Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
06:13 31/03/2015
DÂN NHÀ QUÊ CẦU NGUYỆN
Có một vị giám mục Anh giáo trong óc đầy những ý đồ chính trị đi qua một hòn đảo nhỏ nọ, ông ta nhìn thấy người dân quê địa phương tin vào Đức Chúa Ki-tô nhưng không rõ ràng Kinh Thánh cho lắm, thậm chí ngay cả cầu nguyện cũng không biết.
Vị giám mục bèn nhẫn nại dạy họ nhớ từng câu từng câu để cầu nguyện với Chúa, những người dân quê ấy học rất chậm, nhưng cuối cùng cũng có thể nhớ hết bài cầu nguyện.
Qua sáng ngày hôm sau, vị giám mục rất phấn khởi rời khỏi họ đi qua địa phương khác, nhưng không biết sao mà thuyền mới đi không xa, thì thấy những người dân quê ấy giống như Đức Chúa Giê-su rất tự tại đi trên mặt nước, hổn hà hổn hển đến hỏi giám mục:-
- “Thứa Đức Cha, thật là mắc cở, chúng con quên mất không biết làm sao để nhớ kinh cầu nguyện với Chúa, Đức Cha có thể dạy lại cho chúng con thêm lần nữa được không ?”
Giám mục nhìn thấy như thế thì trố mắt ra, đồng thời cũng cảm thấy mình thấp kém, nói:
- “Các con là những người đơn thuần, nên cầu nguyện theo các kinh cầu trước đây mà các con đã dùng để cầu nguyện.”
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)
Suy tư:
Lời nói thành thật của tình yêu được phát xuất từ con tim, chứ không phải lời nói được viết sẵn trước trên giấy, lời cầu nguyện chân thành nhất vẫn cứ là lời cầu nguyện phát xuất từ tâm hồn chân thành yêu mến.
Có một vài đoàn thể trong giáo xứ khi hội họp đọc kinh cầu nguyện, thì mỗi người ôm theo cả một quyển sách kinh, đọc một lèo từ đầu đến cuối những kinh mà hội đoàn quy định, rồi sau đó họp hành to tiếng phê nhau, nặng lời với nhau, tại sao vậy ? Thưa là vì là lời cầu nguyện của họ không phát xuất từ tâm hồn yêu mến chân thành, chỉ là đọc những kinh đã được soạn sẵn –mà đôi lúc- họ không để ý đến nội dung của những kinh cầu nguyện ấy...
Vị giám mục Anh giáo đã muốn đám dân quê bỏ thói quen cầu nguyện đơn sơ chân thành của họ, để đọc những kinh cao siêu mà họ không hề cảm nghiệm được một chút tâm tình, nên quên mất tiêu khi ngài rời khỏi họ.
Dù có những lời kinh cảm động lòng người đã được soạn sẵn, nhưng nếu không có một tâm hồn chân thành mến yêu khi cầu nguyện, thì cũng chẳng ích chi cho linh hồn.
Lời cầu nguyện hay nhất chính là lời cầu nguyện phát xuất từ trong tâm hồn.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
N2T |
Có một vị giám mục Anh giáo trong óc đầy những ý đồ chính trị đi qua một hòn đảo nhỏ nọ, ông ta nhìn thấy người dân quê địa phương tin vào Đức Chúa Ki-tô nhưng không rõ ràng Kinh Thánh cho lắm, thậm chí ngay cả cầu nguyện cũng không biết.
Vị giám mục bèn nhẫn nại dạy họ nhớ từng câu từng câu để cầu nguyện với Chúa, những người dân quê ấy học rất chậm, nhưng cuối cùng cũng có thể nhớ hết bài cầu nguyện.
Qua sáng ngày hôm sau, vị giám mục rất phấn khởi rời khỏi họ đi qua địa phương khác, nhưng không biết sao mà thuyền mới đi không xa, thì thấy những người dân quê ấy giống như Đức Chúa Giê-su rất tự tại đi trên mặt nước, hổn hà hổn hển đến hỏi giám mục:-
- “Thứa Đức Cha, thật là mắc cở, chúng con quên mất không biết làm sao để nhớ kinh cầu nguyện với Chúa, Đức Cha có thể dạy lại cho chúng con thêm lần nữa được không ?”
Giám mục nhìn thấy như thế thì trố mắt ra, đồng thời cũng cảm thấy mình thấp kém, nói:
- “Các con là những người đơn thuần, nên cầu nguyện theo các kinh cầu trước đây mà các con đã dùng để cầu nguyện.”
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)
Suy tư:
Lời nói thành thật của tình yêu được phát xuất từ con tim, chứ không phải lời nói được viết sẵn trước trên giấy, lời cầu nguyện chân thành nhất vẫn cứ là lời cầu nguyện phát xuất từ tâm hồn chân thành yêu mến.
Có một vài đoàn thể trong giáo xứ khi hội họp đọc kinh cầu nguyện, thì mỗi người ôm theo cả một quyển sách kinh, đọc một lèo từ đầu đến cuối những kinh mà hội đoàn quy định, rồi sau đó họp hành to tiếng phê nhau, nặng lời với nhau, tại sao vậy ? Thưa là vì là lời cầu nguyện của họ không phát xuất từ tâm hồn yêu mến chân thành, chỉ là đọc những kinh đã được soạn sẵn –mà đôi lúc- họ không để ý đến nội dung của những kinh cầu nguyện ấy...
Vị giám mục Anh giáo đã muốn đám dân quê bỏ thói quen cầu nguyện đơn sơ chân thành của họ, để đọc những kinh cao siêu mà họ không hề cảm nghiệm được một chút tâm tình, nên quên mất tiêu khi ngài rời khỏi họ.
Dù có những lời kinh cảm động lòng người đã được soạn sẵn, nhưng nếu không có một tâm hồn chân thành mến yêu khi cầu nguyện, thì cũng chẳng ích chi cho linh hồn.
Lời cầu nguyện hay nhất chính là lời cầu nguyện phát xuất từ trong tâm hồn.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Thứ Tư Tuần Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
06:16 31/03/2015
THỨ TƯ TUẦN THÁNH
Giu-đa Is-ca-ri-ot đã phản bội thầy mình là Đức Chúa Giê-su, và đồng thời cũng đã phản bội bạn bè của mình là các tông đồ khi ông vì ham tiền mà đã bán Chúa. Một kinh nghiệm đau thương cho những người bị phản bội, một đau buồn cho những người -vì yêu thương vô vị lợi- mà không lên án xét xử kẻ phản bội.
Hôm nay, Đức Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy trở nên người bạn trung thành của Ngài, để bù đắp những đau khổ do Giu-đa Is-ca-ri-ot gây ra trong tâm hồn của Ngài.
1- Đức Chúa Giê-su mời gọi tôi làm bạn của Ngài.
“Nếu hôm nay anh em nghe tiếng Chúa thì chớ cứng lòng”.
Đức Chúa Giê-su đang nói với chúng ta, cách kêu gọi của Chúa khác hẳn với cách kêu gọi của loài người, mỗi người được Chúa kêu gọi cách khác nhau. Khi kêu gọi chúng ta Ngài không hứa sẽ đưa chúng ta đến cuộc sống an nhàn hay sung túc ở đời này, nhưng là hứa đưa chúng ta đến đời sống vĩnh cữu với Cha trên trời. Đức Chúa Giê-su đã để mắt đến chúng ta, khi thánh Luca đã cho chúng ta thấy có một chàng thanh niên đến hỏi Ngài về sự sống đời đời (Lc 18, 18-23)
Đức Chúa Giê-su mời gọi chúng ta trở nên bạn của Ngài: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền cho”. Ngài không gọi chúng ta là những tôi tớ, nhưng là bạn hữu, mà đã là bạn hữu thì được thông phần với bạn của mình. Ngài gọi chúng ta là bạn, vì :
- Ngài yêu thương chúng ta, Ngài muốn chúng ta kiên vững tin vào Ngài, Ngài yêu thưong chúng ta, tìm kiếm chúng ta như tìm con chiên lạc.
- Ngài đã làm người, đã hạ mình hết mức, đã giang rộng cánh tay để đón nhận chúng ta.
Ngài đã muốn hiện diện bên chúng ta, sát chúng ta, chúng ta không thấy Ngài nhưng Ngài vẫn có đó, đợi chờ và yêu thương tôi, như lời Ngài đã nói với thánh Tô-ma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin, nhưng phúc thay những người không thấy mà tin. ”Đức Chúa Giê-su vẫn ở mãi với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế trong bí tích Thánh Thể.
2. Câu trả lời của tôi.
Nếu Đức Chúa Giê-su ở trong tôi thì tôi phải làm gì ?
a. Đó là sự kết hợp với tinh thần của Chúa.
Bằng cách : không phạm tội trọng, không quay lưng với Ngài, luôn luôn lịch sự với Ngài, và năng chuyện trò với Ngài.
- Tôi phải cố gắng tìm hiểu Ngài thích gì, cần gì nơi tôi: đó là sự nguyện ngắm và yêu thương kết hợp với Ngài.
b. Kết hợp với hy sinh.
Bằng cách : từ bỏ ý riêng của mình, tức là đánh (cái) tôi, đánh ngã (cái) tôi và đánh chết (cái) tôi, đó là ba bứơc để trở nên người bạn thân thiết của Đức Chúa Giê-su.
3. Suy niệm.
A. Kết hợp với tinh thần của Chúa.
Tinh thần của Đức Chúa Giê-su mà chúng ta thấy rõ nhất khi Ngài cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, đó chính là tinh thần phó thác khi Ngài đang bị cơn đau khổ hành hạ, không phải nơi thân xác, nhưng là trong tâm hồn. Ngài đã phó thác trọn vẹn trong thánh ý của Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, phó thác là một hành vi, một sự tin tưởng tuyệt đối vào Đấng toàn năng, là Đấng có quyền cho và có quyền lấy lại...
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta rất dễ dàng kết hợp với Chúa khi chúng ta đau khổ, khi chúng ta gặp bất hạnh và chán chường, bởi vì -xét cho cùng- đau khổ chính là phương tiện mà Thiên Chúa đã dùng để tôi luyện tinh thần phó thác của chúng ta, Đức Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng không thoát khỏi sự thử thách ấy...
Để trở nên người bạn trung thành với Đức Chúa Giê-su, chúng ta phải có tinh thần của Ngài là tinh thần phó thác. Trong cơn hoạn nạn mới biết ai là bạn thân thiết, phó thác không có nghĩa là khoán trắng, nhưng phó thác với tình yêu và tin tưởng, đó chính là tinh thần phó thác đích thực của Đức Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu.
B. Kết hợp với hy sinh
Hy sinh tức là chịu mình thua thiệt, hy sinh tức là quên mình đi mà chỉ có tha nhân. Đức Chúa Giê-su đã làm như thế khi tự huỷ mình ra không để trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nơi Ngài chỉ có việc hy sinh vì con người là chính, và vì thế Ngài đã chết đi.
Có ba bước để đánh (cái) tôi, tức là hy sinh:
1. Đánh tôi.
2. Đánh ngã tôi.
3. Đánh chết tôi.
Hy sinh cũng là từ bỏ ý riêng của mình, ý riêng chính là cái tôi.
“Đánh tôi” tức là đánh cho cái tôi của mình không còn chiều theo tính xác thịt nữa, tính xác thịt tức là lòng tham sân si mà mỗi ngày ma quỷ luôn dùng như một khí cụ để cám dỗ chúng ta. Cái tôi, chúng ta đánh nó nhưng nếu không quyết tâm đánh thì nó lại ngóc đầu lên và càng kiêu ngạo thêm, do đó bước thứ hai phải là đánh ngã tôi.
“Đánh ngã tôi” tức là đánh phủ đầu bằng những việc hãm mình dẹp xác, bằng lời cầu nguyện liên lĩ, bằng sự chay tịnh và lãnh nhận các bí tích, lúc đó cái tôi sẽ không còn có hội đứng lên nữa mà phải đánh cho nó ngã. Nhưng ngã mà thôi thì cũng chưa đủ, bởi vì khi chúng ta té ngã thì chúng ta có thể lồm cồm đứng dậy, dù đứng dậy nghiêng ngã, cái tôi cũng vậy, nếu đánh nó ngã rồi thì nó cũng sẽ còn chỗi dậy, do đó, bước thứ ba phải là “đánh chết tôi.”
“Đánh chết tôi” rồi thì sẽ trở nên gần giống Đức Chúa Giê-su hơn, chết thì không thể đứng dậy, chết thì không thể còn ham muốn, nhưng bất động, thiêu huỷ và mất đi. Cái tôi của chúng ta cũng vậy cần phải đánh chết nó, nó mới không còn bò dậy để làm cho chúng ta sống trong cái tôi dục vọng của mình nữa. Đức Chúa Giê-su chỉ một bứơc mà Ngài đã đánh chết cái tôi của mình, một bước đó chính là yêu thương và vâng phục thánh ý của Cha, Ngài vì yêu thương Cha và yêu thương nhân loại tội lỗi nên đã quyết tâm đánh chết cái tôi của mình khi Ngài thưa với Chúa Cha: “...nhưng đừng xin theo ý con, mà xin theo ý Cha” .
“Đánh chết tôi” để trở nên người bạn đồng hình đồng dạng với Đức Chúa Giê-su đau khổ, chết và phục sinh; đánh chết tôi để mỗi người trong chúng ta trở nên tạo vật mới trong ân sủng của Thiên Chúa nhờ Đức Chúa Giê-su, Đấng mời gọi chúng ta, hết thảy, trở nên bạn thiết nghĩa của Ngài...
3. Cầu nguyện
Lạy Đức Chúa Giê-su,
Chúa đã mời gọi chúng con trở nên những người bạn thân thiết với Chúa, Chúa đã trở nên quá gần gủi với con người của chúng con khi giáng sinh nơi hang đá Bê-lem, và Chúa đã bày tỏ cho chúng con thấy tình yêu của Chúa đã dành cho chúng con quá đổi, khi Chúa đã chấp nhận chịu chết, thí mạng sống cho người mình yêu -là nhân loại tội lỗi- trên thập giá giữa đồi Cal-vê.
Xin Chúa ban cho chúng con, không chỉ trở nên bạn của Chúa trong những ngày của Tuần Thánh này, mà là mỗi giây phút trong cuộc đời của chúng con. Amen
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
N2T |
Giu-đa Is-ca-ri-ot đã phản bội thầy mình là Đức Chúa Giê-su, và đồng thời cũng đã phản bội bạn bè của mình là các tông đồ khi ông vì ham tiền mà đã bán Chúa. Một kinh nghiệm đau thương cho những người bị phản bội, một đau buồn cho những người -vì yêu thương vô vị lợi- mà không lên án xét xử kẻ phản bội.
Hôm nay, Đức Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy trở nên người bạn trung thành của Ngài, để bù đắp những đau khổ do Giu-đa Is-ca-ri-ot gây ra trong tâm hồn của Ngài.
1- Đức Chúa Giê-su mời gọi tôi làm bạn của Ngài.
“Nếu hôm nay anh em nghe tiếng Chúa thì chớ cứng lòng”.
Đức Chúa Giê-su đang nói với chúng ta, cách kêu gọi của Chúa khác hẳn với cách kêu gọi của loài người, mỗi người được Chúa kêu gọi cách khác nhau. Khi kêu gọi chúng ta Ngài không hứa sẽ đưa chúng ta đến cuộc sống an nhàn hay sung túc ở đời này, nhưng là hứa đưa chúng ta đến đời sống vĩnh cữu với Cha trên trời. Đức Chúa Giê-su đã để mắt đến chúng ta, khi thánh Luca đã cho chúng ta thấy có một chàng thanh niên đến hỏi Ngài về sự sống đời đời (Lc 18, 18-23)
Đức Chúa Giê-su mời gọi chúng ta trở nên bạn của Ngài: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền cho”. Ngài không gọi chúng ta là những tôi tớ, nhưng là bạn hữu, mà đã là bạn hữu thì được thông phần với bạn của mình. Ngài gọi chúng ta là bạn, vì :
- Ngài yêu thương chúng ta, Ngài muốn chúng ta kiên vững tin vào Ngài, Ngài yêu thưong chúng ta, tìm kiếm chúng ta như tìm con chiên lạc.
- Ngài đã làm người, đã hạ mình hết mức, đã giang rộng cánh tay để đón nhận chúng ta.
Ngài đã muốn hiện diện bên chúng ta, sát chúng ta, chúng ta không thấy Ngài nhưng Ngài vẫn có đó, đợi chờ và yêu thương tôi, như lời Ngài đã nói với thánh Tô-ma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin, nhưng phúc thay những người không thấy mà tin. ”Đức Chúa Giê-su vẫn ở mãi với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế trong bí tích Thánh Thể.
2. Câu trả lời của tôi.
Nếu Đức Chúa Giê-su ở trong tôi thì tôi phải làm gì ?
a. Đó là sự kết hợp với tinh thần của Chúa.
Bằng cách : không phạm tội trọng, không quay lưng với Ngài, luôn luôn lịch sự với Ngài, và năng chuyện trò với Ngài.
- Tôi phải cố gắng tìm hiểu Ngài thích gì, cần gì nơi tôi: đó là sự nguyện ngắm và yêu thương kết hợp với Ngài.
b. Kết hợp với hy sinh.
Bằng cách : từ bỏ ý riêng của mình, tức là đánh (cái) tôi, đánh ngã (cái) tôi và đánh chết (cái) tôi, đó là ba bứơc để trở nên người bạn thân thiết của Đức Chúa Giê-su.
3. Suy niệm.
A. Kết hợp với tinh thần của Chúa.
Tinh thần của Đức Chúa Giê-su mà chúng ta thấy rõ nhất khi Ngài cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, đó chính là tinh thần phó thác khi Ngài đang bị cơn đau khổ hành hạ, không phải nơi thân xác, nhưng là trong tâm hồn. Ngài đã phó thác trọn vẹn trong thánh ý của Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, phó thác là một hành vi, một sự tin tưởng tuyệt đối vào Đấng toàn năng, là Đấng có quyền cho và có quyền lấy lại...
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta rất dễ dàng kết hợp với Chúa khi chúng ta đau khổ, khi chúng ta gặp bất hạnh và chán chường, bởi vì -xét cho cùng- đau khổ chính là phương tiện mà Thiên Chúa đã dùng để tôi luyện tinh thần phó thác của chúng ta, Đức Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng không thoát khỏi sự thử thách ấy...
Để trở nên người bạn trung thành với Đức Chúa Giê-su, chúng ta phải có tinh thần của Ngài là tinh thần phó thác. Trong cơn hoạn nạn mới biết ai là bạn thân thiết, phó thác không có nghĩa là khoán trắng, nhưng phó thác với tình yêu và tin tưởng, đó chính là tinh thần phó thác đích thực của Đức Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu.
B. Kết hợp với hy sinh
Hy sinh tức là chịu mình thua thiệt, hy sinh tức là quên mình đi mà chỉ có tha nhân. Đức Chúa Giê-su đã làm như thế khi tự huỷ mình ra không để trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nơi Ngài chỉ có việc hy sinh vì con người là chính, và vì thế Ngài đã chết đi.
Có ba bước để đánh (cái) tôi, tức là hy sinh:
1. Đánh tôi.
2. Đánh ngã tôi.
3. Đánh chết tôi.
Hy sinh cũng là từ bỏ ý riêng của mình, ý riêng chính là cái tôi.
“Đánh tôi” tức là đánh cho cái tôi của mình không còn chiều theo tính xác thịt nữa, tính xác thịt tức là lòng tham sân si mà mỗi ngày ma quỷ luôn dùng như một khí cụ để cám dỗ chúng ta. Cái tôi, chúng ta đánh nó nhưng nếu không quyết tâm đánh thì nó lại ngóc đầu lên và càng kiêu ngạo thêm, do đó bước thứ hai phải là đánh ngã tôi.
“Đánh ngã tôi” tức là đánh phủ đầu bằng những việc hãm mình dẹp xác, bằng lời cầu nguyện liên lĩ, bằng sự chay tịnh và lãnh nhận các bí tích, lúc đó cái tôi sẽ không còn có hội đứng lên nữa mà phải đánh cho nó ngã. Nhưng ngã mà thôi thì cũng chưa đủ, bởi vì khi chúng ta té ngã thì chúng ta có thể lồm cồm đứng dậy, dù đứng dậy nghiêng ngã, cái tôi cũng vậy, nếu đánh nó ngã rồi thì nó cũng sẽ còn chỗi dậy, do đó, bước thứ ba phải là “đánh chết tôi.”
“Đánh chết tôi” rồi thì sẽ trở nên gần giống Đức Chúa Giê-su hơn, chết thì không thể đứng dậy, chết thì không thể còn ham muốn, nhưng bất động, thiêu huỷ và mất đi. Cái tôi của chúng ta cũng vậy cần phải đánh chết nó, nó mới không còn bò dậy để làm cho chúng ta sống trong cái tôi dục vọng của mình nữa. Đức Chúa Giê-su chỉ một bứơc mà Ngài đã đánh chết cái tôi của mình, một bước đó chính là yêu thương và vâng phục thánh ý của Cha, Ngài vì yêu thương Cha và yêu thương nhân loại tội lỗi nên đã quyết tâm đánh chết cái tôi của mình khi Ngài thưa với Chúa Cha: “...nhưng đừng xin theo ý con, mà xin theo ý Cha” .
“Đánh chết tôi” để trở nên người bạn đồng hình đồng dạng với Đức Chúa Giê-su đau khổ, chết và phục sinh; đánh chết tôi để mỗi người trong chúng ta trở nên tạo vật mới trong ân sủng của Thiên Chúa nhờ Đức Chúa Giê-su, Đấng mời gọi chúng ta, hết thảy, trở nên bạn thiết nghĩa của Ngài...
3. Cầu nguyện
Lạy Đức Chúa Giê-su,
Chúa đã mời gọi chúng con trở nên những người bạn thân thiết với Chúa, Chúa đã trở nên quá gần gủi với con người của chúng con khi giáng sinh nơi hang đá Bê-lem, và Chúa đã bày tỏ cho chúng con thấy tình yêu của Chúa đã dành cho chúng con quá đổi, khi Chúa đã chấp nhận chịu chết, thí mạng sống cho người mình yêu -là nhân loại tội lỗi- trên thập giá giữa đồi Cal-vê.
Xin Chúa ban cho chúng con, không chỉ trở nên bạn của Chúa trong những ngày của Tuần Thánh này, mà là mỗi giây phút trong cuộc đời của chúng con. Amen
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu Danh Ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
06:18 31/03/2015
N2T |
1. Thiên Chúa quyết không để sự khảng khái của loài người vượt qua sự rộng rãi của Ngài.
(Thánh Ignatius de Loyola)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Trích dịch trong "Cách ngôn thần học tu đức"
-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng Y Versaldi tân Tổng Trưởng Bộ giáo dục Công Giáo
Lm. Trần Đức Anh OP
09:00 31/03/2015
VATICAN. Hôm 31-3-2015, ĐTC đã bổ nhiệm ĐHY Giuseppe Versaldi làm Tân Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo.
ĐHY Versaldi năm nay 72 tuổi, người miền bắc Italia, nguyên là giáo sư giáo luật và tâm lý ở Đại Học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma, rồi làm GM giáo phận Alessandria và được bổ nhiệm làm Chủ tịch sở kinh tế tài chánh của Tòa Thánh hồi năm 2011. Nay cơ quan này bị nhập vào Văn phòng kinh tế của Tòa Thánh do ĐHY George Pell người Úc làm chủ tịch.
ĐHY Versaldi được bổ nhiệm thay thế ĐHY Zenon Grocholewski người Ba Lan, 76 tuổi (1939), về hưu sau 6 năm giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, là cơ quan đặc trách các Đại học, trường cao đẳng và trường học Công Giáo (SD 31-3-2015)
ĐHY Versaldi năm nay 72 tuổi, người miền bắc Italia, nguyên là giáo sư giáo luật và tâm lý ở Đại Học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma, rồi làm GM giáo phận Alessandria và được bổ nhiệm làm Chủ tịch sở kinh tế tài chánh của Tòa Thánh hồi năm 2011. Nay cơ quan này bị nhập vào Văn phòng kinh tế của Tòa Thánh do ĐHY George Pell người Úc làm chủ tịch.
ĐHY Versaldi được bổ nhiệm thay thế ĐHY Zenon Grocholewski người Ba Lan, 76 tuổi (1939), về hưu sau 6 năm giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, là cơ quan đặc trách các Đại học, trường cao đẳng và trường học Công Giáo (SD 31-3-2015)
Đại diện Tòa Thánh kêu gọi chấm dứt nạn bắt trẻ em đi lính
Lm. Trần Đức Anh OP
09:03 31/03/2015
NEW YORK. Đại diện Tòa Thánh cạnh các tổ chức LHQ ở New York, Đức TGM Bernardito Auza, kêu gọi cộng đồng quốc tế chấm dứt tệ nạn lạm dụng trẻ em trong các cuộc xung đột võ trang.
Trong bài tham luận hôm 25-3-2015 tại cuộc thảo luận của Hội đồng bảo an LHQ về đề tài ”Trẻ em trong các cuộc xung đột”, Đức TGM Auza, người Philippines, tố giác hiện tượng càng ngày càng có các nhóm khủng bố và các tổ chức không quốc gia (non-state) khác sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột võ trang. Chẳng hạn nguyên trong năm ngoái, tại Siria và Irak có hơn 10 ngàn trẻ em bị cưỡng bách trở thành chiến binh. ”Trong khi thế giới tìm kiếm các giải pháp, tất cả chúng ta phải đi bước đầu và đồng thanh khẳng định rằng việc tuyển mộ và sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột võ trang không những vi phạm trầm trọng công pháp quốc tế về nhân đạo và nhân quyền nhưng còn là một sự ác đáng kinh tớm, cần phải liên án. Lời khẳng định này không phải chỉ có các chính quyền phải đưa ra, nhưng tất cả các vị lãnh đạo xã hội, chính trị và tôn giáo cũng phải quyết liệt lên án việc làm ấy”.
Trong ý hướng đó, Vị Đại Diện Tòa Thánh kêu gọi cộng đồng quốc tế đừng quay lưng đối với các cuộc xung đột nhân danh quyền lợi chính trị quốc gia và sự bất đồng về chính trị địa lý với các nước khác... Trách nhiệm này không những đòi các chính phủ quốc gia phải bảo vệ các công dân của mình nhưng còn đòi cộng đồng quốc tế can thiệp khi các chính phủ quốc gia không có khả năng hoặc không muốn bảo vệ dân của mình. Trong trường hợp các tổ chức không quốc gia tuyển mộ và sử dụng các binh sĩ trẻ em trên thế giới hoặc phạm những tội ác bạo lực chống lại các nhóm tôn giáo hoặc chủng tộc thiểu số, khi một nhà nước không muốn hoặc không thể đương đầu với những hành vi tàn ác ái, thì Hội đồng bảo an LHQ có trách nhiệm cung cấp các phương thế quân sự để bảo vệ các công dân chống lại những kẻ gây hấn vô nhân đạo, khi không còn các phương thế khác nữa” (SD 31-3-2015)
Trong bài tham luận hôm 25-3-2015 tại cuộc thảo luận của Hội đồng bảo an LHQ về đề tài ”Trẻ em trong các cuộc xung đột”, Đức TGM Auza, người Philippines, tố giác hiện tượng càng ngày càng có các nhóm khủng bố và các tổ chức không quốc gia (non-state) khác sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột võ trang. Chẳng hạn nguyên trong năm ngoái, tại Siria và Irak có hơn 10 ngàn trẻ em bị cưỡng bách trở thành chiến binh. ”Trong khi thế giới tìm kiếm các giải pháp, tất cả chúng ta phải đi bước đầu và đồng thanh khẳng định rằng việc tuyển mộ và sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột võ trang không những vi phạm trầm trọng công pháp quốc tế về nhân đạo và nhân quyền nhưng còn là một sự ác đáng kinh tớm, cần phải liên án. Lời khẳng định này không phải chỉ có các chính quyền phải đưa ra, nhưng tất cả các vị lãnh đạo xã hội, chính trị và tôn giáo cũng phải quyết liệt lên án việc làm ấy”.
Trong ý hướng đó, Vị Đại Diện Tòa Thánh kêu gọi cộng đồng quốc tế đừng quay lưng đối với các cuộc xung đột nhân danh quyền lợi chính trị quốc gia và sự bất đồng về chính trị địa lý với các nước khác... Trách nhiệm này không những đòi các chính phủ quốc gia phải bảo vệ các công dân của mình nhưng còn đòi cộng đồng quốc tế can thiệp khi các chính phủ quốc gia không có khả năng hoặc không muốn bảo vệ dân của mình. Trong trường hợp các tổ chức không quốc gia tuyển mộ và sử dụng các binh sĩ trẻ em trên thế giới hoặc phạm những tội ác bạo lực chống lại các nhóm tôn giáo hoặc chủng tộc thiểu số, khi một nhà nước không muốn hoặc không thể đương đầu với những hành vi tàn ác ái, thì Hội đồng bảo an LHQ có trách nhiệm cung cấp các phương thế quân sự để bảo vệ các công dân chống lại những kẻ gây hấn vô nhân đạo, khi không còn các phương thế khác nữa” (SD 31-3-2015)
Tông Chiếu ấn định Năm Thánh Từ Bi sẽ được chính thức công bố ngày 11 tháng Tư
Đặng Tự Do
16:35 31/03/2015
Sau thông báo đầu tiên về Năm Thánh ngoại thường của Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra vào ngày 13 tháng Ba vừa qua khi cử hành Ngày Thống Hối tại Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha sẽ chính thức công bố Năm Thánh Từ Bi bằng một tông chiếu (bull) vào thứ Bảy 11 tháng 4, lúc 5:30 chiều tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
Nghi thức công bố sẽ bao gồm việc đọc các đoạn khác nhau của tông chiếu trước cửa Năm Thánh tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Đức Giáo Hoàng, sau đó, sẽ chủ sự buổi kinh chiều Vọng Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót. Cử chỉ này nhằm nhấn mạnh một cách đặc biệt chủ đề cơ bản của Năm Thánh ngoại thường này: đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Thuật ngữ Bull, từ tiếng La Tinh là Bulla, nguyên nghĩa là một vật hình tròn bằng kim loại được dùng để bảo vệ các con dấu sáp gắn với một sợi dây vào một tài liệu quan trọng để làm chứng cho tính xác thực và thẩm quyền của tài liệu ấy. Theo thời gian, thuật ngữ này bắt đầu được sử dụng đầu tiên để nói về con dấu, sau đó từ này được dùng để chỉ chính tài liệu. Ngày nay Bull (Tông chiếu hay sắc chỉ) được dùng để chỉ tất cả các văn kiện giáo hoàng có tầm quan trọng đặc biệt trong đó có đóng con dấu của Đức Thánh Cha.
Tông Chiếu ấn định Năm Thánh, đặc biệt là Năm Thánh Ngoại Thường, ngoài việc chỉ định thời gian cử hành – tức là ngày khai mạc và bế mạc, còn quy định cụ thể cách thức Năm Thánh được thực hiện và những yếu tố khác tạo thành tài liệu cơ bản nói lên tinh thần trong đó Năm Thánh được công bố, và những ý định và kết quả mong đợi của Đức Thánh Cha, là người đã quyết định mở ra Năm Thánh này cho Giáo Hội.
Hai Năm Thánh ngoại thường cuối cùng đã được các vị Giáo Hoàng công bố vào năm 1933 và 1983. Trong cả hai dịp này, tông chiếu ấn định Năm Thánh đã được công bố nhân dịp Đại Lễ Chúa Hiển Linh. Như vậy, việc công bố Năm Thánh 2015 vào chiều vọng Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa rõ ràng diễn tả sự quan tâm đặc biệt của Đức Thánh Cha đến chủ đề của Năm Thánh Từ Bi.
Nghi thức công bố sẽ bao gồm việc đọc các đoạn khác nhau của tông chiếu trước cửa Năm Thánh tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Đức Giáo Hoàng, sau đó, sẽ chủ sự buổi kinh chiều Vọng Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót. Cử chỉ này nhằm nhấn mạnh một cách đặc biệt chủ đề cơ bản của Năm Thánh ngoại thường này: đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Thuật ngữ Bull, từ tiếng La Tinh là Bulla, nguyên nghĩa là một vật hình tròn bằng kim loại được dùng để bảo vệ các con dấu sáp gắn với một sợi dây vào một tài liệu quan trọng để làm chứng cho tính xác thực và thẩm quyền của tài liệu ấy. Theo thời gian, thuật ngữ này bắt đầu được sử dụng đầu tiên để nói về con dấu, sau đó từ này được dùng để chỉ chính tài liệu. Ngày nay Bull (Tông chiếu hay sắc chỉ) được dùng để chỉ tất cả các văn kiện giáo hoàng có tầm quan trọng đặc biệt trong đó có đóng con dấu của Đức Thánh Cha.
Tông Chiếu ấn định Năm Thánh, đặc biệt là Năm Thánh Ngoại Thường, ngoài việc chỉ định thời gian cử hành – tức là ngày khai mạc và bế mạc, còn quy định cụ thể cách thức Năm Thánh được thực hiện và những yếu tố khác tạo thành tài liệu cơ bản nói lên tinh thần trong đó Năm Thánh được công bố, và những ý định và kết quả mong đợi của Đức Thánh Cha, là người đã quyết định mở ra Năm Thánh này cho Giáo Hội.
Hai Năm Thánh ngoại thường cuối cùng đã được các vị Giáo Hoàng công bố vào năm 1933 và 1983. Trong cả hai dịp này, tông chiếu ấn định Năm Thánh đã được công bố nhân dịp Đại Lễ Chúa Hiển Linh. Như vậy, việc công bố Năm Thánh 2015 vào chiều vọng Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa rõ ràng diễn tả sự quan tâm đặc biệt của Đức Thánh Cha đến chủ đề của Năm Thánh Từ Bi.
Đức Hồng Y Fernando Filoni: “Tôi ngưỡng mộ lòng quảng đại của nhiều người”
Đặng Tự Do
16:54 31/03/2015
Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc đã được Đức Thánh Cha gửi đến Iraq để bày tỏ sự gần gũi, tình cảm và tình hiệp thông trong lời cầu nguyện của ngài với “các gia đình Kitô và các nhóm khác là những nạn nhân đã bị trục xuất khỏi nhà cửa và làng mạc của họ, đặc biệt là ở thành phố Mosul và đồng bằng Nineveh, và nhiều người đã nương náu ở khu tự trị của người Kurd Iraq.”
Tháng 8 năm 2014, Đức Hồng Y Filoni đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi đến quốc gia châu Á này để thể hiện sự gần gũi tinh thần với những người đau khổ và kêu gọi tình liên đới của các tín hữu trên toàn thế giới với họ.
Trong bản tin đánh đi hôm 31 tháng Ba, thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết Đức Hồng Y Filoni đã đến Amman, thủ đô của Jordan hôm thứ Ba, nơi ngài đã đến thăm hai giáo xứ Công Giáo là những cộng đoàn đã chào đón và giúp đỡ tích cực những người tị nạn Iraq. Tại đây, Đức Hồng Y cũng đã gặp gỡ người đứng đầu Caritas Jordan.
Đức Hồng Y cho biết:
“Tôi cũng thấy việc chuẩn bị cho việc tiếp nhận khoảng hai mươi gia đình mới. Tôi ngưỡng mộ sự hào phóng của rất nhiều người. Thật là tốt đẹp để thấy rằng các gia đình có thể lấy lại phẩm giá của họ trong một bầu khí thân hữu trong giáo xứ này.”
Đức Hồng Y ghi nhận thêm:
“Giáo xứ Đức Maria Mẹ của Giáo Hội có một buổi học ban chiều dành cho những trẻ em tị nạn. Khoảng 300 trẻ em. Có cả một khóa dạy Anh Văn cho người lớn”.
Đức Hồng Y đã đến Baghdad vào đêm thứ Ba 31 tháng Ba.
Tháng 8 năm 2014, Đức Hồng Y Filoni đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi đến quốc gia châu Á này để thể hiện sự gần gũi tinh thần với những người đau khổ và kêu gọi tình liên đới của các tín hữu trên toàn thế giới với họ.
Trong bản tin đánh đi hôm 31 tháng Ba, thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết Đức Hồng Y Filoni đã đến Amman, thủ đô của Jordan hôm thứ Ba, nơi ngài đã đến thăm hai giáo xứ Công Giáo là những cộng đoàn đã chào đón và giúp đỡ tích cực những người tị nạn Iraq. Tại đây, Đức Hồng Y cũng đã gặp gỡ người đứng đầu Caritas Jordan.
Đức Hồng Y cho biết:
“Tôi cũng thấy việc chuẩn bị cho việc tiếp nhận khoảng hai mươi gia đình mới. Tôi ngưỡng mộ sự hào phóng của rất nhiều người. Thật là tốt đẹp để thấy rằng các gia đình có thể lấy lại phẩm giá của họ trong một bầu khí thân hữu trong giáo xứ này.”
Đức Hồng Y ghi nhận thêm:
“Giáo xứ Đức Maria Mẹ của Giáo Hội có một buổi học ban chiều dành cho những trẻ em tị nạn. Khoảng 300 trẻ em. Có cả một khóa dạy Anh Văn cho người lớn”.
Đức Hồng Y đã đến Baghdad vào đêm thứ Ba 31 tháng Ba.
Tòa Thánh tham gia triển lãm tại cuộc triển lãm Nghệ Thuật Venice lần thứ 56
Đặng Tự Do
17:32 31/03/2015
Tòa Thánh sẽ có một cuộc họp báo được tổ chức tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh hôm thứ Năm 09 tháng 4 lúc 11:30 sáng về quyết định của Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa tham gia triển lãm tại cuộc triển lãm nghệ thuật Venice lần thứ 56.
Cuộc triển lãm nghệ thuật quốc tế này sẽ diễn ra từ ngày 09 đến 22 tháng 11 năm 2015. Chủ đề của Tòa Thánh trong cuộc triển lãm này là "Từ khởi thủy ... Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể."
Các diễn giả tại cuộc họp báo này sẽ bao gồm:
Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, Tiến sĩ Paolo Baratta, Giám đốc của Venice Biennale; Tiến sĩ Micol Forti, Trưởng Bộ sưu tập nghệ thuật đương đại của Viện Bảo tàng Vatican.
Hai năm trước đây, Tòa Thánh cũng đã tham gia vào cuộc triển lãm này. Khu vực triển lãm của Tòa Thánh vào năm 2013 gồm ba phòng với các chủ đề là “Tạo Dựng”, “Băng hoại” và “Tái Tạo”.
Cuộc triển lãm nghệ thuật quốc tế tại Venice – thường được gọi là Venice Biennale - được khởi xướng từ năm 1895 và được tổ chức mỗi hai năm một lần
Quyết định tham gia của Tòa Thánh thể hiện quyết tâm đối thoại với thế giới. Thật vậy, trong nhiều trường hợp Venice Biennale bao gồm cả những tác phẩm nghệ thuật của các tác giả có khuynh hướng bài bác Kitô Giáo một cách cực đoan. Chẳng hạn, vào năm 1999, Maurizio Cattelan, một nghệ nhân người Ý có khuynh hướng bài bác tôn giáo cực đoan đã trưng bày một tác phẩm gọi là La Nona Ora, trong đó mô tả Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng sáp to bằng người thật đang bị một thiên thạch đánh trúng.
Cuộc triển lãm nghệ thuật quốc tế này sẽ diễn ra từ ngày 09 đến 22 tháng 11 năm 2015. Chủ đề của Tòa Thánh trong cuộc triển lãm này là "Từ khởi thủy ... Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể."
Các diễn giả tại cuộc họp báo này sẽ bao gồm:
Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, Tiến sĩ Paolo Baratta, Giám đốc của Venice Biennale; Tiến sĩ Micol Forti, Trưởng Bộ sưu tập nghệ thuật đương đại của Viện Bảo tàng Vatican.
Hai năm trước đây, Tòa Thánh cũng đã tham gia vào cuộc triển lãm này. Khu vực triển lãm của Tòa Thánh vào năm 2013 gồm ba phòng với các chủ đề là “Tạo Dựng”, “Băng hoại” và “Tái Tạo”.
Cuộc triển lãm nghệ thuật quốc tế tại Venice – thường được gọi là Venice Biennale - được khởi xướng từ năm 1895 và được tổ chức mỗi hai năm một lần
Quyết định tham gia của Tòa Thánh thể hiện quyết tâm đối thoại với thế giới. Thật vậy, trong nhiều trường hợp Venice Biennale bao gồm cả những tác phẩm nghệ thuật của các tác giả có khuynh hướng bài bác Kitô Giáo một cách cực đoan. Chẳng hạn, vào năm 1999, Maurizio Cattelan, một nghệ nhân người Ý có khuynh hướng bài bác tôn giáo cực đoan đã trưng bày một tác phẩm gọi là La Nona Ora, trong đó mô tả Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng sáp to bằng người thật đang bị một thiên thạch đánh trúng.
Tin vui cho các tín hữu Kitô Iraq tị nạn: Quân Iraq giải phóng được thành phố Tikrit tiến về Mosul
Nguyễn Việt Nam
22:08 31/03/2015
Chiến dịch tái chiếm lại thành phố Tikrit, quê hương của cựu Tổng thống Saddam Hussein, đã được bắt đầu từ ngày 2 tháng Ba và có lúc tưởng chừng như đã thất bại nhưng cuối cùng đã đạt được mục tiêu sau 48 giờ tấn công quyết liệt của quân đội Iraq.
Chiến thắng Tikrit có những giá trị tâm lý và chiến lược quan trọng trong cuộc chiến chống bọn khủng bố Hồi Giáo IS.
Thủ tướng Haider al-Abadi đã lên đài truyền hình thông báo cuộc giải phóng Tikrit và chúc mừng các lực lượng an ninh Iraq và coi chiến thắng này là một cột mốc lịch sử.
Ông cũng ca ngợi các nhóm bán quân sự của người Hồi Giáo Shiite và lực lượng dân quân Kitô Giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến đấu để giành lại Tikrit, một thành phố đã rơi vào tay bọn khủng bố Hồi Giáo IS vào trung tuần tháng Sáu năm ngoái.
Bộ trưởng Quốc phòng Khaled al-Obeidi đã có một cuộc họp với các tư lệnh chiến trường để bàn về kế hoạch tái chiếm Mosul, thành phố thứ hai của Iraq, lớn gần 10 lần so với kích thước của Tikrit, nơi bọn khủng bố Hồi Giáo IS đang kiểm soát một số lượng lớn dân thường.
Ông cho biết: "Chiến thắng này chỉ là một điểm khởi đầu mới để khởi động các hoạt động giải phóng khu vực Nineveh".
Giám mục Richard Williamson tiếp tục tấn phong Giám Mục trái phép
Nguyễn Việt Nam
22:26 31/03/2015
Hai “tiến chức Giám Mục” sẽ được tấn phong Giám Mục trái phép trong nay mai. “Giám Mục” trái phép Jean-Michel Faure là người được tấn phong hồi trung tuần tháng Ba trong một hành vi công khai thách thức Tòa Thánh đã tiết lộ như trên.
Linh mục Jean-Michel Faure, năm nay 73 tuổi cư ngụ tại tu viện Santa Cruz ở Nova Friburgo, Ba Tây đã được giám mục Richard Williamson tấn phong trái phép hôm 19 tháng Ba.
Việc tấn phong Giám Mục trái phép này khiến cả hai người đều vị vạ tuyệt thông tiền kết, nghĩa là tức khắc và đương nhiên bị vạ tuyệt thông, không cần một thông báo nào của Tòa Thánh.
Đây là lần thứ hai giám mục Richard Williamson bị vạ tuyệt thông. Lần đầu, là vào năm 1988, khi đương sự được Tổng Giám Mục Marcel Lefèbre tấn phong giám mục trái phép. Vạ tuyệt thông tiền kết này sau đó đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 tháo gỡ vào năm 2009 như một thiện chí mời gọi Huynh Đoàn Thánh Piô X trở về với Giáo Hội Công Giáo. Huynh Đoàn Thánh Piô X, là nhóm ly giáo do Tổng Giám Mục Lefèbre thành lập vào năm 1970 để chống lại những cải tổ của Công Đồng Vatican II.
Richard William, vốn xuất thân từ Anh Giáo, không đánh giá cao thiện chí của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, và vẫn tiếp tục giữ thái độ quá khích chống lại mọi cố gắng hàn gắn hay nhích lại gần Giáo Hội Công Giáo của Huynh Đoàn Thánh Piô X đến mức là năm 2012, đương sự bị chính Đức Cha Bernard Fellay, là lãnh đạo Huynh Đoàn, trục xuất ra khỏi nhóm.
“Ngụy Giám mục” Jean-Michel Faure đã được Tổng Giám Mục Lefèbre phong chức linh mục hồi năm 1977 cũng là một trong những người đã ly khai khỏi Huynh Đoàn Thánh Piô X để phản đối chủ trương từng bước quay về với Giáo Hội Công Giáo của Đức Cha Bernard Fellay.
Linh mục Jean-Michel Faure, năm nay 73 tuổi cư ngụ tại tu viện Santa Cruz ở Nova Friburgo, Ba Tây đã được giám mục Richard Williamson tấn phong trái phép hôm 19 tháng Ba.
Việc tấn phong Giám Mục trái phép này khiến cả hai người đều vị vạ tuyệt thông tiền kết, nghĩa là tức khắc và đương nhiên bị vạ tuyệt thông, không cần một thông báo nào của Tòa Thánh.
Đây là lần thứ hai giám mục Richard Williamson bị vạ tuyệt thông. Lần đầu, là vào năm 1988, khi đương sự được Tổng Giám Mục Marcel Lefèbre tấn phong giám mục trái phép. Vạ tuyệt thông tiền kết này sau đó đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 tháo gỡ vào năm 2009 như một thiện chí mời gọi Huynh Đoàn Thánh Piô X trở về với Giáo Hội Công Giáo. Huynh Đoàn Thánh Piô X, là nhóm ly giáo do Tổng Giám Mục Lefèbre thành lập vào năm 1970 để chống lại những cải tổ của Công Đồng Vatican II.
Richard William, vốn xuất thân từ Anh Giáo, không đánh giá cao thiện chí của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, và vẫn tiếp tục giữ thái độ quá khích chống lại mọi cố gắng hàn gắn hay nhích lại gần Giáo Hội Công Giáo của Huynh Đoàn Thánh Piô X đến mức là năm 2012, đương sự bị chính Đức Cha Bernard Fellay, là lãnh đạo Huynh Đoàn, trục xuất ra khỏi nhóm.
“Ngụy Giám mục” Jean-Michel Faure đã được Tổng Giám Mục Lefèbre phong chức linh mục hồi năm 1977 cũng là một trong những người đã ly khai khỏi Huynh Đoàn Thánh Piô X để phản đối chủ trương từng bước quay về với Giáo Hội Công Giáo của Đức Cha Bernard Fellay.
Đức Tổng Giám Mục Joseph Mitsuaki Takami của Nagasaki âu lo về tình trạng Giáo Hội tại Nhật Bản
Nguyễn Việt Nam
22:50 31/03/2015
Đức Tổng Giám Mục Joseph Mitsuaki Takami của Nagasaki, Nhật Bản, cho biết người Công Giáo trong giáo phận của ngài cảm nhận được “sự đau buồn, hối tiếc và mức độ sâu sắc của cuộc khủng hoảng đức tin” mà Giáo Hội nước này đang trải qua thể hiện cụ thể nơi sự suy giảm số tín hữu Công Giáo Nhật.
Các đánh giá trên được công bố hôm 17 tháng 3 trong một tài liệu được Đức Tổng Giám Mục nêu rõ là rút ra từ các kết luận của Công Nghị Giáo Phận đầu tiên được tổ chức vào năm 2014.
Tài liệu này xem xét một loạt các thách đố mà tổng giáo phận phải đối mặt và đề xuất các bước để vượt qua những gì Đức Tổng Giám mục Takami gọi là “sự tàn héo và yếu dần” của Giáo Hội.
Trong suốt 30 năm qua, dân số Công Giáo Nagasaki đã giảm từ 75,000 xuống còn 62,000. Trong năm 2013, chỉ có 44 người Công Giáo kết hôn.
“Trong đa số các gia đình, chỉ có một thành viên là Công Giáo,” Cha Mamoru Yamawaki, Chủ tịch Uỷ ban Công Nghị tổng giáo phận nói: “Các cuộc thảo luận, do đó, đã tập trung chú ý vào việc làm thế nào để giữ đức tin trong một gia đình như thế khi mà mọi người sống đức tin của họ như những cá nhân.”
Tài liệu cũng ghi nhận rằng cuộc sống tất bật, đầu tắt mặt tối đang đẩy giới trẻ xa lià Giáo Hội.
Các đánh giá trên được công bố hôm 17 tháng 3 trong một tài liệu được Đức Tổng Giám Mục nêu rõ là rút ra từ các kết luận của Công Nghị Giáo Phận đầu tiên được tổ chức vào năm 2014.
Tài liệu này xem xét một loạt các thách đố mà tổng giáo phận phải đối mặt và đề xuất các bước để vượt qua những gì Đức Tổng Giám mục Takami gọi là “sự tàn héo và yếu dần” của Giáo Hội.
Trong suốt 30 năm qua, dân số Công Giáo Nagasaki đã giảm từ 75,000 xuống còn 62,000. Trong năm 2013, chỉ có 44 người Công Giáo kết hôn.
“Trong đa số các gia đình, chỉ có một thành viên là Công Giáo,” Cha Mamoru Yamawaki, Chủ tịch Uỷ ban Công Nghị tổng giáo phận nói: “Các cuộc thảo luận, do đó, đã tập trung chú ý vào việc làm thế nào để giữ đức tin trong một gia đình như thế khi mà mọi người sống đức tin của họ như những cá nhân.”
Tài liệu cũng ghi nhận rằng cuộc sống tất bật, đầu tắt mặt tối đang đẩy giới trẻ xa lià Giáo Hội.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh lễ Truyền Dầu tại Giáo phận Hưng Hóa
BTT Hưng Hóa
12:40 31/03/2015
HƯNG HÓA - Vào lúc 9h00 sáng hôm nay, Thứ Ba Tuần Thánh, ngày 31.3.2015, Đức Cha Gioan Maria Vũ Tất đã cử Thánh lễ Làm Phép Dầu, tại Nhà thờ Giáo xứ Hoàng Xá - giáo phận Hưng Hóa.
Hình ảnh
Đồng tế Thánh lễ, có Đức Cha Phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long và tất cả các linh mục trong giáo phận, các linh mục ngoài giáo phận đến giúp Tuần Thánh, cùng tám thầy Tân Phó tế giúp lễ. Trong Thánh lễ này còn có sự hiện diện của đông đảo quý nam nữ tu sĩ và cộng đoàn dân Chúa trong toàn giáo phận.
Hoàng Xá là một giáo xứ toàn tòng Công Giáo, với khoảng 10 ngàn giáo dân và là giáo xứ đông nhất của giáo phận Hưng Hóa với bề dày lịch sử và cơ sở vật chất khá đầy đủ, khang trang. Đây cũng chính là giáo xứ mà cha Tổng Đại Diện Phêrô Phùng Văn Tôn đang coi sóc.
Mở đầu Thánh lễ, Đức Cha Gioan Maria Vũ Tất đã nói lên ý nghĩa của Thánh lễ Làm Phép Dầu. Lễ Dầu thể hiện sự hiệp nhất của linh mục đoàn với Giám mục giáo phận qua việc đồng tế và lập lại lời hứa ngày lãnh nhận chức vụ linh mục tư tế thừa tác của Chúa Kitô; đồng thời Lễ Dầu cũng nói lên sự hiệp thông của toàn thể Dân Chúa trong việc cầu nguyện cho các Đức Giám Mục, cho các Linh mục, cho anh chị em Dự tòng. Có thể nói đây là ngày lễ dành riêng cho các linh mục và cũng là ngày lễ thể hiện sự hiệp thông của mọi thành phần Dân Chúa trong Hội Thánh của Chúa Kitô.
Trong bài giảng lễ hôm nay, Đức Cha Phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long không chỉ giảng cho giáo dân nhưng còn đặc biệt ngỏ lời với tất cả các linh mục của giáo phận. Ngài nhấn mạnh đến Đức Vâng phục của người linh mục đối với Thiên Chúa được thê hiện qua sự Vâng phục các Giám mục Giáo phận. Ngài mong muốn các linh mục trong Giáo phận hãy Vâng phục Đấng Bản quyền theo gương Vâng phục của Đức Maria với ba từ: “FIAT- MAGNIFICAT và STABAT”; nghĩa là: Hãy xin vâng trong sự vui mừng để tôn vinh, chúc tụng, ngợi khen Chúa và luôn đứng vững trước mọi thử thách gian nan. Đức Cha Phụ tá cũng tha thiết kêu mời cộng đoàn Dân Chúa hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho các Giám mục, linh mục của giáo phận. Ngài nói: “Anh chị em giáo dân thân mến, tôi tha thiết xin anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, là những Giám mục, linh mục của anh chị em, được ơn trung thành đến cùng”.
Sau bài giảng lễ, Đức Giám Mục mời gọi các linh mục lặp lại lời tuyên hứa ngày lãnh nhận chức linh mục và cùng với cộng đoàn cầu nguyện cho hàng giáo sĩ được đầy tràn ân sủng, để trở nên những tôi tớ trung thành của Đức Kitô Thượng Tế.
Sau nghi thức lặp lại lời tuyên hứa của linh mục đoàn là phần Làm Phép Dầu. Sáu thầy Tân Phó tế và hai thầy giúp lễ rước các bình dầu và bánh rượu tiến lên gian Cung thánh trong lời ca của bài “Ôi Đấng Cứu Độ” linh thiêng. Các thầy đã giới thiệu với Đức Giám Mục ba loại dầu sẽ được truyền phép hôm nay. Đó là: dầu để thánh hiến thành Dầu Thánh Chrisma (SC), Dầu Bệnh nhân (OI) và Dầu Dự tòng (OS).
Tiếp đó, Đức Cha Gioan Maria đọc lời nguyện làm phép Dầu Bệnh nhân (OI), Dầu Dự tòng (OS) và thánh hiến Dầu Thánh (SC).
Thánh lễ tiếp tục với phần phụng vụ Thánh Thể như thường lệ. Cả cộng đoàn cùng sốt sáng hiệp ý với Chủ tế và đón nhận Mình Thánh Chúa trong tâm tình đặc biệt của Mùa Chay.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, một vị đại diện của giáo xứ Hoàng Xá có lời cám ơn quý Đức Cha, quý cha, quý nam nữ tu sĩ, quý khách chính quyền và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa đã đến với giáo xứ Hoàng Xá trong Thánh lễ Truyền Dầu long trọng hôm nay.
Thánh lễ kết thúc, các bình dầu đã làm phép được đoàn đồng tế rước về nhà thờ cũ. Đức Giám Mục sẽ trao các bình dầu này cho các cha Quản hạt phân phối cho các giáo xứ. Cộng đoàn ra về trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo phận một ngày đẹp trời, thuận lợi cho việc đi lại tham dự Thánh lễ của bà con giáo dân. Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho các Đức Giám Mục và các linh mục, để các ngài luôn sống như lời nhắn nhủ tâm tình của Mẹ Têrêsa Calculta: “Xin các cha hãy luôn dâng lễ sốt sắng như Thánh Lễ mở tay, như Thánh Lễ duy nhất và như Thánh lễ cuối cùng trong đời”. Amen.
Hình ảnh
Đồng tế Thánh lễ, có Đức Cha Phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long và tất cả các linh mục trong giáo phận, các linh mục ngoài giáo phận đến giúp Tuần Thánh, cùng tám thầy Tân Phó tế giúp lễ. Trong Thánh lễ này còn có sự hiện diện của đông đảo quý nam nữ tu sĩ và cộng đoàn dân Chúa trong toàn giáo phận.
Hoàng Xá là một giáo xứ toàn tòng Công Giáo, với khoảng 10 ngàn giáo dân và là giáo xứ đông nhất của giáo phận Hưng Hóa với bề dày lịch sử và cơ sở vật chất khá đầy đủ, khang trang. Đây cũng chính là giáo xứ mà cha Tổng Đại Diện Phêrô Phùng Văn Tôn đang coi sóc.
Mở đầu Thánh lễ, Đức Cha Gioan Maria Vũ Tất đã nói lên ý nghĩa của Thánh lễ Làm Phép Dầu. Lễ Dầu thể hiện sự hiệp nhất của linh mục đoàn với Giám mục giáo phận qua việc đồng tế và lập lại lời hứa ngày lãnh nhận chức vụ linh mục tư tế thừa tác của Chúa Kitô; đồng thời Lễ Dầu cũng nói lên sự hiệp thông của toàn thể Dân Chúa trong việc cầu nguyện cho các Đức Giám Mục, cho các Linh mục, cho anh chị em Dự tòng. Có thể nói đây là ngày lễ dành riêng cho các linh mục và cũng là ngày lễ thể hiện sự hiệp thông của mọi thành phần Dân Chúa trong Hội Thánh của Chúa Kitô.
Trong bài giảng lễ hôm nay, Đức Cha Phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long không chỉ giảng cho giáo dân nhưng còn đặc biệt ngỏ lời với tất cả các linh mục của giáo phận. Ngài nhấn mạnh đến Đức Vâng phục của người linh mục đối với Thiên Chúa được thê hiện qua sự Vâng phục các Giám mục Giáo phận. Ngài mong muốn các linh mục trong Giáo phận hãy Vâng phục Đấng Bản quyền theo gương Vâng phục của Đức Maria với ba từ: “FIAT- MAGNIFICAT và STABAT”; nghĩa là: Hãy xin vâng trong sự vui mừng để tôn vinh, chúc tụng, ngợi khen Chúa và luôn đứng vững trước mọi thử thách gian nan. Đức Cha Phụ tá cũng tha thiết kêu mời cộng đoàn Dân Chúa hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho các Giám mục, linh mục của giáo phận. Ngài nói: “Anh chị em giáo dân thân mến, tôi tha thiết xin anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, là những Giám mục, linh mục của anh chị em, được ơn trung thành đến cùng”.
Sau bài giảng lễ, Đức Giám Mục mời gọi các linh mục lặp lại lời tuyên hứa ngày lãnh nhận chức linh mục và cùng với cộng đoàn cầu nguyện cho hàng giáo sĩ được đầy tràn ân sủng, để trở nên những tôi tớ trung thành của Đức Kitô Thượng Tế.
Sau nghi thức lặp lại lời tuyên hứa của linh mục đoàn là phần Làm Phép Dầu. Sáu thầy Tân Phó tế và hai thầy giúp lễ rước các bình dầu và bánh rượu tiến lên gian Cung thánh trong lời ca của bài “Ôi Đấng Cứu Độ” linh thiêng. Các thầy đã giới thiệu với Đức Giám Mục ba loại dầu sẽ được truyền phép hôm nay. Đó là: dầu để thánh hiến thành Dầu Thánh Chrisma (SC), Dầu Bệnh nhân (OI) và Dầu Dự tòng (OS).
Tiếp đó, Đức Cha Gioan Maria đọc lời nguyện làm phép Dầu Bệnh nhân (OI), Dầu Dự tòng (OS) và thánh hiến Dầu Thánh (SC).
Thánh lễ tiếp tục với phần phụng vụ Thánh Thể như thường lệ. Cả cộng đoàn cùng sốt sáng hiệp ý với Chủ tế và đón nhận Mình Thánh Chúa trong tâm tình đặc biệt của Mùa Chay.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, một vị đại diện của giáo xứ Hoàng Xá có lời cám ơn quý Đức Cha, quý cha, quý nam nữ tu sĩ, quý khách chính quyền và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa đã đến với giáo xứ Hoàng Xá trong Thánh lễ Truyền Dầu long trọng hôm nay.
Thánh lễ kết thúc, các bình dầu đã làm phép được đoàn đồng tế rước về nhà thờ cũ. Đức Giám Mục sẽ trao các bình dầu này cho các cha Quản hạt phân phối cho các giáo xứ. Cộng đoàn ra về trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo phận một ngày đẹp trời, thuận lợi cho việc đi lại tham dự Thánh lễ của bà con giáo dân. Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho các Đức Giám Mục và các linh mục, để các ngài luôn sống như lời nhắn nhủ tâm tình của Mẹ Têrêsa Calculta: “Xin các cha hãy luôn dâng lễ sốt sắng như Thánh Lễ mở tay, như Thánh Lễ duy nhất và như Thánh lễ cuối cùng trong đời”. Amen.
Đại lễ Truyền Dầu và khai mạc Năm Thánh tại giáo phận Vinh
Jos.Trọng Tấn
20:17 31/03/2015
Đại lễ Truyền Dầu và khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 170 năm thành lập giáo phận Vinh
387 năm sau ngày cha Đắc Lộ đặt chân đến và gieo những hạt giống Tin Mừng đầu tiên trên vùng đất Nghệ – Tĩnh – Bình. 170 năm - một cột mốc đáng nhớ trong hành trình Đức tin đầy ân sủng của giáo đoàn Vinh dưới sự quan phòng của Thiên Chúa và sự đồng hành chở che của Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời, Bổn Mạng giáo phận.
Xem Hình
Để mừng sự kiện trọng đại đó, Tòa Giám Mục đã gửi Thư thỉnh nguyện xin mở Năm Thánh giáo phận tới Tòa Thánh Vatican. Thừa lệnh Đức Thánh Cha Phanxicô, Tòa Ân Giải Tối Cao đã ban phép cho Giáo phận Vinh mở Năm Thánh từ 27/3/2015 đến 27/3/2016 mừng kỷ niệm 170 năm thành lập Giáo phận. Đây là một thời điểm kỷ niệm đặc biệt và là cơ hội để giáo đoàn Vinh nhìn về quá khứ với niềm cảm tạ Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, và cũng nhằm chấn hưng hiện tại và hướng tới tương lai trên hành trình Đức tin của mình.
Sáng hôm nay, thứ Ba 31/03/2015, một biến cố trọng đại trong năm kỷ niệm đặc biệt, tại nhà thờ Chính tòa Xã Đoài, trung tâm của cả Giáo phận Vinh đã diễn ra Thánh lễ Truyền Dầu và Khai mạc Năm Thánh mừng kỷ niệm 170 thành lập Giáo phận. Thánh lễ có sự hiện diện của mọi thành phần Dân Chúa: Đức cha Phaolô – chủ chăn giáo phận, Đức cha Phụ tá Phêrô, Đức cha Phaolô Maria, toàn thể Linh mục đoàn đang phục vụ tại giáo phận Vinh, các Đại chủng sinh và Tiền chủng sinh, các Tu sỹ nam nữ thuộc các Hội Dòng, đại diện các Hội đoàn, đại diện Hội đồng Mục vụ của 189 giáo xứ trong toàn Giáo phận và hàng chục ngàn bà con giáo dân giáo hạt Xã Đoài. Trong Thánh lễ này, Đức Giám Mục Phaolô đã hiến thánh Dầu Thánh, làm phép Dầu Bệnh nhân và Dầu Dự tòng, tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập bí tích Truyền chức Thánh.
170 năm - hành trình Đức tin đầy ân sủng
Ngược dòng lịch sử, hạt giống Tin Mừng được gieo vãi trên vùng đất Nghệ - Tĩnh - Bình, tức lãnh thổ giáo phận Vinh ngày nay từ rất sớm. Nhưng một cách chính xác, phải nói đó là năm 1629, tức là 2 năm sau khi nhà truyền giáo vĩ đại cha Ðắc Lộ đặt chân lên Cửa Bạng, Thanh Hóa ngày 19/03/1627. Năm 1629, cha Ðắc Lộ và cha P. Marques ở Thăng Long, bị bức xuống thuyền theo đường biển vào Nam để về Macao. Ðoàn tranh thủ giảng Đạo tại những cửa biển thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình: Cửa Chúa, Cửa Lò, Cửa Rùm, Cửa Sót. Qua dòng thời gian, những hạt giống đức tin đã không ngừng bén rễ sâu, phát triển và trổ sinh hoa trái trên khắp vùng đất Nghệ - Tĩnh - Bình. Công cuộc truyền giáo ngày càng phát triển và ổn định, số giáo hữu ngày càng tăng. Nhận thấy công cuộc truyền giáo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, năm 1659 Tòa Thánh chính thức ban sắc lệnh thành lập 2 Giáo phận mới: Giáo Phận Ðàng Ngoài, từ tỉnh Quảng Bình trở ra, được giao cho Ðức cha Francois Fallu coi sóc, và Giáo Phận Ðàng Trong, từ Huế trở vào Nam, được giao cho Ðức cha Lambert de la Motte coi sóc. Sau đó, khi số giáo dân tăng rất nhanh, Giáo phận Ðàng Ngoài lại chia ra thành 2 Giáo phận mới nữa: Giáo phận Ðông Ðàng Ngoài, gồm Hải Phòng và các tỉnh phía Đông Bắc, và Giáo phận Tây Ðàng Ngoài, từ Hà Nội cho tới Quảng Bình.
Ngày 27/3/1846, giáo phận Vinh được chính thức thành lập, tách ra từ Giáo phận Tây Đàng Ngoài, Ðức cha Gauthier Ngô Gia Hậu được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục tiên khởi. Đây là biến cố trọng đại đánh dấu bước phát triển lớn lao trong công cuộc truyền giáo tại vùng đất Nghệ – Tĩnh – Bình. 170 năm hành trình Đức tin của giáo đoàn Vinh từ đó đến nay trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, bao thử thách khắc nghiệt của thời cuộc, nhưng nhờ tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa, dưới cánh tay giữ gìn của Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, giáo đoàn Vinh đã không ngừng phát triển và lớn mạnh.
Năm Thánh Giáo phận Vinh: “Tri ân quá khứ – chấn hưng hiện tại – vững bước tương lai”
8h30, đoàn rước nhập lễ bắt đầu từ Tòa Giám mục tiến ra nhà thờ Chính tòa. Đoàn rước với đủ mọi thành phần con cái Vinh: Đức cha Phaolô – chủ chăn giáo phận, chủ tế thánh lễ, Đức cha phụ tá Phêrô, Đức cha Phaolô Maria, toàn thể linh mục đang phục vụ tại giáo phận Vinh; đại diện Hội đồng Mục vụ của 189 giáo xứ, Đại chủng sinh và Tiền chủng sinh, đại diện các Hội Dòng và các Hội Đoàn. Đoàn rước bước đi trong sự chào đón và hợp lòng của hàng chục ngàn bà con giáo dân giáo hạt Chính tòa Xã Đoài.
Trước giờ khai lễ, Đức cha phụ tá Phêrô đã công bố sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao cho phép Giáo phận Vinh mở Năm Thánh, theo đó Năm Thánh mừng kỷ niệm 170 năm thành lập Giáo phận Vinh được chính thức khai mạc. Từ hôm nay, cánh cửa Năm Hồng Ân sẽ được mở ra cho toàn Giáo phận, và dòng chảy ân sủng sẽ được tuôn trào đến mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận Vinh.
Năm Thánh được mở ra như là thời gian ân sủng đặc biệt để mọi thành phần con cái Giáo đoàn Vinh cảm nhận tình thương của Thiên Chúa và sự chở che của Đức Maria Hồn Xác Lên Trời trong suốt dòng thời gian qua. Năm Thánh cũng giúp mỗi người con trong toàn Giáo phận canh tân đời sống, đem tình yêu và ơn lành của Chúa đến cho tha nhân, và cũng là thời điểm thuận lợi để tái khám phá giá trị của Tin Mừng, ý thức hơn vai trò, trách nhiệm chứng tá Đức tin của mình trong thời đại hôm nay.
Lễ Truyền Dầu: dấu chỉ của mối dây hiệp thông
Dầu là dấu chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Trên hết là Dầu Thánh còn được gọi là Dầu Chrisma được dùng trong ba bí tích có ghi ấn tín: Được xức cho các tân tòng trong Bí tích Rửa Tội, cho các Kitô hữu trong Bí tích Thêm Sức, cho các linh mục và một cách sung mãn cho các Giám mục trong Bí tích Truyền Chức. Dầu này còn được dùng để xức khi cung hiến bàn thờ và nhà thờ. Dầu Bệnh Nhân dùng để xức cho các bệnh nhân. Hội Thánh xin Chúa xoa dịu thân xác các bệnh nhân, viếng thăm và làm cho các bệnh nhân được vững mạnh trong đức tin và niềm hy vọng, giải thoát và làm thuyên giảm những đau đớn. Dầu Dự Tòng được xức cho các dự tòng trước khi Rửa Tội, để qua việc xức dầu này, Hội Thánh xin Chúa ban sức mạnh cho các dự tòng biết chống lại tội lỗi và sự ác để chuẩn bị gia nhập trọn vẹn vào Hội Thánh Chúa.
Lễ Dầu hôm nay còn diễn tả mối hiệp thông sống động giữa linh mục đoàn với Đức Giám Mục của mình. Giám mục được xức Dầu Thánh trên đầu để nhận Chúa Thánh Thần, thủ lãnh cho sứ vụ lãnh đạo Dân Chúa, chia sẻ chức tư tế viên mãn với Đức Kitô. Linh mục được xức dầu trong lòng bàn tay để xứng đáng dâng hy lễ thánh là Đức Kitô Giêsu lên Chúa Cha và như cánh tay nồi dài của Giám mục để thể hiện sự thông phần vào chức tư tế viên mãn của Giám mục. Và sự hiệp thông đó lại được củng cố bằng việc các linh mục lập lại lời hứa khi chịu chức với xác quyết trung thành, vâng phục, phụng sự Chúa và Giáo Hội; Sự hiệp thông đó còn thể hiện khi các linh mục đồng tế cộng tác Đức Giám mục trong việc thánh hiến Dầu thánh. Lễ Dầu mời gọi các linh mục diễn tả sống động dấu chỉ của đức tin, dấu chỉ của ơn gọi mà các ngài đã và đang dấn bước.
Bên cạnh đó, Lễ Dầu còn biểu thị sinh động mối hiệp thông giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn của mình. Mỗi Kitô hữu đều đã được xức Dầu trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, vì thế, tất cả mọi người đều được thông phần vào chức tư tế cộng đồng và được liên kết với nhau trong ân sủng của Thiên Chúa. Mối dây hiệp thông đó mời gọi mỗi người cộng tác với Đức Giám mục và linh mục là những tư tế thừa tác để không ngừng làm chứng cho Thiên Chúa, nhờ đó ánh sáng Tin Mừng sẽ được chiếu toả mạnh mẽ, xuyên qua mọi nghịch cảnh và thấm đẫm vào mọi ngõ ngách cuộc đời.
170 năm qua, con thuyền Giáo phận vẫn băng băng lướt sóng dưới sự bao bọc và chở che của ân sủng, mặc cho những cơn phong ba bão táp. Năm Thánh đã được mở ra, Mẹ Giáo phận không ngừng mời gọi con cái mình, từng cá nhân, gia đình, cộng đoàn giáo xứ luôn biết sám hối và canh tân đời sống để nên thánh, và nhờ đó làm cho những người khác cũng được thuộc về Dân Thánh. Đó chính là những hành động thiết thực nhất để mỗi người con giáo phận Vinh hôm nay tạ ơn Chúa và tri ân các bậc tiền nhân.
GP Vinh
387 năm sau ngày cha Đắc Lộ đặt chân đến và gieo những hạt giống Tin Mừng đầu tiên trên vùng đất Nghệ – Tĩnh – Bình. 170 năm - một cột mốc đáng nhớ trong hành trình Đức tin đầy ân sủng của giáo đoàn Vinh dưới sự quan phòng của Thiên Chúa và sự đồng hành chở che của Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời, Bổn Mạng giáo phận.
Xem Hình
Để mừng sự kiện trọng đại đó, Tòa Giám Mục đã gửi Thư thỉnh nguyện xin mở Năm Thánh giáo phận tới Tòa Thánh Vatican. Thừa lệnh Đức Thánh Cha Phanxicô, Tòa Ân Giải Tối Cao đã ban phép cho Giáo phận Vinh mở Năm Thánh từ 27/3/2015 đến 27/3/2016 mừng kỷ niệm 170 năm thành lập Giáo phận. Đây là một thời điểm kỷ niệm đặc biệt và là cơ hội để giáo đoàn Vinh nhìn về quá khứ với niềm cảm tạ Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, và cũng nhằm chấn hưng hiện tại và hướng tới tương lai trên hành trình Đức tin của mình.
Sáng hôm nay, thứ Ba 31/03/2015, một biến cố trọng đại trong năm kỷ niệm đặc biệt, tại nhà thờ Chính tòa Xã Đoài, trung tâm của cả Giáo phận Vinh đã diễn ra Thánh lễ Truyền Dầu và Khai mạc Năm Thánh mừng kỷ niệm 170 thành lập Giáo phận. Thánh lễ có sự hiện diện của mọi thành phần Dân Chúa: Đức cha Phaolô – chủ chăn giáo phận, Đức cha Phụ tá Phêrô, Đức cha Phaolô Maria, toàn thể Linh mục đoàn đang phục vụ tại giáo phận Vinh, các Đại chủng sinh và Tiền chủng sinh, các Tu sỹ nam nữ thuộc các Hội Dòng, đại diện các Hội đoàn, đại diện Hội đồng Mục vụ của 189 giáo xứ trong toàn Giáo phận và hàng chục ngàn bà con giáo dân giáo hạt Xã Đoài. Trong Thánh lễ này, Đức Giám Mục Phaolô đã hiến thánh Dầu Thánh, làm phép Dầu Bệnh nhân và Dầu Dự tòng, tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập bí tích Truyền chức Thánh.
170 năm - hành trình Đức tin đầy ân sủng
Ngược dòng lịch sử, hạt giống Tin Mừng được gieo vãi trên vùng đất Nghệ - Tĩnh - Bình, tức lãnh thổ giáo phận Vinh ngày nay từ rất sớm. Nhưng một cách chính xác, phải nói đó là năm 1629, tức là 2 năm sau khi nhà truyền giáo vĩ đại cha Ðắc Lộ đặt chân lên Cửa Bạng, Thanh Hóa ngày 19/03/1627. Năm 1629, cha Ðắc Lộ và cha P. Marques ở Thăng Long, bị bức xuống thuyền theo đường biển vào Nam để về Macao. Ðoàn tranh thủ giảng Đạo tại những cửa biển thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình: Cửa Chúa, Cửa Lò, Cửa Rùm, Cửa Sót. Qua dòng thời gian, những hạt giống đức tin đã không ngừng bén rễ sâu, phát triển và trổ sinh hoa trái trên khắp vùng đất Nghệ - Tĩnh - Bình. Công cuộc truyền giáo ngày càng phát triển và ổn định, số giáo hữu ngày càng tăng. Nhận thấy công cuộc truyền giáo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, năm 1659 Tòa Thánh chính thức ban sắc lệnh thành lập 2 Giáo phận mới: Giáo Phận Ðàng Ngoài, từ tỉnh Quảng Bình trở ra, được giao cho Ðức cha Francois Fallu coi sóc, và Giáo Phận Ðàng Trong, từ Huế trở vào Nam, được giao cho Ðức cha Lambert de la Motte coi sóc. Sau đó, khi số giáo dân tăng rất nhanh, Giáo phận Ðàng Ngoài lại chia ra thành 2 Giáo phận mới nữa: Giáo phận Ðông Ðàng Ngoài, gồm Hải Phòng và các tỉnh phía Đông Bắc, và Giáo phận Tây Ðàng Ngoài, từ Hà Nội cho tới Quảng Bình.
Ngày 27/3/1846, giáo phận Vinh được chính thức thành lập, tách ra từ Giáo phận Tây Đàng Ngoài, Ðức cha Gauthier Ngô Gia Hậu được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục tiên khởi. Đây là biến cố trọng đại đánh dấu bước phát triển lớn lao trong công cuộc truyền giáo tại vùng đất Nghệ – Tĩnh – Bình. 170 năm hành trình Đức tin của giáo đoàn Vinh từ đó đến nay trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, bao thử thách khắc nghiệt của thời cuộc, nhưng nhờ tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa, dưới cánh tay giữ gìn của Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, giáo đoàn Vinh đã không ngừng phát triển và lớn mạnh.
Năm Thánh Giáo phận Vinh: “Tri ân quá khứ – chấn hưng hiện tại – vững bước tương lai”
8h30, đoàn rước nhập lễ bắt đầu từ Tòa Giám mục tiến ra nhà thờ Chính tòa. Đoàn rước với đủ mọi thành phần con cái Vinh: Đức cha Phaolô – chủ chăn giáo phận, chủ tế thánh lễ, Đức cha phụ tá Phêrô, Đức cha Phaolô Maria, toàn thể linh mục đang phục vụ tại giáo phận Vinh; đại diện Hội đồng Mục vụ của 189 giáo xứ, Đại chủng sinh và Tiền chủng sinh, đại diện các Hội Dòng và các Hội Đoàn. Đoàn rước bước đi trong sự chào đón và hợp lòng của hàng chục ngàn bà con giáo dân giáo hạt Chính tòa Xã Đoài.
Trước giờ khai lễ, Đức cha phụ tá Phêrô đã công bố sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao cho phép Giáo phận Vinh mở Năm Thánh, theo đó Năm Thánh mừng kỷ niệm 170 năm thành lập Giáo phận Vinh được chính thức khai mạc. Từ hôm nay, cánh cửa Năm Hồng Ân sẽ được mở ra cho toàn Giáo phận, và dòng chảy ân sủng sẽ được tuôn trào đến mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận Vinh.
Năm Thánh được mở ra như là thời gian ân sủng đặc biệt để mọi thành phần con cái Giáo đoàn Vinh cảm nhận tình thương của Thiên Chúa và sự chở che của Đức Maria Hồn Xác Lên Trời trong suốt dòng thời gian qua. Năm Thánh cũng giúp mỗi người con trong toàn Giáo phận canh tân đời sống, đem tình yêu và ơn lành của Chúa đến cho tha nhân, và cũng là thời điểm thuận lợi để tái khám phá giá trị của Tin Mừng, ý thức hơn vai trò, trách nhiệm chứng tá Đức tin của mình trong thời đại hôm nay.
Lễ Truyền Dầu: dấu chỉ của mối dây hiệp thông
Dầu là dấu chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Trên hết là Dầu Thánh còn được gọi là Dầu Chrisma được dùng trong ba bí tích có ghi ấn tín: Được xức cho các tân tòng trong Bí tích Rửa Tội, cho các Kitô hữu trong Bí tích Thêm Sức, cho các linh mục và một cách sung mãn cho các Giám mục trong Bí tích Truyền Chức. Dầu này còn được dùng để xức khi cung hiến bàn thờ và nhà thờ. Dầu Bệnh Nhân dùng để xức cho các bệnh nhân. Hội Thánh xin Chúa xoa dịu thân xác các bệnh nhân, viếng thăm và làm cho các bệnh nhân được vững mạnh trong đức tin và niềm hy vọng, giải thoát và làm thuyên giảm những đau đớn. Dầu Dự Tòng được xức cho các dự tòng trước khi Rửa Tội, để qua việc xức dầu này, Hội Thánh xin Chúa ban sức mạnh cho các dự tòng biết chống lại tội lỗi và sự ác để chuẩn bị gia nhập trọn vẹn vào Hội Thánh Chúa.
Lễ Dầu hôm nay còn diễn tả mối hiệp thông sống động giữa linh mục đoàn với Đức Giám Mục của mình. Giám mục được xức Dầu Thánh trên đầu để nhận Chúa Thánh Thần, thủ lãnh cho sứ vụ lãnh đạo Dân Chúa, chia sẻ chức tư tế viên mãn với Đức Kitô. Linh mục được xức dầu trong lòng bàn tay để xứng đáng dâng hy lễ thánh là Đức Kitô Giêsu lên Chúa Cha và như cánh tay nồi dài của Giám mục để thể hiện sự thông phần vào chức tư tế viên mãn của Giám mục. Và sự hiệp thông đó lại được củng cố bằng việc các linh mục lập lại lời hứa khi chịu chức với xác quyết trung thành, vâng phục, phụng sự Chúa và Giáo Hội; Sự hiệp thông đó còn thể hiện khi các linh mục đồng tế cộng tác Đức Giám mục trong việc thánh hiến Dầu thánh. Lễ Dầu mời gọi các linh mục diễn tả sống động dấu chỉ của đức tin, dấu chỉ của ơn gọi mà các ngài đã và đang dấn bước.
Bên cạnh đó, Lễ Dầu còn biểu thị sinh động mối hiệp thông giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn của mình. Mỗi Kitô hữu đều đã được xức Dầu trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, vì thế, tất cả mọi người đều được thông phần vào chức tư tế cộng đồng và được liên kết với nhau trong ân sủng của Thiên Chúa. Mối dây hiệp thông đó mời gọi mỗi người cộng tác với Đức Giám mục và linh mục là những tư tế thừa tác để không ngừng làm chứng cho Thiên Chúa, nhờ đó ánh sáng Tin Mừng sẽ được chiếu toả mạnh mẽ, xuyên qua mọi nghịch cảnh và thấm đẫm vào mọi ngõ ngách cuộc đời.
170 năm qua, con thuyền Giáo phận vẫn băng băng lướt sóng dưới sự bao bọc và chở che của ân sủng, mặc cho những cơn phong ba bão táp. Năm Thánh đã được mở ra, Mẹ Giáo phận không ngừng mời gọi con cái mình, từng cá nhân, gia đình, cộng đoàn giáo xứ luôn biết sám hối và canh tân đời sống để nên thánh, và nhờ đó làm cho những người khác cũng được thuộc về Dân Thánh. Đó chính là những hành động thiết thực nhất để mỗi người con giáo phận Vinh hôm nay tạ ơn Chúa và tri ân các bậc tiền nhân.
GP Vinh
Tài Liệu - Sưu Khảo
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (2)
Vũ Van An
00:07 31/03/2015
II. Cuộc Khổ Nạn theo cái nhìn của Thánh Máccô
Một phần vì Tin Mừng Chúa Nhật Khổ Nạn năm nay trích từ Tin Mừng Máccô, phần khác vì dù gì Tin Mừng này cũng được phần đông các học giả Thánh Kinh coi là Tin Mừng đầu hết, nên chúng tôi xin bắt đầu việc đọc cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Tin Mừng này.
Linh mục Donald Senior, C.P., cho rằng: giống như toàn bộ Tin Mừng của ngài, trình thuật Khổ Nạn của Thánh Máccô khá ngắn gọn nhưng cô đọng, chuyển động nhanh và ám ảnh ta không thôi từ biến cố Bữa Tiệc Ly cho tới cái chết và việc chôn cất Chúa Giêsu.
1. Khổ Nạn bắt đầu với lòng trung thành và sự phản bội: Mc 14:1-11
Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Ðức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Ðừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động".
Lúc đó, Ðức Giêsu đang ở làng Bêtania, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: "Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo". Rồi họ gắt gỏng với cô. Nhưng Ðức Giêsu bảo họ: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Ðiều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô".
Và Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.
Thánh Máccô bắt đầu trình thuật Khổ Nạn bằng ba câu truyện âm mưu, phản bội và trung thành. Các kẻ thù của Chúa Giêsu, thông thường là phe Biệt Phái và nay các tư tế và trưởng lão tại Giêrusalem, chưa bao giờ từ bỏ các đặc điểm mà Thánh Máccô vốn dùng để mô tả họ ngay từ đầu Tin Mừng của ngài: Họ từng săn đuổi Chúa Giêsu lúc Người thi hành thừa tác vụ tại Galilê và càng tăng cường hơn nữa sự chống đối của họ đối với giáo huấn của Người khi Người tới Giêrusalem. Giờ đây, lòng thù hận khôn nguôi của họ được đóng ấn bằng một âm mưu sát hại Người.
Tuy nhiên, một yếu tố mới khiến ta rùng mình đã được thêm vào: Giuđa, một trong các môn đệ của Chúa Giêsu, vốn được tuyển lựa, yêu thương và ủy thác tham gia vào sứ mệnh của Chúa Giêsu, đi gặp các lãnh tụ và hứa sẽ phản bội Thầy mình. Các lãnh tụ rất vui và hứa trả cho anh một món tiền hậu hĩnh.
Giữa hai câu truyện trên, Thánh Máccô đã khéo léo và hết sức đặc trưng chen vào một câu truyện tuyệt diệu về lòng trung thành. Khi Chúa Giêsu tới thăm Simong Cùi ở Bethany, trên sườn phía đông của Đồi Cây Dầu, một người đàn bà vô danh đập bể bình dầu thơm đắt tiền, rồi xức lên đầu Chúa Giêsu. Trong Thánh Kinh, chỉ các ông vua và tiên tri mới được xức dầu trên đầu, và Thánh Máccô nhắc tới ký ức ấy ở đây.
Mùi dầu thơm vừa lan khắp phòng, những người hiện diện cạnh Chúa Giêsu đều ngỡ ngàng trước cử chỉ quá hoang phí của người đàn bà. Nhưng Chúa Giêsu bênh vực nàng. Nàng đã làm một hành vi trung thành và yêu thương đích thực. Chúa nói với mọi người “cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng” (14:8). Vì thế, Chúa hứa, nàng sẽ được tưởng nhớ tại bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng, người duy nhất trong trọn bộ Tân Ước được hưởng vinh dự này.
Ba cảnh rất tương phản nhau trên đây dẫn độc giả tới tâm điểm của sứ điệp Thánh Máccô. Hai chủ đề chính xuyên suốt trọn bộ trình thuật khổ nạn: một tập chú vào Chúa Giêsu, Đấng cương quyết tự hiến thân vì người khác; chủ đề kia tập chú vào những người vây quanh Chúa Giêsu, một số héo mòn trước nồi nung đau khổ, số khác thành điển hình của đức tin và lòng can đảm.
Khổ nạn vạch trần dụng tâm khủng khiếp của Giuđa và các lãnh tụ, nhưng nó cũng cho ta thoáng thấy tư cách môn đệ chân chính nơi người đàn bà vô danh ở Bethany. Giống Chúa Giêsu, nàng hiểu cả việc Người là ai lẫn việc số phận Người sẽ dẫn tới đâu, và không do dự, nàng đã hành động dựa trên trực giác ấy. Do đó, nàng đã xức dầu thơm để an táng Người và thừa nhận phẩm giá vương đế của Người. Vì tình yêu ấy, nàng sẽ không bao giờ bị quên lãng.
2. Lễ Vuợt Qua cuối cùng: Mc 14:12-31
Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Ðức Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: 'Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?' Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta". Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Chiều đến, Ðức Giêsu tới cùng với Nhóm Mười Hai. Ðang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy". Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: "Chẳng lẽ con sao?" Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. Ðã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
Cũng đang bữa ăn, Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy". Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Ðây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa".
Hát thánh vịnh xong, Ðức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Ðức Giêsu nói với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em". Ông Phêrô liền thưa: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không". Ðức Giêsu nói với ông: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần". Nhưng Phêrô lại nói quả quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
Tin Mừng Máccô nổi danh vì cung cách đóng khung cảnh chủ yếu bằng hai câu truyện có liên quan. Điều này thấy rõ ở phần tiếp theo của trình thuật khổ nạn: Các lời Chúa Giêsu phán trên bánh và rượu được đóng khung bởi hai lời tiên báo Giuđa phản bội, còn Phêrô và các môn đệ khác thì sai phạm. Một lần nữa, tập chú kép của Thánh Máccô về Kitô học và việc làm môn đệ, rất đặc trưng trong Tin Mừng của ngài, được trình bày rõ ràng. Việc mừng lễ Vượt Qua là khung cảnh của cả ba câu truyện này. Lễ hành hương vĩ đại này của Israel là để tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi Ai Cập, tức hành động yêu thương đầy giải phóng của Thiên Chúa vốn là căn bản cho niềm hy vọng của Israel. Do đó, Tin Mừng muốn làm nổi bật sự kiện này: cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết sẽ giải phóng người khác, đã được quện chặt vào biến cố Vượt Qua.
Thánh Máccô dùng nghi thức đơn giản của bữa ăn Vượt Qua để công bố bằng chính lời Chúa Giêsu ý nghĩa của khổ nạn. Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán: “Này là mình Thầy” và rồi cầm lấy chén, một lần nữa tạ ơn, trao cho các môn đệ, “Này là máu giao ước của Thầy, sẽ đổ ra cho mọi người…”
Ở đây, ta thấy ý nghĩa bên trong của mọi hành vi thừa tác của Chúa Giêsu mà Thánh Máccô đã kể trước đó trong Tin Mừng của ngài: việc Người chữa lành đầy cảm thương, việc Người làm bạn với những ai bị bỏ rơi ở bên lề, việc Người giảng dạy một cách mạnh bạo, việc Người đối đầu với sự ác, việc Người nuôi ăn đám đông bị đói. Tất cả những điều này nói lên một cuộc sống hoàn toàn vì người khác, tất cả đều là “bánh bị bẻ ra” và “máu… đổ ra cho mọi người”. Đó chính là tinh thần của sứ mệnh Người, một sứ mệnh cuối cùng sẽ hóa thành chiến thắng và đó cũng là sứ mệnh mà các môn đệ của Người được mời gọi tiếp tục. Nhưng đường còn dài ở phía trước, đau khổ và hồi hướng còn rất cần trước khi họ sẵn sàng. Do đó, lời lẽ long trọng và các cử chỉ hùng hồn của Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly đã được đóng khung bằng những lời tiên báo Giuđa sẽ phản bội và các môn đệ còn lại sẽ bỏ rơi Người. Ngay cả Simong Phêrô, người môn đệ đầu tiên của Người (1:16-20) và là lãnh tụ của họ cũng công khai chối Thầy vị sợ hãi và đã bỏ rơi Thầy.
3. Diệtsimani: cầu nguyện và bị bắt: Mark 14:32-52
Sau đó, Ðức Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghếtsêmani. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện". Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thẩy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức". Người đi xa hơn một chút, quỵ xuống đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi mình, nếu có thể được. Người nói: "Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha". Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à ? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối". Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Ðứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. Kẻ nộp Ðức Giêsu đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". Vừa tới, Giuđa tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy!", rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nói đứt tai.
Ðức Giêsu nói với họ: "Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi như bắt một tên cướp vậy? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Ðền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm". Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.
Giờ đây, khung cảnh đã thay đổi: từ thượng lầu tới Diệtsimani, khu rừng ôliu ở bên ngoài thành phố, và tại đây, trong hai cảnh chính, nhịp độ câu truyện khổ nạn đã tăng tốc.
Bóng ma cái chết bạo hành lởn vởn trong đầu Chúa Giêsu và làm Người khốn khổ. Giống như nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu tìm sức mạnh trong lời cầu nguyện. Đây không hẳn là một lời cầu ngoan ngoãn hay anh hùng mà là một lời cầu nói lên niềm tin nguyên vẹn như từng thấy trong các thánh vịnh: “Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (14:36). Phần lớn tinh thần của Chúa Giêsu là ở đây: kiên tâm, thân mật sùng kính Thiên Chúa, “Ba” của Người, và các cuộc chiến đấu khốc liệt với sức mạnh sự ác cũng như thần chết từng đánh dấu thừa tác vụ của Người tại Galilê (xem 5:1-20).
Thánh Máccô, trước đó, đã cho các độc giả của ngài hay: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Thánh Thần vốn ngự bên trong và là Đấng mà tên đã được Thiên Chúa nhắc đến tại Sông Giócđăng (1:9-11) và trên núi Hiển Dung (9:7). Nhưng Chúa Giêsu cũng là con người đích thực, biết sợ chết và tan nát cõi lòng khi nghĩ rằng sứ mệnh của mình sẽ thất bại. Bởi thế, Thánh Máccô đã dám trình bày với ta cảnh này, một cảnh sẽ mãi mãi nằm trong ký ức Kitô Giáo: một lời cầu nguyện nghẹn ngào tuy đầy đức tin nhưng cũng không thiếu sợ hãi từ môi miệng Chúa Giêsu.
Thánh Máccô tiếp tục phương pháp diễn tả các môn đệ đi ngược chiều rõ rệt với Chúa Giêsu. Ba lần, Người tới tìm hỗ trợ bằng sự hiện diện của họ, chỉ để thấy họ ngủ mê ngủ mệt. Tin Mừng cho thấy rõ “giấc ngủ” này không hẳn chỉ vì mỏi mệt sau một lễ lạc lâu dài. Loại ngủ này nguy hiểm hơn nhiều, nó là trạng thái lờ đờ thiêng liêng của những người không nhận ra giờ phút nguy kịch trong lịch sử và do đó không sẵn sàng đương đầu với cơn nguy kịch này. Chúa Giêsu từng cảnh giác các môn đệ về thứ mê ngủ này: “Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Ðiều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!" (13:35-37).
Giờ phút nguy kịch trên đến rất nhanh. Giuđa và đám đông có trang bị xông vào cảnh tĩnh mịch của Diệtsimani để bắt Chúa Giêsu, người môn đệ bỏ đạo này nhận diện Chúa Giêsu bằng nụ hôn phản bội. Lộn xộn diễn ra sau đó: họ tra tay bắt Chúa Giêsu; trong khi ấy, một “người bàng quan” (một người trong đám đông? một người trong các môn đệ của Người?) rút kiếm ra và chém đứt tai một đầy tớ của vị thượng phẩm.
Chúa Giêsu đối mặt với bức tường bạo hành ấy và lên án nó: “Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi như bắt một tên cướp vậy? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Ðền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm” (14:49). Biết bao lần cảnh này được lặp lại trong các thế kỷ từ ngày Thánh Máccô soạn tác: bắt người ban đêm; các lực lượng của bạo hành tìm cách giập tắt tiếng nói công lý; bạo hành đẻ ra bạo hành nhiều hơn; thái độ anh hùng đơn độc của vị tử đạo từ khước không phản bội tinh thần Thiên Chúa.
Một lần nữa, Thánh Máccô đã tương phản phản ứng của môn đệ với phản ứng của Chúa Giêsu. Cơn nguy kịch đã diễn ra, và họ chịu không thấu. Tất cả đã bỏ trốn, bỏ rơi Chúa Giêsu, một trong số họ hoảng sợ đến nỗi bỏ cả quần mà chạy trần truồng. Các môn đệ quả đã để phẩm giá mình, ơn gọi của mình và Đấng đã hiến mình để họ được sống ở phía sau.
4. Xưng thú và chối bỏ: thượng hội đồng tra khảo: Mark 14, 53-72
Họ điệu Ðức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư, tất cả đều tựu lại. Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với bọn lính canh.
Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Ðồng tìm lời chứng buộc tội Ðức Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Ðền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Ðền Thờ Khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ không ăn khớp với nhau.
Bấy giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Ðức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Ðức Giêsu vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Ðấng Kitô, Con của Ðấng Ðáng Chúc Tụng không?" Ðức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến". Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Tất cả đều lên án Người đáng chết.
Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và bọn lính canh túm lấy Người mà tát túi bụi
Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông Người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy. Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy". Nhưng ông Phêrô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Ðúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng; "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Ðức Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần". Thế là ông oà lên khóc.
Khung cảnh lại thay đổi một lần nữa: từ Diệtsimani qua trú sở của Thượng Phẩm, nơi Chúa Giêsu bị các lãnh tụ tra vấn. Văn phong bậc thầy của Thánh Máccô về tường thuật một lần nữa lại hiển hiện. Ngài đóng khung cảnh thẩm vấn bằng cảnh Phêrô chối Chúa, rõ ràng nhằm tương phản nỗi sợ sệt của các môn đệ với lòng can đảm của Chúa Giêsu.
Một loạt các nhân chứng giả được đưa tới để chống lại Chúa Giêsu, nhưng các lời tố cáo của họ mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, một số người đưa ra lời tố cáo gợi trí nhớ các độc giả Tin Mừng: “Tôi sẽ phá Ðền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Ðền Thờ khác, không phải do tay người phàm!"
Trước đó, Tin Mừng Máccô vốn đã mô tả Chúa Giêsu như một tiên tri nóng như lửa, thanh tẩy Đền Thờ và tiên đoán sự tàn phá của nó (11:15-19; 13:1-2). Thực vậy, Chúa Kitô Sống Lại sẽ là đền thờ mới của Thiên Chúa, là “hòn đá bị loại bỏ” sẽ trở thành viên đá góc của một dân thánh mới, nơi Thiên Chúa sẽ cư ngụ (12:10-11). Lời tố cáo này sẽ được nhớ lại khi màn trong cung thánh bị xé làm hai lúc Chúa Giêsu qua đời (15:38).
Thất vọng vì lời chứng thiếu sót của các nhân chứng, vị thượng phẩm hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi có tính chủ chốt: “"Ông có phải là Ðấng Kitô, Con của Ðấng Ðáng Chúc Tụng không?" Chúa Giêsu không do dự trả lời: "Phải, chính thế”. Và Người thêm một thách thức cho những kẻ chống đối Người: một ngày kia họ sẽ thấy tù nhân của họ đến như “Con Người”, nhân vật ám ảnh kia sẽ bị sỉ nhục và bác bỏ, nhưng rồi sẽ được Thiên Chúa hiển dương và sẽ trở lại vinh quang vào ngày tận thế.
Lời tuyên bố mạnh dạn của Chúa Giêsu về căn tính của mình bị địch thủ bác bỏ như lời phạm thượng; họ kết án tử hình Người và bắt đầu nhục mạ Người. Độc giả nào biết rõ căn tính của Chúa Giêsu sẽ chỉ có thể buồn bã sâu xa mà thắc mắc rằng không biết tại sao ta lại có thể mù quáng đến thế về phương diện thiêng liêng.
Thánh Máccô hướng chú ý của ta từ cảnh Chúa Giêsu đứng trước những kẻ bắt giam Người trở lại với sân trước nhà vị thượng phẩm nơi ông Phêrô mệt mỏi xích lại gần một đám nữ tỳ đang quây quần quanh đống lửa ấm. Trong một chuyển động chậm, ta được chứng kiến cảnh sức mạnh của sợ sệt bẻ gẫy quyết tâm của một môn đệ. Ba lần, Phêrô chối, đến biết Thầy ông cũng không, sau cùng còn văng tục mà thề nữa khi bị tràn ngập bởi sợ hãi. Gà bèn gáy và ông nhớ lại lời cảnh cáo của Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly. Hãi hùng hiểu ra sự sai phạm của mình khiến ông òa lên khóc.
Câu truyện quen thuộc với ta đến nỗi ta mất cả khả năng ngỡ ngàng vì nó. Chỉ một câu truyện đầy cảm kích này cũng đủ nói lên trọn bộ sự thất bại ê chề của thân phận môn đệ: nhà lãnh đạo của những người được Chúa Giêsu công khai kêu gọi làm môn đệ đã từ bỏ lòng trung thành với Thầy chí ái.
5. Phiên tòa Rôma: Mark 15:1-15
Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Ðồng. Sau đó, họ trói Ðức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.
Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Dothái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó". Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Ðức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho họ một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Baraba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Ðám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Ðáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Dothái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Baraba thì hơn. Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Dothái?" Họ la lên: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Ðức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
Các lãnh tụ Do Thái dẫn Chúa Giêsu tới Philatô để Người bị kết án đóng đinh.Thánh Máccô khiến ta chỉ chú mục vào vấn đề duy nhất này: căn tính vua của Chúa Giêsu, vì lần đầu tiên, quyền lực Rôma được đưa vào câu truyện khổ nạn.
Cảnh này đầy nghịch lý. Philatô, người đại diện của quyền lực đế quốc, chạm trán với tù nhân Do Thái tả tơi này và hỏi Người về tham vọng làm “vua Dân Do Thái”. Trong khi dân của Chúa Giêsu bác bỏ vị vua đích thực của họ mà chọn Baraba, một tên sát nhân, thì Philatô, một Dân Ngoại và là người Rôma, rõ ràng tin chắc sự vô tội của Chúa Giêsu và tìm cách thả tự do cho Người.
Bên dưới tất cả các điều trên là vấn đề vương quyền, biểu thức mạnh mẽ nhất của quyền lực chính trị được độc giả của Thánh Máccô biết tới. Philatô và các địch thủ của Chúa Giêsu đồng ý với nhau ở một điều: Chúa Giêsu không hề là vua. Trong đầu óc Philatô, Người là nạn nhân vô hại của lòng ghanh ghét nơi các lãnh tụ Do Thái; đối với các lãnh tụ này, Người là kẻ tự đòi cho mình thẩm quyền tôn giáo một cách sai lầm và nguy hiểm. Ấy thế nhưng cuối cùng, Người vẫn bị chế nhạo vì tham vọng làm vua: một áo khoác mầu tím, một triều thiên bằng gai nhọn, một vương trượng bằng sậy, và những lời tán tụng nhại sau đó trở thành bạo hành. Nhưng độc giả câu truyện khổ nạn của Thánh Máccô biết rằng không phải Chúa Giêsu mà các biểu tượng của quyền lực đế quốc và lạm dụng bị chế nhạo.
Chúa Giêsu là vua nhưng là một vị vua mà quyền lực không được phát biểu bằng bóc lột hay “áp đặt quyền bá chủ lên người khác” (10:42) mà là hiến mạng sống cho họ. Trước đó, trong hành trình lên Giêrusalem, Chúa Giêsu vốn thúc giục các môn đệ của Người đừng thi hành thứ quyền lực ấy mà chỉ thi hành các quyền lực mà nguồn gốc và ý hướng là hiến mạng sống cho người khác, là quyền lực vốn sinh động hóa chính Chúa Giêsu (10:42-45). Bởi thế, câu truyện khổ nạn đã lên án mọi hình thức quyền lực gian dối.
6. Đóng đinh: Mc 15:16-47:
Lính điệu Ðức Giêsu vào bên trong dinh, tức là dinh tổng trấn và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng chào bái Người: "Vạn tuế đức vua dân Dothái!" Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều Người ra để đóng đinh vào thập giá.
Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alêxanđê và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Ðức Giêsu. Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Ðồi Sọ.
Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Dothái". Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.]
Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin". Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Ðức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êlôi, Êlôi, lama sabácthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Êlia". Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Ðể xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không. Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa".
Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxê, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Ðức Giêsu khi Người còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó.
Chiều đã đến, mà vì hôm ấy lại là ngày sửa soạn, tức là áp ngày sabát, nên ông Giôxép tới. Ông là người thành Arimathê, thành viên có thế giá của hội đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Ðại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Ðức Giêsu. Nghe nói Người đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giôxép lãnh lấy thi hài. Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Ðức Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maia Mácđala và bà Maria mẹ ông Gioxê, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.
Trong trình thuật Máccô, đoạn kết thúc đã đến rất nhanh; câu truyện được thuật lại trong ít chữ, như thể quá đau lòng không tìm được lời để viết thêm. Philatô từ bỏ cố gắng thả Người ra và đã kết án Người chịu đóng đinh. Chi tiết cuộc hành quyết cho thấy Chúa Giêsu bị đưa lên Golgôtha, nơi Người được cung cấp một loại thuốc mê nhưng Người từ chối; Người bị lột áo xống và bị đóng đinh vào thập giá. Hai kẻ nổi loạn cùng bị đóng đinh cạnh Chúa Giêsu, mỗi kẻ một bên, tạo thành một hàng xóm buồn bã. Chiếc bảng nhỏ trên thập giá ghi hàng chữ chế giễu: “Vua người Do Thái”.
Trong khi ngắm Người qua đời, hàng loạt những châm chọc được ngỏ với người trên thập giá: đe dọa phá đền thờ; có khả năng cứu người khác nhưng lại không có khả năng tự cứu mình. Thánh Máccô mô tả lời châm chọc cuối cùng bằng một giọng hết sức mỉa mai: “Ông Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (15:32). Nhưng độc giả của Thánh Máccô biết rằng quyền lực của Chúa Giêsu được chứng minh không phải bằng cách đập bể tan tành cây thập giá mà bằng cách mang lấy nó, hiến mạng sống cho người khác. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạnh sống mình?” (8:34-37).
Bóng tối trùm phủ Golgôtha và trong cảnh mù mịt ấy, lời than cuối cùng của Chúa Giêsu vang lên: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?". Đó là câu đầu của Thánh Vịnh 22, lời cầu nguyện vĩ đại của đức tin đau khổ Do Thái Giáo. Trình thuật khổ nạn của Thánh Máccô vốn được mô tả như một “vượt qua đêm đen”: Chúa Giêsu bị lột hết các môn đệ, hết tự do, hết phẩm giá, hết sự sống khi Người trao đi từng sợi hữu thể của Người vì thế giới.
Và như thế, trong trình thuật của Thánh Máccô, Chúa Giêsu chết với một tiếng kêu không lời nhưng vang vọng khắp ngọn đồi thương đau, xé đôi màn trong đền thờ và đốt lên ngọn lửa đức tin trong trái tim viên bách quản. Chứng nhân bất ngờ này nhìn thấy trong cung cách chết của Chúa Giêsu cho người khác cả một mạc khải chân thực của Thiên Chúa. Việc nhìn thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh đã bật khởi trong ông lời tuyên xưng đức tin trọn vẹn đầu tiên trong Tin Mừng: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (15:39). Một mạc khải đầy ngạc nhiên: quyền lực Thiên Chúa được biểu lộ không qua những người phi thường xuất chúng mà qua cái chết vị tha vì yêu thương.
Thánh Máccô hay để ý những điều khó xẩy ra. Các môn đệ được tuyển chọn đều chạy trốn. Nhưng đứng xa xa là những môn đệ trung thành khác, những phụ nữ vốn theo chân Người ở Galilê và cùng tới Giêrusalem với Người. Từ nay, họ ở với Người qua cái chết và việc mai táng, không bao giờ bỏ rơi Người. Hai người trong số họ, Maria Magđalêna và Maria, Mẹ Giosê, sẽ canh chừng phần mộ của Người và sẽ là những người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống và biết chắc Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần (16:1-8). Những môn đệ “khó có” này đã tự chứng minh mình chân thực trong khi các môn đệ lỗi lạc khác đã sai phạm. Họ sẽ là các môn đệ đem sứ điệp hân hoan và hòa giải của Chúa Kitô Phục Sinh đến cho các môn đệ sai phạm.
(Còn tiếp)
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (3)
Vũ Van An
22:52 31/03/2015
III. Khổ nạn dưới cái nhìn của Thánh Gioan
Chúng tôi đã trình bày đôi nét về trình thuật Khổ Nạn trong Tin Mừng Máccô. Nay xin đề cập tới trình thuật của Tin Mừng Gioan về Khổ Nạn. Trình thuật này luôn được dùng trong cử hành Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh. Đàng khác, Tin Mừng Gioan có cái nhìn thần học khá biệt lập đối với ba Tin Mừng Nhất Lãm, đến nỗi linh mục Donald Senior, Dòng Khổ Nạn (C.P.), gọi nó là Tin Mừng “không theo qui tắc” (maverick, như có người gọi Đức Phanxicô). Theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu là mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho thế giới, là “lời thành xác phàm” mà cái chết là một hành vi yêu thương bằng hữu, dấu chỉ Thiên Chúa ôm ẵm toàn thể nhân loại và là chiến thắng sau cùng trên sự ác. Cách Thánh Gioan mô tả cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu độc đáo ở chỗ hoàn hợp tuyệt tác giữa đau khổ và chiến thắng, rất phù hợp với tinh thần của Tam Nhật Vượt Qua.
1.Bị bắt: Ga 18:1-11
Sau khi nói những lời đó, Ðức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kítrôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với môn đệ đi vào. Giuđa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. Vậy, Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Ðức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm ông Giêsu Nadarét". Người nói: "Chính tôi đây". Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. Khi Người vừa nói: "Chính tôi đây", thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi một lần nữa: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm ông Giêsu Nadarét". Ðức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi". Thế là ứng nghiệm lời Ðức Giêsu đã nói:"Những người Cha đã ban cho con,con không để mất một ai".
Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô. Ðức Giêsu nói với ông Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?"
Màn mở đầu trong trình thuật của Thánh Gioan đã xác định sắc khí cho toàn bộ câu truyện khổ nạn. Trên một bình diện, nó là câu truyện kinh hoàng: sự phản bội của một bằng hữu, việc bắt người vô tội trong đêm khuya, việc lạm dụng quyền lực của thẩm quyền võ trang. Qủa là một màn rùng rợn, rất quen thuộc và rất đồng thời với nhiều Kitô Hữu tại một số vùng trên thế giới.
Nhưng còn một bình diện khác trong màn này: Chúa Giêsu tự quyết định đặt Người trước kẻ thù; thế giá áp đảo của con người Chúa đã quật ngã quyền lực của tối tăm; Chúa vẫn giữ quyền điều khiển ngay trong giờ phút bị bắt.
Trọn bộ câu truyện khổ nạn trong Tin Mừng Gioan cũng thế: thảm kịch cái chết thương đau đã bị quyền lực của tình yêu cứu chuộc áp đảo. Đối với Thánh Gioan, Chúa Giêsu là Ngôi Lời thành xác phàm, được sai đi để mạc khải tình yêu bền vững của Thiên Chúa dành cho thế giới. Tuyên ngôn thuyết phục nhất của tình yêu này, nghịch lý thay, là chính cái chết của Chúa Giêsu. Khi tự hiến sự sống mình cho các “bằng hữu” (15:13), cao thượng nhất trong các hành vi nhân linh, Chúa Giêsu đã mạc khải tình yêu trổi vượt của Thiên Chúa dành cho thế giới. Từ vọng nhìn của đức tin, cái chết của Chúa Giêsu là lời ban sự sống.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu một cách đường đột so với các tin mừng Nhất Lãm. Không nhắc gì tới các âm mưu chống lại Chúa Giêsu, không có việc xức dầu thơm tại Bethany và không thuật lại bữa ăn cuối cùng, mà Chúa Giêsu cũng không cầu nguyện thống thiết tại Diệtsimani trước khi bị bắt. Ở một mức độ nào đó, Thánh Gioan từng đề cập tới các biến cố này hay các biến cố tương đương trước đó trong Tin Mừng của ngài rồi. Một khi đã hoàn tất diễn văn từ biệt khá dài của Người với các môn đệ (các chương 13-17), Chúa Giêsu dẫn họ băng qua thung lũng Kítrôn tới một thửa vườn và bi kịch khổ nạn bắt đầu (18:1).
Trình thuật của Thánh Gioan không chùn bước trước thực tại hãi hùng của sự chết. Trước hết, thực tại này xuất hiện dưới lốt Giuđa, người môn đệ phản bội Chúa Giêsu. Theo cái nhìn của Thánh Gioan, “Satan”, hiện thân của sự ác, đã rù quyến Giuđa tới chỗ phản bội Chúa Giêsu (13:2). Liên minh của Giuđa là binh sĩ Rôma (chỉ có Thánh Gioan nhắc tới việc này) và các lính canh của các tư tế và bọn Biệt Phái (18:3). Trọn bộ hệ thống quyền lực đã được triển khai chống lại Chúa Giêsu: người Do Thái và Dân Ngoại; thế quyền và giáo quyền.
Nhưng đội hình quyền lực áp chế và quỉ ma này không biến Chúa Giêsu thành một nạn nhân bất lực. Trước đó, Chúa Giêsu của Thánh Gioan đã tuyên bố sự tự do của Người trước thần chết: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Ðó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (10:17-18).
Chúa Giêsu chạm trán với quyền lực bằng chính thánh danh “Tôi đây” (I am), tức thánh danh Thiên Chúa được chính Chúa Giêsu Ngôi Lời mạc khải cho thế giới. Trước thánh danh đó, quyền lực sự chết tàn rũ và té nhào dưới đất, không phải một mà tới hai lần. Chúa Giêsu nắm quyền điều khiển ở đây, chứ không phải tử thần. Người để các môn đệ của Người rời bỏ (18:8, họ không chạy trốn như trong các Tin Mừng Máccô và Mátthêu) và Người hạn chế Phêrô, không muốn ông dùng bạo lực dù là để bênh vực Người.
Chúa Giêsu sẽ tự ý “uống chén” khổ nạn vì làm như thế, Người đã làm trọn sứ mệnh của Người là mạc khải tình yêu Thiên Chúa dành cho thế giới.
2. Tại sân trước nhà vị thượng phẩm: Ga 18:12-27
Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Dothái bắt Ðức Giêsu và trói Người lại. Trước tiên, họ điệu Ðức Giêsu đến ông Khanna là nhạc phụ ông Caipha. Ông Caipha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Dothái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Ðức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Ðức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Người tớ gái giữ cổng nói với Phêrô: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Ðâu phải". Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế tra hỏi Ðức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người. Ðức Giêsu trả lời: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Ðền Thờ, nơi mọi người Dothái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Ðiều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì". Ðức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?" Ðức Giêsu đáp:
"Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chổ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?" Ông Khanna cho giải Người đến thượng tế Caipha, Người vẫn bị trói.
Còn ông Simon Phêrô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền chối: "Ðâu phải". Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?" Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
Lúc này, cảnh thay đổi từ Thửa Vườn bên kia thung lũng Kítrôn qua sân trước dinh thượng phẩm. Theo tường thuật của Thánh Gioan, đầu tiên, Chúa Giêsu được điệu tới Khanna, bố vợ thượng phẩm đương nhiệm Caipha. Rõ ràng, dù bị người Rôma hạ bệ, Khanna vẫn là người có uy thế. Chúa Giêsu sẽ bị giáo quyền hạch hỏi trước khi bị Philatô xét xử chính thức.
Nhưng đối với Thánh Gioan, chủ đề sâu xa hơn của cảnh này vẫn là chủ đề tương phản: giữa Chúa Giêsu và các địch thủ của Người cũng như giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô.
Giống như trong cảnh bị bắt, Chúa Giêsu mạnh bạo chạm trán với các địch thủ của Người. Bằng những lời khiến ta nhớ lại chương 8 Tin Mừng của ngài, Thánh Gioan trình bày Chúa Giêsu như hiện thân của “sự thật”, sự thật tối hậu về tình yêu Thiên Chúa dành cho thế giới. Chúa Giêsu công khai công bố sự thật này bằng lời lẽ và hành động của Người (18:20). Trong thần học của Thánh Gioan, sự thật có đặc điểm “công cộng” một cách cơ hữu. Những ai nói sự thật hay tìm cách khám phá ra nó, không sợ phải bước vào ánh sáng (3: 19-21) nhưng những ai có đời sống xây dựng trên dối trá hay những ai sợ sự thật thích sống trong tối tăm hơn và hành xử trong bí mật hơn. Bởi thế, Giuđa và băng võ trang của hắn mới tới bắt Chúa Giêsu trong bóng đêm (một cách oái oăm, còn mang theo đèn đuốc 18:3). Và cả vị thượng phẩm cũng thế, không nhận ra Sự Thật của Thiên Chúa đang đứng sờ sờ trước mặt ông ta, bị trói như một tù nhân.
Thánh Gioan cũng kể cho ta nghe câu truyện Phêrô chối Thầy. Ở đây, sự tương phản diễn ra giữa chứng tá công khai không hề sợ hãi được Chúa Giêsu trình bày trước những kẻ bắt bớ Người và sự yếu đuối của người môn đệ bác bỏ tư cách môn đệ của mình trước câu hỏi của một người đầy tớ gái. Trước đó, Phêrô mạnh mẽ quả quyết rằng mình sẵn sàng hiến mạng sống vì Chúa Giêsu và nằng nặc cho rằng mình sẽ theo chân Chúa Giêsu dù Người đi bất cứ nơi đâu (13:36-38). Nhưng ngài đã đánh giá thấp quyền lực của tối tăm và cái giá làm môn đệ. Trong khủng hoảng khổ nạn, ngài đã thất bại.
Nhưng Tin Mừng không bỏ rơi Thánh Phêrô. Ngài sẽ chứng kiến ngôi mộ trống và suy nghĩ ý nghĩa của nó (20:6-9) và cuối cùng, trong câu truyện thú vị về bữa ăn sáng bên bờ hồ (chương 21), Chúa Kitô Phục Sinh sẽ chữa lành tư cách môn đệ từng bị gẫy đổ của Thánh Phêrô bằng ba lần tuyên hứa yêu thương và tin tưởng vào Người và sứ mệnh phục vụ cộng đồng.
Thánh Gioan cũng đưa vào câu truyện này một yếu tố mới. Thánh Phêrô vào được sân trước nhờ “một môn đệ khác” vốn quen biết với vị thượng phẩm (20:15). Đây chắc chắn là “môn đệ yêu dấu”, nhân vật bí mật trong Tin Mừng Gioan tượng trưng cho tư cách môn đệ chân chính. Vị này, cùng với Mẹ Chúa Giêsu, sẽ là các chứng nhân đối với cái chết của Chúa Giêsu (19:26, 35-36).
Cảm thức tương phản và nghịch lý của Thánh Gioan tiếp tục mang thêm nhiều bình diện ý nghĩa sâu sắc cho trình thuật khổ nạn: sự thật và gian dối, mạnh mẽ và yếu đuối được tỏ hiện vào giờ phút khủng hoảng đau đớn.
3. Chúa Giêsu trước Philatô: Ga 18:28-40
Vậy, người Dothái điệu Ðức Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Vì thế, tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: "Các người tố cáo người này về tội gì?" Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan". Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người". Người Dothái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả". Thế là ứng nghiệm lời Ðức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Ðức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Dothái không?" Ðức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?" Ông Philatô trả lời: "Tôi là người Dothái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?" Ðức Giêsu trả lời:"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này".
Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Ðức Giêsu đáp:"Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?" Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Dothái và bảo họ: "Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha cho một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Dothái cho các người không?" Họ lại la lên rằng: "Ðừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!" Mà Baraba là một tên cướp.
Phiên xử Chúa Giêsu bởi tổng trấn Rôma Phôngxiô Philatô đã chi phối trọn rình thuật khổ nạn của Thánh Gioan. Ngài tổ chức phiên xử thành một loạt những đoạn nhỏ, thay đổi nhau: hết diễn ra ở bên trong dinh lại diễn ra ở bên ngoài, trước sự chứng kiến của đám đông. Các màn này dần dần tăng cường độ, bắt đầu với cuộc thảo luận có vẻ mệt mỏi của Philatô với các lãnh tụ tôn giáo, qua cảnh càng ngày ông càng khó hiểu người tù của mình, và lên đỉnh điểm với việc ông toan tính thả tự do cho Chúa Giêsu nhưng bị đám đông bác bỏ.
Một lần nữa, Thánh Gioan lại chêm nghịch lý vào trình thuật của ngài. Trong cảnh thứ nhất, các lãnh tụ tôn giáo quan tâm tới việc duy trì sự sạch sẽ theo nghi lễ nhưng họ lại dấn thân vào việc trao nộp Con Thiên Chúa cho người Rôma. Họ lo lắng tới việc chuẩn bị cho ngày lễ Vượt Qua (18:20) nhưng còn Chiên Vượt Qua thực sự thì lại sắp sửa bị sát tế. Việc họ đối chất với viên tổng trấn Rôma về quyền hợp pháp oái oăm thay đã dẫn tới việc Chúa Giêsu bị đóng đinh, điều mà Chúa Giêsu của Thánh Gioan từng tiên đoán về chính Người rằng Người sẽ “được giương cao” lên để thế gian được sống (xem 3:14-15; 12:32-33).
Biểu tượng mạnh mẽ trọn trong phiên xử này là biểu tượng vương quyền, một chủ đề xuất hiện khi Philatô bắt đầu tra hỏi Chúa Giêsu (18:33-38). Philatô đại diện cho sức mạnh chính trị do triều thiên hoàng đế biểu thị. Nhưng vương quyền của Chúa Giêsu “không thuộc đời này”, nghĩa là, nó đại diện cho một loại quyền lực khác hẳn, quyền lực trao ban sự sống. Như tự ngôn của Tin Mừng này từng công bố dưới hình thức thi ca (1:1-18), Chúa Giêsu bước vào thế giới này để công bố sự thật tối hậu về tình yêu Thiên Chúa: ai nghe tiếng Chúa Giêsu đều biết sự thật của Thiên Chúa và đem nó ra sống trong cuộc sống của mình (8:47). Sự thật về tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải sức mạnh tàn bạo, áp chế, mới là nguồn sức mạnh của Chúa Giêsu. Giống các lãnh tụ tôn giáo, Philatô không có khả năng nhận biết sự thật này (18:37).
Dù không thể hiểu Chúa Giêsu, Philatô vẫn tin chắc Người vô tội và ông ra ngoài thông báo cho các lãnh tụ biết quyết định của ông. Để làm họ vui lòng, ông đề nghị phóng thích Chúa Giêsu nhân dịp Lễ Vượt Qua (18:39). Nhưng “người Do Thái” đòi thả Baraba, chứ không phải Chúa Giêsu. Tin Mừng, theo Bản Dịch của Nhóm Các Giờ Kinh PHụng Vụ, nói rằng Baraba là một người “tên cướp” (18:40), nhưng theo Cha Donald Senior phải dịch là người “cách mạng” mới đúng (1). Và cha tự hỏi: phải chăng ở đây cũng là một nghịch lý? Vì tin mừng gia rõ ràng muốn hàm ý cho rằng đám đông đã hóa mù trước sự kiện cuộc cách mạng sâu sắc nhất chính là cuộc cách mạng do Chúa Giêsu mở màn!
4. Chúa Giêsu, Vua bị đóng đinh: Ga 19:1-16
Bấy giờ ông Philatô truyền đem Ðức Giêsu đi và đánh đòn Người. Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. Họ đến gần và nói: "Kính chào Vua dân Dothái!", rồi vả vào mặt Người.
Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Dothái: "Ðây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy". Vậy, Ðức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: "Ðây là người!" Khi vừa thấy Ðức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: "Ðóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy". Người Dothái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa".
Nghe lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa. Ông lại trở vào dinh và nói với Ðức Giêsu: "Ông từ đâu mà đến?" Nhưng Ðức Giêsu không trả lời. Ông Philatô mới nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?" Ðức Giêsu đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn".
Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Dothái kêu lên rằng: "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xêda". Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn Ðức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên tòa, ở nơi gọi là Nền Ðá, tiếng Hípri là Gápbatha. Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Philatô nói với người Dothái: "Ðây là vua các người!" Họ liền la lớn: "Ðem đi! Ðem nó đi! Ðóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?" Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda". Bấy giờ ông Philatô trao Ðức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
Trong các cảnh kết thúc, chủ đề vương quyền mỗi lúc mỗi tăng cường độ. Khi đám đông chọn Baraba để thả tự do, Philatô cho đánh đòn Chúa Giêsu (19:1-3). Binh sĩ thủ diễn một màn chế nhạo đầy tàn ác: sau khi bị đánh, Chúa Giêsu bị đội một mão gai, mặc áo tím và được nhạo cười: “kính chào Vua Dân Do Thái!”. Màn giễu cợt này được chêm bằng những trận hành hạ dã man.
Tất cả các điều trên chuẩn bị cho màn kỳ lạ tiếp theo khi Philatô cho dẫn người tù bị đánh đập, mặc đồ vương giả giễu cợt ra cho đám đông trông thấy. Philatô hy vọng rằng cảnh tượng này sẽ làm nguôi lòng hận thù muốn tiêu diệt Chúa Giêsu.
Đối với Philatô và các nhân vật khác trong bi kịch, đây là một sự nhục mạ hoàn toàn đối với người tự cho mình là vua này. Cái ông Giêsu này chỉ là một anh hề, không một chút quyền lực hay người theo, trang phục bằng các biểu hiệu vương giả đầy trò cười. Nhưng đối với độc giả Tin Mừng, sự thật lại khác hẳn. Chúa Giêsu quả là “vua”; Người là Con vương giả của Thiên Chúa. Điều đáng chế giễu ở đây không phải là Chúa Giêsu mà là bất cứ vương miện nào mà quyền lực đặt cănbản trên bạo lực và giả dối. Philatô giới thiệu Chúa Giêsu như “một người” đáng thương nhưng con mắt đức tin biết rõ: con người nhân bản này chính là Ngôi Lời thành xác phàm, là “Con Người” từ trời xuống mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho thế giới.
Một lần nữa, nghịch thường cũng đã xuất hiện khắp trong trình thuật của Thánh Gioan: Chúa Giêsu phải chết, các địch thủ của Người la lên như thế, “vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (19:7). Tin Mừng của Thánh Gioan vốn công bố rằng Chúa Giêsu sẽ chịu chết chính vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng sẽ hiến mạng sống mình cho thế giới.
Giận vì đám đông bác bỏ Chúa Giêsu và vẫn còn tìm cách tha người tù khó hiểu này, Philatô lại thẩm vấn Chúa Giêsu một lần nữa. Việc ông cho mình có quyền đã bị gạt qua một bên: quyền lực duy nhất chỉ có thể là quyền lực phát xuất từ Thiên Chúa (19:11).
Một lần nữa, khi Philatô nài nỉ đám đông cho Chúa Giêsu, họ đe dọa sẽ tố ông tội bất trung đối với Xêda (19:12). Một lần nữa, nghịch thường lại xuất hiện trong các lời lẽ của đám đông: “ai xưng mình là vua, thì chống lại Xêda”. Đúng thế, các độc giả của Tin Mừng dĩ nhiên nhất trí. Chúa Giêsu là vua và bản chất vương quyền của Người 180 độ đi ngược hẳn lại quyền lực bạo chúa, chuyên cướp mạng sống của người vô tội.
Cảnh này kết thúc với việc đám đông yêu cầu đóng đinh Chúa Giêsu.Tính biểu tượng ở đây rất mạnh. Philatô dẫn Chúa Giêsu ra và ngồi trên ghế xử án. Ông ta nói để trêu chọc đám đông “đây là vua các người!”, nhưng họ đáp: “chúng tôi không có vua nào cả, trừ Xêda”. Theo cái nhìn của Tin Mừng Gioan, Philatô đúng và đám đông ở Giêrusalem không thực hiện bất cứ lựa chọn khủng khiếp nào nữa.
5. Con Người giương lên cao: Ga 19:17-30
Vậy họ điệu Ðức Giêsu đi. Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Ðức Giêsu thì ở giữa. Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giêsu Nadarét, Vua dân Dothái". Trong dân Dothái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Ðức Giêsu bị đóng đinh là một địa điểm ỏ gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng Hípri, Latinh và Hylạp. Các thượng tế của người Dothái nói với Philatô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Dothái" nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân Dothái". "Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy!"
Ðóng đinh Ðức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: "Ðừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được". Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh:Áo xống tôi, chúng đem chia chác, còn áo dài, cũng bắt thăm luôn. Ðó là những điều lính tráng đã làm.
Ðứng gần thập giá Ðức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Ðức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà". Rồi Người nói với môn đệ: "Ðây là mẹ của anh". Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
Sau đó, Ðức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: "Tôi khát!"
Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Ðức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Đỉnh cao khổ nạn diễn ra trên Đồi Canvariô nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh. Thánh Gioan tiếp tục nhấn mạnh tới sáng kiến có tính chiến thắng của Chúa Giêsu ngay trong giờ phút đen tối nhất của khổ nạn. Không có Simong Kyrênê vác đỡ thập giá; Chúa Giêsu của Thánh Gioan tự vác lấy nó hết đoạn đường thập tự.
Giờ phút đóng đinh chính là giờ phút lên ngôi: Chúa Giêsu bị đóng đinh, vây quanh bởi một đoàn tùy tùng đâu đâu gồm hai người cùng chết một cách như Người. Trên đầu thập giá là tấm bảng viết bằng ba thứ tiếng: Hípri, La Tinh và Hy Lạp hàng chữ: Giêsu Nadarét, Vua người Do Thái. Mặc cho các trưởng tế phản đối, Philatô vẫn một mực: đó sẽ là tước hiệu của ông Giêsu Bị Đóng Đinh.
Sử dụng biểu tượng khó quên của rắn đồng trong câu truyện về Môsê trong Dân Số 14:21 (xem Ga 3:14), Tin Mừng Gioan trình bày việc đóng đinh như một cuộc “giương lên”, không chỉ là cuộc giương lên thân xác bị đóng đinh của Chúa Giêsu trong cái thống khổ của chết chóc, mà qua cái chết ấy, là một “giương lên” đầy hiển dương vinh thắng khi Ngôi Lời Thành Xác Phàm hoàn tất sứ mệnh yêu thương của Người và trở về cùng Chúa Cha (13:1).
Thánh Gioan thêm vào cảnh cao điểm này nhiều biểu tượng mạnh mẽ khác. Chiếc áo dài không có đường khâu của Chúa Giêsu (có ý nhắc đến phẩm phục của thượng phẩm? hay sự hợp nhất mà Chúa Giêsu tới để tạo ra?) không bị xé ra (19:23-24). Lúc gần chết, Chúa Giêsu kêu “khát” khiến ta nhớ lại lời Người nói với Thánh Phêrô ở Vườn Cây Dầu “Há Ta không phải uống chén Cha Ta đã ban cho Ta sao?” (18:11).
Một trong các hành động sau cùng khác có sự can dự của Mẹ Chúa Giêsu và người môn đệ yêu qúy (19:25-27). Ý nghĩa chính xác của biến cố này khó có thể xác định. Người môn đệ yêu qúy là thành viên của gia hộ Chúa Giêsu hay là cộng đoàn (“Hỡi con, này là mẹ con”)? Mẹ Chúa Giêsu tượng trưng cho Do Thái Giáo và nay “hạ sinh” một cộng đoàn mới tượng trưng bởi người môn đệ của Chúa Giêsu, trong khi cùng một lúc, cộng đoàn Kitô Giáo phải tỏ ra tôn kính đối với Do Thái Giáo vốn là bậc phụ huynh của mình? Hay Mẹ Chúa Giêsu tượng trưng cho đức tin vĩ đại của Do Thái mà cái đau đẻ nay hoàn tất trong cộng đoàn đức tin bắt đầu với cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu (xem hình ảnh này vốn được dùng trong diễn văn từ biệt của Chúa Giêsu tại 16:21-22).
Tin Mừng Gioan rất hay nhử độc giả, chứ không chỉ thị họ phải rút ra loạt ý nghĩa nào từ bản văn. Thánh Gioan diễn tả cái chết của Chúa Giêsu bằng những nét vắn vỏi nhưng mạnh bạo. Lời cuối cùng của Người là: “Thế là đã hoàn tất” (19:30). Nó vang vọng tinh thần Gioan, Động từ Hy Ngữ dùng ở đây, teleo, quả có nghĩa “hoàn tất”, “tới mục tiêu đã định” mà Chúa Giêsu đã đặt ra để thực thi thánh ý Chúa Cha, kính yêu Chúa Cha “cho đến chết” (13:1, chữ cùng một gốc là telos đã được sử dụng). Gục đầu một cách thanh nhã và điềm tĩnh, Chúa Giêsu Ngôi Lời Thành Xác Phàm phó thần khí sống của Người cho Thiên Chúa. Có một âm hưởng tuyệt diệu nào đó của lòng thanh thản và mạnh mẽ lúc Chúa Giêsu của Thánh Gioan đối diện với cái chết. Cái chết này không hề đóng kịch (Thánh Gioan sẽ chứng minh điều này trong đoạn giáo đâm sau đây) nhưng nỗi kinh hoàng của sự chết đã được tình yêu gỡ ngòi.
6. Chứng từ: Ga 19: 31-42
Hôm đó là ngày áp lễ, người Dothái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn. Nên họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Ðức Giêsu. Khi đến gần Ðức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.
Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Ðấng họ đã đâm thâu.
Sau đó, ông Giôxép, người Arimathê, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Ðức Giêsu xuống. Ông Giôxép này là một môn đệ theo Ðức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Dothái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Giôxép đến hạ thi hài Người xuống. Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Ðức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Ðức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà cuốn, theo tục lệ chôn cất của người Dothái. Nơi Ðức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Ðức Giêsu ở đó.
Câu truyện khổ nạn của Thánh Gioan kết thúc bằng hai màn khá tàn bạo trong nghi thức đóng đinh nhưng được Tin Mừng này dành cho một ý nghĩa hoàn toàn mới.
Các lý hình đến đập ống chân người bị đóng đinh để làm cái chết mau đến trước khi ngày Sabát bắt đầu. Nhưng họ không đập ống chân Chúa Giêsu; một cách vô tình, họ đã ứng nghiệm lời Sách Thánh nói tới chiên vượt qua (xin xem Xh 12:46 chẳng hạn). Trước đó, trong lời chứng của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu vốn đã được ví là “chiên Thiên Chúa”, một con chiên sẽ đến để gánh lấy tội lỗi thế giới (1:29, 36).
Để chắc chắn Chúa Giêsu đã chết, một trong binh sĩ đâm ngọn giáo vào cạnh sườn Người. Máu và nước tuôn ra từ thân thể Người. Một lần nữa, hành vi dã man đã mang một ý nghĩa mới dưới con mắt Tin Mừng. Tin Mừng này trích dẫn Tiên Tri Dacaria 12:10, một bản văn khó quên nói tới việc cư dân Giêrusalem thống hối và được Thiên Chúa tha thứ nhờ nhìn lên Đấng “họ đâm thâu qua”. Nước và máu có một ý nghĩa phong phú trong Tin Mừng Gioan. Tại chương 7, Chúa Giêsu dùng biểu tượng nước để nói về Thần Khí sẽ tuôn vào thế giới qua cái chết ban sự sống của mình (xem 7:37-39). Và trong diễn văn bánh hằng sống, Chúa Giêsu nói tới máu ban sự sống của Người cho những ai tham dự (6:53, 54, 55-56).
Tất cả các dấu chỉ trên xác nhận sức mạnh cứu chuộc của cái chết của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan và vì thế, tin mừng gia này đã nhấn mạnh lời chứng dứt khoát của “nhân chứng” dưới chân thập giá (19:35), mà người ta vốn cho là Người Môn Đệ Yêu Qúy vốn là gạch nối chủ chốt giữa cộng đoàn nguyên thủy của Chúa Giêsu và Giáo Hội của Thánh Gioan.
Đoạn kết diễn ra với việc thân xác bị đóng đinh của Chúa Giêsu được tháo xuống từ thập giá để chôn cất. Ngay lúc này, hiệu quả sứ mệnh của Chúa Giêsu đã hiển hiện. Giuse Arimêtêa, người, vì sợ, đã chỉ là môn đệ của Người trong bóng tối nhưng nay đủ can đảm, tiến ra đòi xác Thầy. Ông được sự tham gia của Nicôđêmô, một Biệt Phái từng tới gặp Chúa Giêsu “ban đêm” (3:1) và đức tin là một đức tin dò dẫm (7:50-52). Ông mang theo một lượng lớn hương liệu, đủ cho một cuộc mai táng vương giả!
Cả hai người gạt sợ sệt và công khai tỏ lòng tôn kính Chúa Giêsu bị đóng đinh. Những người trong bóng tối nay bước ra ánh sáng. Lời yêu thương của Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết.
(Còn tiếp)
____________________________________________________________________________________________________________
(1) Cha An Sơ Vị dịch chữ Hy Lạp “lestés” ở đây là “du kích” theo nghĩa của phe ái quốc (Zealots) nhằm giải phóng dân mình khỏi ách thống trị của Rôma và nhóm cầm quyền bóc lột cấu kết với thực dân.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ruộng Muối
Dominic Đức Nguyễn
21:11 31/03/2015
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Tôi thân hạt muối, nhúm men
Vùi trong thầm lặng để đem Tin Mừng
Có cười, có khóc rưng rưng !
(Trầm Tĩnh Nguyện)
Thánh Ca
Video Thánh Ca: Con Xin Phó Thác - Nhạc: Thành Tâm – Trình bày: Tố Hằng
VietCatholic Network
15:50 31/03/2015