mừng : Ga 4, 15-19b-26.39a.40-42
“Mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay đã làm một việc mà trong thời Ngài người Do Thái chưa ai làm được, đó là tiếp xúc, trò chuyện thân tình với một người phụ nữ Sa-ma-ri, và quan trọng hơn, qua việc tiếp xúc này, đã có nhiều người Sa-ma-ri trong thành ấy tin vào Ngài.
Noi gương Chúa Giê-su trong việc đối thoại để đem Tin Mừng đến cho mọi người, tôi xin chia sẻ với anh chị em hai điểm sau đây :
1. Đi trước một bước để bắt cầu.
Ai cũng biết người Do Thái và người Sa-ma-ri thì không hòa hợp với nhau, cho nên mới có chuyện tôi thờ lạy Thiên Chúa ở trên núi Ga-ra-zim, còn anh thì bái lạy Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem, từ chỗ khác biệt ấy và những khác biệt khác nữa, nên họ đã không cùng đi lại với nhau và trở thành đối địch nhau.
Chúa Giê-su đã đi trước một bước: Ngài chủ động trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri và xin bà ta nước uống, và thế là Chúa Giê-su đã phá tan tảng băng đóng kín giữa hai người, giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri, hơn thế nữa, chính Ngài đã mặc khải cho người phụ nữ biết Ngài chính là Đấng Mes-si-a, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo, chính Ngài đã đi trước một bước để bắt cầu cảm thông giữa những tâm hồn có thành kiến với nhau.
Chung quanh chúng ta có những tình cảm bị đóng băng vì thiếu đi sự khiêm tốn của chúng ta, chỉ cần một lời thăm hỏi chân tình khi gặp mặt, là chúng ta có thể làm cho tảng băng ấy tan rã và tạo được tình thân; chỉ cần một thái độ ân cần là chúng ta có thể bắt được chiếc cầu hữu nghị giữa chúng ta với người hàng xóm bên cạnh nhà, không cùng tín ngưỡng với chúng ta. Đó là bí quyết truyền giáo của Chúa Giê-su khi Ngài trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri...
2. Quên mình để tha nhân thấy được Thiên Chúa .
Chúa Giê-su khi trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri đã không chỉ trích bà là người ngoại đạo, đã không nói bà là người lăng loàn trắc nết đã có bảy đời chồng, dù Ngài biết rất rõ, Ngài cũng không nói dân thành Sa-ma-ri kém lòng tin vào Ngài. Nhưng chính Chúa Giê-su đã quên mình đi để cho người phụ nữ Sa-ma-ri được cảm thấy gần gủi hơn, để dễ dàng bày tỏ tâm tình của mình hơn, và như thế, chính Ngài đã làm cho bà và dân thành Sa-ma-ri nhận ra Ngài là ai, và tin vào Ngài.
Quên mình đi để người khác tìm thấy Thiên Chúa qua mình, không những là thái độ của người khiêm tốn mà còn là hành vi của người truyền giáo, bởi vì khi chúng ta quên đi chức vụ, thân phận, học vấn của mình, thì chúng ta dễ dàng đối thoại với tha nhân hơn.
Có nhiều người thích tự giới thiệu về mình cách khoe khoang khi đối diện chuyện trò với người khác, nên người ta không tìm được Thiên Chúa trong họ; lại có nhiều người trong chúng ta thích chỉ trích người khác hơn là nói lời khuyến khích, và thích nói những khuyết điểm của người khác ra hơn là cầu nguyện cho họ, nên người khác chưa nhận ra được Thiên Chúa đang hiện diện trong vũ trụ và trên con người chúng ta...
Anh chị em thân mến,
Chỉ cần noi gương Chúa Giê-su đi trước một bước với thái độ chân thành, là chúng ta đã phá bỏ bức tường thành kiến ngăn cách giữa chúng ta với người khác; chỉ cần chúng ta đưa tay ra trước là chúng ta đã nắm được bàn tay của người bên cạnh, và làm cho cách nhìn lâu nay của họ đối với chúng ta thay đổi, cách nhìn ấy của họ chính là họ vẫn cho chúng ta là những Ki-tô hữu giả hình, vì chúng ta không sống như lời của Chúa Giê-su dạy.
Mỗi ngày, bất cứ nơi đâu, chúng ta cũng đều có thể đi trước một bước để hàn gắn những vết thương lòng giữa người với người, có khi vì hiểu lầm. Đó chính là Chúa Giê-su –qua những việc làm tốt lành của chúng ta- đã mặc khải Ngài cho mọi người biết Ngài là Đấng Mes-si-a mà mọi người trông đợi, và đó cũng là tinh thần truyền giáo của Chúa Giê-su ngày xưa và của chúng ta ngày hôm nay vậy !
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
---------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:48 25/03/2011
![]() |
| N2T |
16. Nguyên do thương tâm khổ não chính là tội lỗi của chúng ta và những thói xấu của chúng ta.
(sách Gương Chúa Giê-su)Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:49 25/03/2011
![]() |
| N2T |
15. Nguyên do thương tâm khổ não chính là tội lỗi của chúng ta và những thói xấu của chúng ta.
(sách Gương Chúa Giê-su)Mỗi tuần một ''Chuyện Rất Ngắn''
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:51 25/03/2011
QUYỀN HÀNH
Mỗi lần cha về thăm quê, bà con giáo dân gặp cha vui mừng và hỏi: “Sao cha không đến nhà thờ làm lễ ?” cha chỉ cười.
Cha về thăm quê, nhưng chưa bao giờ cha sở mời cha dâng một thánh lễ ở nhà thờ để cầu nguyện cho bà con trong giáo xứ. Cha chỉ cười, vì cha biết cha sở của mình không dám làm gì cả, vì quyền hành cha sở đã giao cho một người đàn bà.
Cha chỉ cười và cầu nguyện cho bà con trong giáo xứ.
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi lần cha về thăm quê, bà con giáo dân gặp cha vui mừng và hỏi: “Sao cha không đến nhà thờ làm lễ ?” cha chỉ cười.
Cha về thăm quê, nhưng chưa bao giờ cha sở mời cha dâng một thánh lễ ở nhà thờ để cầu nguyện cho bà con trong giáo xứ. Cha chỉ cười, vì cha biết cha sở của mình không dám làm gì cả, vì quyền hành cha sở đã giao cho một người đàn bà.
Cha chỉ cười và cầu nguyện cho bà con trong giáo xứ.
-------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Chiêm niệm
Jos. Tú Nạc, NMS
22:21 25/03/2011
Chiêm ngắm và suy niệm
sợ rằng con sa vào quyến rũ
Chiêm ngắm và suy niệm
trong kết tình bè bạn với Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
khi Ta vật lộn với tự nguyện chân thành
Chiêm ngắm và suy niệm
Khi Ta sẵn sàng sự đau đớn trong Ta.
Chiêm ngắm và suy niệm
khi Ta nhận đây chén khổ đau
Chiêm ngắm và suy niệm
Đấng Quyền Năng đứng canh bên Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
khi những ai đến bắt giữ Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
vì máu Ta sẽ đổ xuống đất này.
Chiêm ngắm và suy niệm
ghi nhớ mãi một giao ước mới
Chiêm ngắm và suy niệm
hãy yêu nhau như Ta đã yêu con
Chiêm ngắm và suy niệm
tấm bánh bẻ ra, rượu đã rót đầy
Chiêm ngắm và suy niệm
hãy làm việc này, trong ký ức của Ta.
Chiêm ngắm và suy niệm
chiến trận đang bắt đầu
Chiêm ngắm và suy niệm
vinh quang – điều quả quyết
Chiêm ngắm và suy niệm
nạn nhân – người chiến thắng
Chiêm ngắm và suy niệm
có sự sống triền miên.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo hội cần các tông đồ can đảm để chiến đấu chống sự thờ ơ về tôn giáo
Bùi Hữu Thư
06:01 25/03/2011
Vatican, 23, tháng Ba, 2011 (CNA/EWTN News).- Thứ Tư vừa qua, Đức Thánh Cha Benedict nói trong buổi triều kiến chung là thế giới văn minh cần có các môn đệ “hăng say” cuả Chúa Kitô để chiến đấu chống sự thờ ơ về tôn giáo bằng “ánh sáng và sự huy hoàng” của Phúc Âm.
Đức Thánh Cha dâng hiến bài giảng ngày 23 tháng Ba tại Vatican cho Thánh Lawrence thành Brindisi, sanh tại Ý năm 1559 và được tuyên dương là một trong các Tiến Sĩ của Hội Thánh vì khả năng chuyên biệt của ngài về việc giảng dậy học thuyết và Kinh Thánh.
Đức Thánh Cha ghi nhận: Thánh Lawrence nổi tiếng vì những giải thích “rõ rang, nhẹ nhàng” của ngài về đức tin Kitô giáo cho những người sống trong nền văn hóa thời đại ngài, đặc biệt là những người đã rời bỏ Giáo Hội sau vụ Cải Cách.
Ngài nói: “Ngay cả ngày nay, tân Phúc Âm hoá cần những tông đồ được huấn luyện kỹ lưỡng, hăng say và can đảm, để cho ánh sáng và sự huy hoàng của Kinh Thánh có thể vượt thắng các khuynh hướng văn hóa về thuyết đạo đức tương đối và sự thờ ơ về tôn giáo.” Nỗ lực này sẽ giúp biến đổi các cách thức người ta nghĩ về đời sống và giúp họ hành động với một “đức tính nhân bản Kitô giáo.”
Thánh Lawrence, mất cha năm bẩy tuổi, được mẹ gửi cho các cha Dòng Phanxicô nuôi dưỡng. Sau đó ngài gia nhập Dòng Capuchin và được thụ phong linh mục năm 1582.
Đức Thánh Cha giải thích: Vị Thánh có kiến thức sâu rộng về các ngôn ngữ cổ và tân, giúp ngài “hoạt động tông đồ ráo riết giữa nhiều nhóm dân tộc khác nhau.”
Ngài cũng là một nhà giảng thuyết có hiệu quả, rất thông thạo Kinh Thánh và văn chương Do Thái khiến cho “chính các thầy rabbi Do Thái cũng phải ngạc nhiên, thán phục và kính nể.”
Đức Thánh Cha nói: “Những thành công của Thánh Lawrence giúp chúng ta hiểu là ngay cả ngày nay, trong khi hành trình đối thoại liên tôn đang có nhiều triển vọng, việc nhắc đến Kinh Thánh, đọc theo truyền thống của Giáo Hội, là một yếu tố thiết yếu có tầm quan trọng căn bản.”
Ngài tiếp: ngay cả những “thành phần thấp kém nhất trong các tín hữu” cũng được hưởng ích lợi “nhờ những lời thuyết phục của Thánh Lawrence, là người nói với những kẻ khiêm nhường để kêu gọi tất cả mọi người sống một đời thích nghi với đức tin họ tuyên xưng.”
Sau đó Đức Thánh Cha ghi nhận một sắc thái đặc biệt của đời sống Thánh Lawrence, đó là hoạt động kiên trì không biết mệt của ngài để cổ võ cho sự hòa bình về chính trị và tôn giáo.
Ngài nói: Các Giáo Hoàng và các hoàng gia người Công Giáo “liên tiếp trao phó cho ngài những trách vụ ngoại giao quan trọng để giải quyết các mâu thuẫn và trợ giúp cho có sự hòa điệu giữa các quốc gia Ậu Châu, lúc đó đang bị Đế Quốc Ottoman đe dọa.”
Đức Thánh Cha Benedict nói: “Ngày nay cũng như trong thời đại của Thánh Lawrence, thế giới hết sức cần có hòa bình, cần có những người nam và nữ yêu chuộng hòa bình và xây dựng hòa bình. Tất cả những ai tin vào Thiên Chúa phải luôn luôn là nguồn suối cho hòa bình và phải hoạt động cho hòa bình.”
Chân Phước Gioan XXIII phong thánh cho Thánh Lawrence năm 1881, và tuyên xưng ngài là một Tiến Sĩ của Hội Thánh năm 1959. Đức Gioan XXIII không những chỉ công nhận sự lành thánh của cá nhân Thánh Lawrence, mà còn ghi nhận biết bao nhiêu đóng góp của ngài vào môn học Kinh Thánh.
Đức Thánh Cha Benedict nói: “Thánh Lawrence thành Brindisi dậy chúng ta yêu mến Kinh Thánh, và phải ngày càng gia tăng sự quen thuộc với Kinh Thánh, hàng ngày phải trau dồi mối tương quan với Chúa Kitô qua việc cầu nguyện, để cho trong mọi hành động, mọi sinh hoạt họ đều tìm được sự khởi đầu và hoàn tất nơi Người.”
Đức Thánh Cha dâng hiến bài giảng ngày 23 tháng Ba tại Vatican cho Thánh Lawrence thành Brindisi, sanh tại Ý năm 1559 và được tuyên dương là một trong các Tiến Sĩ của Hội Thánh vì khả năng chuyên biệt của ngài về việc giảng dậy học thuyết và Kinh Thánh.
Đức Thánh Cha ghi nhận: Thánh Lawrence nổi tiếng vì những giải thích “rõ rang, nhẹ nhàng” của ngài về đức tin Kitô giáo cho những người sống trong nền văn hóa thời đại ngài, đặc biệt là những người đã rời bỏ Giáo Hội sau vụ Cải Cách.
Ngài nói: “Ngay cả ngày nay, tân Phúc Âm hoá cần những tông đồ được huấn luyện kỹ lưỡng, hăng say và can đảm, để cho ánh sáng và sự huy hoàng của Kinh Thánh có thể vượt thắng các khuynh hướng văn hóa về thuyết đạo đức tương đối và sự thờ ơ về tôn giáo.” Nỗ lực này sẽ giúp biến đổi các cách thức người ta nghĩ về đời sống và giúp họ hành động với một “đức tính nhân bản Kitô giáo.”
Thánh Lawrence, mất cha năm bẩy tuổi, được mẹ gửi cho các cha Dòng Phanxicô nuôi dưỡng. Sau đó ngài gia nhập Dòng Capuchin và được thụ phong linh mục năm 1582.
Đức Thánh Cha giải thích: Vị Thánh có kiến thức sâu rộng về các ngôn ngữ cổ và tân, giúp ngài “hoạt động tông đồ ráo riết giữa nhiều nhóm dân tộc khác nhau.”
Ngài cũng là một nhà giảng thuyết có hiệu quả, rất thông thạo Kinh Thánh và văn chương Do Thái khiến cho “chính các thầy rabbi Do Thái cũng phải ngạc nhiên, thán phục và kính nể.”
Đức Thánh Cha nói: “Những thành công của Thánh Lawrence giúp chúng ta hiểu là ngay cả ngày nay, trong khi hành trình đối thoại liên tôn đang có nhiều triển vọng, việc nhắc đến Kinh Thánh, đọc theo truyền thống của Giáo Hội, là một yếu tố thiết yếu có tầm quan trọng căn bản.”
Ngài tiếp: ngay cả những “thành phần thấp kém nhất trong các tín hữu” cũng được hưởng ích lợi “nhờ những lời thuyết phục của Thánh Lawrence, là người nói với những kẻ khiêm nhường để kêu gọi tất cả mọi người sống một đời thích nghi với đức tin họ tuyên xưng.”
Sau đó Đức Thánh Cha ghi nhận một sắc thái đặc biệt của đời sống Thánh Lawrence, đó là hoạt động kiên trì không biết mệt của ngài để cổ võ cho sự hòa bình về chính trị và tôn giáo.
Ngài nói: Các Giáo Hoàng và các hoàng gia người Công Giáo “liên tiếp trao phó cho ngài những trách vụ ngoại giao quan trọng để giải quyết các mâu thuẫn và trợ giúp cho có sự hòa điệu giữa các quốc gia Ậu Châu, lúc đó đang bị Đế Quốc Ottoman đe dọa.”
Đức Thánh Cha Benedict nói: “Ngày nay cũng như trong thời đại của Thánh Lawrence, thế giới hết sức cần có hòa bình, cần có những người nam và nữ yêu chuộng hòa bình và xây dựng hòa bình. Tất cả những ai tin vào Thiên Chúa phải luôn luôn là nguồn suối cho hòa bình và phải hoạt động cho hòa bình.”
Chân Phước Gioan XXIII phong thánh cho Thánh Lawrence năm 1881, và tuyên xưng ngài là một Tiến Sĩ của Hội Thánh năm 1959. Đức Gioan XXIII không những chỉ công nhận sự lành thánh của cá nhân Thánh Lawrence, mà còn ghi nhận biết bao nhiêu đóng góp của ngài vào môn học Kinh Thánh.
Đức Thánh Cha Benedict nói: “Thánh Lawrence thành Brindisi dậy chúng ta yêu mến Kinh Thánh, và phải ngày càng gia tăng sự quen thuộc với Kinh Thánh, hàng ngày phải trau dồi mối tương quan với Chúa Kitô qua việc cầu nguyện, để cho trong mọi hành động, mọi sinh hoạt họ đều tìm được sự khởi đầu và hoàn tất nơi Người.”
Khai mạc diễn đàn đối thoại với người không tín ngưỡng
LM Trần Đức Anh OP
13:13 25/03/2011
PARIS. Chiều ngày 24-3-2011, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đã khai mạc Diễn đàn cấp cao đối thoại với người không tin.
Diễn đàn do Hội đồng Tòa Thánh đề xướng, gồm một loạt các sinh hoạt trong đó các nhà trí thức, triết gia, văn sĩ, thuộc nhiều vũ trụ quan, trao đổi với nhau. Các cuộc thảo luận chiều hôm 24-3 có chủ đề “Ánh sáng, tôn giáo, lý trí chung” (Lumières, religions, raison comunne), diễn ra tại trụ sở tổ chức Unesco của LHQ ở Paris. Bà Irina Bokova, Tổng Giám đốc tổ chức quốc tế này, đã cùng với ĐHY Ravasi, chào mừng các tham dự viên.
Trong số những người hiện diện đặc biệt có Ông Giuliano Amato, cựu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Jean Vanier, người Canada, sáng lập Cộng đoàn Arche (Con Tàu Noe), triết gia kiêm văn sĩ Pháp Fabrice Hadjadj, ông đại sứ Tiệp tại Pháp và bà đại sứ Maroc cạnh Unesco, cùng nhiều nhân vật khác thuộc đại học Sorbonne, triết gia và phân tâm học, nói về quan hệ giữa chủ thuyết soi sáng và tín ngưỡng.
Trong lời khai mạc, ĐHY Ravasi đề cao tầm quan trọng của công cuộc tìm kiếm, nghiên cứu, như Platon đã viết trong cuốn Biện hộ của Socrote “Một cuộc sống mà không có sự tìm kiếm thì không đáng sống”. Trong chiều hướng đó, từ “tín hữu” (croyant) không chỉ người tin một lần cho tất cả, nhưng là người không ngừng canh tân sự tin tưởng của mình. ĐHY Ravasi kể lại: “Cách đây nhiều năm, tôi được dịp gặp một đại nhân vật đặc biệt của nền văn hóa Pháp, Julien Green, và khi tôi hỏi ông đâu là điều giúp bảo tồn đức tin của ông, ông đã trả lời bằng một câu nói theo tư tưởng của thánh Augustino: “Bao lâu ta cảm thấy bất an, thì bấy lâu ta có thể ở yên hàn”. Đó chính sự bất an sinh động và mạnh mẽ của sự tìm kiếm”.
ĐHY Ravasi cũng giải thích về từ “Tiền đường dân ngoại” (Cortile dei Gentili) được chọn để chỉ diễn đàn đối thoại giữa các tín hữu và những người không tín ngưỡng. Đó là một khu vực tượng trưng ở Jerusalem được chọn làm nơi đối chiếu giữa các tín hữu và những người không tin, cả hai đều ở trong tiến trình tìm kiếm.
Tại Học Viện Pháp Quốc (Institut de France) thứ sáu hôm nay 25-3, có cuộc thảo luận về luân lý đạo đức trong kinh tế, nền tảng luân lý đạo đức của luật pháp và quan hệ giữa tín ngưỡng và văn hóa. Trong số các nhân vật tham dự, có Ông Giulio Tremonti, Bộ trưởng kinh tế và tài chánh của Italia, Đức cha Claude Dagens, GM giáo phận Angoulême ở Pháp..
Ngoài ra, tại Trung tâm văn hóa 'Học viện Bernardins' của Tổng giáo phận Paris, có diễn đàn thảo luận kết thúc.
Theo ban tổ chức, mục đích các sinh hoạt trên đây là tạo cơ hội cho một cuộc đối thoại mới giữa thế giới tín ngưỡng và giới trí thức. Trong thời kỳ của chủ thuyết vô thần cho đến thập niên 1970, người ta xây dựng một kiểu mẫu phản Kitô giáo, các thế hệ trẻ thường tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo.
Ngoài các sinh hoạt trí thức cấp cao trên đây, có một sinh hoạt mở rộng đặc biệt cho giới trẻ và diễn ra tại tiền đường Nhà Thờ chính tòa Đức Bà Paris. Sinh hoạt này có mầu sắc lễ hội với sự tham dự của khoảng 10 ngàn người, tín hữu và người không tín ngưỡng.
ĐTC Biển Đức 16 cũng gửi một sứ điệp Video cho Diễn đàn đối thoại với người không tín ngưỡng (SD 24-3-2011)
Diễn đàn do Hội đồng Tòa Thánh đề xướng, gồm một loạt các sinh hoạt trong đó các nhà trí thức, triết gia, văn sĩ, thuộc nhiều vũ trụ quan, trao đổi với nhau. Các cuộc thảo luận chiều hôm 24-3 có chủ đề “Ánh sáng, tôn giáo, lý trí chung” (Lumières, religions, raison comunne), diễn ra tại trụ sở tổ chức Unesco của LHQ ở Paris. Bà Irina Bokova, Tổng Giám đốc tổ chức quốc tế này, đã cùng với ĐHY Ravasi, chào mừng các tham dự viên.
Trong số những người hiện diện đặc biệt có Ông Giuliano Amato, cựu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Jean Vanier, người Canada, sáng lập Cộng đoàn Arche (Con Tàu Noe), triết gia kiêm văn sĩ Pháp Fabrice Hadjadj, ông đại sứ Tiệp tại Pháp và bà đại sứ Maroc cạnh Unesco, cùng nhiều nhân vật khác thuộc đại học Sorbonne, triết gia và phân tâm học, nói về quan hệ giữa chủ thuyết soi sáng và tín ngưỡng.
Trong lời khai mạc, ĐHY Ravasi đề cao tầm quan trọng của công cuộc tìm kiếm, nghiên cứu, như Platon đã viết trong cuốn Biện hộ của Socrote “Một cuộc sống mà không có sự tìm kiếm thì không đáng sống”. Trong chiều hướng đó, từ “tín hữu” (croyant) không chỉ người tin một lần cho tất cả, nhưng là người không ngừng canh tân sự tin tưởng của mình. ĐHY Ravasi kể lại: “Cách đây nhiều năm, tôi được dịp gặp một đại nhân vật đặc biệt của nền văn hóa Pháp, Julien Green, và khi tôi hỏi ông đâu là điều giúp bảo tồn đức tin của ông, ông đã trả lời bằng một câu nói theo tư tưởng của thánh Augustino: “Bao lâu ta cảm thấy bất an, thì bấy lâu ta có thể ở yên hàn”. Đó chính sự bất an sinh động và mạnh mẽ của sự tìm kiếm”.
ĐHY Ravasi cũng giải thích về từ “Tiền đường dân ngoại” (Cortile dei Gentili) được chọn để chỉ diễn đàn đối thoại giữa các tín hữu và những người không tín ngưỡng. Đó là một khu vực tượng trưng ở Jerusalem được chọn làm nơi đối chiếu giữa các tín hữu và những người không tin, cả hai đều ở trong tiến trình tìm kiếm.
Tại Học Viện Pháp Quốc (Institut de France) thứ sáu hôm nay 25-3, có cuộc thảo luận về luân lý đạo đức trong kinh tế, nền tảng luân lý đạo đức của luật pháp và quan hệ giữa tín ngưỡng và văn hóa. Trong số các nhân vật tham dự, có Ông Giulio Tremonti, Bộ trưởng kinh tế và tài chánh của Italia, Đức cha Claude Dagens, GM giáo phận Angoulême ở Pháp..
Ngoài ra, tại Trung tâm văn hóa 'Học viện Bernardins' của Tổng giáo phận Paris, có diễn đàn thảo luận kết thúc.
Theo ban tổ chức, mục đích các sinh hoạt trên đây là tạo cơ hội cho một cuộc đối thoại mới giữa thế giới tín ngưỡng và giới trí thức. Trong thời kỳ của chủ thuyết vô thần cho đến thập niên 1970, người ta xây dựng một kiểu mẫu phản Kitô giáo, các thế hệ trẻ thường tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo.
Ngoài các sinh hoạt trí thức cấp cao trên đây, có một sinh hoạt mở rộng đặc biệt cho giới trẻ và diễn ra tại tiền đường Nhà Thờ chính tòa Đức Bà Paris. Sinh hoạt này có mầu sắc lễ hội với sự tham dự của khoảng 10 ngàn người, tín hữu và người không tín ngưỡng.
ĐTC Biển Đức 16 cũng gửi một sứ điệp Video cho Diễn đàn đối thoại với người không tín ngưỡng (SD 24-3-2011)
Đức Thánh Cha đề cao giá trị sư phạm của Bí tích Giải Tội
LM Trần Đức Anh OP
18:15 25/03/2011
VATICAN.- Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 25-3-2011 dành cho 800 tham dự viên khóa học về bí tích giải tội, ĐTC đặc biệt đề cao giá trị sư phạm của bí tích này đối với các cha giải tội cũng như các hối nhân.
Khóa học do Tòa Ân Giải tối cao tổ chức kéo dài 3 tuần tại trụ ở của tòa này ở Roma, từ ngày 21-3 đến 11-4 tới đây, dành cho các LM mới chịu chức, để giúp các vị cử hành bí tích giải tội đúng đắn và giải quyết những trường hợp phức tạp hoặc tế nhị liên quan đến việc cử hành bí tích này. Ngoài ra, các chủng sinh và tu sinh chuẩn bị thụ phong linh mục cũng được tham dự.
Hiện diện tại buổi tiếp kiến, còn có ĐHY Fortunato Baldelli, Chánh tòa Ân Giải tối cao, các chức sắc của tòa này và các vị trong ban giảng huấn.
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói đến những điều mà cha giải tội có thể học hỏi được khi ban bí tích giải tội: vị LM có thể chứng kiến những phép lạ đích thực về sự hoán cải, cảm nhận và chiêm ngắm lòng từ bi của Thiên Chúa. Việc nhận biết chiều sâu của tâm hồn, kể cả những khía cạnh đen tối, có thể là một thử thách đối với đức tin của chính LM, nhưng đàng khác cũng có thể nuôi dưỡng nơi LM xác tín theo đó lời nói cuối cùng trên sự ác của con người và của lịch sử chính là lời của Thiên Chúa, chính lòng từ bi của Chúa có thể đổi mới mọi sự.
Ngoài ra, cha giải tội có thể học được nơi các hối nhân gương mẫu về đời sống thiêng liêng của họ, sự xét mình nghiêm túc, sự minh bạch trong việc nhận lỗi và ngoan ngoãn đối với giáo huấn của Giáo Hội, cũng như những chỉ dẫn của cha giải tội. ĐTC nhấn mạnh rằng: “Qua việc giải tội, chúng ta có thể nhận được những bài học sâu xa về lòng khiêm ngường và đức tin. Đó là một lời nhắc nhở mạnh mẽ cho mỗi linh mục hãy ý thức căn tính của mình”.
Về giá trị sư phạm của bí tích giải tội đối với hối nhân, ĐTC đề cao giá trị của sự xét mình: “việc làm này giúp hối nhân chân thành cứu xét cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Phúc Âm và đánh giá nó theo các tiêu chuẩn con người, nhưng nhất là theo các tiêu chuẩn của Mạc Khải. Sự đối chiếu cuộc sống với các giới răn, các mối phúc thật và nhất là với giới luật yêu thương, chính là một trường học lớn của bí tích giải tội.”
ĐTC nói thêm rằng “Trong thời đại ồn ào ngày nay, với sự chia trí và cô đơn, cuộc nói chuyện của hối nhân với cha giải tội cũng có thể là một trong những cơ hội, nếu không muốn nói là cơ hội duy nhất, để được thực sự lắng nghe trong chiều sâu. Các LM thân mến, anh em đừng lơ là trong việc dành thời giờ cho việc ban bí tích giải tội: sự kiện được lắng nghe và đón nhận, chính là một dấu chỉ về sự đón nhận và về lòng từ nhân của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài. Tiếp đến sự xưng thú trọn vẹn các tội lỗi cũng dạy hối nhân về sự khiêm tốn, nhìn nhận sự mong manh yếu đuối của mình, và đồng thời ý thức về sự cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, tín thác rằng Ơn thánh của Chúa có thể biến cải cuộc sống. Ngoài ra việc lắng nghe những lời nhắn nhủ và lời khuyên bảo của cha giải tội là điều quan trọng giúp hối nhân phán đoán về hành vi của họ, để tiến bước trên đường thiêng liêng và được chữa lành trong nội tâm. Chúng ta đừng quên rằng bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu trong một tòa giải tội!” (SD 25-3-2011)
Khóa học do Tòa Ân Giải tối cao tổ chức kéo dài 3 tuần tại trụ ở của tòa này ở Roma, từ ngày 21-3 đến 11-4 tới đây, dành cho các LM mới chịu chức, để giúp các vị cử hành bí tích giải tội đúng đắn và giải quyết những trường hợp phức tạp hoặc tế nhị liên quan đến việc cử hành bí tích này. Ngoài ra, các chủng sinh và tu sinh chuẩn bị thụ phong linh mục cũng được tham dự.
Hiện diện tại buổi tiếp kiến, còn có ĐHY Fortunato Baldelli, Chánh tòa Ân Giải tối cao, các chức sắc của tòa này và các vị trong ban giảng huấn.
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói đến những điều mà cha giải tội có thể học hỏi được khi ban bí tích giải tội: vị LM có thể chứng kiến những phép lạ đích thực về sự hoán cải, cảm nhận và chiêm ngắm lòng từ bi của Thiên Chúa. Việc nhận biết chiều sâu của tâm hồn, kể cả những khía cạnh đen tối, có thể là một thử thách đối với đức tin của chính LM, nhưng đàng khác cũng có thể nuôi dưỡng nơi LM xác tín theo đó lời nói cuối cùng trên sự ác của con người và của lịch sử chính là lời của Thiên Chúa, chính lòng từ bi của Chúa có thể đổi mới mọi sự.
Ngoài ra, cha giải tội có thể học được nơi các hối nhân gương mẫu về đời sống thiêng liêng của họ, sự xét mình nghiêm túc, sự minh bạch trong việc nhận lỗi và ngoan ngoãn đối với giáo huấn của Giáo Hội, cũng như những chỉ dẫn của cha giải tội. ĐTC nhấn mạnh rằng: “Qua việc giải tội, chúng ta có thể nhận được những bài học sâu xa về lòng khiêm ngường và đức tin. Đó là một lời nhắc nhở mạnh mẽ cho mỗi linh mục hãy ý thức căn tính của mình”.
Về giá trị sư phạm của bí tích giải tội đối với hối nhân, ĐTC đề cao giá trị của sự xét mình: “việc làm này giúp hối nhân chân thành cứu xét cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Phúc Âm và đánh giá nó theo các tiêu chuẩn con người, nhưng nhất là theo các tiêu chuẩn của Mạc Khải. Sự đối chiếu cuộc sống với các giới răn, các mối phúc thật và nhất là với giới luật yêu thương, chính là một trường học lớn của bí tích giải tội.”
ĐTC nói thêm rằng “Trong thời đại ồn ào ngày nay, với sự chia trí và cô đơn, cuộc nói chuyện của hối nhân với cha giải tội cũng có thể là một trong những cơ hội, nếu không muốn nói là cơ hội duy nhất, để được thực sự lắng nghe trong chiều sâu. Các LM thân mến, anh em đừng lơ là trong việc dành thời giờ cho việc ban bí tích giải tội: sự kiện được lắng nghe và đón nhận, chính là một dấu chỉ về sự đón nhận và về lòng từ nhân của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài. Tiếp đến sự xưng thú trọn vẹn các tội lỗi cũng dạy hối nhân về sự khiêm tốn, nhìn nhận sự mong manh yếu đuối của mình, và đồng thời ý thức về sự cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, tín thác rằng Ơn thánh của Chúa có thể biến cải cuộc sống. Ngoài ra việc lắng nghe những lời nhắn nhủ và lời khuyên bảo của cha giải tội là điều quan trọng giúp hối nhân phán đoán về hành vi của họ, để tiến bước trên đường thiêng liêng và được chữa lành trong nội tâm. Chúng ta đừng quên rằng bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu trong một tòa giải tội!” (SD 25-3-2011)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gặp gỡ ở Châu Sơn
Phạm Huy Thông
10:27 25/03/2011
Như có phép lạ, trời Hà Nội đang rét đậm, mưa gió sụt sùi mấy ngày liền bỗng nhiên sáng ngày 19-3-2011 tạnh mưa, ấm nắng. Theo chương trình định trước, gần 200 doanh nhân trí thức Công giáo rời Thái Hà lúc 6h30 nhằm hướng Châu Sơn, Ninh Bình, để tham dự cuộc tĩnh tâm và gặp mặt lần thứ IV và cũng là để chúc mừng quan thày của Đức Tổng Giuse mà mọi người chúng tôi hằng yêu mến.
Bốn chiếc xe khách cỡ lớn đi ngon lành không hề bị chặn hỏi xét giấy tờ, thậm chí thu giấy phép của tài xế như những xe hành hương đây đó thường gặp. Thông thoáng rồi chăng? Khi tới nơi, chúng tôi đã nghe cha Nguyễn Tuấn Hào- Bề trên của đan viện kể rằng: đại diện của chính quyền cũng đã gặp đan viện đề nghị không tổ chức buổi gặp gỡ ở đây vì lo ngại vấn đề chính trị. Cha Hào trả lời: chúng tôi không làm chính trị, chúng tôi bồi dưỡng tâm linh, nhân bản. Các ông và ai đó muốn làm chính trị xin ra ngoài cổng đan viện…
Tới Châu Sơn – heo hút miền sơn cước, cứ nghĩ chỉ có đoàn chúng tôi. Ai ngờ đông quá. Sân đan viện rất nhiều xe đeo biển số từ rất nhiều địa phương: Sài Gòn, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hải Phòng, nhưng đông nhất vẫn là Hà Nội. Nào là Nhà thờ lớn, Thái Hà, Hàm Long, Cổ Nhuế, Văn Phái… Trẻ trung và ồn ào nhất vẫn là nhóm sinh viên Công giáo ở Vinh. Họ treo cả một băng rôn ở thành xe: “Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải ân huệ xin cho” (Câu nói nổi tiếng của Đức Tổng ngày 20-8-2009). Nghe nói họ đi cả đêm và đến đây khi trời còn chưa sáng.
Vì có quá nhiều đoàn, không còn phòng để đón khách nên cha Bề trên đón chúng tôi ở ngay cuối sân nhà thờ- một ngôi nhà thờ còn dang dở chưa hoàn thiện từ mấy chục năm nay, nhưng khi đưa vào sử dụng nó lại hàm chứa một triết lý sâu sắc nhất là trong bầu khí Mùa Chay này: hãy sống đức tin mộc mạc, chân thành không cần vôi ve, loè loẹt.
Tất cả các đoàn đều có chung một ước muốn là được chúc mừng Đức Tổng Giuse trong ngày lễ quan thày của Ngài nên Ngài đã chủ sự dâng lễ lúc 10h. Không ít người từ sau biến cố Toà Khâm sứ không có cơ hội để gặp Ngài nên khi Ngài xuất hiện ngỏ lời chào từng cộng đoàn, nhắc tên từng giáo xứ, một số người đã phải sụt sùi lau nước mắt. Người ta vẫn đồn thổi về trí nhớ tuyệt vời của Đức Tổng. Chúng tôi đã chứng thực, khi bắt tay từng người trong đoàn, Ngài đọc vanh vách tên, chỗ ở, nghề nghiệp từng người.
Đan viện Châu Sơn nổi tiếng với lòng mộ mến khách, đúng như câu khẩu hiệu nơi nhà khách: đón khách như đón Chúa. Cha Bề trên khi nhận giảng tĩnh tâm cho anh em đã tâm sự, phải bỏ ra nửa tháng để cầu nguyện, suy ngẫm, đọc sách để dọn bài. Bài giảng thật sâu sắc khi nói đến vai trò của doanh nhân trí thức Công giáo trong gia đình, trong xã hội và trong giáo hội. Cha Phó Bề trên thì cần mẫn tập cho cộng đoàn từng câu đáp ca, từng bài hát để mọi người có thể tham gia giờ cầu nguyện Taize với đan viện cho sốt sắng. Còn các tu sĩ của đan viện thì chăm lo cho chúng tôi từng chỗ nghỉ, từng bữa ăn sao cho ngon miệng. Ai cũng khen, cơm đan viện thật ngon. Bữa nào cũng thay đổi món mà toàn cây nhà lá vườn cả nhưng cũng đủ thịt, cá, rau và cả rượu ngâm mật ong nữa…không kém gì nhà hàng có đầu bếp giỏi.
Nhưng có lẽ mọi người chờ đợi nhất vẫn là được nghe Đức Tổng chia sẻ. Bài nói chuyện của Ngài ngắn gọn chưa đầy 30 phút nhưng đầy ắp những suy tư tâm huýêt. Ngài nói, cuộc gặp gỡ của anh chị em là cuộc gặp thế kỷ vì trước đây thời bao cấp không có doanh nhân, càng không có doanh nhân Công giáo. Trí thức Công giáo cũng lác đác mấy người nhưng một số phải che giấu niềm tin của mình. Bây giờ anh chị em gặp gỡ nhau ở đây là một sự kết hợp mới dự báo nhiều kỳ vọng mới cho giáo hội và cho xã hội… Ngài cũng nhắc nhở mọi người phải là Công giáo đích thực vì Công giáo giả danh bây giờ không thiếu. Đặc biệt Ngài nhấn mạnh đến nhiệm vụ của doanh nhân, trí thức Công giáo trước hết là rao giảng Tin mừng. Ngài cũng khuyên cộng đoàn doanh trí Công giáo phải có người bảo chứng, chí ít là một Đức cha trong Thường vụ Hội đồng GMVN…Bài nói chuyện của Ngài luôn bị gián đoạn bởi những tràng pháo tay tán thưởng.
Chứng kiến cảnh đám đông chen lấn xin chụp ảnh chụp với Ngài và Ngài kiên nhẫn chụp ảnh với từng nhóm, từng cặp vợ chồng mới biết tình cảm của mọi người với Ngài thắm đượm thế nào và tình cảm của Ngài với đoàn chiên cũng sâu sắc biết bao?
Hai ngày gặp gỡ ở Châu Sơn, chúng tôi tạm gác lại những ồn ào náo nhiệt của phố phường, gác lại những hợp đồng làm ăn, gác lại những lo toan, tính toán, tạm tắt điện thoại, đường link internet để tĩnh tâm nơi đan viện. Hai ngày chưa phải là dài nhưng hầu như ai đến đây cũng đều có thu hoạch đem về. Người thì có cơ hội giải hoà với Chúa sau cả chục năm bỏ xưng tội, rước lễ. Nhiều người có thêm bạn tâm giao mới. Người có cơ hội tìm kiếm việc làm, tìm kiếm thông gia. Bác sĩ Phạm Hông Sơn (Thái Bình), một người chưa phải Công giáo tìm đến đây để tìm hiểu thêm về đạo và những người Công giáo sau mấy chục năm bị “tuyên truyền” sai đồng thời mong ước có thể cộng tác với anh em Công giáo làm từ thiện xã hội và để xin mọi người cầu nguyện cho mình sớm trở thành con cái Chúa. Chị Trần Thị Năm- một nữ doanh nhân cũng mới gia nhập đạo thì cảm ơn vì sự yêu thương của Chúa với mình trong cuộc sống và nay muốn xin chia sẻ tình cảm đó với cộng đoàn bằng cách sẵn sàng giao cả chục ha đất ở Hà Nội để hoạt động nhân đạo. Nhà giáo và nguyên là một đại tá quân đội Nguyễn Xuân Minh- cũng không phải Công giáo nhưng cảm nhận rằng, đến Châu Sơn mới biết đạo Công giáo và người Công giáo yêu thương con người như thế nào…
Tôi leo lên núi Đức Mẹ ở cách nhà thờ chừng cây số. Phong cảnh thật đẹp nhưng leo nửa dốc đã phải nghỉ để thở. Nhưng một thày cho biết, hầu như Đức Tổng leo lên đây để cầu nguyện hàng ngày và không thứ bảy nào không dâng lễ ở trên hang đá để kính Đức Mẹ. Vậy mới biết Ngài yêu mến Đức Mẹ dường nào.
Tôi cũng nghe có người -- cả đạo và đời -- không muốn Ngài ở Châu Sơn nữa vì e ngại là “khuấy động” bầu khí yên tĩnh của đan viện và nhất là có khả năng biến nơi đây thành “trung tâm” hay “thủ đô” của giáo họ Công giáo Việt Nam… Nếu vậy Ngài sẽ về Hà Nội- nơi Ngài có nhà, có hộ khẩu đàng hòang và có rất nhiều người yêu mến Ngài thì chắc còn làm cho không ít người phải mất ăn, mất ngủ nữa. Nhưng nghĩ ngợi lẩn thẩn như vậy làm chi. Ngài luôn bảo: mọi sự xin theo hướng dẫn của Thánh Linh.
Vâng, tôi tin Thánh Linh vẫn nâng đỡ Ngài và nâng đỡ cả giáo hội Việt Nam.
Châu Sơn- Hà Nội, Mùa Chay 2011
Bốn chiếc xe khách cỡ lớn đi ngon lành không hề bị chặn hỏi xét giấy tờ, thậm chí thu giấy phép của tài xế như những xe hành hương đây đó thường gặp. Thông thoáng rồi chăng? Khi tới nơi, chúng tôi đã nghe cha Nguyễn Tuấn Hào- Bề trên của đan viện kể rằng: đại diện của chính quyền cũng đã gặp đan viện đề nghị không tổ chức buổi gặp gỡ ở đây vì lo ngại vấn đề chính trị. Cha Hào trả lời: chúng tôi không làm chính trị, chúng tôi bồi dưỡng tâm linh, nhân bản. Các ông và ai đó muốn làm chính trị xin ra ngoài cổng đan viện…
Tới Châu Sơn – heo hút miền sơn cước, cứ nghĩ chỉ có đoàn chúng tôi. Ai ngờ đông quá. Sân đan viện rất nhiều xe đeo biển số từ rất nhiều địa phương: Sài Gòn, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hải Phòng, nhưng đông nhất vẫn là Hà Nội. Nào là Nhà thờ lớn, Thái Hà, Hàm Long, Cổ Nhuế, Văn Phái… Trẻ trung và ồn ào nhất vẫn là nhóm sinh viên Công giáo ở Vinh. Họ treo cả một băng rôn ở thành xe: “Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải ân huệ xin cho” (Câu nói nổi tiếng của Đức Tổng ngày 20-8-2009). Nghe nói họ đi cả đêm và đến đây khi trời còn chưa sáng.
Vì có quá nhiều đoàn, không còn phòng để đón khách nên cha Bề trên đón chúng tôi ở ngay cuối sân nhà thờ- một ngôi nhà thờ còn dang dở chưa hoàn thiện từ mấy chục năm nay, nhưng khi đưa vào sử dụng nó lại hàm chứa một triết lý sâu sắc nhất là trong bầu khí Mùa Chay này: hãy sống đức tin mộc mạc, chân thành không cần vôi ve, loè loẹt.
Tất cả các đoàn đều có chung một ước muốn là được chúc mừng Đức Tổng Giuse trong ngày lễ quan thày của Ngài nên Ngài đã chủ sự dâng lễ lúc 10h. Không ít người từ sau biến cố Toà Khâm sứ không có cơ hội để gặp Ngài nên khi Ngài xuất hiện ngỏ lời chào từng cộng đoàn, nhắc tên từng giáo xứ, một số người đã phải sụt sùi lau nước mắt. Người ta vẫn đồn thổi về trí nhớ tuyệt vời của Đức Tổng. Chúng tôi đã chứng thực, khi bắt tay từng người trong đoàn, Ngài đọc vanh vách tên, chỗ ở, nghề nghiệp từng người.
Đan viện Châu Sơn nổi tiếng với lòng mộ mến khách, đúng như câu khẩu hiệu nơi nhà khách: đón khách như đón Chúa. Cha Bề trên khi nhận giảng tĩnh tâm cho anh em đã tâm sự, phải bỏ ra nửa tháng để cầu nguyện, suy ngẫm, đọc sách để dọn bài. Bài giảng thật sâu sắc khi nói đến vai trò của doanh nhân trí thức Công giáo trong gia đình, trong xã hội và trong giáo hội. Cha Phó Bề trên thì cần mẫn tập cho cộng đoàn từng câu đáp ca, từng bài hát để mọi người có thể tham gia giờ cầu nguyện Taize với đan viện cho sốt sắng. Còn các tu sĩ của đan viện thì chăm lo cho chúng tôi từng chỗ nghỉ, từng bữa ăn sao cho ngon miệng. Ai cũng khen, cơm đan viện thật ngon. Bữa nào cũng thay đổi món mà toàn cây nhà lá vườn cả nhưng cũng đủ thịt, cá, rau và cả rượu ngâm mật ong nữa…không kém gì nhà hàng có đầu bếp giỏi.
Nhưng có lẽ mọi người chờ đợi nhất vẫn là được nghe Đức Tổng chia sẻ. Bài nói chuyện của Ngài ngắn gọn chưa đầy 30 phút nhưng đầy ắp những suy tư tâm huýêt. Ngài nói, cuộc gặp gỡ của anh chị em là cuộc gặp thế kỷ vì trước đây thời bao cấp không có doanh nhân, càng không có doanh nhân Công giáo. Trí thức Công giáo cũng lác đác mấy người nhưng một số phải che giấu niềm tin của mình. Bây giờ anh chị em gặp gỡ nhau ở đây là một sự kết hợp mới dự báo nhiều kỳ vọng mới cho giáo hội và cho xã hội… Ngài cũng nhắc nhở mọi người phải là Công giáo đích thực vì Công giáo giả danh bây giờ không thiếu. Đặc biệt Ngài nhấn mạnh đến nhiệm vụ của doanh nhân, trí thức Công giáo trước hết là rao giảng Tin mừng. Ngài cũng khuyên cộng đoàn doanh trí Công giáo phải có người bảo chứng, chí ít là một Đức cha trong Thường vụ Hội đồng GMVN…Bài nói chuyện của Ngài luôn bị gián đoạn bởi những tràng pháo tay tán thưởng.
Chứng kiến cảnh đám đông chen lấn xin chụp ảnh chụp với Ngài và Ngài kiên nhẫn chụp ảnh với từng nhóm, từng cặp vợ chồng mới biết tình cảm của mọi người với Ngài thắm đượm thế nào và tình cảm của Ngài với đoàn chiên cũng sâu sắc biết bao?
Hai ngày gặp gỡ ở Châu Sơn, chúng tôi tạm gác lại những ồn ào náo nhiệt của phố phường, gác lại những hợp đồng làm ăn, gác lại những lo toan, tính toán, tạm tắt điện thoại, đường link internet để tĩnh tâm nơi đan viện. Hai ngày chưa phải là dài nhưng hầu như ai đến đây cũng đều có thu hoạch đem về. Người thì có cơ hội giải hoà với Chúa sau cả chục năm bỏ xưng tội, rước lễ. Nhiều người có thêm bạn tâm giao mới. Người có cơ hội tìm kiếm việc làm, tìm kiếm thông gia. Bác sĩ Phạm Hông Sơn (Thái Bình), một người chưa phải Công giáo tìm đến đây để tìm hiểu thêm về đạo và những người Công giáo sau mấy chục năm bị “tuyên truyền” sai đồng thời mong ước có thể cộng tác với anh em Công giáo làm từ thiện xã hội và để xin mọi người cầu nguyện cho mình sớm trở thành con cái Chúa. Chị Trần Thị Năm- một nữ doanh nhân cũng mới gia nhập đạo thì cảm ơn vì sự yêu thương của Chúa với mình trong cuộc sống và nay muốn xin chia sẻ tình cảm đó với cộng đoàn bằng cách sẵn sàng giao cả chục ha đất ở Hà Nội để hoạt động nhân đạo. Nhà giáo và nguyên là một đại tá quân đội Nguyễn Xuân Minh- cũng không phải Công giáo nhưng cảm nhận rằng, đến Châu Sơn mới biết đạo Công giáo và người Công giáo yêu thương con người như thế nào…
Tôi leo lên núi Đức Mẹ ở cách nhà thờ chừng cây số. Phong cảnh thật đẹp nhưng leo nửa dốc đã phải nghỉ để thở. Nhưng một thày cho biết, hầu như Đức Tổng leo lên đây để cầu nguyện hàng ngày và không thứ bảy nào không dâng lễ ở trên hang đá để kính Đức Mẹ. Vậy mới biết Ngài yêu mến Đức Mẹ dường nào.
Tôi cũng nghe có người -- cả đạo và đời -- không muốn Ngài ở Châu Sơn nữa vì e ngại là “khuấy động” bầu khí yên tĩnh của đan viện và nhất là có khả năng biến nơi đây thành “trung tâm” hay “thủ đô” của giáo họ Công giáo Việt Nam… Nếu vậy Ngài sẽ về Hà Nội- nơi Ngài có nhà, có hộ khẩu đàng hòang và có rất nhiều người yêu mến Ngài thì chắc còn làm cho không ít người phải mất ăn, mất ngủ nữa. Nhưng nghĩ ngợi lẩn thẩn như vậy làm chi. Ngài luôn bảo: mọi sự xin theo hướng dẫn của Thánh Linh.
Vâng, tôi tin Thánh Linh vẫn nâng đỡ Ngài và nâng đỡ cả giáo hội Việt Nam.
Châu Sơn- Hà Nội, Mùa Chay 2011
Giáo xứ Thanh Đa: Đêm cầu nguyện cho Sự Sống.
Giacôbê Hồ Anh Minh
10:56 25/03/2011
SAIGON - Theo sáng kiến của Cha Sở Đaminh Nguyễn Đình Tân, đêm 24/03/2011, Giáo xứ Thanh Đa đã tổ chức Đêm Cầu nguyện cho Sự Sống – cầu nguyện cho nạn nhân thiên tai tại Nhật Bản.
Xem hình ảnh
Đúng 19h, đêm cầu nguyện bắt đầu với video clip về cơn sóng thần lịch sử càn quét các vùng đất tại Nhật Bản: tất cả nhà cửa, xe cộ và con người bỗng trở nên quá nhỏ bé và mỏng manh trước cơn sóng dữ.
Tiếp đến là nghi thức tưởng nhớ các nạn nhân, Cha Sở Đaminh thắp từ nến Phục Sinh -ngọn lửa của sự sống - cho các hàng nến sắp đặt trên Cung Thánh, cộng đoàn cũng lần lượt thắp nến và rải hoa để tưởng niệm anh chị em đã qua đời tại Nhật Bản.
Ánh nến lung linh và những bông hoa tinh khiết làm xúc động bao tấm lòng của người tham dự.
Chủ đề của Đêm Cầu nguyện với Thánh Thể gồm 2 phần:
1. Cầu nguyện cho nạn nhân thảm họa tại Nhật Nản
2. Thông điệp về Sự Sống.
Qua lời cầu nguyện của các đại diện đoàn thể, công đoàn cảm nhận được sự mong manh trong mỗi thân phận con người. Và vì thế, mỗi cá nhân phải luôn cảm tạ hồng ân sự sống mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người, cầu nguyện cho những nạn nhân thiên tai tại Nhật Bản, và cầu nguyện cho chính mình biết quý trọng sự sống, biết chia sẻ sự sống cao quý về tinh thần cũng như thể chất với những người chung quanh.
“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro.. . ”, là ca như nhắc nhở mỗi người ý thức hơn về cội nguồn, và vì tình yêu nhưng không của Thiên Chúa mà ta đang sống ở trần gian này.
Đêm cầu nguyện càng ý nghĩa hơn vì đang là Mùa Chay Thánh, đây là một trong chuỗi các sự kiện của năm nay, vì giáo xứ Thanh Đa chọn chủ đề sống: Thánh Thể và Lời Chúa là nguồn mạch Tình yêu và Sự Sống.
Xem hình ảnh
Đúng 19h, đêm cầu nguyện bắt đầu với video clip về cơn sóng thần lịch sử càn quét các vùng đất tại Nhật Bản: tất cả nhà cửa, xe cộ và con người bỗng trở nên quá nhỏ bé và mỏng manh trước cơn sóng dữ.
Tiếp đến là nghi thức tưởng nhớ các nạn nhân, Cha Sở Đaminh thắp từ nến Phục Sinh -ngọn lửa của sự sống - cho các hàng nến sắp đặt trên Cung Thánh, cộng đoàn cũng lần lượt thắp nến và rải hoa để tưởng niệm anh chị em đã qua đời tại Nhật Bản.
Ánh nến lung linh và những bông hoa tinh khiết làm xúc động bao tấm lòng của người tham dự.
Chủ đề của Đêm Cầu nguyện với Thánh Thể gồm 2 phần:
1. Cầu nguyện cho nạn nhân thảm họa tại Nhật Nản
2. Thông điệp về Sự Sống.
Qua lời cầu nguyện của các đại diện đoàn thể, công đoàn cảm nhận được sự mong manh trong mỗi thân phận con người. Và vì thế, mỗi cá nhân phải luôn cảm tạ hồng ân sự sống mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người, cầu nguyện cho những nạn nhân thiên tai tại Nhật Bản, và cầu nguyện cho chính mình biết quý trọng sự sống, biết chia sẻ sự sống cao quý về tinh thần cũng như thể chất với những người chung quanh.
“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro.. . ”, là ca như nhắc nhở mỗi người ý thức hơn về cội nguồn, và vì tình yêu nhưng không của Thiên Chúa mà ta đang sống ở trần gian này.
Đêm cầu nguyện càng ý nghĩa hơn vì đang là Mùa Chay Thánh, đây là một trong chuỗi các sự kiện của năm nay, vì giáo xứ Thanh Đa chọn chủ đề sống: Thánh Thể và Lời Chúa là nguồn mạch Tình yêu và Sự Sống.
Mến Thánh Giá Bắc Hải khởi công xây cơ sở Bác Ái Xã Hội
Giuse Khổng Hữu Nguồn
10:58 25/03/2011
XUÂN LỘC - Sáng thứ sáu 25.3.2011, Cộng đoàn Betania thuộc Hội Dòng Mến Thánh Gía Bắc Hải Xuân Lộc tổ chức lễ đặt viên đá khởi công xây dựng cơ sở bác ái xã hội.
Xem hình ảnh
Cha Đaminh Trần Xuân Thảo, quản hạt Hố Nai chủ sự nghi thức làm phép và đặt viên đá xây dựng. Đến dự có quý cha trong hạt, quý Soeur trong Hội Dòng, quý chức Ban hành giáo, và gần một trăm quý khách mời.
Chuần bị bước vào nghi thức Soeur Maria Trần Thị Anh tổng phụ trách hội dòng có đôi lời chào mừng cha quản hạt, quý cha, quý khách và trình bày đôi nét về ngôi nhà bác ái nơi cộng đoàn Betania, cũng như mong ước cho ngôi nhà mới thực sự là mái ấm tình thương của mọi tấm lòng quảng đại dành cho những em khuyết tật, những em mồ côi cha mẹ đang sinh sống tại đây.
Tiếp theo lời động viên và kêu gọi của cha quản hạt cũng như cha chánh xứ Bắc Hải, Soeur Anna Hoàng Thị Tấn, bề trên cộng đoàn Betania kiêm phụ trách bác ái xã hội lên dâng lời cảm ơn cha quản hạt, quý cha và quý khách, trong dịp này Soeur cũng cho biết, 40 em khuyết tật ở đây được các Soeur chăm sóc chu đáo, dậy các em làm may, đan thêu, bán hoa nến tranh ảnh tượng thánh, để có thêm thu nhập cải thiện trong các bữa ăn hàng ngày.
Trong tâm tình ngày lễ Mẹ Truyền Tin, với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác, xin nhờ lời bầu cử của Mẹ và Cha thánh Giuse ban cho công trình này được bằng an từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Xem hình ảnh
Cha Đaminh Trần Xuân Thảo, quản hạt Hố Nai chủ sự nghi thức làm phép và đặt viên đá xây dựng. Đến dự có quý cha trong hạt, quý Soeur trong Hội Dòng, quý chức Ban hành giáo, và gần một trăm quý khách mời.
Chuần bị bước vào nghi thức Soeur Maria Trần Thị Anh tổng phụ trách hội dòng có đôi lời chào mừng cha quản hạt, quý cha, quý khách và trình bày đôi nét về ngôi nhà bác ái nơi cộng đoàn Betania, cũng như mong ước cho ngôi nhà mới thực sự là mái ấm tình thương của mọi tấm lòng quảng đại dành cho những em khuyết tật, những em mồ côi cha mẹ đang sinh sống tại đây.
Tiếp theo lời động viên và kêu gọi của cha quản hạt cũng như cha chánh xứ Bắc Hải, Soeur Anna Hoàng Thị Tấn, bề trên cộng đoàn Betania kiêm phụ trách bác ái xã hội lên dâng lời cảm ơn cha quản hạt, quý cha và quý khách, trong dịp này Soeur cũng cho biết, 40 em khuyết tật ở đây được các Soeur chăm sóc chu đáo, dậy các em làm may, đan thêu, bán hoa nến tranh ảnh tượng thánh, để có thêm thu nhập cải thiện trong các bữa ăn hàng ngày.
Trong tâm tình ngày lễ Mẹ Truyền Tin, với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác, xin nhờ lời bầu cử của Mẹ và Cha thánh Giuse ban cho công trình này được bằng an từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Giáo lý viên TGP Hà Nội mừng lễ Quan thầy Truyền Tin
Gioan Đình Sơn
11:11 25/03/2011
HÀ NỘI -Toàn thể giáo lý viên của Giáo phận Hà Nội đã mừng lễ Truyền Tin- quan thầy giáo lý viên cấp giáo phận. Năm nay, Ban giáo lý chọn Trung tâm hành hương Bằng Sở (Đền Thánh Phêrô Lê Tùy) làm điểm đến để mừng lễ. Đại hội năm nay nhằm mục đích đẩy mạnh tinh thần việc ra đi loan báo Tin Mừng của mỗi giáo lý viên. Ngoài ra, đại hội còn nhằm nối kết tình liên đới giữa các giáo lý viên trong tình yêu Chúa và Mẹ Maria.
Xem hình ảnh
Từ sáng tới cuối ngày 24 tháng 3, nhiều hoạt động hữu ích đã diễn ra. Trong đó, đáng kể đến là chương trình ca nguyện với chủ đề: ĐỨC MARIA, NGƯỜI CƯU MANG LỜI CHÚA và cầu nguyện theo hình thức của cộng đoàn Taize.
Bức màn sân khấu từ từ được mở ra lúc 19 giờ. Mặc dù thời tiết se lạnh nhưng vũ điệu vui nhộn, những kỹ năng sinh hoạt và đặc biệt là màn ảo thuật của một bạn trẻ đã làm ấm lòng mọi người.
Sau lời chào mừng của cha chính xứ Phanxicô.X Nguyễn Quốc Khánh là lời tuyên bố khai mạc của cha Giuse Vũ Quang Học- cha đặc trách Ban giáo lý của Giáo phận Hà Nội.
Sau lời khai mạc của cha đặc trách, những tiết mục văn nghệ thi nhau “trổ sức anh tài”. Giáo lý viên không chỉ thạo về việc giảng dạy Giáo lý, nhưng các anh chị còn hát hay và múa đẹp. Những tiết mục văn nghệ “cây nhà lá vườn”, tự biên tự diễn nhưng đã làm người xem nhiệt liệt tán thưởng.
Sau gần hai giờ đồng hồ họ cùng nhau hát; hát cho nhau nghe là chương trình cầu nguyện theo cộng đoàn Teize. Từ những người già đến những người trẻ; từ những giáo lý viên lâu năm cho tới những anh chị mới tập tễnh bước vào “ơn gọi giáo lý viên”, ai ai đều hướng tâm trọn vẹn lên cây Thánh Giá và cùng dâng lời nguyện xin. Họ đều ước mong “múc” từ nơi Chúa Giêsu những ơn cần thiết cho cuộc sống cũng như hành trình rao giảng Tin Mừng. Giờ cầu nguyện kết thúc trong thinh lặng cũng là lúc chương trình ngày thứ nhất được khép lại.
NGÀY THỨ HAI TRONG KỲ ĐẠI HỘI GLV CỦA GIÁO PHẬN HÀ NỘI
Như tin đã đưa, đại hội giáo lý viên Giáo phận Hà Nội được diễn ra trong hai ngày 24 và 25 tháng 3 năm 2011. Sau ngày thứ nhất học hỏi và giao lưu, tất cả các giáo lý viên mặc dù mỏi mệt thân xác nhưng tinh thần thì vẫn hăng say. Sáng sớm ngày 25, từng nhóm giáo lý viên cùng gia đình mà họ được gửi tới trong hai ngày đại hội đã cùng nhau đọc Kinh và cầu nguyện tại tư gia. Nhà nhà, người người cùng nhau chia sẻ Lời Chúa.
Đúng 7 giờ, đại hội bắt đầu ngày mới bằng những vũ điệu vui tươi. Sau đó là mục quay sổ số, chương trình khích lệ và tương trợ anh chị em giáo lý viên. Giải thưởng gồm:
- 5 giải khuyến khích: Bộ micro không dây
- 5 giải ba: mỗi giải một đầu đĩa DVD
- 2 giải nhì: mỗi giải một đầu Karaoke kĩ thuật số
- 1 giải nhất: một Ti vi LG màn hình phẳng
- 1 giải độc đắc: một xe máy
Giải độc đắc thuộc về chị Trần Thị Hiển, giáo lý viên Hạt Nam Định. Nhận chiếc chìa khóa xe từ cha Giuse Vũ Quang Học, chị nói: Con cảm thấy rất hồi hộp và nghĩ rằng đây là ý Chúa muốn giúp đỡ con… Quả thật, chị là một giáo lý viên rất đơn sơ.
Sau những phút giây sảng khoái của mục sổ số. Lúc này, cộng đoàn càng sôi động và hớn hở hơn bởi sự xuất hiện của vị cha chung Giáo phận, Đức Tổng Giám Mục Phêrô gặp gỡ và chia sẻ. Khoảng một giờ đồng hồ (từ 9- 10 giờ), ngài đã làm nổi bật hình ảnh của Đức Maria qua lời “xin vâng” trong biến cố Truyền Tin. Vai trò của Mẹ với Lời Chúa dước ánh sáng của Tông Huấn Verbum Domini (Lời Thiên Chúa) do Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ban hành ngày 30- 9-2010. Ngài mong muốn anh chị em giáo lý viên noi gương Mẹ và hăng say đem Tin Mừng của Chúa đến mọi nơi, mọi người.
1- Đức Maria, “Mẹ của Ngôi Lời Thiên Chúa”
2- Việc loan báo Tin Mừng
3- Tiến trình rao giảng Tin Mừng
Cuối phần chia sẻ, Đức Tổng Giám Mục Phêrô tuyên dương và phát quà cho những cá nhân, tập thể đã hăng say trong việc rao giảng Lời Chúa trong thời gian qua. Ngày lễ quan thầy, ngài cầu chúc cho tất cả giáo lý viên luôn luôn mạnh khỏe và mau mắn phục vụ Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh và môi trường sống.
THÁNH LỄ QUAN THẦY GIÁO LÝ VIÊN GIÁO PHẬN HÀ NỘI
Hơn 1000 giáo lý viên thuộc Giáo phận Hà Nội và đông đảo bà con giáo dân dự lễ Truyền Tin- quan thầy giáo lý viên Giáo phận Hà Nội tại quảng trường Giáo họ Bằng Sở vào lúc 10 giờ ngày 25 tháng 3. Thánh lễ do Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn chủ sự, cùng đồng tế với ngài có gần 30 linh mục trong linh mục đoàn giáo phận và nhiều nam nữ tu sĩ.
Trước khi bước vào Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục gợi lại tình yêu của Thiên Chúa; cũng vì yêu thương nên từ muôn thuở Ngài đã có chương trình sai Con Một Ngài xuống để cứu chuộc nhân loại. khi đến ngày đến giờ thì Người Con đến thế gian. Lúc này, một người nữ đã đón nhận Ngôi Lời, Mẹ đã thưa “Xin Vâng”. Từ đây, Mẹ luôn luôn làm theo thánh ý của Chúa. Ngày hôm nay, giáo lý viên quy tụ nhau nơi đây để cùng nhìn vào Mẹ, noi gương Mẹ để sẵn sang đón nhận Lời Chúa, sống Lời Chúa và rao giảng Lời Chúa. Với những tâm tình đó, Đức Tổng Giám Mục mời gọi mọi người sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ.
Trong phần chia sẻ Lời Chúa, một lần nữa ngài nhấn mạnh đến lời “Xin Vâng” trong biến cố Truyền Tin. Có một lời ngắn ngủi và quả quyết nhưng đã làm thay đổi cục diện thế giới, đó là lời “XIN VÂNG” của Đức Maria. Sau khi nghe bài Phúc Âm tường thuật lại công cuộc Truyền Tin, Ngài mời gọi cộng đoàn và cách riêng là anh chị em giáo lý viên đưa Lời Chúa vào trong tâm trí và tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy noi gương Mẹ để đáp “Xin Vâng” qua:
- Hãy vui lên: Chúng ta vui lên trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố, vì không có hoàn cảnh và biến cố nào nằm ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa ở cùng bà: Chúng ta không bao giờ cô đơn vì mỗi người đều nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa nên Ngài luôn luôn ở cùng chúng ta.
- Bà rất bối rối: Theo gương Mẹ, chúng ta phải chấp nhận để Chúa quấy rầy cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy để Chúa sắp xếp chương trình theo ý của Ngài, mặc dù nhiều khi chương trình không giống với ý muốn của chúng ta.
- Bà đừng sợ: Khuyên chúng ta luôn biết lắng nghe Lời Chúa vì Lời Ngài sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi mọi sự sợ hãi; để mỗi chúng ta thấy đường mình đi và thấy việc mình làm.
- Vì này đây bà sẽ thụ thai: Khi có Chúa, chúng ta làm nên sự sống. Sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời luôn làm cho sự sống của chúng ta thêm phong phú. Chỉ khi nào chúng ta mất Chúa thì cuộc đời của chúng ta ra đen tối.
- Việc ấy xẩy ra cách nào: Chúng ta phải biết hỏi Chúa, lắng nghe Lời Chúa, biết đối thoại với Chúa và nài xin để biết thánh ý của Chúa trong mọi công việc và mọi hoàn cảnh.
- Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà: Chúng ta phải tin trong Hội Thánh và tâm hồn mỗi người đều có Chúa Thánh Thần làm việc. Ngài là sự khôn ngoan, sự thánh thiện và là sức mạnh. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn ta biết việc phải làm....
- Kìa bà Elizabet, chị họ của bà: Sau khi chúng ta nhận được Lời Chúa thì ta phải biết đem Lời Chúa đến cho mọi người; đừng bao giờ làm ngơ trước những thiếu thốn, đau khổ của anh chị em mình.
- Vì đối với Chúa không gì là không làm được: Chúng ta phải tin khi Chúa gọi ai thì Chúa sẽ ban cho người đó đủ sức để sống ơn gọi đó. Chúng ta đón nhận ơn gọi Kitô hữu thì chúng ta phải có bổn phận loan báo Tin Mừng. Chúng ta ý thức điều đó để đem Lời Chúa, đem Tin Mừng đến cho những ai chưa nhận biết Ngài.
- Tôi đây là nữ tỳ của Chúa: Trong tất cả mọi sự, chúng ta hãy khiêm tốn trước mặt Chúa và nhận mình là người tôi tớ để Ngài thực hiện chương trình và ý định của Ngài nơi chúng ta.
Sau cùng, ngài mời gọi anh chị em giáo lý viên: Chúng ta hãy cùng Mẹ ra khơi; chúng ta hãy nhìn lên gương Đức Mẹ đã đón nhận Tin Mừng và đến với bà chị họ. Như vậy, chúng ta cũng được đón nhận Tin Mừng trong ngày Lễ Truyền Tin thì chúng ta mau mắn thực thi ơn gọi giáo lý viên, đem tình yêu của Thiên Chúa đến mọi nơi bằng chính đời sống và gương làm của chúng ta.
Kế đến là phần tuyên xưng đức tin và lời hứa của giáo lý viên trong ơn gọi giảng dạy Lời Chúa.
Cuối Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục nhắn nhủ anh chị em giáo lý viên phải biết cưu mang Lời Chúa như chủ đề đại hội năm nay. Chúng ta sống bằng Lời Chúa, nói bằng Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa chứ không phải lời khác. Ngài nhấn mạnh hơn, anh chị em giáo lý viên là những người cộng tác của chúng tôi nên anh chị em phải dựa vào lời giảng dạy của Hội Thánh qua cuốn sách Giáo Lý Công Giáo đã soạn thảo cho toàn thế giới để giảng dạy chứ không được đi ra ngoài.
Ngày lễ quan thầy giáo lý viên Giáo phận Hà Nội khép lại nhưng đã để lại nhiều ấn tượng đẹp cho mỗi người tham dự. Ước mong anh chị em sẽ sắn sàng đáp tiếng “Xin Vâng” và mau mắn lên đường như Mẹ Maria xưa kia.
Xem hình ảnh
Từ sáng tới cuối ngày 24 tháng 3, nhiều hoạt động hữu ích đã diễn ra. Trong đó, đáng kể đến là chương trình ca nguyện với chủ đề: ĐỨC MARIA, NGƯỜI CƯU MANG LỜI CHÚA và cầu nguyện theo hình thức của cộng đoàn Taize.
Bức màn sân khấu từ từ được mở ra lúc 19 giờ. Mặc dù thời tiết se lạnh nhưng vũ điệu vui nhộn, những kỹ năng sinh hoạt và đặc biệt là màn ảo thuật của một bạn trẻ đã làm ấm lòng mọi người.
Sau lời chào mừng của cha chính xứ Phanxicô.X Nguyễn Quốc Khánh là lời tuyên bố khai mạc của cha Giuse Vũ Quang Học- cha đặc trách Ban giáo lý của Giáo phận Hà Nội.
Sau lời khai mạc của cha đặc trách, những tiết mục văn nghệ thi nhau “trổ sức anh tài”. Giáo lý viên không chỉ thạo về việc giảng dạy Giáo lý, nhưng các anh chị còn hát hay và múa đẹp. Những tiết mục văn nghệ “cây nhà lá vườn”, tự biên tự diễn nhưng đã làm người xem nhiệt liệt tán thưởng.
Sau gần hai giờ đồng hồ họ cùng nhau hát; hát cho nhau nghe là chương trình cầu nguyện theo cộng đoàn Teize. Từ những người già đến những người trẻ; từ những giáo lý viên lâu năm cho tới những anh chị mới tập tễnh bước vào “ơn gọi giáo lý viên”, ai ai đều hướng tâm trọn vẹn lên cây Thánh Giá và cùng dâng lời nguyện xin. Họ đều ước mong “múc” từ nơi Chúa Giêsu những ơn cần thiết cho cuộc sống cũng như hành trình rao giảng Tin Mừng. Giờ cầu nguyện kết thúc trong thinh lặng cũng là lúc chương trình ngày thứ nhất được khép lại.
NGÀY THỨ HAI TRONG KỲ ĐẠI HỘI GLV CỦA GIÁO PHẬN HÀ NỘI
Như tin đã đưa, đại hội giáo lý viên Giáo phận Hà Nội được diễn ra trong hai ngày 24 và 25 tháng 3 năm 2011. Sau ngày thứ nhất học hỏi và giao lưu, tất cả các giáo lý viên mặc dù mỏi mệt thân xác nhưng tinh thần thì vẫn hăng say. Sáng sớm ngày 25, từng nhóm giáo lý viên cùng gia đình mà họ được gửi tới trong hai ngày đại hội đã cùng nhau đọc Kinh và cầu nguyện tại tư gia. Nhà nhà, người người cùng nhau chia sẻ Lời Chúa.
Đúng 7 giờ, đại hội bắt đầu ngày mới bằng những vũ điệu vui tươi. Sau đó là mục quay sổ số, chương trình khích lệ và tương trợ anh chị em giáo lý viên. Giải thưởng gồm:
- 5 giải khuyến khích: Bộ micro không dây
- 5 giải ba: mỗi giải một đầu đĩa DVD
- 2 giải nhì: mỗi giải một đầu Karaoke kĩ thuật số
- 1 giải nhất: một Ti vi LG màn hình phẳng
- 1 giải độc đắc: một xe máy
Giải độc đắc thuộc về chị Trần Thị Hiển, giáo lý viên Hạt Nam Định. Nhận chiếc chìa khóa xe từ cha Giuse Vũ Quang Học, chị nói: Con cảm thấy rất hồi hộp và nghĩ rằng đây là ý Chúa muốn giúp đỡ con… Quả thật, chị là một giáo lý viên rất đơn sơ.
Sau những phút giây sảng khoái của mục sổ số. Lúc này, cộng đoàn càng sôi động và hớn hở hơn bởi sự xuất hiện của vị cha chung Giáo phận, Đức Tổng Giám Mục Phêrô gặp gỡ và chia sẻ. Khoảng một giờ đồng hồ (từ 9- 10 giờ), ngài đã làm nổi bật hình ảnh của Đức Maria qua lời “xin vâng” trong biến cố Truyền Tin. Vai trò của Mẹ với Lời Chúa dước ánh sáng của Tông Huấn Verbum Domini (Lời Thiên Chúa) do Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ban hành ngày 30- 9-2010. Ngài mong muốn anh chị em giáo lý viên noi gương Mẹ và hăng say đem Tin Mừng của Chúa đến mọi nơi, mọi người.
1- Đức Maria, “Mẹ của Ngôi Lời Thiên Chúa”
2- Việc loan báo Tin Mừng
3- Tiến trình rao giảng Tin Mừng
Cuối phần chia sẻ, Đức Tổng Giám Mục Phêrô tuyên dương và phát quà cho những cá nhân, tập thể đã hăng say trong việc rao giảng Lời Chúa trong thời gian qua. Ngày lễ quan thầy, ngài cầu chúc cho tất cả giáo lý viên luôn luôn mạnh khỏe và mau mắn phục vụ Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh và môi trường sống.
THÁNH LỄ QUAN THẦY GIÁO LÝ VIÊN GIÁO PHẬN HÀ NỘI
Hơn 1000 giáo lý viên thuộc Giáo phận Hà Nội và đông đảo bà con giáo dân dự lễ Truyền Tin- quan thầy giáo lý viên Giáo phận Hà Nội tại quảng trường Giáo họ Bằng Sở vào lúc 10 giờ ngày 25 tháng 3. Thánh lễ do Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn chủ sự, cùng đồng tế với ngài có gần 30 linh mục trong linh mục đoàn giáo phận và nhiều nam nữ tu sĩ.
Trước khi bước vào Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục gợi lại tình yêu của Thiên Chúa; cũng vì yêu thương nên từ muôn thuở Ngài đã có chương trình sai Con Một Ngài xuống để cứu chuộc nhân loại. khi đến ngày đến giờ thì Người Con đến thế gian. Lúc này, một người nữ đã đón nhận Ngôi Lời, Mẹ đã thưa “Xin Vâng”. Từ đây, Mẹ luôn luôn làm theo thánh ý của Chúa. Ngày hôm nay, giáo lý viên quy tụ nhau nơi đây để cùng nhìn vào Mẹ, noi gương Mẹ để sẵn sang đón nhận Lời Chúa, sống Lời Chúa và rao giảng Lời Chúa. Với những tâm tình đó, Đức Tổng Giám Mục mời gọi mọi người sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ.
Trong phần chia sẻ Lời Chúa, một lần nữa ngài nhấn mạnh đến lời “Xin Vâng” trong biến cố Truyền Tin. Có một lời ngắn ngủi và quả quyết nhưng đã làm thay đổi cục diện thế giới, đó là lời “XIN VÂNG” của Đức Maria. Sau khi nghe bài Phúc Âm tường thuật lại công cuộc Truyền Tin, Ngài mời gọi cộng đoàn và cách riêng là anh chị em giáo lý viên đưa Lời Chúa vào trong tâm trí và tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy noi gương Mẹ để đáp “Xin Vâng” qua:
- Hãy vui lên: Chúng ta vui lên trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố, vì không có hoàn cảnh và biến cố nào nằm ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa ở cùng bà: Chúng ta không bao giờ cô đơn vì mỗi người đều nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa nên Ngài luôn luôn ở cùng chúng ta.
- Bà rất bối rối: Theo gương Mẹ, chúng ta phải chấp nhận để Chúa quấy rầy cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy để Chúa sắp xếp chương trình theo ý của Ngài, mặc dù nhiều khi chương trình không giống với ý muốn của chúng ta.
- Bà đừng sợ: Khuyên chúng ta luôn biết lắng nghe Lời Chúa vì Lời Ngài sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi mọi sự sợ hãi; để mỗi chúng ta thấy đường mình đi và thấy việc mình làm.
- Vì này đây bà sẽ thụ thai: Khi có Chúa, chúng ta làm nên sự sống. Sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời luôn làm cho sự sống của chúng ta thêm phong phú. Chỉ khi nào chúng ta mất Chúa thì cuộc đời của chúng ta ra đen tối.
- Việc ấy xẩy ra cách nào: Chúng ta phải biết hỏi Chúa, lắng nghe Lời Chúa, biết đối thoại với Chúa và nài xin để biết thánh ý của Chúa trong mọi công việc và mọi hoàn cảnh.
- Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà: Chúng ta phải tin trong Hội Thánh và tâm hồn mỗi người đều có Chúa Thánh Thần làm việc. Ngài là sự khôn ngoan, sự thánh thiện và là sức mạnh. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn ta biết việc phải làm....
- Kìa bà Elizabet, chị họ của bà: Sau khi chúng ta nhận được Lời Chúa thì ta phải biết đem Lời Chúa đến cho mọi người; đừng bao giờ làm ngơ trước những thiếu thốn, đau khổ của anh chị em mình.
- Vì đối với Chúa không gì là không làm được: Chúng ta phải tin khi Chúa gọi ai thì Chúa sẽ ban cho người đó đủ sức để sống ơn gọi đó. Chúng ta đón nhận ơn gọi Kitô hữu thì chúng ta phải có bổn phận loan báo Tin Mừng. Chúng ta ý thức điều đó để đem Lời Chúa, đem Tin Mừng đến cho những ai chưa nhận biết Ngài.
- Tôi đây là nữ tỳ của Chúa: Trong tất cả mọi sự, chúng ta hãy khiêm tốn trước mặt Chúa và nhận mình là người tôi tớ để Ngài thực hiện chương trình và ý định của Ngài nơi chúng ta.
Sau cùng, ngài mời gọi anh chị em giáo lý viên: Chúng ta hãy cùng Mẹ ra khơi; chúng ta hãy nhìn lên gương Đức Mẹ đã đón nhận Tin Mừng và đến với bà chị họ. Như vậy, chúng ta cũng được đón nhận Tin Mừng trong ngày Lễ Truyền Tin thì chúng ta mau mắn thực thi ơn gọi giáo lý viên, đem tình yêu của Thiên Chúa đến mọi nơi bằng chính đời sống và gương làm của chúng ta.
Kế đến là phần tuyên xưng đức tin và lời hứa của giáo lý viên trong ơn gọi giảng dạy Lời Chúa.
Cuối Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục nhắn nhủ anh chị em giáo lý viên phải biết cưu mang Lời Chúa như chủ đề đại hội năm nay. Chúng ta sống bằng Lời Chúa, nói bằng Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa chứ không phải lời khác. Ngài nhấn mạnh hơn, anh chị em giáo lý viên là những người cộng tác của chúng tôi nên anh chị em phải dựa vào lời giảng dạy của Hội Thánh qua cuốn sách Giáo Lý Công Giáo đã soạn thảo cho toàn thế giới để giảng dạy chứ không được đi ra ngoài.
Ngày lễ quan thầy giáo lý viên Giáo phận Hà Nội khép lại nhưng đã để lại nhiều ấn tượng đẹp cho mỗi người tham dự. Ước mong anh chị em sẽ sắn sàng đáp tiếng “Xin Vâng” và mau mắn lên đường như Mẹ Maria xưa kia.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Bức thư anh Thành và giấc mơ ‘hoá Nhật’ của báo chí Việt Nam
Alf. Hoàng Gia Bảo
18:52 25/03/2011
Tuần qua, bức thư của anh Hà Minh Thành từ Nhật kể lại những gì anh chứng kiến khi tham gia cứu trợ tại Fukushima đã gây xúc động cho không ít người, đặc biệt là cử chỉ cao đẹp của chú bé mới 9 tuổi, lạc hết thân nhân, trên người chỉ còn chiếc quần đùi áo thun xếp hàng trong giá lạnh chờ lãnh lương thực. Thế nhưng… khi được nhường cho gói lương khô, chú bé đã khom người cảm ơn… ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng. Tôi sửng sốt và ngạc nhiên vô cùng, mới hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Nỏ trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ!" anh Thành kể.
Cảm ơn anh vì những chia sẻ đầy cảm xúc trên. Lá thư thật sự là bài học cho chúng tôi, vì đang sống ở một nơi ngập tràn bảng hiệu ‘khu phố văn hóa’ nhưng con người cư xử với nhau chẳng văn hóa chút nào. Nếu có anh dịp về Sàigòn nơi được xem là ‘trung tâm văn hóa lớn của cả nước’ anh chỉ cần bỏ ra vài chục phút đứng tại các ngã 3, 4 quan sát cảnh người người chạy xe chen lấn, giành đường nhau một cách rất vô ý thức sẽ thấy điều tôi nói là không sai.
Hành động ôm bao lương khô đi thẳng đến nơi cần phải đến không chút đắn đo của chú bé người Nhật kia, chắc đã khiến không ít người lớn chúng tôi không khỏi hổ thẹn, khi mà trong cuộc sống hay ‘nhân danh’ miếng cơm manh áo để chà đạp lên quyền lợi của người khác, ngay cả khi đang ở nhà cao cửa rộng, túi rủng rỉnh tiền chứ chưa hề ‘trắng tay’ như chú bé.
Giá như hôm ấy anh bớt xúc động để đừng “nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc để nó và mọi người đang xếp hàng không nhìn thấy” biết đâu chúng tôi đã có được tấm ảnh chụp chân dung cháu bé, tôi chắc phải có khuôn mặt nhân hậu tử tế lắm lắm?
Bức thư đã góp phần làm dấy lên phong trào khâm phục người Nhật trong nước suốt tuần qua trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, việc làm tưởng chừng cao đẹp này hoá ra cũng lại kém văn hóa nốt khi người ta đã ‘cắt xén’ nó chẳng còn nguyên vẹn như trước.
Dưới nhan đề “Thư của cảnh sát Nhật, gốc Việt từ vùng động đất” (http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/?vnnid=12941 18/03/2011 05:00 GMT+7) tờ điện tử lớn nhất nước Vietnam Net đã ‘đục bỏ’ mất đoạn "Qua anh Nguyễn Hữu Viện tôi mới được biết anh và trang tin của anh dù tôi làm việc cách chỗ của anh cũng không bao xa. Xin hân hạnh được làm quen với anh" như chúng ta thấy bên dưới.
Thay vì lẽ ra nội dung đầy đủ của nó phải là (http://www.vietcatholic.net/News/Html/88425.htm)
Xem lại nội dung bị cắt bỏ chúng ta thấy lý do của họ chẳng qua chỉ vì nó có dính dáng đến cái tên ‘Nguyễn Hữu Viện’, một trí thức bất đồng chính kiến đang sống ở Pháp.
Mặc dù việc làm này cũng chẳng ảnh hưởng gì đến bản thân ông Nguyễn Hữu Viện cũng như nội dung lá thư, nhưng nó cho chúng ta thấy cái thói ưa ‘cắt xén’ sợ sự thật của truyền thông trong nước đâu vẫn còn nguyên đó, vẫn ‘chứng nào tật nấy’.
Vì đục bỏ vô cớ Vietnam Net buộc phải sửa lại gốc tích bức thư và bảo là do “rất tình cờ… đọc được từ blog của TS Nguyễn Đình Đăng” thế nhưng họ lại quên mất rằng cái sự “rất tình cờ” này đã được chính tác giả ‘chỉ đường’ cho khi viết cho TS. Nguyễn Đình Đăng ngay trong đoạn bị cắt mà nhiều người đã biết “Qua anh Nguyễn Hữu Viện tôi mới được biết anh và trang tin của anh” (cắt vội quá nên chẳng còn nhớ mình cắt gì chăng?)
‘Tránh vỏ dưa đụng vỏ dừa’. Vì nói dối, tờ Vietnam Net đã dẫn người đọc trong nước đến một nơi để thấy cái mà những ‘ông chủ’ của họ chắc chẳng bao giờ muốn. Đó là hình một người tay bị còng miệng bị bịt to ‘tổ chảng’ đập vào mắt mọi người, khiến họ không thể không liên tưởng đến tấm hình chụp LM Nguyễn văn Lý bị công an bị miệng giữa ‘phiên tòa ô nhục’ tại Huế tháng 3/2007.
Sự ‘ấu trĩ’ của tờ báo lớn này ở chỗ. Với người thực sự quan tâm đến thời cuộc thì họ đã đọc bức thư này từ khi mới xuất hiện hôm 17/3, cũng như biết rõ ‘Nguyễn Hữu Viện’ là ai. Cắt bỏ cũng chẳng có tác dụng gì. Còn ngược lại, người mà xưa nay chỉ biết đọc có mỗi báo ‘lề phải’ không hề biết ‘leo trèo’ vượt tường lửa là gì, thì cái tên Nguyễn Hữu Viện cũng giống như bao tên xa lạ khác. ‘Cắt xén’ chi cho mang tiếng?
Khi duyệt cho Vietnam Net đăng ‘bức thư ngoại’ này hẳn nhà nước rất muốn người dân học cách ứng xử văn mình của người Nhật. Thế nhưng họ đã làm cái điều tử tế này một cách rất kém văn minh bằng hành động ‘cắt xén’ như trên. Mà thượng chưa hết bất chính thì hạ làm sao bớt tắc loạn? Trong đầu các quan chưa hết nghĩ đến chuyện cắt xén, nói dối, ăn chận tiền, hàng cưu trợ bão lụt v.v… thì làm sao dạy dân ‘lá lành đùm lá rách’ ?
Cuối cùng xin quay trở lại với hành động cao thượng của chú bé Nhật.
Với một quốc gia mà năm nào cũng thiên tai bão lụt triền miên như VN ta, bài học về cách ứng xử của người Nhật trong cơn hoạn nạn là cần thiết. Tuy nhiên, nếu chỉ làm theo phong trào cho báo chí ‘lên giọng’ ca tụng người Nhật như hiện nay rồi ngày mai lại… chìm nghỉm (cũng giống như việc rầm rộ đưa tin về cụ Rùa khi nỗi lo về cơn bão giá bắt đầu tăng trong dân chúng, nay sóng cơn gió đã qua thì ‘cụ’ sống chết ra sao chang ai hay) thiết nghĩ có đăng đến một trăm bức thư cảm động hơn những gì anh Thành kể, cũng chỉ làm chuyện vô ích mà thôi.
Nếu thật sự lo cho sự xuống cấp về nhân cách của xã hội VN hôm nay, thật sự muốn học tập tinh thần Nhật… xin đừng quá ‘xúc động’ trong chốc lát mà hãy nhìn kỹ vào số tuổi ít ỏi của cậu bé ấy để mà suy gẫm…
Ở tuổi lên chín chưa rành chữ nghĩa chắc chắn chú bé ấy không thể bị anh hưởng bởi bất cứ sự tuyên truyền văn hóa đạo đức từ báo đài nào hết. Mà những gì nó thể hiện, thiết nghĩ chính xác là sự trình diễn lại một cách rất bản năng những gì đã được rèn luyện cẩn thận trong nhà trường, nếu có muốn ‘đóng kịch’ cũng chẳng thể nào làm nổi trong hoàn cảnh mất mát cha me như vậy.
Thế còn VN ta, nhìn lại nền giáo dục đất nước mình chúng ta thấy gì?
Phải chăng chính việc ‘nhồi nhét’ vào đầu nhiều thế hệ những sự thù hằn, chết chóc từ ngay bé tập tễnh đi mẫu giáo, những sự giả dối như ‘đuốc sống’ Lê Văn Tám, hoặc sự tự mãn, kiêu ngạo kiểu như “O du kích nhỏ giương cao súng, thằng Mỹ lom khom bước cúi đầu” v.v… đã đẩy quan hệ giữa người với người trong xã hội VN hôm nay rơi vào tình trạng sẵn sàng gây hấn ‘chém giết’ chà đạp lên nhau không thương tiếc?
Tưởng cũng cần nhắc lại rằng ở miền Nam trước 1975 mặc dù cũng chiến tranh như miền Bắc, nhưng không bao giờ có chuyện học sinh chúng tôi bị nhà trường dạy lòng căm thù ‘vi-xi’ (tức Việt Công), tâng bốc chủ thuyết chủ thuyết này chê bai chủ thuyết nọ ‘đang giãy chết’ v.v… mà vẫn được học những điều tử tế rất đỗi đời thường. Như đi đường gặp đám tang phải đứng lại ngả nón chờ xe tang đi qua mới được đi tiếp, gặp người già hay em bé muốn qua đường phải giúp họ v.v…
Bởi vậy, chừng nào nền giáo dục VN còn chưa hết bị ‘chính trị hóa’, báo chí chưa hết thôi làm công cụ tuyên truyền cho đảng, ngày ấy ước mong về một xã hội ‘mình vì mọi người’ đúng như những gì chú bé 9 tuổi người Nhật kia thể hiện chứ không ‘sáo rỗng’ như hiện nay, một ‘Việt Nam – đất nước thật sự vĩ đại’… sẽ vẫn mãi là điều gì đó quá xa vời với chúng ta.
Sàigòn, 25/3/2011
Cảm ơn anh vì những chia sẻ đầy cảm xúc trên. Lá thư thật sự là bài học cho chúng tôi, vì đang sống ở một nơi ngập tràn bảng hiệu ‘khu phố văn hóa’ nhưng con người cư xử với nhau chẳng văn hóa chút nào. Nếu có anh dịp về Sàigòn nơi được xem là ‘trung tâm văn hóa lớn của cả nước’ anh chỉ cần bỏ ra vài chục phút đứng tại các ngã 3, 4 quan sát cảnh người người chạy xe chen lấn, giành đường nhau một cách rất vô ý thức sẽ thấy điều tôi nói là không sai.
Hành động ôm bao lương khô đi thẳng đến nơi cần phải đến không chút đắn đo của chú bé người Nhật kia, chắc đã khiến không ít người lớn chúng tôi không khỏi hổ thẹn, khi mà trong cuộc sống hay ‘nhân danh’ miếng cơm manh áo để chà đạp lên quyền lợi của người khác, ngay cả khi đang ở nhà cao cửa rộng, túi rủng rỉnh tiền chứ chưa hề ‘trắng tay’ như chú bé.
Giá như hôm ấy anh bớt xúc động để đừng “nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc để nó và mọi người đang xếp hàng không nhìn thấy” biết đâu chúng tôi đã có được tấm ảnh chụp chân dung cháu bé, tôi chắc phải có khuôn mặt nhân hậu tử tế lắm lắm?
Bức thư đã góp phần làm dấy lên phong trào khâm phục người Nhật trong nước suốt tuần qua trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, việc làm tưởng chừng cao đẹp này hoá ra cũng lại kém văn hóa nốt khi người ta đã ‘cắt xén’ nó chẳng còn nguyên vẹn như trước.
Dưới nhan đề “Thư của cảnh sát Nhật, gốc Việt từ vùng động đất” (http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/?vnnid=12941 18/03/2011 05:00 GMT+7) tờ điện tử lớn nhất nước Vietnam Net đã ‘đục bỏ’ mất đoạn "Qua anh Nguyễn Hữu Viện tôi mới được biết anh và trang tin của anh dù tôi làm việc cách chỗ của anh cũng không bao xa. Xin hân hạnh được làm quen với anh" như chúng ta thấy bên dưới.
![]() |
Thay vì lẽ ra nội dung đầy đủ của nó phải là (http://www.vietcatholic.net/News/Html/88425.htm)
![]() |
Xem lại nội dung bị cắt bỏ chúng ta thấy lý do của họ chẳng qua chỉ vì nó có dính dáng đến cái tên ‘Nguyễn Hữu Viện’, một trí thức bất đồng chính kiến đang sống ở Pháp.
Mặc dù việc làm này cũng chẳng ảnh hưởng gì đến bản thân ông Nguyễn Hữu Viện cũng như nội dung lá thư, nhưng nó cho chúng ta thấy cái thói ưa ‘cắt xén’ sợ sự thật của truyền thông trong nước đâu vẫn còn nguyên đó, vẫn ‘chứng nào tật nấy’.
Vì đục bỏ vô cớ Vietnam Net buộc phải sửa lại gốc tích bức thư và bảo là do “rất tình cờ… đọc được từ blog của TS Nguyễn Đình Đăng” thế nhưng họ lại quên mất rằng cái sự “rất tình cờ” này đã được chính tác giả ‘chỉ đường’ cho khi viết cho TS. Nguyễn Đình Đăng ngay trong đoạn bị cắt mà nhiều người đã biết “Qua anh Nguyễn Hữu Viện tôi mới được biết anh và trang tin của anh” (cắt vội quá nên chẳng còn nhớ mình cắt gì chăng?)
‘Tránh vỏ dưa đụng vỏ dừa’. Vì nói dối, tờ Vietnam Net đã dẫn người đọc trong nước đến một nơi để thấy cái mà những ‘ông chủ’ của họ chắc chẳng bao giờ muốn. Đó là hình một người tay bị còng miệng bị bịt to ‘tổ chảng’ đập vào mắt mọi người, khiến họ không thể không liên tưởng đến tấm hình chụp LM Nguyễn văn Lý bị công an bị miệng giữa ‘phiên tòa ô nhục’ tại Huế tháng 3/2007.
![]() |
Sự ‘ấu trĩ’ của tờ báo lớn này ở chỗ. Với người thực sự quan tâm đến thời cuộc thì họ đã đọc bức thư này từ khi mới xuất hiện hôm 17/3, cũng như biết rõ ‘Nguyễn Hữu Viện’ là ai. Cắt bỏ cũng chẳng có tác dụng gì. Còn ngược lại, người mà xưa nay chỉ biết đọc có mỗi báo ‘lề phải’ không hề biết ‘leo trèo’ vượt tường lửa là gì, thì cái tên Nguyễn Hữu Viện cũng giống như bao tên xa lạ khác. ‘Cắt xén’ chi cho mang tiếng?
Khi duyệt cho Vietnam Net đăng ‘bức thư ngoại’ này hẳn nhà nước rất muốn người dân học cách ứng xử văn mình của người Nhật. Thế nhưng họ đã làm cái điều tử tế này một cách rất kém văn minh bằng hành động ‘cắt xén’ như trên. Mà thượng chưa hết bất chính thì hạ làm sao bớt tắc loạn? Trong đầu các quan chưa hết nghĩ đến chuyện cắt xén, nói dối, ăn chận tiền, hàng cưu trợ bão lụt v.v… thì làm sao dạy dân ‘lá lành đùm lá rách’ ?
Cuối cùng xin quay trở lại với hành động cao thượng của chú bé Nhật.
Với một quốc gia mà năm nào cũng thiên tai bão lụt triền miên như VN ta, bài học về cách ứng xử của người Nhật trong cơn hoạn nạn là cần thiết. Tuy nhiên, nếu chỉ làm theo phong trào cho báo chí ‘lên giọng’ ca tụng người Nhật như hiện nay rồi ngày mai lại… chìm nghỉm (cũng giống như việc rầm rộ đưa tin về cụ Rùa khi nỗi lo về cơn bão giá bắt đầu tăng trong dân chúng, nay sóng cơn gió đã qua thì ‘cụ’ sống chết ra sao chang ai hay) thiết nghĩ có đăng đến một trăm bức thư cảm động hơn những gì anh Thành kể, cũng chỉ làm chuyện vô ích mà thôi.
Nếu thật sự lo cho sự xuống cấp về nhân cách của xã hội VN hôm nay, thật sự muốn học tập tinh thần Nhật… xin đừng quá ‘xúc động’ trong chốc lát mà hãy nhìn kỹ vào số tuổi ít ỏi của cậu bé ấy để mà suy gẫm…
Ở tuổi lên chín chưa rành chữ nghĩa chắc chắn chú bé ấy không thể bị anh hưởng bởi bất cứ sự tuyên truyền văn hóa đạo đức từ báo đài nào hết. Mà những gì nó thể hiện, thiết nghĩ chính xác là sự trình diễn lại một cách rất bản năng những gì đã được rèn luyện cẩn thận trong nhà trường, nếu có muốn ‘đóng kịch’ cũng chẳng thể nào làm nổi trong hoàn cảnh mất mát cha me như vậy.
Thế còn VN ta, nhìn lại nền giáo dục đất nước mình chúng ta thấy gì?
Phải chăng chính việc ‘nhồi nhét’ vào đầu nhiều thế hệ những sự thù hằn, chết chóc từ ngay bé tập tễnh đi mẫu giáo, những sự giả dối như ‘đuốc sống’ Lê Văn Tám, hoặc sự tự mãn, kiêu ngạo kiểu như “O du kích nhỏ giương cao súng, thằng Mỹ lom khom bước cúi đầu” v.v… đã đẩy quan hệ giữa người với người trong xã hội VN hôm nay rơi vào tình trạng sẵn sàng gây hấn ‘chém giết’ chà đạp lên nhau không thương tiếc?
Tưởng cũng cần nhắc lại rằng ở miền Nam trước 1975 mặc dù cũng chiến tranh như miền Bắc, nhưng không bao giờ có chuyện học sinh chúng tôi bị nhà trường dạy lòng căm thù ‘vi-xi’ (tức Việt Công), tâng bốc chủ thuyết chủ thuyết này chê bai chủ thuyết nọ ‘đang giãy chết’ v.v… mà vẫn được học những điều tử tế rất đỗi đời thường. Như đi đường gặp đám tang phải đứng lại ngả nón chờ xe tang đi qua mới được đi tiếp, gặp người già hay em bé muốn qua đường phải giúp họ v.v…
Bởi vậy, chừng nào nền giáo dục VN còn chưa hết bị ‘chính trị hóa’, báo chí chưa hết thôi làm công cụ tuyên truyền cho đảng, ngày ấy ước mong về một xã hội ‘mình vì mọi người’ đúng như những gì chú bé 9 tuổi người Nhật kia thể hiện chứ không ‘sáo rỗng’ như hiện nay, một ‘Việt Nam – đất nước thật sự vĩ đại’… sẽ vẫn mãi là điều gì đó quá xa vời với chúng ta.
Sàigòn, 25/3/2011
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tại sao nước Nhật sẽ phục hồi
Trần Mạnh Trác
10:28 25/03/2011
Theo cơ quan GSI (sở địa dư của Nhật bản) thì trận động đất 8.9 độ richter và cơn sóng thần dường như đã di dời các hòn đảo chính của Nhật tới 8 feet (2.4 mét) và chuyển trục trái đất lệch đi gần 9 inches (10cm).Sau khi chứng kiến sự tàn phá chung quanh những hải cảng đã một thời rất nhộn nhịp, người ta phải đồng ý với lời của vị thủ tướng Nhật Naoto Kan than rằng nước ông đang phải chịu một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất sau Thế chiến II.
Cảnh tàn phá gợi lại hình ảnh của thành phố Hiroshima sau trận đánh bom nguyên tử năm 1945, mới hai tuần trước, còn là những đường phố, nhà ở, cửa hàng, nhà máy, nhà kho, hôm nay là một dải đất bùn kéo dài tới tận chân trời, đầy nghẹt những di tích lạnh tanh của nhiều cuộc sống đã bị bức tường nước cuốn trôi ngày 11 Tháng 3.
Xe cộ lật nhào bẹp dúm. Những cột đèn bê tông gẫy gục, uốn cong như ống hút. Một vài ngôi nhà còn nguyên vẹn nhưng bị bật ra khỏi nền móng, nằm nghiêng ngả đây đó như những tên say rượu.
Những hình ảnh giống ngày tận thế đó xuất hiện ở mỗi thị trấn và làng mạc dọc theo vùng duyên hải đông bắc. Hơn thế nữa và mỉa mai thay, quốc gia duy nhất đã hứng chịu những tác hại của vũ khí nguyên tử, nay lại phải đương đầu với một thảm họa hạt nhân mới khi nhà máy điện Fukushima Daiichi chiến đấu tận lực để ổn định các lò phản ứng bị hư hại.
Nhật Bản, một nước đã vật lộn hai chục năm với tình trạng trì trệ về chính trị và kinh tế, đôi khi dường như đã bị lay động vì nghi ngờ bản thân, và đang còn phải đối phó với gánh nặng của một dân số già đi nhanh chóng, thì với số tử vong lớn vì thiên tai, với chi phí tài chính nặng nề và những tác dụng hạt nhân nguy hại, tình trạng bất ổn sâu rộng sẽ có nguy cơ còn kéo dài thêm?
Nước Nhật chắc chắn sẽ phải mất nhiều năm để phục hồi. Nhưng không đâu người ta chứng kiến một dân tộc có sức bật mạnh mẽ và gắn bó với nhau như ở Nhật Bản.
Peter Ford của tờ The Christian Science Monitor cho biết nhiều nhà quan sát trong và ngoài nước nghĩ rằng trong thực tế những đòi hỏi cho việc phục hồi từ cuộc khủng hoảng này có thể sẽ cung cấp cho đất nước này một tâm trạng mới về mục đích: Cái may có thể sinh ra từ cái rủi theo câu châm ngôn của Nhật Bản.
"Thảm họa này có thể đòan kết dân Nhật trong việc phục hồi và tái thiết", theo ông Koichi Nakano, giáo sư chính trị tại Đại học Sophia ở Tokyo. "Những thách thức để đưa mọi thứ trở lại như xưa sẽ đoàn kết chúng tôi, và chúng tôi đã từng biết phải làm thế nào."
Nhật Bản đã từng làm điều đó trên một quy mô rộng lớn hơn nhiều. Cuối Thế chiến II, 60 thành phố đã bị san bằng, nửa triệu người chết, 10 triệu người vô gia cư, và một phần tư tài sản quốc gia bị tiêu huỷ.
Trong vòng chưa đầy bốn chục năm sau, nước này đã chuyển đổi thành một nền kinh tế lớn thứ hai trên trái đất. "Họ hợp sức và xây dựng lại một cách ngoạn mục," theo lời ông John Dower, tác giả của cuốn sách kể lại cuộc phục hồi đó có tên là "Embracing Defeat" "Ôm hôn thất bại", "Tôi nghĩ họ sẽ hợp quần một lần nữa và sẽ phục hồi một cách đáng kinh ngạc."
Sâu thẳm trong tâm khảm của người Nhật Bản là tinh thần "gaman" ("Kiên trì".) Là trọng tâm của tinh thần quốc gia, gaman có nghĩa là "Chịu đựng, nhận lấy bất cứ điều gì đến và hãy cố gắng", ông Roland Kelts nói, ông là người đã dựa vào di sản hỗn hợp Nhật và Mỹ để viết cuốn "Japanamerica." "Họ thừa hưởng những DNA văn hóa qua nhiều thế kỷ phải đương đầu với hòan cảnh bị vây bủa."
Đó là một tinh thần mà người dân Nhật đã buộc phải rút ra từ một quá khứ thường xuyên đối diện với thảm họa tự nhiên và do con người gây ra. Từ các trận động đất lớn ở Tokyo năm 1923, qua chiến tranh thế giới II đến trận động đất Kobe năm 1995, "những trường hợp trên dù có khác biệt, nhưng vẫn có một hằng số chung," theo lời ông Merry White, một nhà nhân chủng học chuyên về Nhật Bản tại Đại học Boston, "đó là tương đối có rất nhiều sinh động và rất ít tinh thần buông xuôi."
Makoto Mizenoya là một trong những người không buông xuôi. Đứng bên ngoài một ngôi trường dùng làm chỗ tạm cư cho tất cả các cư dân của thành phố Narahama, gần nhà máy hạt nhân Fukushima, ông gạt bỏ những lo ngại rằng ông có thể đã bị ô nhiễm phóng xạ.
"Tôi không thực sự nghĩ về điều đó," ông vừa nói vừa lo giúp cho những ông bà lớn tuổi đang tụm năm tụm ba trên một sàn lớp học. "Tôi cảm thấy có lỗi mỗi khi nghe những lời chúc may mắn từ bạn bè. Tôi chỉ muốn tiếp tục làm tốt công việc của tôi bây giờ."
Tuy nhiên quy mô của thảm họa, và một trường hợp khẩn cấp liên quan đến hạt nhân, "có thể là bài kiểm tra cuối cùng của tinh thần Nhật Bản", ông Kelts cảnh báo.
Số tử vong do động đất và sóng thần đã tăng cao hơn 10.000. Gần nửa triệu người mất nhà. 850.000 nhà mất điện, và 1,5 triệu gia đình không có nước. Trong vùng động đất, thực phẩm thiếu hụt và xăng nhớt cạn kiệt.
Đối diện với những khó khăn, các nạn nhân đã chứng tỏ một tinh thần khắc kỷ đáng nể. Dù cho các nỗ lực cứu trợ đã không trơn tru, rầy rà vì thiếu thông tin và vận tải, nhưng các nạn nhân không phàn nàn. Họ kiên nhẫn chờ đợi trong trật tự để nhận nước, thức ăn, khí đốt, chăn mền, hoặc bất cứ những gì được cấp phát.
Tại Sendai, một thành phố mà một nửa dân số không có điện nước, một hàng người đứng đợi ngòai trời tuyết bên ngoài một cửa hàng mở cửa lần đầu sau trận động đất. "Tôi chờ để mua thức ăn và nước," là lời của Yuta Okada, một thanh niên trẻ vừa đứng vào cuối hàng. "Tôi lo lắng vì các nhân viên nói rằng họ không có đủ cho mọi người. Tất cả tôi có thể làm là nhẫn nại chờ xem."
Ở phố Fukushima, cách nhà máy điện Fukushima khoảng 25km, ông Hà Minh Thành, một cảnh sát Nhật gốc Việt, đã kể lại chuyện một em bé 9 tuổi cô đơn đứng ở cuối hàng phát thực phẩm. Động lòng thương ông đã khóac cho em tấm áo và nhường cho em khẩu phần của mình. Trước con mắt ngạc nhiên của ông, em khom mình cám ơn rồi mang khẩu phần đó đặt vào thùng thực phẩm chung và quay lại chỗ cuối hàng tiếp tục chờ đợi. Em nói với ông: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng".
Các ký giả ngọai quốc từng săn tin các thảm họa trên thế giới đã ngạc nhiên khi không thấy có tin tức về cướp bóc, dù cho các cửa hàng không có nhân viên bảo vệ. Trong một xã hội mà quyền lợi tập thể được coi trọng hơn những ước muốn cá nhân, theo lời giáo sư Nakano, "thì có một tinh thần tôn trọng trật tự, sẵn lòng tuân thủ các quy định và không gây ra khó khăn cho người khác. Thật là một tinh thần rất hữu ích trong những tình huống như thế này.."
Nhiệm vụ xây dựng lại những thị trấn bị tàn phá sẽ khó khăn, và có thể chi phí sẽ lên đến 185 tỷ đô la theo ước tính của hãng Barclays Capital. Ngay cả với một nước Nhật Bản có quyết tâm và có nhiều gắn bó xã hội, vẫn có thể cần tới nhiều năm.
Những thảm họa ở các nơi khác như New Orleans chẳng hạn, sau cơn bão Katrina 5 năm rưỡi mà vẫn còn nhiều khu phố chưa xây dựng lại được. Mười năm sau cơn bão Andrew ở miền Đông Nam Hoa Kỳ năm 1992, công việc phục hồi vẫn còn chưa kết thúc.
Tuy nhiên, không thể áp dụng những đo lường từ những thảm họa thiên nhiên ở nơi khác cho Nhật Bản, vì đây là nơi đầu tiên phải đối diện với ba cuộc khủng hoảng cùng một lúc: sóng thần, động đất, và nguy cơ nguyên tử. "Chúng ta chưa bao giờ có một trường hợp như thế này," theo lời ông David Neal, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu thiên tai và những sự cố khắc nghiệt tại Oklahoma State University.
Duy chỉ một việc làm sạch cơ sở hạt nhân Fukushima sẽ là một nhiệm vụ ghê gớm. Ngay cả khi tình hình ổn định, ít nhất là có ba trong số sáu lò phản ứng tại cơ sở đã bị hư. Nếu người Nhật quyết định dỡ bỏ các đơn vị hư hỏng, thì dựa trên bài học của Three Mile Island, Pennsylvania, có thể sẽ cần đến hai năm. "Ngừng hoạt động là một công việc rất, rất lớn", theo ông Charles Forsberg, một chuyên gia hạt nhân tại MIT (Học viện Công nghệ Massachusetts) ở Cambridge, Mass "Nó giống như là xây dựng một lò phản ứng mới vậy."
Người Nhật cũng sẽ phải đối diện với sự gián đoạn kinh tế. Tất cả các hãng xe lớn đã tạm thời đóng cửa, một phần vì thiếu bộ phận từ các nhà máy bị hư hỏng ở miền bắc. Nhiều nhà máy điện tử trong khu vực động đất cũng đình chỉ hoạt động. Những hải cảng miền đông bắc Nhật Bản đều bị thiệt hại, và nhiều công ty nước ngoài và trong nước đã ngưng việc kinh doanh vì công nhân bỏ chạy trước nguy cơ phóng xạ.
Tuy nhiên, nhiều kinh tế gia hy vọng rằng những thiệt hại có ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung sẽ chỉ là tối thiểu. "Tác động trực tiếp của thiên tai trên nền kinh tế là rất hạn chế", theo ông Martin Schulz, một nhà phân tích tại Viện Nghiên cứu Fujitsu tại Tokyo. Đổ đồng, Nhật mất đi một nhà máy thép, hai nhà máy lọc dầu, và một số nhà máy khác bị suy giảm. Nhưng khu vực động đất và sóng thần chỉ có ảnh hưởng tới 6 % của nền kinh tế. Các vành đai công nghiệp lớn ở miền trung và miền nam Nhật Bản vẫn còn nguyên vẹn, và mặc dù nhiều nhà máy vẫn còn đóng cửa, họ có thể mở lại ngay khi giao thông được phục hồi.
Trong trận động đất Kobe trước đây, cũng có nhiều thiệt hại như lần này nhưng "đã không gây ra thậm chí là một đốm sáng trên các số liệu thống kê kinh tế," ông Schulz nhớ lại, và ông ta nghĩ sự suy giảm tốc độ tăng trưởng sẽ rất nhỏ nhoi (marginal drop,) cho năm nay, sẽ vẫn nằm ở số 1.5% như những dự đoán trước thiên tai. Năm tới nhiều đầu tư lớn để xây dựng lại nhà cửa, cầu cống, đường xá, và đường sắt sẽ có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP lên chút ít.
Trên mặt trận chính trị, chính phủ cách đây vài tuần đã có nguy cơ xụp đổ, nay được hưởng lợi nhờ nhửng tham gia đi kèm với tình trạng khẩn cấp quốc gia. Và dù cho có nhiều chỉ trích mạnh mẽ xung quanh vấn đề hạt nhân và sự chậm trễ đưa hàng cứu trợ lên miền bắc, cuộc khủng hoảng quốc gia này đã cung cấp một cơ hội cho các nhà lãnh đạo để tập hợp quốc gia, và cải thiện cơ may của chính mình, dĩ nhiên là nếu chính phủ không thực hành đúng đắn thì rủi ro sẽ tăng lên. "Nhờ cuộc khủng hoảng, các đảng đối lập không thể chỉ trích chính phủ, và trong thời gian này thì điều đó đã giải cứu chính phủ", Eisuke Sakakibara, cựu bộ trưởng tài chính, cho biết.
Chính phủ đã phản ứng hợp lý, theo ý kiến của nhiều chuyên gia chính trị, và những công dân bình thường đang bận tâm với những vấn đề cá nhân không còn quan tâm nhiều đến chính trị. Nhắc lại những năm trước đây dân chúng đã không hài lòng cách sâu sắc với nhiều chính phủ kế tiếp nhau: Nhật Bản đã có 5 thủ tướng trong 5 năm. Đã có chút hy vọng khi cử tri bỏ phiếu lọai Đảng Dân chủ Tự Do trong năm 2009 (sau khi đảng này cầm quyền một nửa thế kỷ) nhưng rồi hy vọng cũng đã bị tiêu tan khi tỷ số được lòng dân của ông Kan đã giảm xuống dưới 20 phần trăm trước trận động đất ",nhưng sự việc này (Thiên tai) có thể thực sự khởi động lại một cái gì đó," ông Schulz nói.
Chuyển động mới trên chính trường có thể bắt đầu, ông nói, nếu cử tri đổ lỗi cho Công ty Điện lực Tokyo vì những tai nạn hạt nhân. Là một cơ chế quan liêu cổ điển bí mật và là sở hữu chủ nhà máy nguyên tử Fukushima, sự giận dữ của công chúng đòi hỏi sự minh bạch trong cơ chế "sẽ gây ra những thay đổi lớn," ông Schulz tin tưởng.
Một cách sâu xa hơn, một số nhà quan sát nhìn thấy một cơ hội ở chỗ các nỗ lực phục hồi sẽ khích lệ một xã hội dường như bị sa lầy trong sự nghi ngờ bản thân sau khi đã đạt được nhiều điều kỳ diệu sau chiến tranh. Một mặt, nó có thể làm sống lại hình ảnh truyền thống của người dân Nhật, tóm gọn trong câu tâm niệm của quốc gia, đó là đất nước là một quần đảo nhỏ với rất ít tài nguyên mà luôn phải đối phó với các lực lượng thù địch từ bên ngoài.
Đồng thời, người dân đã rất phấn khởi với các làn sóng cảm thông đến từ bên ngòai thế giới. Không giống như hồi năm 1995, khi chính quyền từ chối sự trợ giúp của các nước ngoài sau trận động đất Kobe. Tokyo ngày nay đang đón tiếp viện trợ, yêu cầu quân đội Mỹ và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế phụ giúp.
Phản ứng của quốc tế "đã nhắc nhở chúng tôi rằng chúng tôi vẫn được coi là quan trọng và rằng mọi người vẫn quan tâm đến chúng tôi ngay cả khi chính người Nhật chúng tôi có cảm giác không an toàn về vị thế quốc tế của chúng tôi", ông Nakano nói.
Đồng tình với ông, ông Michael Green, một nhà phân tích châu Á tại Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế ở Washington thêm rằng những thảm họa "đang xây dựng lại sự tự tin trên những khía cạnh văn hóa và xã hội cốt lõi của Nhật Bản."
Nhật Bản có thể đã mất đi sự năng động từng là sức bật cho sự tăng trưởng bất thường trong hậu bán thế kỷ 20, nhưng nước Nhật là một quốc gia còn đủ năng lực để phục hồi từ các thảm họa vừa qua miễn là một thảm họa hạt nhân mới có thể tránh khỏi. Nhật là một trong những nước giàu nhất thế giới, với một lực lượng lao động được đào tạo tốt nhất và tài năng nhất và có một cơ chế quốc gia vững mạnh. Nhật Bản rõ ràng không phải là Haiti. Hậu thuẫn cho những sức mạnh đó là cảm xúc hiện tại của những người dân đã mất tất cả mọi thứ và không có cách nào khác hơn là "bắt đầu trong một đất nước tan vỡ", như Giáo sư Dower mô tả nhiệm vụ của quốc gia Nhật vào năm 1945.
Trong một làng nhỏ ven biển của vùng Yamamoto, người quản lý của một cửa hàng nông nghiệp, ông Toshiyo Shishido, đang điều khiển các nhân viên dọn dẹp đống gạch vụn, cây cối, và bùn lầy che lấp lối đi và cửa hàng. Ông lo lắng rằng có thể phải mất hàng tháng trước khi ông có thể kinh doanh trở lại. "Nhưng chúng tôi phải xây dựng lại," ông nói. "Đây là nhiệm vụ của những người còn sống sót."
Tin Đáng Chú Ý
Vắng mặt chiếm đa số tuyển cử tại Pháp
Hà minh Thảo
17:37 25/03/2011
Cuộc tuyển cử hôm nay đã phải chia phần thời gian trên các cơ quan truyền thông với các tin tức, phóng sự về chiến dịch quân sự của Pháp ‘Harmatta’ (tên một làn gió khô và nóng ở Phi châu) hay ‘Aurore d’Odyssée’ (tên chiến dịch quân sự quốc tế) và về phóng xạ nguyên tử đến từ Nhật bản.
I. SỐ CỬ TRI VẮNG MẶT KỶ LỤC.
Lúc 20 giờ ngày Tuyển cử vòng một, khi cửa các phòng phiếu, có đến 55,63% số cử tri nói trên đã không đến để đặt phong bì vào thùng phiếu. Tỉnh Seine-Saint-Denis có số cử tri không tham gia đầu phiếu cao nhất với 67,30% số ghi danh. Trái lại, Haute-Corse là Tỉnh có cử tri đi bầu cao nhất nước với 66,13% số cử tri ghi danh. Tại Pháp, việc tham gia đầu phiếu không bắt buộc. Không như tại Việt Nam, nước ta, người cộng sản luôn chạy theo con số để rồi Sự Thật luôn bị bóp méo.
Đây là kỷ lục mới so với kỷ lục lần trước năm 1988: vòng một (50,8%) và vòng hai (52,9% số cử tri ghi danh). So với ba lần trước, chúng ta nhận thấy số vắng mặt như sau:
- năm 2001: vòng một (34,50%) và vòng hai (43,80% số cử tri ghi danh) ;
- năm 2004: vòng một (36,09%) và vòng hai (33,51% số cử tri ghi danh) ;
- năm 2008: vòng một (35,12%) và vòng hai (44,53% số cử tri ghi danh).
II.- LÝ DO SỰ VẮNG MẶT.
a/- thất vọng vì các chánh trị gia hữu lẫn tả phái đều :
- thất bại trong việc cải thiện đời sống hàng ngày, không thể giúp họ có được một việc làm để tự nuôi bản thân và gia đình;
- chỉ đến với họ khi vận động bầu cử để hứa hẹn và, sau đó, khi đắc cử, quên đi những gì đã hứa.
b/- chế tài (= trừng phạt) chính trị các ứng cử viên đảng cầm quyền đã có những biện pháp giảm thuế cho giới giàu có trong khi giá tiền điện, gaz gia tăng hay giảm bớt tiền bồi hoàn thuốc trị bệnh và trợ cấp xã hội.
c/- cử tri không thấu hiểu những nhiệm vụ quan trọng của Hội đồng Tỉnh.
III.- AI HƯỞNG LỢI DO SỰ VẮNG MẶT NÀY.
a/- Đảng Mặt Trận Quốc Gia (Front national) được các cử tri ủng hộ nhiệt thành đi bầu đầy đủ nên đưa số bách phân lên cao. Khi cùng một số 1.000 cử tri bầu cho đảng này trong tổng số tham dự là 5.000, số bách phân là 20%, nhưng khi tổng số tham dự là 8.000, số bách phân sẽ là 12,50%.
Ngoài ra, các cử tri đã thực hiện bằng lá phiếu đối với đảng này như họ đã trả lời cho các viện Harris Interactive và CSA (Conseils-Sondages-Analyses) qua những cuộc thăm dò dư luận (xem ‘Tình hình chánh trị nước Pháp’, VietCatholic News,18 Mar 2011). Các cuộc thăm dò này đã tiên báo sự gia tăng tín nhiệm của bà Marine Le Pen, Chủ tịch Mặt Trận Quốc Gia từ hai tháng nay.
Ứng cử viên Mặt Trận Quốc Gia tranh cử tại 1.500 Tổng (đơn vị bầu cử) và về đầu tại 39 Tổng.
b/- Đảng Xanh Môi trường Âu châu (Europe Ecologie-Les Verts) đã tăng thêm trong các cuộc tuyển cử gần đây như khi bầu Nghị viện Âu châu và Hội đồng Vùng. Gần đây, nhờ kêu gọi chống các nhà máy điện nguyên tử từ sau sóng thần tại Nhật nên, trong cuộc đầu phiếu này, Đảng đã thu được 8,22%, sau khi chỉ thu được 4,09% năm 2004 và 4,18% số phiếu hợp lệ vòng một năm 2008.
IV.- CHUẨN BỊ TRANH CỬ VÒNG HAI.
Để tham gia vòng hai, các ứng cử viên phải đạt được, ở vòng một, số phiếu bầu bằng ít nhất 12,5% số cử tri ghi danh. Tuy nhiên, nếu chỉ có một ứng cử viên hội đủ điều kiện này, thì ứng cử viên có số phiếu cao thứ nhì được tham dự vòng hai. Ứng cử viên đạt được số phiếu nhiều nhất (đa số tương đối, trong trường hợp có hơn hai ứng cử viên) sẽ được tuyên bố đắc cử.
a/- Các chánh đảng lớn tham dự tuyển cử.
Một trường hợp đắc cử hiếm có. Một kết quả tái đắc cử đáng lưu ý ngay vòng đầu là bà Bernadette Chirac (UMP), phu nhân cựu Tổng thống Jacques Chirac, nghị viên Tỉnh tại Tổng Corrèze, chỉ thu được 1.114 phiếu (50,04% số phiếu hợp lệ) tín nhiệm, vừa đúng 50% số phiếu hợp lệ cộng 1 như luật định. Ở tuổi 77, bà vừa thắng cử lần thứ sáu chức vụ dân cử này.
Tại đơn vị này, 75,80% số cử tri ghi danh đã ‘lê gót’ đến phòng phiếu để làm nhiệm vụ công dân. Tổng số phiếu hợp lệ là 2.226. Hai ứng cử viên thất cử là ông Franẫois Barbazange (xã hội) được 1.004 phiếu tín nhiệm (45,10%) và bà Murriel Padovani-Lorioux (đảng Xanh) được 108 phiếu (4,85% số phiếu hợp lệ).
Tuy nhiên, trong hai biên bản tại các phòng phiếu, người ta thấy ghi những điều bất thường :
- tại Eyrein, một phụ nữ không ghi danh trên danh sách cử tri (người Ba lan ?) đã đầu phiếu ;
- tại Meyrignac-L'Eglise, 49 phong bì được tìm thấy trong thùng phiếu khi chỉ có 48 chử ký chứng đã bỏ lá phiếu vào thùng.
Luật bầu cử cho phép mọi cử tri trong đơn vị có quyền khiếu nại ‘điều bất thường’ trước tòa án hành chánh trong 5 ngày sau khi công bố kết quả. Thời hạn đó đã trôi qua, không ai đã sử dụng quyền này. Dù có khiếu nại, bà Chirac vẫn nhận nhiệm vụ vào ngày 01.04.2011 vì bà không trực tiếp gây nên ‘điều bất thường’.
Theo kết quả của Bộ Nội vụ, từ tả phái sang hữu phái gồm các đảng chính như sau:
- Cực tả (các đảng thuộc Đệ tứ Cộng sản như Nouveau Parti Anti-capitalisme, đảng mới chôùng tư bản, tên mới của Ligue Communiste révolutionnaire, Liên minh cộng sản cách mạng, và Lutte ouvrière, Tranh đấu thợ thuyền) thu được 53.328 phiếu, tức 0,58% số phiếu hợp lệ;
- Front de Gauche (Mặt trận tả phái, gồm Cộng sản đệ tam như tại Cộng đảng Việt Nam) đạt 8,92%;
- Parti Socialiste (Đảng Xã hội) 24,94%;
- Parti Radical de gauche (Đảng cấp tiến tả phái) 1,48%;
- Europe Ecologie-Les Verts (Đảng Xanh Môi trường Aâu châu) 8,22%;
- Majorité présidentielle (Đa số theo Tổng thống) 5,46% số phiếu hợp lệ;
- Union pour un Mouvement Populaire (Liên minh vì Phong trào Nhân dân) 16,97%;
- Divers droite (các đảng hữu phái khác) 9,32%;
- Front national (Mặt Trận Quốc Gia) 15,06% số phiếu hợp lệ.
Từ kết quả đó, ngày 27.03.2011, các ứng cử viên Mặt Trận Quốc Gia sẽ đối diện ở vòng 2 trong 394 Tổng, trong đó :
- 204 Tổng với PS ;
- 89 Tổng với UMP ;
- 37 Tổng với PCF (đảng Cộng sản Pháp);
- 64 Tổng với các đảng linh tinh (divers) hữu hoặc tả phái khác.
Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là : Năm nay, về hạng ba bảng kết quả toàn quốc, Mặt Trận Quốc Gia sẽ có nghị viên Tỉnh hay không vì, hiện nay, đảng Xanh (Verts), trong các kỳ bầu cử Tổng năm 2004 và 2008 đều có số phiếu thấp hơn Mặt Trận Quốc Gia, nhưng đang có 12 nghị viên Tỉnh ?
b/- Mặt Trận Quốc Gia là một đảng hợp pháp nhưng sao không được xem giống như các đảng khác ?
Tối ngày 20.03.2011, mười phút sau khi các phòng phiếu đóng cửa, từ Trụ sở đảng, ông Jean-Franẫois Copé, tổng thư ký UMP lên tiếng yêu cầu các ứng cử viên đảng mình vẫn tiếp tục tranh cử vòng nhì dù chỉ về hạng ba và nhắc lại là không có sự liên kết giữa UMP và Mặt Trận Quốc Gia vì đôi bên không có những giá trị như nhau. Nhưng chúng ta cũng không ‘đi chung’ với Mặt trận Cộng hòa vì hành động như vậy cho thấy sự đồng mưu giữa các chánh đảng đối lập. Ông kết luận : ‘Hãy để cử tri chúng ta tự do lựa chọn, biết rằng chúng ta sẽ không bầu cho Mặt Trận Quốc Gia và cũng không có Mặt trận Cộng hòa.
{Tại Pháp, Mặt trận Cộng hòa (Front républicain) bao gồm các hầu hết các chính đảng với những giá trị tốt đẹp nhất như : UMP, Xã hội, UDF (Union Démocratique Française, nay là Modem), Cộng sản Pháp… và Mặt Trận Quốc Gia (Front national) chỉ gồm những sự xấu như kỳ thị chủng tộc,… }
Sự Thật : Front national đã được sự tín nhiêỉm ngày càng nhiều dưới thời Tổng thống François Mitterrand (1981-1995). Xin mời hãy nhìn lại những kết quả tuyển cử Tổng thống Pháp của ông Jean-Marie Le Pen, cựu Chủ tịch :
1974 (0,75% số phiếu hợp lệ) ; 1981 (không ứng cử) ; 1988 (14,38%) ; 1995 (15%) ; 2002 (16,86%, đánh bại ông Lionel Jospin (xã hội) tạo ra ‘tremblement de terre politque’, chấn động sang các nước Aâu châu. Dịp này, Mặt trận Cộng hòa được đề cao để mọi người dồn phiếu cho đối thủ của bà Le Pen là ông Jacques Chirac đã tái đắc cử với tỷ số hiếm có 82,21%. Ứng cử viên Front national cũng tăng 17,79% và số người tín nhiệm tăng từ 4,8 triệu, vòng một, lên 5,5 triệu, vòng hai) và 2007 (10,44% vì ông Nicolas Sarkozy hứa hẹn sẽ đưa Pháp quốc tiến lên và người dân ‘làm nhiều hơn, lợi tức gia tăng’, nhưng… người Pháp đang chờ năm 2012.
Chưa hết, nhờ sự tiếp tay làm luật của các lãnh đạo đảng xã hội, Tổng thống François Mitterrand đã đổi thể thức bầu cử tỷ lệ tại Quốc hội để Front national có một nhóm với 35 dân biểu cách đây 25 năm, ngày 22.03.1986.
Ngày nay, đảng xã hội và tả phái lại giăng bẫy… Hãy xem các đảng hữu phái có thoát được không ? Câu trả lời sẽ biết lúc 20 giờ (coi chừng : giờ mùa hè) ngày 27.03.2011.
Văn Hóa
Chiêm niệm
Jos. Tú Nạc, NMS
22:22 25/03/2011
Chiêm ngắm và suy niệm
sợ rằng con sa vào quyến rũ
Chiêm ngắm và suy niệm
trong kết tình bè bạn với Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
khi Ta vật lộn với tự nguyện chân thành
Chiêm ngắm và suy niệm
Khi Ta sẵn sàng sự đau đớn trong Ta.
Chiêm ngắm và suy niệm
khi Ta nhận đây chén khổ đau
Chiêm ngắm và suy niệm
Đấng Quyền Năng đứng canh bên Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
khi những ai đến bắt giữ Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
vì máu Ta sẽ đổ xuống đất này.
Chiêm ngắm và suy niệm
ghi nhớ mãi một giao ước mới
Chiêm ngắm và suy niệm
hãy yêu nhau như Ta đã yêu con
Chiêm ngắm và suy niệm
tấm bánh bẻ ra, rượu đã rót đầy
Chiêm ngắm và suy niệm
hãy làm việc này, trong ký ức của Ta.
Chiêm ngắm và suy niệm
chiến trận đang bắt đầu
Chiêm ngắm và suy niệm
vinh quang – điều quả quyết
Chiêm ngắm và suy niệm
nạn nhân – người chiến thắng
Chiêm ngắm và suy niệm
có sự sống triền miên.
Chiêm niệm
Jos. Tú Nạc, NMS
22:24 25/03/2011
Chiêm ngắm và suy niệm
sợ rằng con sa vào quyến rũ
Chiêm ngắm và suy niệm
trong kết tình bè bạn với Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
khi Ta vật lộn với tự nguyện chân thành
Chiêm ngắm và suy niệm
Khi Ta sẵn sàng sự đau đớn trong Ta.
Chiêm ngắm và suy niệm
khi Ta nhận đây chén khổ đau
Chiêm ngắm và suy niệm
Đấng Quyền Năng đứng canh bên Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
khi những ai đến bắt giữ Ta
Chiêm ngắm và suy niệm
vì máu Ta sẽ đổ xuống đất này.
Chiêm ngắm và suy niệm
ghi nhớ mãi một giao ước mới
Chiêm ngắm và suy niệm
hãy yêu nhau như Ta đã yêu con
Chiêm ngắm và suy niệm
tấm bánh bẻ ra, rượu đã rót đầy
Chiêm ngắm và suy niệm
hãy làm việc này, trong ký ức của Ta.
Chiêm ngắm và suy niệm
chiến trận đang bắt đầu
Chiêm ngắm và suy niệm
vinh quang – điều quả quyết
Chiêm ngắm và suy niệm
nạn nhân – người chiến thắng
Chiêm ngắm và suy niệm
có sự sống triền miên.




