Phụng Vụ - Mục Vụ
Đói Khát
Lm Vũđình Tường
08:53 23/05/2008
Đói khát luôn đi chung với đau khổ. Nhiều người sống rất khổ nhưng chưa chắc đã đói. Những ai đói khát đều sống khổ. Đói khát, khổ đau đi chung với nhau như hình bóng. Đói khát hành hạ cả thân xác lẫn tinh thần.
Tù nhân sống sót từ các trại lao động khổ sai trở về kể lại sáng ăn đói đi làm, tối nhịn đói ngủ. Đói khát, lạnh giá hành hạ xác và tinh thần ngày đêm. Thiếu dinh dưỡng, đói trường kì, nên bất cứ thứ gì có thể ăn được làm giảm cơn đói, uống được làm nguôi cơn khát tù nhân đều thử.
CHẾT VÌ ĂN
Vì đói cào cấu ruột gan tù nhân không may ăn trúng độc thảo, thêm vào tình trạng cơ thể thiếu dinh dưỡng, vĩnh biệt người thân không bao giờ trở về. Người may mắn sống sót về một đời mang bệnh nan y.
TỰ DO
Cuộc sống tự do cũng bị thực phẩm hành hạ không ít. Nơi thiếu thốn không đủ mà ăn; nơi khác lại dư thừa quá nhiều không sao ăn nổi. Ăn không cẩn thận mỡ trong máu. Uống không kiêng cữ đường trong người. Cả hai chứng bệnh đều khó trị, đều gây đau khổ, phiền muộn. Nhiều người ăn mãi cảm thấy chán. Các món quen thử hết nên tìm thử các món lạ. Thử hết vẫn chưa hài lòng. Cuối cùng phiêu lưu ăn, hút sản phẩm chứa hoá chất. Lúc đầu lạ miệng, cảm giác đê mê do hoá chất tạo ra. Cảm giác yếu dần, hút gây kích thích mạnh hơn. Hút chưa thoả chí chích xem sao? Ghiền rồi cơ thể không muốn bỏ. Đến cơn làm reo đòi cho có. Đòi không được thì vật vã thế là trở thành nô lệ cho cơn ghiền. Con đường tưởng dẫn đến tự do, vui thoả nào ngờ cuối đường lại lọt tròng làm nô lệ cho chính điều mong ước, tự chọn.
Hoá chất là độc tố làm hại cơ thể, tạo cơn ghiền. Ghiền nên phải nuôi. Nuôi rất tốn, cần nhiều tiền. Càng ghiền càng nhiều cơn, làm gì còn giờ để làm ra tiền. Làm không đủ thì lập mưu, tính kế bày trò tìm cách làm tiền. Đã bày trò lập kế còn kể chi đến cách tốt xấu miễn sao có tiền. Mục đích chính là kiếm tiền từ đó phát sinh tệ nạn xã hội, bệnh tật, sống đầu đường xó chợ xa đoạ là điều không thể tránh.
ĐÓI TINH THẦN
Bài học đói thực phẩm, khát nước trong lành dẫn đến tình trạng cơ thể thiếu dinh dưỡng suy thoái về sức khoẻ, sai lầm trong phán đoán và một số phải diệt vong. Kẻ ghiền đi vào con đường tự huỷ hoại các tính tốt, bán nhân phẩm, bán xác nuôi thân, là những mỏ vi trùng lưu động. Đời sống văn minh pha trộn nhiều điều tốt và các thú tiêu khiển xa đoạ, ăn chơi. Đa số những sáng kiến mới của các trò chơi tiêu khiển đều lợi dụng đền thờ Chúa Thánh Thần làm sân khấu trình diễn. Nếu có người lên tiếng phê bình, phản đối bị liệt vào nhóm chống đối nghệ thuật. Sáng kiến mới của nghệ thuật ăn chơi dùng thân xác mua vui thân xác.
Thực phẩm xấu ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ thân xác, sa đọa tinh thần. Đời sống tâm linh ảnh hưởng nặng vì lòng đạo khô cạn, luân lí suy đồi, coi nhẹ công bình bác ái. Chân chính sao đủ tiền nuôi cơn ghiền. Bác ái đòi yêu người ta như chính mình. Khó thực thi vì chính mình chưa yêu mình, làm sao yêu người. Nếu yêu mình đã không đi vào con đường tự huỷ, nghiện ngập.
Kitô hữu nghiện ngập không còn giờ cho Chúa nữa. Thiếu phó thác nên biếng nhác đời sống cầu nguyện hàng ngày, ngại ngùng tham dự, lãnh nhận các bí tích là chọn một cuộc sống vừa đói bánh trường sinh vừa khát nước hằng sống.
Tù nhân đói vì bị cưỡng ép ăn đói; Kitô hữu đói khát sự sống vĩnh cửu vì tự nguyện làm nô lệ cho chọn lựa riêng. Thân xác đói khát kiệt quệ không thể làm ngơ mà bắt buộc phải nuôi dưỡng. Tâm linh đói cũng đòi phải nuôi dưỡng. Tâm linh không ồn ào như thân xác. Tâm linh luôn khát khao, mong tìm nguồn an bình thực sự. Đòi hỏi của tâm linh là tiếng nói nội tâm mãnh liệt nhưng êm đềm. Để chạy trốn tiếng nói nội tâm con người đi tìm nguồn tâm linh bù đắp qua các hình thức dị đoan, mê tín hoặc tin theo các chủ thuyết, triết thuyết và ngay cả lao mình vào các cuộc ăn chơi trác táng. Làm thế tưởng là thoả mãn nhu cầu tâm linh. Hoá chất làm tê liệt thần kinh, tạo bình an giả tạo. Hoá chất giảm tiếng nói lương tâm lại vọng ngân.
NGUỒN TÂM LINH KHÁC
Bản chất của tâm linh là hướng điều tốt lành và yêu thương. Nhu cầu của tâm linh đòi điều tốt lành. Tìm điều tốt lành nơi triết thuyết, chủ thuyết, học thuyết thì không thể vì chúng thuộc về trần thế, phạm vi trần tục do trí óc con người suy đoán, lí luận. Chủ thuyết có mục đích khuyến dụ, ru ngủ. Lí thuyết thiên về lí luận đặt nặng về nhồi sọ, tẩy não, tuyên truyền. Nói hay lắm kẻ ủng hộ, nhiều người theo. Chủ thuyết mạnh giết chủ thuyết yếu. Người trong chủ thuyết cũng ngầm thanh toán, đè nhau leo lên bậc thang, hàng lãnh đạo.
Vật chất không thay thế tâm linh. Đói khát tâm linh chỉ tâm linh mới thoả mãn tâm linh. Chính đạo cung cấp điều tâm linh cần, không phải đạo nào cũng được mà phải là chính đạo. Chính đạo chỉ có một.
Thầy là đường là sự thật.
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống’. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời (Gn 6,51).
Muốn hưởng sự sống thật hãy sốt sắng, siêng lãnh nhận bánh hằng sống, nước trường sinh.
TÌM BÀI CŨ:
SUY NIỆM: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html
TRUYỆN NGẮN: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html
HÌNH ẢNH: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Tù nhân sống sót từ các trại lao động khổ sai trở về kể lại sáng ăn đói đi làm, tối nhịn đói ngủ. Đói khát, lạnh giá hành hạ xác và tinh thần ngày đêm. Thiếu dinh dưỡng, đói trường kì, nên bất cứ thứ gì có thể ăn được làm giảm cơn đói, uống được làm nguôi cơn khát tù nhân đều thử.
CHẾT VÌ ĂN
Vì đói cào cấu ruột gan tù nhân không may ăn trúng độc thảo, thêm vào tình trạng cơ thể thiếu dinh dưỡng, vĩnh biệt người thân không bao giờ trở về. Người may mắn sống sót về một đời mang bệnh nan y.
TỰ DO
Cuộc sống tự do cũng bị thực phẩm hành hạ không ít. Nơi thiếu thốn không đủ mà ăn; nơi khác lại dư thừa quá nhiều không sao ăn nổi. Ăn không cẩn thận mỡ trong máu. Uống không kiêng cữ đường trong người. Cả hai chứng bệnh đều khó trị, đều gây đau khổ, phiền muộn. Nhiều người ăn mãi cảm thấy chán. Các món quen thử hết nên tìm thử các món lạ. Thử hết vẫn chưa hài lòng. Cuối cùng phiêu lưu ăn, hút sản phẩm chứa hoá chất. Lúc đầu lạ miệng, cảm giác đê mê do hoá chất tạo ra. Cảm giác yếu dần, hút gây kích thích mạnh hơn. Hút chưa thoả chí chích xem sao? Ghiền rồi cơ thể không muốn bỏ. Đến cơn làm reo đòi cho có. Đòi không được thì vật vã thế là trở thành nô lệ cho cơn ghiền. Con đường tưởng dẫn đến tự do, vui thoả nào ngờ cuối đường lại lọt tròng làm nô lệ cho chính điều mong ước, tự chọn.
Hoá chất là độc tố làm hại cơ thể, tạo cơn ghiền. Ghiền nên phải nuôi. Nuôi rất tốn, cần nhiều tiền. Càng ghiền càng nhiều cơn, làm gì còn giờ để làm ra tiền. Làm không đủ thì lập mưu, tính kế bày trò tìm cách làm tiền. Đã bày trò lập kế còn kể chi đến cách tốt xấu miễn sao có tiền. Mục đích chính là kiếm tiền từ đó phát sinh tệ nạn xã hội, bệnh tật, sống đầu đường xó chợ xa đoạ là điều không thể tránh.
ĐÓI TINH THẦN
Bài học đói thực phẩm, khát nước trong lành dẫn đến tình trạng cơ thể thiếu dinh dưỡng suy thoái về sức khoẻ, sai lầm trong phán đoán và một số phải diệt vong. Kẻ ghiền đi vào con đường tự huỷ hoại các tính tốt, bán nhân phẩm, bán xác nuôi thân, là những mỏ vi trùng lưu động. Đời sống văn minh pha trộn nhiều điều tốt và các thú tiêu khiển xa đoạ, ăn chơi. Đa số những sáng kiến mới của các trò chơi tiêu khiển đều lợi dụng đền thờ Chúa Thánh Thần làm sân khấu trình diễn. Nếu có người lên tiếng phê bình, phản đối bị liệt vào nhóm chống đối nghệ thuật. Sáng kiến mới của nghệ thuật ăn chơi dùng thân xác mua vui thân xác.
Thực phẩm xấu ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ thân xác, sa đọa tinh thần. Đời sống tâm linh ảnh hưởng nặng vì lòng đạo khô cạn, luân lí suy đồi, coi nhẹ công bình bác ái. Chân chính sao đủ tiền nuôi cơn ghiền. Bác ái đòi yêu người ta như chính mình. Khó thực thi vì chính mình chưa yêu mình, làm sao yêu người. Nếu yêu mình đã không đi vào con đường tự huỷ, nghiện ngập.
Kitô hữu nghiện ngập không còn giờ cho Chúa nữa. Thiếu phó thác nên biếng nhác đời sống cầu nguyện hàng ngày, ngại ngùng tham dự, lãnh nhận các bí tích là chọn một cuộc sống vừa đói bánh trường sinh vừa khát nước hằng sống.
Tù nhân đói vì bị cưỡng ép ăn đói; Kitô hữu đói khát sự sống vĩnh cửu vì tự nguyện làm nô lệ cho chọn lựa riêng. Thân xác đói khát kiệt quệ không thể làm ngơ mà bắt buộc phải nuôi dưỡng. Tâm linh đói cũng đòi phải nuôi dưỡng. Tâm linh không ồn ào như thân xác. Tâm linh luôn khát khao, mong tìm nguồn an bình thực sự. Đòi hỏi của tâm linh là tiếng nói nội tâm mãnh liệt nhưng êm đềm. Để chạy trốn tiếng nói nội tâm con người đi tìm nguồn tâm linh bù đắp qua các hình thức dị đoan, mê tín hoặc tin theo các chủ thuyết, triết thuyết và ngay cả lao mình vào các cuộc ăn chơi trác táng. Làm thế tưởng là thoả mãn nhu cầu tâm linh. Hoá chất làm tê liệt thần kinh, tạo bình an giả tạo. Hoá chất giảm tiếng nói lương tâm lại vọng ngân.
NGUỒN TÂM LINH KHÁC
Bản chất của tâm linh là hướng điều tốt lành và yêu thương. Nhu cầu của tâm linh đòi điều tốt lành. Tìm điều tốt lành nơi triết thuyết, chủ thuyết, học thuyết thì không thể vì chúng thuộc về trần thế, phạm vi trần tục do trí óc con người suy đoán, lí luận. Chủ thuyết có mục đích khuyến dụ, ru ngủ. Lí thuyết thiên về lí luận đặt nặng về nhồi sọ, tẩy não, tuyên truyền. Nói hay lắm kẻ ủng hộ, nhiều người theo. Chủ thuyết mạnh giết chủ thuyết yếu. Người trong chủ thuyết cũng ngầm thanh toán, đè nhau leo lên bậc thang, hàng lãnh đạo.
Vật chất không thay thế tâm linh. Đói khát tâm linh chỉ tâm linh mới thoả mãn tâm linh. Chính đạo cung cấp điều tâm linh cần, không phải đạo nào cũng được mà phải là chính đạo. Chính đạo chỉ có một.
Thầy là đường là sự thật.
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống’. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời (Gn 6,51).
Muốn hưởng sự sống thật hãy sốt sắng, siêng lãnh nhận bánh hằng sống, nước trường sinh.
TÌM BÀI CŨ:
SUY NIỆM: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html
TRUYỆN NGẮN: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html
HÌNH ẢNH: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Tình Yêu Vẫn Thế
Sơn Ca Linh
09:09 23/05/2008

Tặng Phẩm Thần Linh
LM. Giuse Nguyễn Hữu An
09:17 23/05/2008
TẶNG PHẨM THẦN LINH
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống.( Mt 26,26-29; Lc, 22,14-20 ). Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và còn dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau.Bốn khung cảnh đó hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là trung tâm của đời sống đức tin như Công đồng Vatican II đã xác tín: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo”; “Bí tích Thánh Thể tích chứa tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội: Đó chính là Đức Kitô”.Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu.Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người,và giữa con người với nhau.Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô.Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá.Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian.Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần,tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần.Chúa Kitô đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội.Thánh Thể làm nên Giáo Hội.Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô ( 1 Cor10,17).
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô.Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu,làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Linh mục,thừa tác viên của Giáo hội,thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép.Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến.Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô,Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục.Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài.Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa Linh mục và Đức Kitô,khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực.Sau Truyền Phép, bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa.Đã có một sự thay đổi,sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”.Đây là công việc của Chúa Thánh Thần,chứ không phải là công việc của người phàm,dù người ấy là Linh mục.Vì ý thức điều đó,Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép:
“ Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này,để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng con” ( Kinh Nguyện Thánh Thể II ).
“ Lạy Cha,chúng con tha thiết nài xin Cha,cũng nhờ Chúa Thánh Thần,mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây,để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô,con Cha, Chúa chúng con” ( Kinh Nguyện Thánh Thể III ).
“ Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này,để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” ( Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta,trong hình bánh và rượu.Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh,hiện diện trong Giáo hội,hiện diện nơi những người nghèo khổ,hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện ( Mt 18, 20).Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực.Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh,Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô;Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo,vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “ Ta đói các ngươi cho ăn,Ta khát các ngươi cho uống …” ( Mt 25,35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể,sau Lời Truyền Phép,bánh và rượu là Đức Kitô,là bản thân Ngài,là bản thể Ngài,là Mình và Máu Ngài.Trong Bí Tích Thánh Thể,sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép.
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Thiên Chúa đã yêu thế gian nổi ban chính Con Một ( Ga 3,16) và Con Một là Đức Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người.Bánh và rượu có thể tầm thường,nhưng laị là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày.Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người.Từ bông lúa bị nghiền nát,từ chùm nho bị ép,nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ tình Chúa,tình người.
Khi yêu thương ai, chúng ta muốn được ở gần người đó để hàn huyên tâm sự: - Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,thất bát sông cũng lội,tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua. - Yêu nhau chẳng quản xa gần, mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua. Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại bằng một tình yêu bao la. Ngài không phải chỉ đi qua vài ba ngọn đồi, lội qua dăm bảy con suối để đến với chúng ta. Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ vô biên đến hữu hạn, con đường từ trời xuống đất, con đường từ một Thiên Chúa toàn năng đến một người nghèo hèn, để trở thành một Emmnuel -Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài muốn ở cùng chúng ta mãi mãi, cho đến tận cùng thời gian qua bí tích Thánh thể.
Bữa ăn, bàn tiệc là dấu chỉ của sự yêu thương và hiệp nhất. Khi quây quần chung bàn ăn, chúng ta chia sẻ với nhau một nguồn sống, một niềm vui. Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh thể dưới hình thức một bữa ăn, một bàn tiệc. Thánh thể đong đầy ý nghĩa yêu thương và hiệp nhất. Nơi bàn tiệc Thánh thể, mọi người đều bình đẳng vì tất cả đều là con cái Chúa. Tình bác ái huynh đệ nơi bàn tiệc Thánh Thể được tiếp nối trong cuộc đời người tín hữu.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa.Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, mỗi người sẽ học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
Nguy cơ coi thường bí tích Thánh Thể
Lại Thế Lãng
09:26 23/05/2008
NGUY CƠ COI THƯỜNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Là người Công giáo thì ai cũng đều biết sau lời truyền phép của linh mục thì bánh trở nên Mình và rượu trở nên Máu Chúa Kitô. Biết vì được dạy như vậy nhưng tin thì có người tin nhiều, có người tin ít, thậm chí còn có người ngờ vực nữa là đàng khác.
Tôi nhớ một dịp chuẩn bị cho một số em trong cộng đoàn xưng tôi để được rước lễ lần đầu. Khi đó một linh mục người Mỹ đợc Đức Giám Mục địa phận chỉ định trông coi cộng đoàn, cha Francis Holland, là người sẽ giải tội cho các em hôm đó. Cha đã cho mời cha mẹ của tất cả các em đến gặp gỡ và nói chuyện trước khi ngài ngồi tòa giải tội cho các em.
Trước mặt đông đủ cha mẹ của các em xưng tôi ngày hôm đó cha nói: ngày nay người ta có khuynh hướng coi thường bí tích Thánh Thể và đó thật là điều tệ hại. Cha nói cha mẹ cần phải chấn chỉnh niềm tin để chính mình vững tin và giúp cho con em vững tin vào bí tích Thánh Thể. Ngài nhấn mạnh cha mẹ cần luôn nhắc nhở cho con cái nhớ mỗi khi rước lễ là rước chính Chúa Kitô vào trong lòng.
Thật ra thì cũng không dễ dàng gì khi giải thích bí tích Thánh Thể. Dưới con mắt của mọi người thì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép tấm bánh vẫn là tấm bánh, rượu vẫn là tượu. Không có gì thay đổi cả.
Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm vượt qua trí hiểu của con người cho nên không thể nhìn bằng con mắt xác thịt mà phải nhìn bằng con mắt đức tin. Người có con mắt đức tin là người tin tưởng tuyệt đối vào lời Chúa mà chẳng cần quan sát hay suy luận. “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Khi còn ở thế gian Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Chúa Giêsu cũng đã nói với đám đông dân chúng “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong ngừời ấy” (Ga 6:56). Và để thực hiện hai điều hứa trên, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể.
Trong bữa ăn với các môn đệ trước khi tự nộp mình để chịu tử hình Chúa Giêsu bẻ bánh trao cho các ông và nói “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26:26) và Người cũng trao chén rượu cho các ông và nói “Tất cả anh em hãy uống chén này vì đây là máu Thầy” (Mt 26: 27-28).
Bí tích Thánh Thể đã được thiết lập kể từ ngày đó. Sau Chúa Giêsu, các linh mục là đại diện của Chúa Giêsu được ban cho đặc quyền khi đọc lại lời truyền xưa thì bánh trở thành thịt và rượu trở nên máu của chính Chúa Kitô.
Để hiểu được mầu nhiệm bí tích Thánh Thể như trên đã nói, phải dùng con mắt tâm linh, phải có đức tin mạnh mẽ. Tuy vậy cũng có khi chỉ bằng con mắt xác thịt, con người cũng có thể nhìn thấy bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu sau lời truyền phép của linh mục. Đó là những phép lạ Thánh Thể đã xẩy ra ở nhiều nơi trước sự chứng kiến của nhiều người và đã được xác minh bởi những nhà khoa học.
Sách báo đã viết không ít về những phép lạ liên quan đến bí tích Thánh Thể. Ở đây chỉ xin đựơc nhắc laị phép lạ đã xẩy ra tại Lanciano thuộc vùng Frentania nước Ý. Phép lạ này tuy xẩy ra từ thế kỷ thứ 8 nhưng các cuộc nghiên cứu cho đến cách đây không lâu lắm, năm 1971 cũng vẫn cho thấy khoa học không thể bác bỏ được.
Câu chuyện xẩy ra trong ngôi nhà thờ bé nhỏ kính thánh Legonziano ở Lanciano. Một đan sĩ Dòng Thánh Basilio, trong lúc cử hành thánh lễ, sau khi đọc lời truyền phép, bỗng cha thấy thoáng một chút hoài nghi về sự hiện diện đích thực của Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu bên trong hình bánh và rượu. Vậy là, trong phút chốc, tấm bánh trắng trong tay cha đã biến thành một miếng Thịt sống, và rượu trong chén thánh đã trở nên Máu tươi dưới dạng 5 cục đông đặc lớn nhỏ khác nhau. Mãi cho đến hôm nay, những gì xẩy ra ngày hôm đó vẫn còn được lưu giữ trọn vẹn và hàng ngày đã thu hút người hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến kính viếng Mình Máu Thánh Chúa. Dưới đây xin được ghi lại một phần bài viết của linh mục Jean Derobert nói về những cuộc nghiên cứu liên quan đến phép lạ Lanciano được trích đăng trên MeMaria.org ngày 18-6-2006 để cùng suy nghĩ.
“Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều biên bản giám định đã được tiến hành bởi các Đấng Bản quyền trong Hội Thánh, đặc biệt, của Đức Hồng Y Rodriguez vào ngày 17.2.1574, của Đức Giám Mục Phó của Giáo Phận năm 1637, của Đức Hồng Y Gervasone năm 1770, và của Đức Hồng Y Petrarca ngày 26.10.1886.
Ngày 18.11.1970, được Đấng Bản Quyền cho phép, các Tu Sĩ Phan-xi-cô đã ủy thác Di Tích Thánh cho một nhóm các nhà khoa học cùng tiến hành phân tích, đứng đầu là giáo sư Odoardo Linoli chuyên về giải phẫu cơ thể, bệnh lý các mô, hóa học và lâm sàng. Ngoài ra còn có sự cộng tác của giáo sư Ruggero Bertelli của Trường Đại Học Sienna.
Ngày 4.3.1971, ngay trong Nhà Thờ Thánh Phan-xi-cô, giáo sư Linoli đã tổ chức một hội nghị trình bày các kết quả nghiên cứu trước các vị Bề Trên Dòng cũng như chức sắc dân sự, cả các vị đại diện ngành văn hóa và y khoa. Các phân tích đã được minh họa bởi một bộ ảnh chụp bằng ống kính hiển vi. Và các kết luận sau đó đã được đăng tải trên rất nhiều tạp chí khoa học khắp thế giới như sau:
- Đây là thịt và máu thật sự.
- Cả thịt và máu đều thuộc về cùng một cơ thể con người.
- Cả thịt và máu đều thuộc vào nhóm máu AB.
- Phần máu cho thấy đây là máu của một con người hiện tại, ngay ngày hôm nay, chứ không phải là đã được lưu giữ 12 thế kỷ trước.
- Phần thịt cho thấy đây là một thớ thịt thuộc phần cơ của quả tim.
- Không hề có dấu hiệu nào cho thấy có một chút liên quan gì đến các dung dịch dùng để ướp xác.
- Các thớ thịt cho thấy không hề có một bàn tay nào đã giải phẩu và lấy ra từ một con người. Phần máu cũng không hề được rút ra từ một xác chết, nếu không, nó đã bị biến chất, phân hủy và thối rữa.
- Các hàm lượng chất prô-tê-in chứa trong máu đều bình thường.
- Một số chất đã được tìm ra trong máu gồm có: clo-rua, phốt-pho, ma-nhê, na-tri và can-xi.
- Việc bảo quản các Di Tích Thánh trong tình trạng tự nhiên trong suốt nhiều thế kỷ, mà không bị ảnh hưởng một chút gì bởi các tác nhân vật lý, khí hậu và sinh học, quả là một hiện tượng khoa học không thể nào giải thích nổi.
Tiếp sau bản báo cáo gây xúc động của giáo sư Linoli, đại diện tối cao của tổ chức OMS ( Organisation Mondiale de la Santé ) của Liên Hiệp Quốc đã thành lập một hội đồng khoa học để kiểm chứng lại những kết luận nói trên. Công việc kéo dài trong 15 tháng với tất cả 500 thí nghiệm. Các kết luận đều giống nhau. Các Di Tích Thánh ở thành Lanciano không thể được coi như một thứ xác ướp. Người ta không thể giải thích tại sao và như thế nào mà các Di Tích Thánh này lại được lưu giữ trong suốt 12 thế kỷ mà không hề có một phương tiện bảo tồn khoa học nào.
Về tình trạng của mẩu Thịt, Hội Đồng đã mạnh dạn công bố rằng: đây là một thớ thịt tươi nguyên bởi nó có thể nhanh chóng đáp ứng trước mọi nghiên cứu lâm sàng như đối với những cơ phận sống của một con người”.
Bằng vào lời Chúa trong kinh thánh và bằng vào những phép lạ nhãn tiền liên quan đến Thánh Thể mà dấu tích vẫn còn lưu lại cho đến ngày hôm nay nếu ai còn chưa vững tin vào bí tích Thánh Thể thì qủa thật là qúa cứng lòng. Vững tin vào bí tích Thánh Thể nhưng niềm tin ấy cần phải thấm nhập vào trong tim óc để rồi thể hiện ra ngoài từ trong cách suy nghĩ, nói năng cho đến hành động, cách xử thế… chứ không chỉ tin bằng môi miệng. Người có niềm tin vững chắc khi rước lễ thì tin thật có Chúa ngự trong lòng sẽ không giữ trong đầu óc những ý nghĩ đen tối, không ăn nói điêu ngoa, không gian dối, không lừa bịp người khác …
Khi còn nhỏ tôi thường được bà nội nhắc nhở rằng rước lễ là rước Chúa vào lòng. Khi có Chúa ở trong lòng thì phải giữ gìn không được làm điều gì mất lòng Chúa. Bà tôi cũng nói khi đã có Chúa ở bên mình thì phải biết nhân cơ hội đó mà cầu xin. Bà tôi nói gỉa dụ như một ngày nào đó có vị hoàng đế ghé thăm nhà mình thì làm sao mình không nhân dịp may mắn đó để ngỏ ý xin hoàng đế ban cho một ân huệ. Cũng vậy sau khi rước lễ nghĩa là đang có Chúa ở ngay bên cạnh tại sao lại không biết giãi bày cùng Chúa những điều chất chứa ở trong lòng để xin Chúa giúp. Bà tôi nói mỗi buổi sáng được rước lễ thì ngày hôm đó bà không còn sợ bất cứ điều gì. Bà tôi tin rằng dù có gặp hiểm nguy thì Chúa cũng che chở.
Tôi tin bí tích Thánh Thể nhưng có lẽ đức tin của tôi chưa mạnh như bà tôi để có thể cảm nhận được cách rõ rệt như bà tôi đã cảm nhận. Tuy nhiên có một điều tôi biết chắc chắn là mỗi khi qùi trước Mình Thánh Chúa thì tôi cảm thấy thật bình an, tất cả những lo lắng, ưu tư, phiền muộn đều tan biến hết.
Tại giáo xứ Saint Mark nơi tôi đang ở là một trong hai giáo xứ của địa phận được phép thiết lập một phòng riêng biệt đặt Mình Thánh Chúa cho giáo dân có thể lui tới kính viếng bất cứ lúc nào. Phòng này mở cửa 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần. Từ khi được thành lập giáo dân đã ghi tên thay phiên nhau đến chầu Mình Thánh Chúa trong 1 giờ vào ngày và giờ nhất định trong tuần. Và như vậy là không có giờ nào, ngày nào mà không có người đến chầu Mình Thánh Chúa. Nhiều người thường nghi ngờ lòng đạo đức của người Mỹ nhưng trong suốt hơn 5 năm qua tôi đã nhìn thấy tận mắt bất kể những ngày thời tiết thuận lợi hay những ngày giá buốt và ngay cả bão tuyết trong mùa đông, lúc nào ít nhất cũng có một chiếc xe đậu trước cửa phòng nghĩa là không có lúc nào không có người chầu Mình Thánh Chúa.
Hiện tại tôi chưa thể sắp xếp để ghi danh chầu Minh Thánh Chúa trong 1 giờ vào một ngày, giờ nhất định mà chỉ đến viếng Mình Thánh Chúa mỗi khi có thể. Mỗi lần bước vào phòng đặt Mình Thánh Chúa và sau khi cánh cửa đã đựợc khép lại tôi có cảm tưởng như mình đang sống ở một thế giới khác. Có lúc tôi thấy trong phòng có đến cả chục người nhưng căn phòng hoàn toàn vắng lặng, mọi người đều âm thầm cầu nguyện. Qùi trước Mình Thánh Chúa có khi tôi lần hạt, có khi tôi giãi bày với Chúa như tâm sự với một người bạn, cũng có khi tôi chẳng lần hạt hay giãi bày gì cả mà chỉ qùi thinh lặng và chiêm ngắm Mình Thánh Chúa đặt trong mặt nhật. Nhưng dù với cách nào khi ra về tôi cũng cảm thấy tâm hồn thật thanh thản và thấy yêu mến Mình Thánh Chúa hơn.
Thường ở Mỹ giáo dân đi lễ không đông lắm nhưng trong thánh lễ hầu như cả nhà thờ đều lên rước lễ, hoạ hoằn mới có người không. Ngược lại ở Việt Nam giáo dân đi lễ thật đông nhưng lại có nhiều người không rước lễ. Tình trạng này khiến nhiều linh mục đã phải lên tiếng nhắc nhở giáo dân rằng đi lễ mà không rước lễ chẳng khác nào đi dư đại tiệc mà lại không chịu ăn uống gì.
Tuy nhiên lời mời gọi này phải được hiểu là chỉ muốn nhắn gửi đến những người có đủ điều kiện rước lễ nghĩa là không mắc tội trọng. Đối với những người đang mắc tội trọng thì không nên rước lễ vì như thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô đã cảnh cáo “bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Côrintô, 11:27). Rước lễ đang khi mắc tội trọng chẳng khác gì “…ăn và uống án phạt mình” (1Côritô, 11:29). Để xứng đáng rước Mình Máu Thánh Chúa phải có đủ ba điều kiện: không mắc tội trọng, có ý ngay lành và giữ chay 1 giờ trước lúc rước lễ.
Nhân Lễ Mình Máu Chúa 2008
Là người Công giáo thì ai cũng đều biết sau lời truyền phép của linh mục thì bánh trở nên Mình và rượu trở nên Máu Chúa Kitô. Biết vì được dạy như vậy nhưng tin thì có người tin nhiều, có người tin ít, thậm chí còn có người ngờ vực nữa là đàng khác.
Tôi nhớ một dịp chuẩn bị cho một số em trong cộng đoàn xưng tôi để được rước lễ lần đầu. Khi đó một linh mục người Mỹ đợc Đức Giám Mục địa phận chỉ định trông coi cộng đoàn, cha Francis Holland, là người sẽ giải tội cho các em hôm đó. Cha đã cho mời cha mẹ của tất cả các em đến gặp gỡ và nói chuyện trước khi ngài ngồi tòa giải tội cho các em.
Trước mặt đông đủ cha mẹ của các em xưng tôi ngày hôm đó cha nói: ngày nay người ta có khuynh hướng coi thường bí tích Thánh Thể và đó thật là điều tệ hại. Cha nói cha mẹ cần phải chấn chỉnh niềm tin để chính mình vững tin và giúp cho con em vững tin vào bí tích Thánh Thể. Ngài nhấn mạnh cha mẹ cần luôn nhắc nhở cho con cái nhớ mỗi khi rước lễ là rước chính Chúa Kitô vào trong lòng.
Thật ra thì cũng không dễ dàng gì khi giải thích bí tích Thánh Thể. Dưới con mắt của mọi người thì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép tấm bánh vẫn là tấm bánh, rượu vẫn là tượu. Không có gì thay đổi cả.
Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm vượt qua trí hiểu của con người cho nên không thể nhìn bằng con mắt xác thịt mà phải nhìn bằng con mắt đức tin. Người có con mắt đức tin là người tin tưởng tuyệt đối vào lời Chúa mà chẳng cần quan sát hay suy luận. “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Khi còn ở thế gian Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Chúa Giêsu cũng đã nói với đám đông dân chúng “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong ngừời ấy” (Ga 6:56). Và để thực hiện hai điều hứa trên, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể.
Trong bữa ăn với các môn đệ trước khi tự nộp mình để chịu tử hình Chúa Giêsu bẻ bánh trao cho các ông và nói “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26:26) và Người cũng trao chén rượu cho các ông và nói “Tất cả anh em hãy uống chén này vì đây là máu Thầy” (Mt 26: 27-28).
Bí tích Thánh Thể đã được thiết lập kể từ ngày đó. Sau Chúa Giêsu, các linh mục là đại diện của Chúa Giêsu được ban cho đặc quyền khi đọc lại lời truyền xưa thì bánh trở thành thịt và rượu trở nên máu của chính Chúa Kitô.
Để hiểu được mầu nhiệm bí tích Thánh Thể như trên đã nói, phải dùng con mắt tâm linh, phải có đức tin mạnh mẽ. Tuy vậy cũng có khi chỉ bằng con mắt xác thịt, con người cũng có thể nhìn thấy bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu sau lời truyền phép của linh mục. Đó là những phép lạ Thánh Thể đã xẩy ra ở nhiều nơi trước sự chứng kiến của nhiều người và đã được xác minh bởi những nhà khoa học.
Sách báo đã viết không ít về những phép lạ liên quan đến bí tích Thánh Thể. Ở đây chỉ xin đựơc nhắc laị phép lạ đã xẩy ra tại Lanciano thuộc vùng Frentania nước Ý. Phép lạ này tuy xẩy ra từ thế kỷ thứ 8 nhưng các cuộc nghiên cứu cho đến cách đây không lâu lắm, năm 1971 cũng vẫn cho thấy khoa học không thể bác bỏ được.
Câu chuyện xẩy ra trong ngôi nhà thờ bé nhỏ kính thánh Legonziano ở Lanciano. Một đan sĩ Dòng Thánh Basilio, trong lúc cử hành thánh lễ, sau khi đọc lời truyền phép, bỗng cha thấy thoáng một chút hoài nghi về sự hiện diện đích thực của Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu bên trong hình bánh và rượu. Vậy là, trong phút chốc, tấm bánh trắng trong tay cha đã biến thành một miếng Thịt sống, và rượu trong chén thánh đã trở nên Máu tươi dưới dạng 5 cục đông đặc lớn nhỏ khác nhau. Mãi cho đến hôm nay, những gì xẩy ra ngày hôm đó vẫn còn được lưu giữ trọn vẹn và hàng ngày đã thu hút người hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến kính viếng Mình Máu Thánh Chúa. Dưới đây xin được ghi lại một phần bài viết của linh mục Jean Derobert nói về những cuộc nghiên cứu liên quan đến phép lạ Lanciano được trích đăng trên MeMaria.org ngày 18-6-2006 để cùng suy nghĩ.
“Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều biên bản giám định đã được tiến hành bởi các Đấng Bản quyền trong Hội Thánh, đặc biệt, của Đức Hồng Y Rodriguez vào ngày 17.2.1574, của Đức Giám Mục Phó của Giáo Phận năm 1637, của Đức Hồng Y Gervasone năm 1770, và của Đức Hồng Y Petrarca ngày 26.10.1886.
Ngày 18.11.1970, được Đấng Bản Quyền cho phép, các Tu Sĩ Phan-xi-cô đã ủy thác Di Tích Thánh cho một nhóm các nhà khoa học cùng tiến hành phân tích, đứng đầu là giáo sư Odoardo Linoli chuyên về giải phẫu cơ thể, bệnh lý các mô, hóa học và lâm sàng. Ngoài ra còn có sự cộng tác của giáo sư Ruggero Bertelli của Trường Đại Học Sienna.
Ngày 4.3.1971, ngay trong Nhà Thờ Thánh Phan-xi-cô, giáo sư Linoli đã tổ chức một hội nghị trình bày các kết quả nghiên cứu trước các vị Bề Trên Dòng cũng như chức sắc dân sự, cả các vị đại diện ngành văn hóa và y khoa. Các phân tích đã được minh họa bởi một bộ ảnh chụp bằng ống kính hiển vi. Và các kết luận sau đó đã được đăng tải trên rất nhiều tạp chí khoa học khắp thế giới như sau:
- Đây là thịt và máu thật sự.- Cả thịt và máu đều thuộc về cùng một cơ thể con người.
- Cả thịt và máu đều thuộc vào nhóm máu AB.
- Phần máu cho thấy đây là máu của một con người hiện tại, ngay ngày hôm nay, chứ không phải là đã được lưu giữ 12 thế kỷ trước.
- Phần thịt cho thấy đây là một thớ thịt thuộc phần cơ của quả tim.
- Không hề có dấu hiệu nào cho thấy có một chút liên quan gì đến các dung dịch dùng để ướp xác.
- Các thớ thịt cho thấy không hề có một bàn tay nào đã giải phẩu và lấy ra từ một con người. Phần máu cũng không hề được rút ra từ một xác chết, nếu không, nó đã bị biến chất, phân hủy và thối rữa.
- Các hàm lượng chất prô-tê-in chứa trong máu đều bình thường.
- Một số chất đã được tìm ra trong máu gồm có: clo-rua, phốt-pho, ma-nhê, na-tri và can-xi.
- Việc bảo quản các Di Tích Thánh trong tình trạng tự nhiên trong suốt nhiều thế kỷ, mà không bị ảnh hưởng một chút gì bởi các tác nhân vật lý, khí hậu và sinh học, quả là một hiện tượng khoa học không thể nào giải thích nổi.
Tiếp sau bản báo cáo gây xúc động của giáo sư Linoli, đại diện tối cao của tổ chức OMS ( Organisation Mondiale de la Santé ) của Liên Hiệp Quốc đã thành lập một hội đồng khoa học để kiểm chứng lại những kết luận nói trên. Công việc kéo dài trong 15 tháng với tất cả 500 thí nghiệm. Các kết luận đều giống nhau. Các Di Tích Thánh ở thành Lanciano không thể được coi như một thứ xác ướp. Người ta không thể giải thích tại sao và như thế nào mà các Di Tích Thánh này lại được lưu giữ trong suốt 12 thế kỷ mà không hề có một phương tiện bảo tồn khoa học nào.
Về tình trạng của mẩu Thịt, Hội Đồng đã mạnh dạn công bố rằng: đây là một thớ thịt tươi nguyên bởi nó có thể nhanh chóng đáp ứng trước mọi nghiên cứu lâm sàng như đối với những cơ phận sống của một con người”.
Bằng vào lời Chúa trong kinh thánh và bằng vào những phép lạ nhãn tiền liên quan đến Thánh Thể mà dấu tích vẫn còn lưu lại cho đến ngày hôm nay nếu ai còn chưa vững tin vào bí tích Thánh Thể thì qủa thật là qúa cứng lòng. Vững tin vào bí tích Thánh Thể nhưng niềm tin ấy cần phải thấm nhập vào trong tim óc để rồi thể hiện ra ngoài từ trong cách suy nghĩ, nói năng cho đến hành động, cách xử thế… chứ không chỉ tin bằng môi miệng. Người có niềm tin vững chắc khi rước lễ thì tin thật có Chúa ngự trong lòng sẽ không giữ trong đầu óc những ý nghĩ đen tối, không ăn nói điêu ngoa, không gian dối, không lừa bịp người khác …
Khi còn nhỏ tôi thường được bà nội nhắc nhở rằng rước lễ là rước Chúa vào lòng. Khi có Chúa ở trong lòng thì phải giữ gìn không được làm điều gì mất lòng Chúa. Bà tôi cũng nói khi đã có Chúa ở bên mình thì phải biết nhân cơ hội đó mà cầu xin. Bà tôi nói gỉa dụ như một ngày nào đó có vị hoàng đế ghé thăm nhà mình thì làm sao mình không nhân dịp may mắn đó để ngỏ ý xin hoàng đế ban cho một ân huệ. Cũng vậy sau khi rước lễ nghĩa là đang có Chúa ở ngay bên cạnh tại sao lại không biết giãi bày cùng Chúa những điều chất chứa ở trong lòng để xin Chúa giúp. Bà tôi nói mỗi buổi sáng được rước lễ thì ngày hôm đó bà không còn sợ bất cứ điều gì. Bà tôi tin rằng dù có gặp hiểm nguy thì Chúa cũng che chở.
Tôi tin bí tích Thánh Thể nhưng có lẽ đức tin của tôi chưa mạnh như bà tôi để có thể cảm nhận được cách rõ rệt như bà tôi đã cảm nhận. Tuy nhiên có một điều tôi biết chắc chắn là mỗi khi qùi trước Mình Thánh Chúa thì tôi cảm thấy thật bình an, tất cả những lo lắng, ưu tư, phiền muộn đều tan biến hết.Tại giáo xứ Saint Mark nơi tôi đang ở là một trong hai giáo xứ của địa phận được phép thiết lập một phòng riêng biệt đặt Mình Thánh Chúa cho giáo dân có thể lui tới kính viếng bất cứ lúc nào. Phòng này mở cửa 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần. Từ khi được thành lập giáo dân đã ghi tên thay phiên nhau đến chầu Mình Thánh Chúa trong 1 giờ vào ngày và giờ nhất định trong tuần. Và như vậy là không có giờ nào, ngày nào mà không có người đến chầu Mình Thánh Chúa. Nhiều người thường nghi ngờ lòng đạo đức của người Mỹ nhưng trong suốt hơn 5 năm qua tôi đã nhìn thấy tận mắt bất kể những ngày thời tiết thuận lợi hay những ngày giá buốt và ngay cả bão tuyết trong mùa đông, lúc nào ít nhất cũng có một chiếc xe đậu trước cửa phòng nghĩa là không có lúc nào không có người chầu Mình Thánh Chúa.
Hiện tại tôi chưa thể sắp xếp để ghi danh chầu Minh Thánh Chúa trong 1 giờ vào một ngày, giờ nhất định mà chỉ đến viếng Mình Thánh Chúa mỗi khi có thể. Mỗi lần bước vào phòng đặt Mình Thánh Chúa và sau khi cánh cửa đã đựợc khép lại tôi có cảm tưởng như mình đang sống ở một thế giới khác. Có lúc tôi thấy trong phòng có đến cả chục người nhưng căn phòng hoàn toàn vắng lặng, mọi người đều âm thầm cầu nguyện. Qùi trước Mình Thánh Chúa có khi tôi lần hạt, có khi tôi giãi bày với Chúa như tâm sự với một người bạn, cũng có khi tôi chẳng lần hạt hay giãi bày gì cả mà chỉ qùi thinh lặng và chiêm ngắm Mình Thánh Chúa đặt trong mặt nhật. Nhưng dù với cách nào khi ra về tôi cũng cảm thấy tâm hồn thật thanh thản và thấy yêu mến Mình Thánh Chúa hơn.
Thường ở Mỹ giáo dân đi lễ không đông lắm nhưng trong thánh lễ hầu như cả nhà thờ đều lên rước lễ, hoạ hoằn mới có người không. Ngược lại ở Việt Nam giáo dân đi lễ thật đông nhưng lại có nhiều người không rước lễ. Tình trạng này khiến nhiều linh mục đã phải lên tiếng nhắc nhở giáo dân rằng đi lễ mà không rước lễ chẳng khác nào đi dư đại tiệc mà lại không chịu ăn uống gì.
Tuy nhiên lời mời gọi này phải được hiểu là chỉ muốn nhắn gửi đến những người có đủ điều kiện rước lễ nghĩa là không mắc tội trọng. Đối với những người đang mắc tội trọng thì không nên rước lễ vì như thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô đã cảnh cáo “bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Côrintô, 11:27). Rước lễ đang khi mắc tội trọng chẳng khác gì “…ăn và uống án phạt mình” (1Côritô, 11:29). Để xứng đáng rước Mình Máu Thánh Chúa phải có đủ ba điều kiện: không mắc tội trọng, có ý ngay lành và giữ chay 1 giờ trước lúc rước lễ.
Nhân Lễ Mình Máu Chúa 2008
Để đón nhận sự sống đời đời
LM Inhaxiô Trần Ngà
11:00 23/05/2008
Lễ Kính Mình Máu thánh Chúa (Gioan 6, 51-58)
ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4.800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanma, Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống”. Gioan 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, [“Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” Gioan 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giê-su được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giê-su ngỏ lời với Philipphê: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?... Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Gioan 14, 10 -11)]
Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giê-su thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giê-su và để cho Chúa Giê-su ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giê-su đã quảng đại mách bảo cho mọi người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Gioan 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì “khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Ki-tô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Ki-tô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân”
Một khi được ở trong Chúa Giê-su, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giê-su thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giê-su mới nói là “ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời.” (Gioan 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giê-su.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giê-su biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giê-su, chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.
ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4.800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanma, Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống”. Gioan 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, [“Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” Gioan 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giê-su được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giê-su ngỏ lời với Philipphê: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?... Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Gioan 14, 10 -11)]
Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giê-su thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giê-su và để cho Chúa Giê-su ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giê-su đã quảng đại mách bảo cho mọi người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Gioan 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì “khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Ki-tô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Ki-tô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân”
Một khi được ở trong Chúa Giê-su, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giê-su thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giê-su mới nói là “ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời.” (Gioan 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giê-su.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giê-su biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giê-su, chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.
Những buổi tối cầu nguyện chung trong gia đình
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
11:40 23/05/2008
NHỮNG BUỔI TỐI CẦU NGUYỆN CHUNG TRONG GIA ĐÌNH
Cha Aimé Duval - Linh Mục dòng Tên - chào đời ngày 30-6-1918 tại Val d'Ajol, Vosges (Đông Bắc Pháp) và qua đời ngày 30-4-1984. Xin trích dịch chứng từ của Cha về những buổi tối cầu nguyện chung trong gia đình.
Tôi là con thứ năm trong gia đình có 9 người con. Trước tôi là Lucie, Marie, Hélène, Marcel và sau tôi là René, Raymond, Suzanne và André.
Trong gia đình tôi không có kiểu sống đạo đức mang tính cách thái quá hoặc phô trương. Nhưng hàng ngày có buổi đọc kinh chung vào mỗi tối. Và buổi đọc kinh tối chung này mãi mãi khắc sâu trong tâm trí tôi cho đến ngày tôi nhắm mắt lìa đời.
Chị gái tôi - chị Hélène - là người giữ nhiệm vụ đọc các kinh, hơi dài, khoảng 15 phút, đối với bọn con nít chúng tôi. Vì thế đôi khi chị đọc thật nhanh hoặc đọc tóm tắt cho đến khi Ba tôi cất tiếng la rầy và ra lệnh: ”Đọc lại từ đầu!”
Thế là, ngay từ những giây phút thơ ấu ấy, tôi hiểu rằng, phải thưa chuyện với THIÊN CHÚA Nhân Lành với ngôn từ chậm rãi, đứng đắn và thật trang trọng dễ thương.
Thân phụ tôi - điều làm tôi cảm động nhất mãi cho đến ngày hôm nay - là cung cách của người. Ba tôi - người luôn luôn mỏi mệt vì công việc đồng áng nặng nhọc hoặc vì phải chuyên chở gỗ và không hổ thẹn tỏ ra mình quá mệt - vậy mà, sau bữa ăn tối, người kính cẩn quì gối, chống khuỷu tay trên chiếc ghế, đôi bàn tay ôm lấy trán, người cùng đọc kinh tối chung với gia đình. Suốt trong buổi đọc kinh, người luôn luôn giữ thế quì bất động, không nhúc-nhích không ho-hen, không hề đưa mắt liếc nhìn đàn con đang có mặt chung quanh, cũng không bao giờ tỏ ra nóng-nảy khó-chịu vì buổi đọc kinh tối kéo dài. Và tôi - thằng con nít - tôi thầm nghĩ: ”Xem kìa, Ba mình thật lực lưỡng, người điều khiển gia đình, người có hai con bò lớn, người không hề nao núng trước vận mệnh cuộc đời xem ra đen-đủi, cũng chẳng khiếp sợ khi đứng trước mặt ông trưởng làng hoặc những kẻ giàu có, vậy mà giờ đây trong buổi đọc kinh tối, Ba lại tỏ ra thật nhỏ-bé trước mặt THIÊN CHÚA Nhân Lành! Như vậy có nghĩa là Ba đã có một thái độ thật khác xa khi thưa chuyện với THIÊN CHÚA Nhân Lành. Như vậy cũng có nghĩa THIÊN CHÚA Nhân Lành phải là Đấng Cao Cả lắm-lắm khiến cho Ba phải quì gối, nhưng cùng lúc lại là Đấng vô cùng thân-thiện, cho phép Ba có thể thưa chuyện với THIÊN CHÚA Nhân Lành mà không cần thay bộ đồ làm việc lem-luốt nơi đồng áng!”
Về phần Mẹ tôi, tôi không bao giờ trông thấy Mẹ quì gối. Lý do giản dị là vì Mẹ quá mệt! Mẹ ngồi ở giữa phòng, tay ẵm đứa em nhỏ nhất với chiếc áo đen phủ kín tới gót, mái tóc màu hung-hung thật đẹp phủ kín tới cổ và tất cả mọi đứa con lớn nhỏ đều ngồi chung quanh Mẹ, kề sát bên Mẹ hoặc tựa người vào Mẹ. Mẹ theo sát lời kinh chị Hélène đọc và đôi môi Mẹ mấp máy đọc theo, không sót một lời một câu nào. Mẹ đọc như chính đó là lời kinh của riêng Mẹ.
Chỉ có một điều lạ lùng khác xa với thái độ của Ba, đó là Mẹ tôi không rời mắt nhìn chúng tôi. Mẹ nhìn từng đứa một. Cái nhìn Mẹ dừng lại thật lâu nơi các em bé nhất. Mẹ chỉ nhìn chứ không bao giờ nói gì cả hoặc lên tiếng la rầy chúng tôi. Ngay cả khi mấy đứa nhỏ cựa-quậy xì-xầm, ngay cả lúc sầm chớp ầm-vang xuyên qua mái nhà hoặc khi con mèo làm đổ nắp đậy cái nồi!
Và tôi - thằng con nít - tôi thầm nghĩ: ”THIÊN CHÚA quả thật tốt lành mới cho phép người ta thưa chuyện với Ngài khi bồng con trong tay và mình khoác tấm áo làm việc (tablier de travail)! Quả thật THIÊN CHÚA Nhân Lành là Đấng vô cùng quan-trọng khiến cho sấm-sét hoặc con-mèo trở thành chuyện không đáng quan tâm!”
Đôi tay của Ba, đôi môi mấp máy của Mẹ là những cử điệu dạy tôi bài học tôn giáo đầu đời quan trọng gấp bội lần những bài học giáo lý. THIÊN CHÚA Nhân Lành là Đấng Tối Cao. THIÊN CHÚA Nhân Lành là Đấng thật thân thiện gần gũi. Và người ta chỉ có thể thưa chuyện thân tình với THIÊN CHÚA Nhân Lành sau khi chu toàn bổn phận một ngày sống trọn vẹn, một ngày lao động vất vả.
... ”Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Isaia 55, 9-11).
(”Fiamma di Carità”, Rivista delle Suore Povere Figlie di San Gaetano, Anno 52, Gennaio-Febbraio/2008, trang 46)
Cha Aimé Duval - Linh Mục dòng Tên - chào đời ngày 30-6-1918 tại Val d'Ajol, Vosges (Đông Bắc Pháp) và qua đời ngày 30-4-1984. Xin trích dịch chứng từ của Cha về những buổi tối cầu nguyện chung trong gia đình.
Tôi là con thứ năm trong gia đình có 9 người con. Trước tôi là Lucie, Marie, Hélène, Marcel và sau tôi là René, Raymond, Suzanne và André.
Trong gia đình tôi không có kiểu sống đạo đức mang tính cách thái quá hoặc phô trương. Nhưng hàng ngày có buổi đọc kinh chung vào mỗi tối. Và buổi đọc kinh tối chung này mãi mãi khắc sâu trong tâm trí tôi cho đến ngày tôi nhắm mắt lìa đời.
Chị gái tôi - chị Hélène - là người giữ nhiệm vụ đọc các kinh, hơi dài, khoảng 15 phút, đối với bọn con nít chúng tôi. Vì thế đôi khi chị đọc thật nhanh hoặc đọc tóm tắt cho đến khi Ba tôi cất tiếng la rầy và ra lệnh: ”Đọc lại từ đầu!”
Thế là, ngay từ những giây phút thơ ấu ấy, tôi hiểu rằng, phải thưa chuyện với THIÊN CHÚA Nhân Lành với ngôn từ chậm rãi, đứng đắn và thật trang trọng dễ thương.
Thân phụ tôi - điều làm tôi cảm động nhất mãi cho đến ngày hôm nay - là cung cách của người. Ba tôi - người luôn luôn mỏi mệt vì công việc đồng áng nặng nhọc hoặc vì phải chuyên chở gỗ và không hổ thẹn tỏ ra mình quá mệt - vậy mà, sau bữa ăn tối, người kính cẩn quì gối, chống khuỷu tay trên chiếc ghế, đôi bàn tay ôm lấy trán, người cùng đọc kinh tối chung với gia đình. Suốt trong buổi đọc kinh, người luôn luôn giữ thế quì bất động, không nhúc-nhích không ho-hen, không hề đưa mắt liếc nhìn đàn con đang có mặt chung quanh, cũng không bao giờ tỏ ra nóng-nảy khó-chịu vì buổi đọc kinh tối kéo dài. Và tôi - thằng con nít - tôi thầm nghĩ: ”Xem kìa, Ba mình thật lực lưỡng, người điều khiển gia đình, người có hai con bò lớn, người không hề nao núng trước vận mệnh cuộc đời xem ra đen-đủi, cũng chẳng khiếp sợ khi đứng trước mặt ông trưởng làng hoặc những kẻ giàu có, vậy mà giờ đây trong buổi đọc kinh tối, Ba lại tỏ ra thật nhỏ-bé trước mặt THIÊN CHÚA Nhân Lành! Như vậy có nghĩa là Ba đã có một thái độ thật khác xa khi thưa chuyện với THIÊN CHÚA Nhân Lành. Như vậy cũng có nghĩa THIÊN CHÚA Nhân Lành phải là Đấng Cao Cả lắm-lắm khiến cho Ba phải quì gối, nhưng cùng lúc lại là Đấng vô cùng thân-thiện, cho phép Ba có thể thưa chuyện với THIÊN CHÚA Nhân Lành mà không cần thay bộ đồ làm việc lem-luốt nơi đồng áng!”
Về phần Mẹ tôi, tôi không bao giờ trông thấy Mẹ quì gối. Lý do giản dị là vì Mẹ quá mệt! Mẹ ngồi ở giữa phòng, tay ẵm đứa em nhỏ nhất với chiếc áo đen phủ kín tới gót, mái tóc màu hung-hung thật đẹp phủ kín tới cổ và tất cả mọi đứa con lớn nhỏ đều ngồi chung quanh Mẹ, kề sát bên Mẹ hoặc tựa người vào Mẹ. Mẹ theo sát lời kinh chị Hélène đọc và đôi môi Mẹ mấp máy đọc theo, không sót một lời một câu nào. Mẹ đọc như chính đó là lời kinh của riêng Mẹ.
Chỉ có một điều lạ lùng khác xa với thái độ của Ba, đó là Mẹ tôi không rời mắt nhìn chúng tôi. Mẹ nhìn từng đứa một. Cái nhìn Mẹ dừng lại thật lâu nơi các em bé nhất. Mẹ chỉ nhìn chứ không bao giờ nói gì cả hoặc lên tiếng la rầy chúng tôi. Ngay cả khi mấy đứa nhỏ cựa-quậy xì-xầm, ngay cả lúc sầm chớp ầm-vang xuyên qua mái nhà hoặc khi con mèo làm đổ nắp đậy cái nồi!
Và tôi - thằng con nít - tôi thầm nghĩ: ”THIÊN CHÚA quả thật tốt lành mới cho phép người ta thưa chuyện với Ngài khi bồng con trong tay và mình khoác tấm áo làm việc (tablier de travail)! Quả thật THIÊN CHÚA Nhân Lành là Đấng vô cùng quan-trọng khiến cho sấm-sét hoặc con-mèo trở thành chuyện không đáng quan tâm!”
Đôi tay của Ba, đôi môi mấp máy của Mẹ là những cử điệu dạy tôi bài học tôn giáo đầu đời quan trọng gấp bội lần những bài học giáo lý. THIÊN CHÚA Nhân Lành là Đấng Tối Cao. THIÊN CHÚA Nhân Lành là Đấng thật thân thiện gần gũi. Và người ta chỉ có thể thưa chuyện thân tình với THIÊN CHÚA Nhân Lành sau khi chu toàn bổn phận một ngày sống trọn vẹn, một ngày lao động vất vả.
... ”Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Isaia 55, 9-11).
(”Fiamma di Carità”, Rivista delle Suore Povere Figlie di San Gaetano, Anno 52, Gennaio-Febbraio/2008, trang 46)
Tâm tình và lòng Kính Trọng Mình Máu Thánh Chúa
Tuyết Mai
11:46 23/05/2008
Tâm tình và lòng Kính Trọng Mình Máu Thánh Chúa
Tôi không hiểu sao cứ mỗi lần vị Linh Mục Dâng Mình và Máu Thánh Chúa trên bàn Tiệc Thánh thì hai hàng lệ nơi khoé mắt tôi cứ chực trào dâng và như không thể nào cầm nổi hai dòng lệ. Cảm xúc của tôi chỉ có thể cắt nghĩa rằng Chúa đã yêu thương nhân loại chúng con quá đỗi đến nỗi Ngài đã về Trời với Thiên Chúa Cha nhưng Mình Máu Thánh Chúa vẫn còn ở lại đây mãi với nhân loại chúng con. Vì yêu thương chúng con mà Ngài đã trở thành Của Ăn thiêng liêng để nuôi dưỡng Linh Hồn và thân xác chúng con ngày đêm.
Ôi nhân loại hỡi! Tại sao hằng ngày chúng ta lại đi tìm những của ăn thiếu dinh dưỡng, thiếu vệ sinh, vừa có hại cho thân xác và vừa có hại cho Linh Hồn đời đời của chúng ta? Nhân loại của chúng ta là loài sinh vật rất thiếu tinh thần trách nhiệm, luôn vô ơn, bội bạc, và luôn luôn làm tội rồi lại đổ thừa cho người khác? Thí dụ thôi nhé! Hầu hết Chúa sanh ra con người chúng ta đầu mình và tứ chi rất đầy đủ và rất mạnh khoẻ. Cả tinh thần cũng minh mẫn và bình thường như bao nhiêu trẻ sơ sinh khác, nhưng xin cho hỏi bao nhiêu người cha và người mẹ là biết lo lắng và biết nuôi dưỡng cho thai nhi trong suốt thời gian 9 tháng 10 ngày ở trong bụng mẹ? Biết ăn uống kiêng cữ và bổ dưỡng?
Có phải có rất nhiều giới trẻ bây giờ có một lối sống rất tự do và rất phóng khoáng không? Trai gái chẳng còn giữ mình cho tiết hạnh và giữ mình còn được trong trắng cho đến ngày cưới? Có rất nhiều cô gái thời nay khi lấy nhau rồi mà đứa con chẳng biết cha nó là ai? Trước khi tạo thành đứa con thì cả cha mẹ bỏ vào miệng đủ mọi loại thứ thuốc? Nào là thuốc ngừa thai, nào là thuốc lắc, thuốc lá, thuốc xì ke, và vân vân. ... Sanh con ra không được bình thường thì đổ tội ngay cho Chúa? Tiếng khóc lóc của người mẹ nghe thảm não lắm nào là lậy Chúa sao Chúa lại cho con đứa con như thế này, rồi thì tiếng khóc qua ngày năm tháng sẽ trở thành cay đắng? Chán ghét sự đời, chán ghét tình người, buồn chán Thiên Chúa vì Ngài bỏ con? Vì Ngài đã cho con một gánh nặng không thể nào vác nổi và rồi thì con trẻ sẽ được bỏ đi hoặc liệng một nơi nào đó cho khuất mắt để không còn vướng bận nữa! Và rồi xem sự việc xẩy ra như là một giấc chiêm bao không có thật. Hoặc xem sự việc xẩy ra như là việc đã rồi, không có kế hoạch, sơ xuất, lỡ vì. ....
Vấn đề ăn uống hằng ngày của chúng ta cũng thế! Có rất nhiều thứ chúng ta bỏ vào miệng lâu ngày trở thành chất độc trong người và từ từ tiêu hủy ngũ tạng và tất cả những tế bào trong người mà chúng ta hằng ngày làm ngơ, giả mù, và không cảm thấy cần thiết phải để ý đến. Thí dụ như rượu, bia, thuốc lá, xì ke, ma túy, thức ăn thật mỡ màng, thật ngọt, thật mặn, vân vân. ... cho đến một ngày trong người của ta cảm thấy đau đớn phải đi cấp cứu thì hỡi ôi trong cơ thể của ta đã rã hết cả rồi! Bác sĩ thông báo cho ta biết rằng ta không còn sống được bao lâu, hoặc chưa chắc gì đã qua được cái con trăng này, thì bấy giờ ta mới hỡi ôi và lại kêu lên Thiên Chúa mà than với khóc là tại sao Chúa để cho con ra cái nông nỗi này!? Đời con chưa được hưởng bao lâu mà Chúa gọi con chi cho sớm vậy trong khi con chưa kịp chuẩn bị khăn gói mà theo tiếng Chúa gọi của Chúa, xin Ngài cho con khất, và rồi không còn thiếu một lời hứa nào mà ta không hứa cho qua được cơn thập tử nhất sinh. Chúa có chữa cho ta lành và khỏi bệnh thì sau ấy ít lâu đâu lại hoàn đấy, tất cả lời ta hứa với Chúa trước kia chúng đã bỏ và rơi rớt từ lúc nào ta cũng không còn nhớ tới nữa!
Trở lại Mình và Máu Cực Thánh của Chúa, không biết có được bao nhiêu người trong chúng ta là thật sự biết Kính Trọng và Rước Chúa vào lòng một cách Cung Kính? Có phải vài người trong chúng ta đã coi chuyện Rước Mình và Máu Thánh Chúa như ăn cơm bữa? Như những món ăn hằng ngày trên mâm cơm của chúng ta mà ta cứ thế nhai ngấu nghiến và lùa cho thật nhanh vào trong bụng vì chúng ta không có thời giờ? Có phải trước giờ đi Lễ ta đã chửi nhau với ai đó trên đường lái xe đến nhà thờ vì họ đã lấn xe của bạn? Hoặc có phải trước giờ Lễ bạn vừa mới xem một phim thật dơ dáy bẩn thỉu? Hay có phải trước giờ xem Lễ bạn đã gọi điện thoại chửi mắng con cái của mình? Hoặc tâm hồn của bạn khi xem Lễ đã chia trí vì còn phải bận toan tính chuyện làm ăn? Hoặc định bụng là sẽ đến nhà của ai đó sau giờ Lễ để đòi tiền nợ?
Rồi thì có phải vài người chúng ta đã không đủ Cung Kính Mình và Máu Thánh Chúa vì khi chúng ta lên rước Lễ thay vì có cử chỉ thật Kính Trọng và Sùng Ái chậm chạp từ từ đón nhận Mình Thánh Chúa bằng miệng hoặc chìa tay lãnh nhận và từ từ bỏ vào miệng thay vì ta giựt Bánh Thánh ngay trong tay của vị Linh Mục và cũng chẳng cần nói Amen chi cả! Có người còn chưa kịp đợi cho Linh Mục nói chi là tay đã cắp thẳng Bánh Thánh và đưa vào miệng? Có người thì nhanh như chớp như không có thời giờ chờ đợi đã lấy miệng cắn ngay vào tay của vị Linh Mục?
Ôi chao, thật có những cử chỉ vô lễ của chúng con đối với Mình và Máu Thánh Chúa, không biết Chúa nghĩ sao đến con cái của Chúa? Thịt và Máu của Ngài Giêsu đã đổ ra trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại và đã trở thành Của Ăn Linh Thiêng cho chúng con, mà so ra với nhiều người còn không bằng một bữa tiệc của đám cưới, vì họ đã bước thật nhanh ra nhà thờ sau khi rước Mình và Máu Thánh Chúa? Có phải vì họ sợ có mặt trễ tại tiệc cưới? Hay họ sợ trễ xuất coi phim? Hay họ sợ lát nữa phải chờ lâu vì kẹt và đông xe ra sau Lễ rồi về nhà trễ? Thật tình chúng con cũng không hiểu vì sao. ...?
Lậy Chúa! Ước gì tất cả nhân loại chúng con trên toàn thế giới biết quý trọng Mình và Máu Thánh Chúa trong cuộc đời của chúng con, để mỗi lần chúng con được rước Chúa vào lòng như thể nhắc nhở chúng con Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu vì "ai" mà Ngài đã đổ giọt máu cuối cùng trên đồi Can Vê năm nào. Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng con hiểu rằng Bánh của Chúa là bánh trường sinh bất tử, ăn Bánh Chúa vào chúng con sẽ không bao giờ còn đói, còn bánh trần gian chỉ nuôi được tấm thân hay chết của chúng con mà thôi! Amen.
Tôi không hiểu sao cứ mỗi lần vị Linh Mục Dâng Mình và Máu Thánh Chúa trên bàn Tiệc Thánh thì hai hàng lệ nơi khoé mắt tôi cứ chực trào dâng và như không thể nào cầm nổi hai dòng lệ. Cảm xúc của tôi chỉ có thể cắt nghĩa rằng Chúa đã yêu thương nhân loại chúng con quá đỗi đến nỗi Ngài đã về Trời với Thiên Chúa Cha nhưng Mình Máu Thánh Chúa vẫn còn ở lại đây mãi với nhân loại chúng con. Vì yêu thương chúng con mà Ngài đã trở thành Của Ăn thiêng liêng để nuôi dưỡng Linh Hồn và thân xác chúng con ngày đêm.
Ôi nhân loại hỡi! Tại sao hằng ngày chúng ta lại đi tìm những của ăn thiếu dinh dưỡng, thiếu vệ sinh, vừa có hại cho thân xác và vừa có hại cho Linh Hồn đời đời của chúng ta? Nhân loại của chúng ta là loài sinh vật rất thiếu tinh thần trách nhiệm, luôn vô ơn, bội bạc, và luôn luôn làm tội rồi lại đổ thừa cho người khác? Thí dụ thôi nhé! Hầu hết Chúa sanh ra con người chúng ta đầu mình và tứ chi rất đầy đủ và rất mạnh khoẻ. Cả tinh thần cũng minh mẫn và bình thường như bao nhiêu trẻ sơ sinh khác, nhưng xin cho hỏi bao nhiêu người cha và người mẹ là biết lo lắng và biết nuôi dưỡng cho thai nhi trong suốt thời gian 9 tháng 10 ngày ở trong bụng mẹ? Biết ăn uống kiêng cữ và bổ dưỡng?Có phải có rất nhiều giới trẻ bây giờ có một lối sống rất tự do và rất phóng khoáng không? Trai gái chẳng còn giữ mình cho tiết hạnh và giữ mình còn được trong trắng cho đến ngày cưới? Có rất nhiều cô gái thời nay khi lấy nhau rồi mà đứa con chẳng biết cha nó là ai? Trước khi tạo thành đứa con thì cả cha mẹ bỏ vào miệng đủ mọi loại thứ thuốc? Nào là thuốc ngừa thai, nào là thuốc lắc, thuốc lá, thuốc xì ke, và vân vân. ... Sanh con ra không được bình thường thì đổ tội ngay cho Chúa? Tiếng khóc lóc của người mẹ nghe thảm não lắm nào là lậy Chúa sao Chúa lại cho con đứa con như thế này, rồi thì tiếng khóc qua ngày năm tháng sẽ trở thành cay đắng? Chán ghét sự đời, chán ghét tình người, buồn chán Thiên Chúa vì Ngài bỏ con? Vì Ngài đã cho con một gánh nặng không thể nào vác nổi và rồi thì con trẻ sẽ được bỏ đi hoặc liệng một nơi nào đó cho khuất mắt để không còn vướng bận nữa! Và rồi xem sự việc xẩy ra như là một giấc chiêm bao không có thật. Hoặc xem sự việc xẩy ra như là việc đã rồi, không có kế hoạch, sơ xuất, lỡ vì. ....
Vấn đề ăn uống hằng ngày của chúng ta cũng thế! Có rất nhiều thứ chúng ta bỏ vào miệng lâu ngày trở thành chất độc trong người và từ từ tiêu hủy ngũ tạng và tất cả những tế bào trong người mà chúng ta hằng ngày làm ngơ, giả mù, và không cảm thấy cần thiết phải để ý đến. Thí dụ như rượu, bia, thuốc lá, xì ke, ma túy, thức ăn thật mỡ màng, thật ngọt, thật mặn, vân vân. ... cho đến một ngày trong người của ta cảm thấy đau đớn phải đi cấp cứu thì hỡi ôi trong cơ thể của ta đã rã hết cả rồi! Bác sĩ thông báo cho ta biết rằng ta không còn sống được bao lâu, hoặc chưa chắc gì đã qua được cái con trăng này, thì bấy giờ ta mới hỡi ôi và lại kêu lên Thiên Chúa mà than với khóc là tại sao Chúa để cho con ra cái nông nỗi này!? Đời con chưa được hưởng bao lâu mà Chúa gọi con chi cho sớm vậy trong khi con chưa kịp chuẩn bị khăn gói mà theo tiếng Chúa gọi của Chúa, xin Ngài cho con khất, và rồi không còn thiếu một lời hứa nào mà ta không hứa cho qua được cơn thập tử nhất sinh. Chúa có chữa cho ta lành và khỏi bệnh thì sau ấy ít lâu đâu lại hoàn đấy, tất cả lời ta hứa với Chúa trước kia chúng đã bỏ và rơi rớt từ lúc nào ta cũng không còn nhớ tới nữa!
Trở lại Mình và Máu Cực Thánh của Chúa, không biết có được bao nhiêu người trong chúng ta là thật sự biết Kính Trọng và Rước Chúa vào lòng một cách Cung Kính? Có phải vài người trong chúng ta đã coi chuyện Rước Mình và Máu Thánh Chúa như ăn cơm bữa? Như những món ăn hằng ngày trên mâm cơm của chúng ta mà ta cứ thế nhai ngấu nghiến và lùa cho thật nhanh vào trong bụng vì chúng ta không có thời giờ? Có phải trước giờ đi Lễ ta đã chửi nhau với ai đó trên đường lái xe đến nhà thờ vì họ đã lấn xe của bạn? Hoặc có phải trước giờ Lễ bạn vừa mới xem một phim thật dơ dáy bẩn thỉu? Hay có phải trước giờ xem Lễ bạn đã gọi điện thoại chửi mắng con cái của mình? Hoặc tâm hồn của bạn khi xem Lễ đã chia trí vì còn phải bận toan tính chuyện làm ăn? Hoặc định bụng là sẽ đến nhà của ai đó sau giờ Lễ để đòi tiền nợ? Rồi thì có phải vài người chúng ta đã không đủ Cung Kính Mình và Máu Thánh Chúa vì khi chúng ta lên rước Lễ thay vì có cử chỉ thật Kính Trọng và Sùng Ái chậm chạp từ từ đón nhận Mình Thánh Chúa bằng miệng hoặc chìa tay lãnh nhận và từ từ bỏ vào miệng thay vì ta giựt Bánh Thánh ngay trong tay của vị Linh Mục và cũng chẳng cần nói Amen chi cả! Có người còn chưa kịp đợi cho Linh Mục nói chi là tay đã cắp thẳng Bánh Thánh và đưa vào miệng? Có người thì nhanh như chớp như không có thời giờ chờ đợi đã lấy miệng cắn ngay vào tay của vị Linh Mục?
Ôi chao, thật có những cử chỉ vô lễ của chúng con đối với Mình và Máu Thánh Chúa, không biết Chúa nghĩ sao đến con cái của Chúa? Thịt và Máu của Ngài Giêsu đã đổ ra trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại và đã trở thành Của Ăn Linh Thiêng cho chúng con, mà so ra với nhiều người còn không bằng một bữa tiệc của đám cưới, vì họ đã bước thật nhanh ra nhà thờ sau khi rước Mình và Máu Thánh Chúa? Có phải vì họ sợ có mặt trễ tại tiệc cưới? Hay họ sợ trễ xuất coi phim? Hay họ sợ lát nữa phải chờ lâu vì kẹt và đông xe ra sau Lễ rồi về nhà trễ? Thật tình chúng con cũng không hiểu vì sao. ...?
Lậy Chúa! Ước gì tất cả nhân loại chúng con trên toàn thế giới biết quý trọng Mình và Máu Thánh Chúa trong cuộc đời của chúng con, để mỗi lần chúng con được rước Chúa vào lòng như thể nhắc nhở chúng con Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu vì "ai" mà Ngài đã đổ giọt máu cuối cùng trên đồi Can Vê năm nào. Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng con hiểu rằng Bánh của Chúa là bánh trường sinh bất tử, ăn Bánh Chúa vào chúng con sẽ không bao giờ còn đói, còn bánh trần gian chỉ nuôi được tấm thân hay chết của chúng con mà thôi! Amen.
Tôn thờ Phép Thánh Thể là tôn thờ sự hiện diện của Chúa Kitô
+GM F.X. Nguyễn Văn Sang
13:50 23/05/2008
LỄ KÍNH MÌNH MÁU THÁNH
Tôn thờ Phép Thánh Thể là tôn thờ sự hiện diện của Chúa Kitô
Hôm nay cả gia đình giáo phận tập họp nhau tại đây, trong nhà thờ Chính tòa này, đúng vào ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta mừng lễ vào chính ngày, để các xứ họ mừng trọng thể vào ngày Chúa nhật tới.
Ở thế kỷ 16, một số người hồ nghi Chúa Kitô có thật trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi đã Truyền phép; hoặc cho rằng: Chúa Kitô chỉ hiện diện trong Phép Thánh Thể khi còn ở trong Thánh lễ, sau khi hiệp lễ thì không còn Thánh Thể nữa. Giáo Hội qua Công đồng Tridentiro dạy: Chúa Hiện diện trong Phép Thánh Thể khi còn hình Bánh và hình Rượu; nghĩa là hình thái còn được là Bánh và còn được là Rượu, thì Chúa Kitô vẫn Hiện diện với Mình và Máu Chúa trong Phép Thánh Thể. Để nhấn mạnh tới niềm tin đó, Giáo Hội truyền dạy sau lễ phải rước Mình Máu Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi mọi nơi có thể đi được: trong làng, ngoài phố vv... để chứng minh sự hiện diện của Chúa. Cuộc rước Thánh Thể là rước chính Chúa Kitô thật sự cả linh hồn và xác, như Chúa đã sống lại vinh quang có cả thiên tính và nhân tính đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Đó là cuộc rước vô cùng quí báu, vượt xa các cuộc rước các bức tượng bằng gỗ, đá, như chúng ta thường làm.
Vậy chúng ta tôn thờ Phép Thánh Thể là tôn thờ sự hiện diện của Chúa Kitô ẩn thân trong hình Bánh và hình Rượu.
a) Một sự hiện diện do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Cũng như xưa nhờ quyền phép Đức Chúa Thánh thần cho Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Mẹ, thì nay cũng nhờ Đức Chúa Thánh Thần, như trong Kinh nguyện Thánh thể vẫn đọc trong thánh lễ: “Chúng tôi nài xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa lễ vật này, để trở nên cho chúng tôi Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa Chúng tôi”
b) Sự hiện diện do tình yêu mến vô bờ của Đức Kitô. Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương đến tận cùng, đó là trao ban chính Mình và Máu Ngài cho chúng ta. Như Kinh Truyền phép chúng ta vẫn đọc: “Khi tự ý nộp mình chịu khổ hình, Người cầm lấy bánh tạ ơn bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:. ... Này là Mình Thầy... Cũng một thể thức ấy, Người nói:. ..Này là chén Máu Thầy...”.
Bánh và rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Mỗi lần chúng ta cử hành Thánh lễ như Chúa đã dạy, thì chúng ta lại có sự hiện diện của Chúa Kitô trong hình Bánh và hình Rượu... và cứ như vậy tiếp tục cho đến tận thế, như chính Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.
Đó là mầu nhiệm Đức Tin. Nghĩa là các lí luận suy gẫm của nhân loại có thể cắt nghĩa phần nào, song phải được Đức Tin soi chiếu mới có thể thấu suốt, như chúng ta tung hô: “Lạy Chúa, chúng tôi loan truyền Chúa đã chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”.
Để thể hiện sự Hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc sống mỗi người, chúng ta cũng được lãnh nhận Mình và Máu Chúa vào trong lòng chúng ta, để Chúa lấy chúng ta là Đền thờ, là Nhà tạm sống động của Chúa giữa cõi đời này.
Do đó, trong lễ này còn có một nghi thức trao các Bài Sai cho một số linh mục trong giáo phận.
Khởi sự từ Chúa Cha đã sai Chúa Con vào thế gian; và Chúa Con đã sai các tông đồ đi khắp thế gian, đồng thời chọn các đấng kế vị nơi trần thế là các Giám mục mọi nơi mọi thời; Các Giám mục cũng sai các linh mục, là những tông đồ chỉ hoàn toàn nhờ quyền năng Giám mục trao ban, để hợp tác với nhau trong giáo phận mà đem Tin Mừng đến cho anh em.
Đó là nhiệm vụ, nhưng cũng là vinh dự để được tham gia vào sứ mệnh được sai đi tốt đẹp như vậy.
Chúa hiện diện trong Thánh Thể cũng là lễ vượt qua như chúng ta đã đọc: “Trong đêm bị trao nộp...” Chúa đã hạ thân chịu nạn chịu chết trên thập giá nhờ qua biển đỏ, qua sa mạc, để sống lại vinh quang với Chúa trong Phép Thánh Thể: “Tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”. Các linh mục tham dự vào cuộc sai đi trong giáo phận cũng dự vào lễ vượt qua, bỏ mình đi, hạ mình xuống, ẩn thân trong hình bánh và rượu, qua sa mạc thử thách, mới có thể sống lại vinh quang với Chúa, đem Thánh Thể như của “cầm”, như bảo chứng cho chính mình và anh em chúng ta được sống lại và hằng sống.
Xin anh chị em cầu nguyện cho Đức Giám mục và các linh mục của anh chị em, là cộng tác viên và là cánh tay nối dài của Đức Giám mục, được bình an, vui mừng, chấp nhận một lễ vượt qua mới tới phục sinh vinh hiển trong Chúa Giêsu Thánh Thể.
Chúng ta sẽ dâng lễ này làm tái Hiện sự Hiện diện của Chúa, và sống thực tế Mầu nhiệm Thánh Thể trong cuộc đời chúng ta cho đến tận thế, để tận hưởng sự hiện diện hoàn toàn của Thiên Chúa Ba Ngôi cho tới muôn đời. Amen.
Lễ Thánh Thể 22/5/2008
Tôn thờ Phép Thánh Thể là tôn thờ sự hiện diện của Chúa Kitô
Hôm nay cả gia đình giáo phận tập họp nhau tại đây, trong nhà thờ Chính tòa này, đúng vào ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta mừng lễ vào chính ngày, để các xứ họ mừng trọng thể vào ngày Chúa nhật tới.
Ở thế kỷ 16, một số người hồ nghi Chúa Kitô có thật trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi đã Truyền phép; hoặc cho rằng: Chúa Kitô chỉ hiện diện trong Phép Thánh Thể khi còn ở trong Thánh lễ, sau khi hiệp lễ thì không còn Thánh Thể nữa. Giáo Hội qua Công đồng Tridentiro dạy: Chúa Hiện diện trong Phép Thánh Thể khi còn hình Bánh và hình Rượu; nghĩa là hình thái còn được là Bánh và còn được là Rượu, thì Chúa Kitô vẫn Hiện diện với Mình và Máu Chúa trong Phép Thánh Thể. Để nhấn mạnh tới niềm tin đó, Giáo Hội truyền dạy sau lễ phải rước Mình Máu Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi mọi nơi có thể đi được: trong làng, ngoài phố vv... để chứng minh sự hiện diện của Chúa. Cuộc rước Thánh Thể là rước chính Chúa Kitô thật sự cả linh hồn và xác, như Chúa đã sống lại vinh quang có cả thiên tính và nhân tính đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Đó là cuộc rước vô cùng quí báu, vượt xa các cuộc rước các bức tượng bằng gỗ, đá, như chúng ta thường làm.
Vậy chúng ta tôn thờ Phép Thánh Thể là tôn thờ sự hiện diện của Chúa Kitô ẩn thân trong hình Bánh và hình Rượu.
a) Một sự hiện diện do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Cũng như xưa nhờ quyền phép Đức Chúa Thánh thần cho Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Mẹ, thì nay cũng nhờ Đức Chúa Thánh Thần, như trong Kinh nguyện Thánh thể vẫn đọc trong thánh lễ: “Chúng tôi nài xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa lễ vật này, để trở nên cho chúng tôi Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa Chúng tôi”
b) Sự hiện diện do tình yêu mến vô bờ của Đức Kitô. Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương đến tận cùng, đó là trao ban chính Mình và Máu Ngài cho chúng ta. Như Kinh Truyền phép chúng ta vẫn đọc: “Khi tự ý nộp mình chịu khổ hình, Người cầm lấy bánh tạ ơn bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:. ... Này là Mình Thầy... Cũng một thể thức ấy, Người nói:. ..Này là chén Máu Thầy...”.
Bánh và rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Mỗi lần chúng ta cử hành Thánh lễ như Chúa đã dạy, thì chúng ta lại có sự hiện diện của Chúa Kitô trong hình Bánh và hình Rượu... và cứ như vậy tiếp tục cho đến tận thế, như chính Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.
Đó là mầu nhiệm Đức Tin. Nghĩa là các lí luận suy gẫm của nhân loại có thể cắt nghĩa phần nào, song phải được Đức Tin soi chiếu mới có thể thấu suốt, như chúng ta tung hô: “Lạy Chúa, chúng tôi loan truyền Chúa đã chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”.
Để thể hiện sự Hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc sống mỗi người, chúng ta cũng được lãnh nhận Mình và Máu Chúa vào trong lòng chúng ta, để Chúa lấy chúng ta là Đền thờ, là Nhà tạm sống động của Chúa giữa cõi đời này.
Do đó, trong lễ này còn có một nghi thức trao các Bài Sai cho một số linh mục trong giáo phận.
Khởi sự từ Chúa Cha đã sai Chúa Con vào thế gian; và Chúa Con đã sai các tông đồ đi khắp thế gian, đồng thời chọn các đấng kế vị nơi trần thế là các Giám mục mọi nơi mọi thời; Các Giám mục cũng sai các linh mục, là những tông đồ chỉ hoàn toàn nhờ quyền năng Giám mục trao ban, để hợp tác với nhau trong giáo phận mà đem Tin Mừng đến cho anh em.
Đó là nhiệm vụ, nhưng cũng là vinh dự để được tham gia vào sứ mệnh được sai đi tốt đẹp như vậy.
Chúa hiện diện trong Thánh Thể cũng là lễ vượt qua như chúng ta đã đọc: “Trong đêm bị trao nộp...” Chúa đã hạ thân chịu nạn chịu chết trên thập giá nhờ qua biển đỏ, qua sa mạc, để sống lại vinh quang với Chúa trong Phép Thánh Thể: “Tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”. Các linh mục tham dự vào cuộc sai đi trong giáo phận cũng dự vào lễ vượt qua, bỏ mình đi, hạ mình xuống, ẩn thân trong hình bánh và rượu, qua sa mạc thử thách, mới có thể sống lại vinh quang với Chúa, đem Thánh Thể như của “cầm”, như bảo chứng cho chính mình và anh em chúng ta được sống lại và hằng sống.
Xin anh chị em cầu nguyện cho Đức Giám mục và các linh mục của anh chị em, là cộng tác viên và là cánh tay nối dài của Đức Giám mục, được bình an, vui mừng, chấp nhận một lễ vượt qua mới tới phục sinh vinh hiển trong Chúa Giêsu Thánh Thể.
Chúng ta sẽ dâng lễ này làm tái Hiện sự Hiện diện của Chúa, và sống thực tế Mầu nhiệm Thánh Thể trong cuộc đời chúng ta cho đến tận thế, để tận hưởng sự hiện diện hoàn toàn của Thiên Chúa Ba Ngôi cho tới muôn đời. Amen.
Lễ Thánh Thể 22/5/2008
Thánh hóa các linh mục
+GM JB Bùi Tuần
14:20 23/05/2008
THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC
Ngày 30 tháng 5 này là lễ kính Trái Tim Chúa Giêsu. Dịp này, phụng vụ nhắc đến việc thánh hoá các linh mục.
Hơn bao giờ hết, linh mục cần phải nên thánh, để có thể đối phó với biết bao vấn đề đang được đặt ra. Khắp nơi đang có những hồi chuông báo động thúc giục linh mục phải nên thánh.
Ngay tại Việt Nam này, trong đạo ngoài đời, Chúa đang dùng nhiều dấu chỉ cho thấy: Tình hình đạo đức tuỳ thuộc rất nhiều ở việc linh mục có lo nên thánh hay không.
Ý thức điều đó, nhiều người vốn tha thiết với việc thánh hoá linh mục, nay càng tha thiết hơn.
Phải làm gì?
Tất nhiên là phải cầu nguyện.
Để việc cầu nguyện thánh hoá linh mục có thể hướng dẫn các suy tư về vấn đề này được phong phú và cụ thể hơn, chúng ta nên đi vào ba tình yêu, mà linh mục cần có để nên thánh. Đó là:
- Tình yêu Đức Giêsu Kitô.
- Tình yêu Hội Thánh.
- Tình yêu con người, nhất là người nghèo.
1/ Tình yêu Đức Giêsu Kitô
Khi tiếp xúc với bất cứ linh mục nào, tôi vẫn mong muốn gặp được Chúa Giêsu trong ngài.
Thánh Phaolô nói: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Giêsu sống trong tôi" (Gl 2,25).
Ước chi mỗi linh mục đều có thể nói câu đó về chính mình.
Khi diễn tả tâm tình của mình đối với Chúa Giêsu, thánh Phaolô quả quyết: "Tôi coi mọi sự đều là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi... Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Giêsu Kitô và được kết hợp với Người" (Ph 3,8-9). Tâm tình trên đây là ngọn lửa nồng nàn.
Trong những tiếp xúc, người nhạy bén dễ nhận ra ngọn lửa nào vốn thường xuyên nung nấu tâm hồn người mình gặp gỡ. Lửa đó sẽ bốc ra từ miệng lưỡi, ánh mắt, và thái độ của mỗi người. Lửa yêu mến Đức Kitô và các giá trị cao thượng thì khác lửa nung nấu những khát vọng về xác thịt, thế tục và tội lỗi.
Những tiếp xúc với các linh mục càng dễ nhận ra điều đó. Bởi vì linh mục được coi là một thứ gương chuyên phản ánh lửa tình yêu Chúa.
Lửa mến Chúa Giêsu là lửa mến Chúa Cứu thế, Đấng đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ, Đấng là người chăn chiên tốt lành, lặn lội đi tìm các con chiên lạc, Đấng đã phó mình chịu chết trên cây thánh giá để cứu chuộc nhân loại.
Thật là sung sướng, khi nhận được lửa mến đó toả ra từ con người linh mục, nhất là khi ngài giảng dạy và ban các bí tích.
Tuy nhiên, không thiếu kẻ ghét các linh mục khi các ngài chia sẻ lửa mến Chúa cho môi trường xung quanh. Những kẻ đó là ma quỷ và các thứ tinh thần thế tục chống đối Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.
Vì thế, khi cầu cho linh mục được thêm lửa mến Chúa, chúng ta nghĩ tới những cản trở không muốn lửa đó được phát triển trong linh mục và được đón nhận trong thế giới tục hoá hiện nay.
2/ Tình yêu Hội Thánh
Trước hết, tôi hiểu Hội Thánh một cách bình dân sơ đẳng. Theo đó, Hội Thánh là những ai được Chúa ban quyền, để lo đời sống đạo cho tôi. Đời sống đạo là những gì tôi phải tin, những gì tôi phải xin, những gì tôi phải lãnh, những gì tôi phải giữ.
Rồi, Hội Thánh cũng là cộng đoàn những người có đạo như tôi. Hội Thánh như thế là một đại gia đình, có sự sống thiêng liêng, có trật tự riêng, được Chúa thiết lập và được Chúa điều khiển.
Cái nhìn đơn sơ đó khiến tôi yêu mến những ai lo đời sống đạo cho tôi, đồng thời cũng yêu mến những người cùng có đời sống đạo như tôi.
Tình yêu Hội Thánh là một tình yêu gắn bó. Gắn bó một cách chân thành, hiếu thảo khiêm nhường và có trách nhiệm.
Hội Thánh còn được hiểu như liên đới giữa các đặc sủng khác nhau. Thánh Phaolô viết: "Chính Chúa đã ban ơn cho kẻ này làm tông đồ, kẻ nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ" (Ep 4,11).
Khi nhìn Hội Thánh như một cộng đoàn gồm nhiều người mang những đặc sủng khác nhau, tôi phải cúi đầu tôn phục Chúa. Một sự tôn phục kèm theo sự khiêm tốn trong các thái độ đối với những người mang đặc sủng. Khiêm tốn yêu thương, khiêm tốn cộng tác với họ, trong tinh thần hiệp nhất.
Các linh mục là những kẻ lãnh nhận được rất nhiều trong Hội Thánh. Nhiều thần quyền, nhiều đặc sủng. Vì thế các ngài có bổn phận dùng những gì đã được trao ban. Đối với các ngài, yêu mến Hội Thánh là hãy tận dụng những ơn Chúa ban cho các ngài vì ích chung Hội Thánh. Tận dụng nói đây là phục vụ hết sức mình những trách nhiệm mà bề trên đã uỷ thác.
3/ Tình yêu con người
Càng ngày người ta càng thấy: Những giá trị thuyết phục nhất của một tôn giáo chính là những gì tôn giáo đó làm cho con người, cho đồng bào và cho đất nước. Đặc biệt là trong công trình kiến tạo văn hoá hoà bình và phục vụ những người nghèo khổ. Với cái nhìn đó, những hoành tráng nội bộ đã không chứng minh được nhiều cho tâm linh cao quý của tôn giáo.
Đạo Công giáo là đạo bác ái. Kinh Thánh quả quyết như thế. Hội Thánh khẳng định như vậy. Dư luận cũng muốn có cái nhìn đẹp đẽ đó về đạo ta.
Trên thực tế, nhiều sinh hoạt đạo ta đã đi vào thân phận những người khổ đau. Chia sẻ nỗi lo. Thương cảm cảnh nghèo. Dấn thân giúp cho xã hội được công bình hơn. Sống mầu nhiệm nhập thể, để dân tộc được từng bước đi lên.
Những sinh hoạt như thế nên được tăng lên về lượng và về phẩm. Trong chiều hướng đó, thiết tưởng nên bớt đi những sinh hoạt có nguy cơ làm cho Hội Thánh bị tiếng là xa cách người nghèo, nhưng gần lại những cảnh giàu sang hưởng thụ.
Vì thế, cầu cho linh mục được nên thánh là cầu cho linh mục biết yêu thương phục vụ những người nghèo khổ và thăng tiến con người.
Nguyện xin lửa Trái Tim Chúa Giêsu luôn đốt nóng trái tim các linh mục của chúng con.
Ngày 30 tháng 5 này là lễ kính Trái Tim Chúa Giêsu. Dịp này, phụng vụ nhắc đến việc thánh hoá các linh mục.
Hơn bao giờ hết, linh mục cần phải nên thánh, để có thể đối phó với biết bao vấn đề đang được đặt ra. Khắp nơi đang có những hồi chuông báo động thúc giục linh mục phải nên thánh.
Ngay tại Việt Nam này, trong đạo ngoài đời, Chúa đang dùng nhiều dấu chỉ cho thấy: Tình hình đạo đức tuỳ thuộc rất nhiều ở việc linh mục có lo nên thánh hay không.
Ý thức điều đó, nhiều người vốn tha thiết với việc thánh hoá linh mục, nay càng tha thiết hơn.
Phải làm gì?
Tất nhiên là phải cầu nguyện.
Để việc cầu nguyện thánh hoá linh mục có thể hướng dẫn các suy tư về vấn đề này được phong phú và cụ thể hơn, chúng ta nên đi vào ba tình yêu, mà linh mục cần có để nên thánh. Đó là:
- Tình yêu Đức Giêsu Kitô.
- Tình yêu Hội Thánh.
- Tình yêu con người, nhất là người nghèo.
1/ Tình yêu Đức Giêsu Kitô
Khi tiếp xúc với bất cứ linh mục nào, tôi vẫn mong muốn gặp được Chúa Giêsu trong ngài.
Thánh Phaolô nói: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Giêsu sống trong tôi" (Gl 2,25).
Ước chi mỗi linh mục đều có thể nói câu đó về chính mình.
Khi diễn tả tâm tình của mình đối với Chúa Giêsu, thánh Phaolô quả quyết: "Tôi coi mọi sự đều là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi... Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Giêsu Kitô và được kết hợp với Người" (Ph 3,8-9). Tâm tình trên đây là ngọn lửa nồng nàn.
Trong những tiếp xúc, người nhạy bén dễ nhận ra ngọn lửa nào vốn thường xuyên nung nấu tâm hồn người mình gặp gỡ. Lửa đó sẽ bốc ra từ miệng lưỡi, ánh mắt, và thái độ của mỗi người. Lửa yêu mến Đức Kitô và các giá trị cao thượng thì khác lửa nung nấu những khát vọng về xác thịt, thế tục và tội lỗi.
Những tiếp xúc với các linh mục càng dễ nhận ra điều đó. Bởi vì linh mục được coi là một thứ gương chuyên phản ánh lửa tình yêu Chúa.
Lửa mến Chúa Giêsu là lửa mến Chúa Cứu thế, Đấng đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ, Đấng là người chăn chiên tốt lành, lặn lội đi tìm các con chiên lạc, Đấng đã phó mình chịu chết trên cây thánh giá để cứu chuộc nhân loại.
Thật là sung sướng, khi nhận được lửa mến đó toả ra từ con người linh mục, nhất là khi ngài giảng dạy và ban các bí tích.
Tuy nhiên, không thiếu kẻ ghét các linh mục khi các ngài chia sẻ lửa mến Chúa cho môi trường xung quanh. Những kẻ đó là ma quỷ và các thứ tinh thần thế tục chống đối Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.
Vì thế, khi cầu cho linh mục được thêm lửa mến Chúa, chúng ta nghĩ tới những cản trở không muốn lửa đó được phát triển trong linh mục và được đón nhận trong thế giới tục hoá hiện nay.
2/ Tình yêu Hội Thánh
Trước hết, tôi hiểu Hội Thánh một cách bình dân sơ đẳng. Theo đó, Hội Thánh là những ai được Chúa ban quyền, để lo đời sống đạo cho tôi. Đời sống đạo là những gì tôi phải tin, những gì tôi phải xin, những gì tôi phải lãnh, những gì tôi phải giữ.
Rồi, Hội Thánh cũng là cộng đoàn những người có đạo như tôi. Hội Thánh như thế là một đại gia đình, có sự sống thiêng liêng, có trật tự riêng, được Chúa thiết lập và được Chúa điều khiển.
Cái nhìn đơn sơ đó khiến tôi yêu mến những ai lo đời sống đạo cho tôi, đồng thời cũng yêu mến những người cùng có đời sống đạo như tôi.
Tình yêu Hội Thánh là một tình yêu gắn bó. Gắn bó một cách chân thành, hiếu thảo khiêm nhường và có trách nhiệm.
Hội Thánh còn được hiểu như liên đới giữa các đặc sủng khác nhau. Thánh Phaolô viết: "Chính Chúa đã ban ơn cho kẻ này làm tông đồ, kẻ nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ" (Ep 4,11).
Khi nhìn Hội Thánh như một cộng đoàn gồm nhiều người mang những đặc sủng khác nhau, tôi phải cúi đầu tôn phục Chúa. Một sự tôn phục kèm theo sự khiêm tốn trong các thái độ đối với những người mang đặc sủng. Khiêm tốn yêu thương, khiêm tốn cộng tác với họ, trong tinh thần hiệp nhất.
Các linh mục là những kẻ lãnh nhận được rất nhiều trong Hội Thánh. Nhiều thần quyền, nhiều đặc sủng. Vì thế các ngài có bổn phận dùng những gì đã được trao ban. Đối với các ngài, yêu mến Hội Thánh là hãy tận dụng những ơn Chúa ban cho các ngài vì ích chung Hội Thánh. Tận dụng nói đây là phục vụ hết sức mình những trách nhiệm mà bề trên đã uỷ thác.
3/ Tình yêu con người
Càng ngày người ta càng thấy: Những giá trị thuyết phục nhất của một tôn giáo chính là những gì tôn giáo đó làm cho con người, cho đồng bào và cho đất nước. Đặc biệt là trong công trình kiến tạo văn hoá hoà bình và phục vụ những người nghèo khổ. Với cái nhìn đó, những hoành tráng nội bộ đã không chứng minh được nhiều cho tâm linh cao quý của tôn giáo.
Đạo Công giáo là đạo bác ái. Kinh Thánh quả quyết như thế. Hội Thánh khẳng định như vậy. Dư luận cũng muốn có cái nhìn đẹp đẽ đó về đạo ta.
Trên thực tế, nhiều sinh hoạt đạo ta đã đi vào thân phận những người khổ đau. Chia sẻ nỗi lo. Thương cảm cảnh nghèo. Dấn thân giúp cho xã hội được công bình hơn. Sống mầu nhiệm nhập thể, để dân tộc được từng bước đi lên.
Những sinh hoạt như thế nên được tăng lên về lượng và về phẩm. Trong chiều hướng đó, thiết tưởng nên bớt đi những sinh hoạt có nguy cơ làm cho Hội Thánh bị tiếng là xa cách người nghèo, nhưng gần lại những cảnh giàu sang hưởng thụ.
Vì thế, cầu cho linh mục được nên thánh là cầu cho linh mục biết yêu thương phục vụ những người nghèo khổ và thăng tiến con người.
Nguyện xin lửa Trái Tim Chúa Giêsu luôn đốt nóng trái tim các linh mục của chúng con.
Mỗi ngày một câu chuyện (dành cho trẻ em)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:12 23/05/2008
CHUỘT HOA VÀNG
Mùa thu trong rừng rậm, có một năm cảnh sắc rất thu hút lòng người: ánh mặt trời màu da cam từ những khe hở của các ngọn lá chiếu xuống thành những luồng kim tuyến rất đẹp; đám cỏ khô dày giống như tấm thảm mềm mềm mượt mà dán trên mặt đất; những trái cây to lớn mắc đầy trên cành cây: có màu đỏ, màu tím, màu vàng...lại còn rất nhiều động vật đang bận rộn dự bị thức ăn cho mùa đông sắp đến.
Chuột hoa vàng rất đẹp sinh trưởng ngay trong khu rừng rậm rạp này, nó có bộ lông da vàng trơn tru óng ánh, đuôi cá màu hạt dẻ sậm với những nét đường vằn, một cái đuôi dài, hai con mắt như hai hạt ngọc trong suốt.
Nhưng, nó lại quá chú trọng đến bề ngoài của mình, khi làm việc thì sợ bộ lông mượt mà đẹp đẽ của mình bị dơ, cho nên việc gì nó cũng không muốn làm. Khi các con chuột kim hoa vàng khác đang bận rộn chuẩn hoa quả cho mùa đông sắp đến, thì nó vẫn cứ nhỡn nhơ hưởng thụ nắng ấm của mùa thu. Nó ngồi trên đám cỏ, nói với các bạn đang bận rộn vận chuyện hoa quả: “Thời tiết thật quang đãng, chúng ta cùng nhau tán dóc, phơi nắng, hưởng thụ chút xíu đi mà.”
Nhưng, các bạn đều quá bận, chúng nó không có thời gian để tán dóc với chuột hoa vàng đẹp đẽ. Chuột hoa vàng cảm thấy những người bạn này thật không hiểu thế nào là hứng thú của cuộc sống. Thế là nó chạy vào cuối rừng tìm đến chim cú, chim vàng anh và chim sơn ca, cùng với chúng nó nói chuyện âm nhạc, hài hước và khiêu vũ. Chuột hoa vàng rất có tài lợi khẩu, ngay cà những con chim nhỏ trên cành cây cũng ồn ào vỗ cánh bay xuống nghe chúng nó nói chuyện viển vông.
Cứ như thế, ngày lại ngày qua nhanh, mùa đông đến rồi, khi tuyết bay phủ đầy mặt đất, thôn trang và rừng rậm, thì chuột hoa vàng lại tìm không được thực vật để ăn, tài lợi khẩu của nó cũng không giúp nó tìm được nơi nào để nó có một bữa ăn.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Gợi ý:
Các em thân mến,
Làm bất cứ việc gì thì trước tiên cũng phải có sự chuẩn bị, thì mới có thể đề phòng tai họa khi nó chưa tới. Thái độ cẩn thận chắc chắn trong cuộc sống, sự cố gắng không mệt mỏi là tiền đề sáng tạo của hạnh phúc, không có những thứ đó bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một lời nói suông mà thôi.
Các em thấy cha mẹ cực khổ vất vả thức khuya dậy sớm để làm việc, kiếm tiền nuôi sống gia đình, và nhất là để các em được đi học, được sống hạnh phúc. Cho nên có những bậc cha mẹ hy sinh tất cả bản thân mình: không ăn uống cao lương mỹ vị, không hưởng thụ cho mình.v.v...nhưng tất cả cho các con của mình.
Các em đừng bắt chước con chuột hoa vàng, dù nó đẹp nhưng rất làm biếng không muốn làm việc, cuối cùng thì bị đói trong mùa đông.
Dù đã có cha mẹ chăm lo, nhưng các em cũng phải cố gắng học tập tốt, để sau này giup1ich1 cho mình, cho gia đình, cho Giáo Hội và cho xã hội...
Các em thực hành:
- Nổ lực học tập không lười biếng.
- Không để giờ trống, nhưng cố gắng lấp đầy giờ trống bằng đọc sách, cầu nguyện và đi lễ nhà thờ.
- Không chú trọng đến áo quần sao cho đẹp, chỉ cần sạch sẽ, vừa vặn và lịch sự là tốt rồi.
![]() |
| N2T |
Mùa thu trong rừng rậm, có một năm cảnh sắc rất thu hút lòng người: ánh mặt trời màu da cam từ những khe hở của các ngọn lá chiếu xuống thành những luồng kim tuyến rất đẹp; đám cỏ khô dày giống như tấm thảm mềm mềm mượt mà dán trên mặt đất; những trái cây to lớn mắc đầy trên cành cây: có màu đỏ, màu tím, màu vàng...lại còn rất nhiều động vật đang bận rộn dự bị thức ăn cho mùa đông sắp đến.
Chuột hoa vàng rất đẹp sinh trưởng ngay trong khu rừng rậm rạp này, nó có bộ lông da vàng trơn tru óng ánh, đuôi cá màu hạt dẻ sậm với những nét đường vằn, một cái đuôi dài, hai con mắt như hai hạt ngọc trong suốt.
Nhưng, nó lại quá chú trọng đến bề ngoài của mình, khi làm việc thì sợ bộ lông mượt mà đẹp đẽ của mình bị dơ, cho nên việc gì nó cũng không muốn làm. Khi các con chuột kim hoa vàng khác đang bận rộn chuẩn hoa quả cho mùa đông sắp đến, thì nó vẫn cứ nhỡn nhơ hưởng thụ nắng ấm của mùa thu. Nó ngồi trên đám cỏ, nói với các bạn đang bận rộn vận chuyện hoa quả: “Thời tiết thật quang đãng, chúng ta cùng nhau tán dóc, phơi nắng, hưởng thụ chút xíu đi mà.”
Nhưng, các bạn đều quá bận, chúng nó không có thời gian để tán dóc với chuột hoa vàng đẹp đẽ. Chuột hoa vàng cảm thấy những người bạn này thật không hiểu thế nào là hứng thú của cuộc sống. Thế là nó chạy vào cuối rừng tìm đến chim cú, chim vàng anh và chim sơn ca, cùng với chúng nó nói chuyện âm nhạc, hài hước và khiêu vũ. Chuột hoa vàng rất có tài lợi khẩu, ngay cà những con chim nhỏ trên cành cây cũng ồn ào vỗ cánh bay xuống nghe chúng nó nói chuyện viển vông.
Cứ như thế, ngày lại ngày qua nhanh, mùa đông đến rồi, khi tuyết bay phủ đầy mặt đất, thôn trang và rừng rậm, thì chuột hoa vàng lại tìm không được thực vật để ăn, tài lợi khẩu của nó cũng không giúp nó tìm được nơi nào để nó có một bữa ăn.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Gợi ý:
Các em thân mến,
Làm bất cứ việc gì thì trước tiên cũng phải có sự chuẩn bị, thì mới có thể đề phòng tai họa khi nó chưa tới. Thái độ cẩn thận chắc chắn trong cuộc sống, sự cố gắng không mệt mỏi là tiền đề sáng tạo của hạnh phúc, không có những thứ đó bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một lời nói suông mà thôi.
Các em thấy cha mẹ cực khổ vất vả thức khuya dậy sớm để làm việc, kiếm tiền nuôi sống gia đình, và nhất là để các em được đi học, được sống hạnh phúc. Cho nên có những bậc cha mẹ hy sinh tất cả bản thân mình: không ăn uống cao lương mỹ vị, không hưởng thụ cho mình.v.v...nhưng tất cả cho các con của mình.
Các em đừng bắt chước con chuột hoa vàng, dù nó đẹp nhưng rất làm biếng không muốn làm việc, cuối cùng thì bị đói trong mùa đông.
Dù đã có cha mẹ chăm lo, nhưng các em cũng phải cố gắng học tập tốt, để sau này giup1ich1 cho mình, cho gia đình, cho Giáo Hội và cho xã hội...
Các em thực hành:
- Nổ lực học tập không lười biếng.
- Không để giờ trống, nhưng cố gắng lấp đầy giờ trống bằng đọc sách, cầu nguyện và đi lễ nhà thờ.
- Không chú trọng đến áo quần sao cho đẹp, chỉ cần sạch sẽ, vừa vặn và lịch sự là tốt rồi.
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:13 23/05/2008
CHỦ NHẬT
LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ
Tin mừng: Ga 6, 51-58.
“Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”.
Bạn thân mến,
Nếu có một ai đó tuyên bố: ai ăn thịt của tôi thì được sống đời đời, chắc chắn bạn sẽ nói họ là những người điên, và rồi bỏ đi. Chúa Giê-su cũng đã bị nhiều người Do Thái bỏ đi, khi Ngài tuyên bố: “Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”, trong số những người bỏ đi ấy cũng có những người là môn đệ của Ngài.
Có lúc nào bạn nói với người yêu bạn: em đẹp và dễ thương quá, yêu em quá, thương em quá muốn ăn muốn cắn em cho đỡ nhớ đỡ thương; hoặc có lúc nào bạn thấy người ta nựng em bé không, họ hôn họ cắn, họ nhéo em bé, đó chính là yêu thương đó bạn ạ. Tình yêu luôn mong muốn được trao ban và đón nhận, luôn mong muốn được hòa tan với người mình yêu, đó chính là tình yêu tận hiến, và Chúa Giê-su đã làm như thế khi Ngài lấy chính máu thịt của mình làm của ăn của uống để nuôi linh hồn chúng ta, để chúng ta được sự sống đời đời.
Khi tuyên bố: “thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”, thì Chúa Giê-su thật sự đã trở thành tâm điểm cho mọi chống đối của thế gian, bởi vì không một hy sinh nào mà không phải trả giá đắt, không một tình yêu nào mà không có hy sinh.
Bạn thân mến,
Mỗi lần tham dự thánh lễ là bạn và tôi đều cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa Giê-su đã dành cho Giáo Hội, cho thế gian qua bí tích Thánh Thể nhiệm mầu, đó chính là bí tích yêu thương, hy sinh và nuôi dưỡng. Chính qua bí tích này mà Chúa Giê-su luôn ở với Giáo Hội và nhân loại cho đến ngày tận thế.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích yêu thương, nên bạn và tôi cũng tập tành bắt chước yêu thương tha nhân, như Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của hy sinh, nên bạn và tôi cũng cố gắng học tập hy sinh cho tha nhân, như Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống vì chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích nuôi dưỡng, nên bạn và tôi cũng tập tành chia sẻ vật chất lẫn tinh thần với tha nhân, như Chúa Giê-su đã lấy thịt máu của mình để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
- Và vì bí tích Thánh Thể là bởi tấm bánh tinh tuyền và rượu nho thanh khiết tạo thành, cho nên bạn và tôi cũng sẽ luôn cố gắng trở thành tấm bánh cho anh chị em và tha nhân hưởng dùng...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
----------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ
Tin mừng: Ga 6, 51-58.
“Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”.
Bạn thân mến,
Nếu có một ai đó tuyên bố: ai ăn thịt của tôi thì được sống đời đời, chắc chắn bạn sẽ nói họ là những người điên, và rồi bỏ đi. Chúa Giê-su cũng đã bị nhiều người Do Thái bỏ đi, khi Ngài tuyên bố: “Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”, trong số những người bỏ đi ấy cũng có những người là môn đệ của Ngài.
Có lúc nào bạn nói với người yêu bạn: em đẹp và dễ thương quá, yêu em quá, thương em quá muốn ăn muốn cắn em cho đỡ nhớ đỡ thương; hoặc có lúc nào bạn thấy người ta nựng em bé không, họ hôn họ cắn, họ nhéo em bé, đó chính là yêu thương đó bạn ạ. Tình yêu luôn mong muốn được trao ban và đón nhận, luôn mong muốn được hòa tan với người mình yêu, đó chính là tình yêu tận hiến, và Chúa Giê-su đã làm như thế khi Ngài lấy chính máu thịt của mình làm của ăn của uống để nuôi linh hồn chúng ta, để chúng ta được sự sống đời đời.
Khi tuyên bố: “thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”, thì Chúa Giê-su thật sự đã trở thành tâm điểm cho mọi chống đối của thế gian, bởi vì không một hy sinh nào mà không phải trả giá đắt, không một tình yêu nào mà không có hy sinh.
Bạn thân mến,
Mỗi lần tham dự thánh lễ là bạn và tôi đều cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa Giê-su đã dành cho Giáo Hội, cho thế gian qua bí tích Thánh Thể nhiệm mầu, đó chính là bí tích yêu thương, hy sinh và nuôi dưỡng. Chính qua bí tích này mà Chúa Giê-su luôn ở với Giáo Hội và nhân loại cho đến ngày tận thế.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích yêu thương, nên bạn và tôi cũng tập tành bắt chước yêu thương tha nhân, như Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của hy sinh, nên bạn và tôi cũng cố gắng học tập hy sinh cho tha nhân, như Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống vì chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích nuôi dưỡng, nên bạn và tôi cũng tập tành chia sẻ vật chất lẫn tinh thần với tha nhân, như Chúa Giê-su đã lấy thịt máu của mình để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
- Và vì bí tích Thánh Thể là bởi tấm bánh tinh tuyền và rượu nho thanh khiết tạo thành, cho nên bạn và tôi cũng sẽ luôn cố gắng trở thành tấm bánh cho anh chị em và tha nhân hưởng dùng...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
----------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:14 23/05/2008
![]() |
| N2T |
32. Phàm là khuyết điểm đều đến từ cá nhân, phàm là ưu điểm đều là Thiên Chúa ban cho chúng ta.
(Thánh Thomas de Aquino)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ và rước kiệu Mình Thánh Chúa
LM. Trần Đức Anh, OP
09:06 23/05/2008
ROMA. Lúc 7 giờ chiều 22-5-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ tại thềm Đền thờ Thánh Gioan Laterano và cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa sau đó tiến về Đền thờ Đức Bà Cả.
Trời Roma đã mưa nhiều lần trước đó trong ngày, nhưng từ lúc 5 giờ rưỡi, nắng lên và trời đẹp trở lại. Tham dự thánh lễ, có hàng chục ngàn tín hữu, 10 HY và 20 GM. Đặc biệt có nhiều em bé mới rước lễ lần đầu. Phần cho rước lễ do 50 LM và 40 phó tế vĩnh viễn của giáo phận Roma đảm trách.
Trong bài giảng, ĐTC lần lượt giải thích ý nghĩa của 3 giai đoạn của buổi lễ: trước tiên là sự tập hợp trước bàn thờ Chúa, tiếp đến là cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa và sau cùng là thờ lạy Thánh Thể.
Ngài nhắc đến sự kiện việc cử hành thánh lễ trong thời kỳ nguyên thủy:
Trong mỗi Giáo Hội địa phương có một Giám Mục duy nhất và cộng đoàn được hình thành quanh Giám mục, quanh Thánh Lễ được Người cử hành, cộng đoàn ấy là duy nhất vì chỉ có một chén được chúc phúc và một bánh được bẻ ra... Cộng đoàn quây quần quanh Thánh Thể, họp thành một thực thể duy nhất, dù các tín hữu thuộc nhiều lứa tuổi, phái tính, giai tầng xã hội và chính kiến khác nhau”.
Và ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Thánh Thể không bao giờ là một sự kiện riêng tư dành cho một số người tự lựa chọn nhau vì hợp nhau hoặc vì tình bạn. Vì thế, cần phải luôn cảnh giác làm sao để những cám dỗ cục bộ và đầu óc địa phương không làm cho buổi lễ đi theo chiều hướng ngược lại. Là Kitô hữu, có nghĩa là tụ tập lại từ các nơi để ở trước nhan Chúa duy nhất và trở thành một với Chúa”.
Sang đến việc rước kiệu Mình Thánh Chúa, đây là đồng hành với Chúa, ĐTC nói: ”Qua việc ban mình Ngài cho chúng ta trong Thánh Thể, Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi những tình trạng “tê liệt” của chúng ta, Ngài làm cho chúng ta trỗi dây và tiến bước nhờ sức mạnh của Bánh sự sống. Như đã xảy ra cho Ngôn Sứ Elia, người đã tị nạn vào sa mạc vì lo sợ kẻ thù và quyết định để cho mình chết đi (xc. 1 Vua 19,1-4). Nhưng Thiên Chúa đánh thức ông dậy khỏi giấc ngủ và làm cho ông thấy bên cạnh có bánh vừa nướng chín và nước: ”Hãy trỗi dậy và ăn, vì đường ngươi phải đi còn quá dài” (1 Vua 19,5.7). Cuộc rước kiệu Mình Thánh dạy chúng ta rằng Thánh Thể muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi thái độ nản chí và thất vọng, muốn làm cho chúng ta trỗi dậy và tiếp tục hành trình với sức mạnh mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. Đó là kinh nghiệm của dân Israel trong cuộc xuất hành từ Ai Cập, cuộc lữ hành dài qua sa mạc.”
Sau cùng, ĐTC giải thích việc quì gối thờ lạy Chúa. Ngài nói: ”Thờ lạy Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã trở thành Bánh được bẻ ra vì tình yêu, là phương dược hiệu nghiệm nhất chống lại sự tôn thờ ngẫu tượng trong quá khứ và ngày nay. Quì gối trước Thánh Thể là một sự tuyên xưng tự do: ai cúi mình trước Chúa Giêsu thì không thể và không phải cúi mình trước bất kỳ một quyền lực trần thế nào, dù nó mạnh mẽ đến đâu đi nữa. Các tín hữu Kitô chúng ta chỉ quì gối trước bí tích Cực Thánh, vì trong đó chúng ta biết và tin rằng có Thiên Chúa thật duy nhất hiện diện. Ngài là Đấng đã tạo thành và yêu thương trần thế độ độ đã ban Con duy nhất của Ngài” (xc Gioan 3,16)... Thờ lạy chính là kinh nguyện kéo dài việc cử hành và rước lễ và trong đó linh hồn tiếp tục được nuôi dưỡng: linh hồn được nuôi bằng tình yêu, bằng chân lý và an bình, bằng hy vọng, vì Đấng mà chúng ta phủ phục trước Ngài không không phán xét, không đè bẹp chúng ta, nhưng giải thoát và biến đổi chúng ta”
Sau thánh lễ, ĐTC đã chủ sự cuộc rước Mình Thánh Chúa cùng với hàng ngàn tín hữu tiến bước trên quảng đường dài hơn 1 cây số, tới Đền thờ Đức Bà Cả. Tại đây có nghi thức chầu Mình Thánh Chúa và ĐTC đã ban phép lành cho mọi người. (SD 22-5-2008)
Trời Roma đã mưa nhiều lần trước đó trong ngày, nhưng từ lúc 5 giờ rưỡi, nắng lên và trời đẹp trở lại. Tham dự thánh lễ, có hàng chục ngàn tín hữu, 10 HY và 20 GM. Đặc biệt có nhiều em bé mới rước lễ lần đầu. Phần cho rước lễ do 50 LM và 40 phó tế vĩnh viễn của giáo phận Roma đảm trách.Trong bài giảng, ĐTC lần lượt giải thích ý nghĩa của 3 giai đoạn của buổi lễ: trước tiên là sự tập hợp trước bàn thờ Chúa, tiếp đến là cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa và sau cùng là thờ lạy Thánh Thể.
Ngài nhắc đến sự kiện việc cử hành thánh lễ trong thời kỳ nguyên thủy:
Trong mỗi Giáo Hội địa phương có một Giám Mục duy nhất và cộng đoàn được hình thành quanh Giám mục, quanh Thánh Lễ được Người cử hành, cộng đoàn ấy là duy nhất vì chỉ có một chén được chúc phúc và một bánh được bẻ ra... Cộng đoàn quây quần quanh Thánh Thể, họp thành một thực thể duy nhất, dù các tín hữu thuộc nhiều lứa tuổi, phái tính, giai tầng xã hội và chính kiến khác nhau”.Và ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Thánh Thể không bao giờ là một sự kiện riêng tư dành cho một số người tự lựa chọn nhau vì hợp nhau hoặc vì tình bạn. Vì thế, cần phải luôn cảnh giác làm sao để những cám dỗ cục bộ và đầu óc địa phương không làm cho buổi lễ đi theo chiều hướng ngược lại. Là Kitô hữu, có nghĩa là tụ tập lại từ các nơi để ở trước nhan Chúa duy nhất và trở thành một với Chúa”.
Sang đến việc rước kiệu Mình Thánh Chúa, đây là đồng hành với Chúa, ĐTC nói: ”Qua việc ban mình Ngài cho chúng ta trong Thánh Thể, Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi những tình trạng “tê liệt” của chúng ta, Ngài làm cho chúng ta trỗi dây và tiến bước nhờ sức mạnh của Bánh sự sống. Như đã xảy ra cho Ngôn Sứ Elia, người đã tị nạn vào sa mạc vì lo sợ kẻ thù và quyết định để cho mình chết đi (xc. 1 Vua 19,1-4). Nhưng Thiên Chúa đánh thức ông dậy khỏi giấc ngủ và làm cho ông thấy bên cạnh có bánh vừa nướng chín và nước: ”Hãy trỗi dậy và ăn, vì đường ngươi phải đi còn quá dài” (1 Vua 19,5.7). Cuộc rước kiệu Mình Thánh dạy chúng ta rằng Thánh Thể muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi thái độ nản chí và thất vọng, muốn làm cho chúng ta trỗi dậy và tiếp tục hành trình với sức mạnh mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. Đó là kinh nghiệm của dân Israel trong cuộc xuất hành từ Ai Cập, cuộc lữ hành dài qua sa mạc.”
Sau cùng, ĐTC giải thích việc quì gối thờ lạy Chúa. Ngài nói: ”Thờ lạy Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã trở thành Bánh được bẻ ra vì tình yêu, là phương dược hiệu nghiệm nhất chống lại sự tôn thờ ngẫu tượng trong quá khứ và ngày nay. Quì gối trước Thánh Thể là một sự tuyên xưng tự do: ai cúi mình trước Chúa Giêsu thì không thể và không phải cúi mình trước bất kỳ một quyền lực trần thế nào, dù nó mạnh mẽ đến đâu đi nữa. Các tín hữu Kitô chúng ta chỉ quì gối trước bí tích Cực Thánh, vì trong đó chúng ta biết và tin rằng có Thiên Chúa thật duy nhất hiện diện. Ngài là Đấng đã tạo thành và yêu thương trần thế độ độ đã ban Con duy nhất của Ngài” (xc Gioan 3,16)... Thờ lạy chính là kinh nguyện kéo dài việc cử hành và rước lễ và trong đó linh hồn tiếp tục được nuôi dưỡng: linh hồn được nuôi bằng tình yêu, bằng chân lý và an bình, bằng hy vọng, vì Đấng mà chúng ta phủ phục trước Ngài không không phán xét, không đè bẹp chúng ta, nhưng giải thoát và biến đổi chúng ta”
Sau thánh lễ, ĐTC đã chủ sự cuộc rước Mình Thánh Chúa cùng với hàng ngàn tín hữu tiến bước trên quảng đường dài hơn 1 cây số, tới Đền thờ Đức Bà Cả. Tại đây có nghi thức chầu Mình Thánh Chúa và ĐTC đã ban phép lành cho mọi người. (SD 22-5-2008)
Chính quyền Trung quốc cố ngăn chận các cuộc hành hương Đền Thánh Đức Mẹ
Phụng Nghi
09:59 23/05/2008
Rome (AsiaNews) – Các giáo phận tại Trung quốc đã sẵn sàng cử hành Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Giáo hội Trung quốc, một sự kiện được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI ấn định vào ngày 24 tháng 5.
Mặc dầu những cuộc tập hợp và hành hương bị giới hạn, các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã có chương trình chầu Thánh Thể suốt ngày đó.
Các vị cũng hoạch định những cuộc viếng thăm các đền thánh và cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho Trung quốc và Đức giáo hoàng cũng như cầu xin cho những người đã chết trong trận động đất tại Tứ Xuyên (Sichuan) được an nghỉ đời đời.
Trong lúc đó, Lá thư gửi tín hữu Công giáo Trung quốc của Đức giáo hoàng và ý chỉ cầu nguyện đặc biệt ngài viết trong dịp này cũng được chú ý đến nhiều hơn, mặc dầu báo chí Trung quốc ít đề cập đến lời cầu nguyện của Đức thánh cha viết dâng lên Đức Mẹ Xà sơn (Sheshan).
ĐGH Bênêđictô XVI đã khởi xướng ý tưởng về một Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Giáo hội Trung quốc ấn định vào 24 tháng 5 trong Lá thư gửi tín hữu Công giáo Trung quốc ngài viết hồi năm ngoái.
Theo tục lệ, vào ngày nói trên người Công giáo Trung quốc mừng lễ Đức Mẹ Phù Trợ các Giáo hữu được tôn kính tại đền thánh Xà sơn gần Thượng hải, và kính Đức Mẹ suốt tháng 5, tháng họ đi hành hương.
Trong Ý cầu nguyện của Đức giáo hoàng, ngài muốn củng cố sự hiệp nhất giữa người Công giáo chui và giáo hữu công khai, cũng như sự hiệp thông của tín hữu với người kế nhiệm Thánh Phêrô.
Trong lời cầu nguyện, ngài xin Chúa ban sức mạnh để gìn giữ đức tin cho người giáo hữu bất chấp các đau khổ phải chịu vì bách hại.
Nhiều giáo hữu khắp nước Trung hoa hy vọng đến viếng đền thánh Xà sơn ngày 24 tháng 5 này, nhưng nhà cầm quyền tại Thượng hải cấm không cho bất cứ giáo phận nào gửi người hành hương đến đền thánh suốt tháng 5.
Sự kiểm soát rất gắt gao đến độ một người Công giáo ở Bắc kinh nói là “cả một cây kim cũng qua không lọt.”
Việc kiểm soát của nhà nước dường như được thúc đẩy bởi nỗi lo âu về những cuộc tập họp đông đảo của công chúng có thể dẫn tới chỗ không thể kiểm soát nổi vào thời điểm có những mối căng thẳng gây ra do vụ động đất tại Tứ xuyên, cuộc đàn áp ở Tây tạng, và ước muốn của Trung quốc mong tạo được một hình ảnh toàn hảo của mình trước thế giới bên ngoài khi tổ chức Thế vận hội. Nhưng đối với một số người thì đó cũng là một âm mưu tẩy chay lời kêu gọi của Đức giáo hoàng.
Duy chỉ có giáo phận Thượng hải sẽ được phép tổ chức các cuộc hành hương đền thánh Xà sơn, nhưng bị công an theo dõi, kiểm soát chặt chẽ và ghi danh sách. Giáo phận này năm nay mừng kỷ niệm 400 năm thành lập.
Một linh mục coi giáo xứ ở Thượng hải cho AsiaNews biết rằng, ngày 24 tháng 5, các linh mục và nữ tu trong giáo phận đã tổ chức các nhóm tín hữu đến viếng Xà sơn bằng xe bus. Đền thánh cách khu vực đô thị khoảng 35 km.
Khi đến chân đồi, các tu sĩ sẽ đi bộ lên đỉnh đồi để cầu nguyện. Một số giáo hữu sẽ đi theo các vị đó “dù họ không được yêu cầu phải làm như thế.”
Thánh lễ tại đền thánh được dự trù cử hành lúc 10 giờ sáng và do Đức cha Joseph Xing Wenzh, giám mục phụ tá.
Tại Thượng hải, các giáo xứ đã phân phối bản in lời cầu nguyện của Đức giáo hoàng bằng hai ngôn ngữ, Trung văn và Anh văn.
Ngay tại Bắc kinh, Ngày Cầu Nguyện cũng sẽ được cử hành, ít ra là chính thức, do các linh mục và nữ tu. Buổi sáng, khoảng 30 linh mục và 10 đại diện của từng xứ đạo trong giáo phận sẽ hành hương đến Thánh đường Hou Shangyu. Nhà thờ này được dâng kính Đức Mẹ.
Vì chính quyền lo ngại các đám đông dân chúng tụ tập nên mỗi nhóm chỉ được khoảng 100 người. Tuy nhiên tại tư gia và nhà thờ giáo xứ ở địa phương, người Công giáo công khai và chui sẽ hợp nhau đọc bản kinh cầu nguyện do Đức giáo hoàng viết.
Tại Tây an (Xian), một tín hữu cho AsiaNews biết rằng ông bất mãn vì việc chính quyền cấm hành hương đến Xà sơn. Ông nói: “Dù vậy, chúng tôi sẽ cầu nguyện theo ý chỉ của Đức giáo hoàng.”
Tại Nhà thờ Chính tòa Thánh Phanxicô sẽ có chầu Thánh thể suốt ngày 24. Vài nhóm tín hữu sẽ đến hành hương tại đền thánh Đức Mẹ gần đó, có tên là Núi Thánh giá và Đức Mẹ, trong giáo phận Duzhi.
Các linh mục trong giáo phận kế cận Tứ Xuyên nói sẽ cũng cầu nguyện cho những nạn nhân vụ động đất. Nhiều tín hữu Công giáo đang mỗi ngày tham gia vào công tác giúp đỡ hàng ngàn người ở trong các căn lều trại cắm gần khu nhà thờ chính tòa, sợ các hậu chấn.
Một nhóm người tình nguyện hiện đang ở Tứ Xuyên để giúp đỡ các nạn nhân.
Tại Quảng châu (Guangzhou), không có công bố về nghi lễ công khai nào được tổ chức vào Ngày Cầu Nguyện, nhưng nhiều linh mục cho AsiaNews biết Ngày Cầu nguyện và tầm quan trọng của sự hiệp nhất giữa tín hữu với Đức thánh cha đã được đem ra thảo luận. Môt linh mục nói ngài biết ơn vì cả Giáo hội Hoàn vũ đã quan tâm đến số phận của giáo hữu Trung quốc.
Mặc dầu những cuộc tập hợp và hành hương bị giới hạn, các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã có chương trình chầu Thánh Thể suốt ngày đó.
Các vị cũng hoạch định những cuộc viếng thăm các đền thánh và cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho Trung quốc và Đức giáo hoàng cũng như cầu xin cho những người đã chết trong trận động đất tại Tứ Xuyên (Sichuan) được an nghỉ đời đời.
Trong lúc đó, Lá thư gửi tín hữu Công giáo Trung quốc của Đức giáo hoàng và ý chỉ cầu nguyện đặc biệt ngài viết trong dịp này cũng được chú ý đến nhiều hơn, mặc dầu báo chí Trung quốc ít đề cập đến lời cầu nguyện của Đức thánh cha viết dâng lên Đức Mẹ Xà sơn (Sheshan).
ĐGH Bênêđictô XVI đã khởi xướng ý tưởng về một Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Giáo hội Trung quốc ấn định vào 24 tháng 5 trong Lá thư gửi tín hữu Công giáo Trung quốc ngài viết hồi năm ngoái.
Theo tục lệ, vào ngày nói trên người Công giáo Trung quốc mừng lễ Đức Mẹ Phù Trợ các Giáo hữu được tôn kính tại đền thánh Xà sơn gần Thượng hải, và kính Đức Mẹ suốt tháng 5, tháng họ đi hành hương.
Trong Ý cầu nguyện của Đức giáo hoàng, ngài muốn củng cố sự hiệp nhất giữa người Công giáo chui và giáo hữu công khai, cũng như sự hiệp thông của tín hữu với người kế nhiệm Thánh Phêrô.
Trong lời cầu nguyện, ngài xin Chúa ban sức mạnh để gìn giữ đức tin cho người giáo hữu bất chấp các đau khổ phải chịu vì bách hại.
Nhiều giáo hữu khắp nước Trung hoa hy vọng đến viếng đền thánh Xà sơn ngày 24 tháng 5 này, nhưng nhà cầm quyền tại Thượng hải cấm không cho bất cứ giáo phận nào gửi người hành hương đến đền thánh suốt tháng 5.
Sự kiểm soát rất gắt gao đến độ một người Công giáo ở Bắc kinh nói là “cả một cây kim cũng qua không lọt.”
Việc kiểm soát của nhà nước dường như được thúc đẩy bởi nỗi lo âu về những cuộc tập họp đông đảo của công chúng có thể dẫn tới chỗ không thể kiểm soát nổi vào thời điểm có những mối căng thẳng gây ra do vụ động đất tại Tứ xuyên, cuộc đàn áp ở Tây tạng, và ước muốn của Trung quốc mong tạo được một hình ảnh toàn hảo của mình trước thế giới bên ngoài khi tổ chức Thế vận hội. Nhưng đối với một số người thì đó cũng là một âm mưu tẩy chay lời kêu gọi của Đức giáo hoàng.
Duy chỉ có giáo phận Thượng hải sẽ được phép tổ chức các cuộc hành hương đền thánh Xà sơn, nhưng bị công an theo dõi, kiểm soát chặt chẽ và ghi danh sách. Giáo phận này năm nay mừng kỷ niệm 400 năm thành lập.
Một linh mục coi giáo xứ ở Thượng hải cho AsiaNews biết rằng, ngày 24 tháng 5, các linh mục và nữ tu trong giáo phận đã tổ chức các nhóm tín hữu đến viếng Xà sơn bằng xe bus. Đền thánh cách khu vực đô thị khoảng 35 km.
Khi đến chân đồi, các tu sĩ sẽ đi bộ lên đỉnh đồi để cầu nguyện. Một số giáo hữu sẽ đi theo các vị đó “dù họ không được yêu cầu phải làm như thế.”
Thánh lễ tại đền thánh được dự trù cử hành lúc 10 giờ sáng và do Đức cha Joseph Xing Wenzh, giám mục phụ tá.
Tại Thượng hải, các giáo xứ đã phân phối bản in lời cầu nguyện của Đức giáo hoàng bằng hai ngôn ngữ, Trung văn và Anh văn.
Ngay tại Bắc kinh, Ngày Cầu Nguyện cũng sẽ được cử hành, ít ra là chính thức, do các linh mục và nữ tu. Buổi sáng, khoảng 30 linh mục và 10 đại diện của từng xứ đạo trong giáo phận sẽ hành hương đến Thánh đường Hou Shangyu. Nhà thờ này được dâng kính Đức Mẹ.
Vì chính quyền lo ngại các đám đông dân chúng tụ tập nên mỗi nhóm chỉ được khoảng 100 người. Tuy nhiên tại tư gia và nhà thờ giáo xứ ở địa phương, người Công giáo công khai và chui sẽ hợp nhau đọc bản kinh cầu nguyện do Đức giáo hoàng viết.
Tại Tây an (Xian), một tín hữu cho AsiaNews biết rằng ông bất mãn vì việc chính quyền cấm hành hương đến Xà sơn. Ông nói: “Dù vậy, chúng tôi sẽ cầu nguyện theo ý chỉ của Đức giáo hoàng.”
Tại Nhà thờ Chính tòa Thánh Phanxicô sẽ có chầu Thánh thể suốt ngày 24. Vài nhóm tín hữu sẽ đến hành hương tại đền thánh Đức Mẹ gần đó, có tên là Núi Thánh giá và Đức Mẹ, trong giáo phận Duzhi.
Các linh mục trong giáo phận kế cận Tứ Xuyên nói sẽ cũng cầu nguyện cho những nạn nhân vụ động đất. Nhiều tín hữu Công giáo đang mỗi ngày tham gia vào công tác giúp đỡ hàng ngàn người ở trong các căn lều trại cắm gần khu nhà thờ chính tòa, sợ các hậu chấn.
Một nhóm người tình nguyện hiện đang ở Tứ Xuyên để giúp đỡ các nạn nhân.
Tại Quảng châu (Guangzhou), không có công bố về nghi lễ công khai nào được tổ chức vào Ngày Cầu Nguyện, nhưng nhiều linh mục cho AsiaNews biết Ngày Cầu nguyện và tầm quan trọng của sự hiệp nhất giữa tín hữu với Đức thánh cha đã được đem ra thảo luận. Môt linh mục nói ngài biết ơn vì cả Giáo hội Hoàn vũ đã quan tâm đến số phận của giáo hữu Trung quốc.
Agca, người tấn công và bắn ĐGH Gioan Phao lô II muốn trở thành công dân Ba Lan
Đức Long
11:35 23/05/2008
ANKARA- Hôm thứ sáu ( 23/05/08), Mehmet Ali Agca, tác giả vụ tấn công bất thành ĐGH người Ba Lan Gio an Phao lô II năm 1981, viết thư cho tổng thống Ba Lan để xin tổng thống chấp nhận lời thỉnh cầu của anh để có được tư cách làm công dân nước ĐGH, luật sư biện hộ cho anh cho thông tấn AFP biết.
Trong lá thư sẽ được gửi cho tổng thống Ba Lan vào thứ hai, Agca, hiện đang bị giam tại nhà tù Istanbul ( Thổ Nhĩ Kỳ), khẳng định « anh ta là người em tinh thần » của ĐGH Gioan Phao lô II, « một ĐGH tuyệt vời và hoàn hảo », ông Me Haci Alia Ozkan, luật sư nhấn mạnh.
Bức thư mà AFP có được là một bản sao bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ được dịch sang tiếng Ba Lan, sau đó sẽ gửi cho tổng thống Ba Lan.
Agca cho rằng « lịch sử Ba Lan không có vấn đề (…), tôi xin được làm công dân Ba Lan, quê hương yêu quí của ngài Karol Wojtyla », người được bầu làm Giáo Hoàng Gioan Phao lô II năm 1978 và qua đời năm 2005, nhất lá trong bức thư, Agca lặp lại rằng ngài là « vị cứu tinh », từ ngữ mà Agca dùng để nói đến những cuộc tiếp xúc của anh ta với ngài.
Luật sư của Agca cho biết đầu tháng 05 đã chuyển hồ sơ pháp lý đến lãnh Sứ Quán Ba Lan ở Istanbul, và mọi thủ thục pháp lý đang tiến hành.
Piotr, phát ngôn viên bộ ngoại giao Ba Lan tuyên bố với AFP hồi đầu tháng rằng « quyết định cuối cùng nơi tổng thống », nhưng theo ông thì Agca có nguy cơ vấp phải những vấn đề hình thức. Ông giải thích: « Để có được tư cách làm công dân Ba Lan, ít nhất là đã sống ở trong nước 5 năm ».
Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã tha thứ cho kẻ tấn công ngài từ lâu, ngài đã từng gặp anh ta ở nhà tù ở Ý năm 1983.
Sau 19 năm tù ở Ý, cựu chiến binh chủ nghĩa dân tộc cực đoan được trao cho chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ năm 2000, toà án Thổ đã kết an anh ta với hai tội danh: tội tấn công ngân hàng năm 1970, và tội giết nhà báo nước này năm 1979.
Trong lá thư sẽ được gửi cho tổng thống Ba Lan vào thứ hai, Agca, hiện đang bị giam tại nhà tù Istanbul ( Thổ Nhĩ Kỳ), khẳng định « anh ta là người em tinh thần » của ĐGH Gioan Phao lô II, « một ĐGH tuyệt vời và hoàn hảo », ông Me Haci Alia Ozkan, luật sư nhấn mạnh.Bức thư mà AFP có được là một bản sao bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ được dịch sang tiếng Ba Lan, sau đó sẽ gửi cho tổng thống Ba Lan.
Agca cho rằng « lịch sử Ba Lan không có vấn đề (…), tôi xin được làm công dân Ba Lan, quê hương yêu quí của ngài Karol Wojtyla », người được bầu làm Giáo Hoàng Gioan Phao lô II năm 1978 và qua đời năm 2005, nhất lá trong bức thư, Agca lặp lại rằng ngài là « vị cứu tinh », từ ngữ mà Agca dùng để nói đến những cuộc tiếp xúc của anh ta với ngài.
![]() |
| ĐGH gặp Agca trong tù và tha thứ |
Piotr, phát ngôn viên bộ ngoại giao Ba Lan tuyên bố với AFP hồi đầu tháng rằng « quyết định cuối cùng nơi tổng thống », nhưng theo ông thì Agca có nguy cơ vấp phải những vấn đề hình thức. Ông giải thích: « Để có được tư cách làm công dân Ba Lan, ít nhất là đã sống ở trong nước 5 năm ».
Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã tha thứ cho kẻ tấn công ngài từ lâu, ngài đã từng gặp anh ta ở nhà tù ở Ý năm 1983.
Sau 19 năm tù ở Ý, cựu chiến binh chủ nghĩa dân tộc cực đoan được trao cho chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ năm 2000, toà án Thổ đã kết an anh ta với hai tội danh: tội tấn công ngân hàng năm 1970, và tội giết nhà báo nước này năm 1979.
Video Hình Ảnh Nói về Linh Mục Tuyên Úy trong Cuộc Chiến Việt Nam
Anthony Lê
14:18 23/05/2008
Video Hình Ảnh Nói về Linh Mục Tuyên Úy trong Cuộc Chiến Việt Nam
WASHINGTON, D.C.- Hiệp Hội Những Người Con Trai Ý Quốc (The Sons of Italy) vừa cho sản xuất ra cuốn phim thời sự dài 2 tiếng kể về những binh sĩ Hoa Kỳ gốc Ý lừng danh vốn đã nhận được Huy Chương Danh Dự trong các cuộc chiến bảo vệ cho nền độc lập của Hoa Kỳ. Cuốn phim có nhan đề "Italian-American Recipients of the Medal of Honor" trong đó có đoạn đề cập đến vị cựu Linh Muc Tuyên Úy trong cuộc chiến Việt Nam là Cha Vincent Capodanno.
Theo thông tin từ hãng tin Pentagon News (Tin Tức từ Ngũ Giác Đài) - một kênh tin tức chuyên dành cho các binh sĩ nam/nữ và các cựu chiến binh trong Lực Lượng Võ Trang Hoa Kỳ - chi biết Hồ Sơ Phong Thánh cho Cha Capodanno đang có nhiều tiến triển rất tốt - chỉ cần thêm 1 phép lạ nữa là Cha sẽ được nâng lên bậc Hiển Thánh của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ.
Đoạn phim video ngắn dài 5 phút (xin nhấn vào hình bên trái để download đoạn phim này)chiếu lại cảnh cha Capodanno đang phục vụ cho các binh sĩ Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam và việc Cha đã hy sinh một cách anh dũng như thế nào trước súng đạn oan nghiệt của bạo quân Cộng Sản Bắc Việt khi trên người Cha chỉ có là Sách Thánh Kinh và tràng Chuổi Mân Côi mà thôi.
Mời Quý Vị hãy dành vài giây phút lắng đọng để nguyện cầu cho Cha và các binh sĩ đang phải ngày đêm quên mình vì sự độc lập, tự do và yên bình của từng người trong chúng ta!
Để xem Video xin mời vào trang Web http://www.vincentcapodanno.org/
WASHINGTON, D.C.- Hiệp Hội Những Người Con Trai Ý Quốc (The Sons of Italy) vừa cho sản xuất ra cuốn phim thời sự dài 2 tiếng kể về những binh sĩ Hoa Kỳ gốc Ý lừng danh vốn đã nhận được Huy Chương Danh Dự trong các cuộc chiến bảo vệ cho nền độc lập của Hoa Kỳ. Cuốn phim có nhan đề "Italian-American Recipients of the Medal of Honor" trong đó có đoạn đề cập đến vị cựu Linh Muc Tuyên Úy trong cuộc chiến Việt Nam là Cha Vincent Capodanno.
Theo thông tin từ hãng tin Pentagon News (Tin Tức từ Ngũ Giác Đài) - một kênh tin tức chuyên dành cho các binh sĩ nam/nữ và các cựu chiến binh trong Lực Lượng Võ Trang Hoa Kỳ - chi biết Hồ Sơ Phong Thánh cho Cha Capodanno đang có nhiều tiến triển rất tốt - chỉ cần thêm 1 phép lạ nữa là Cha sẽ được nâng lên bậc Hiển Thánh của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ.Đoạn phim video ngắn dài 5 phút (xin nhấn vào hình bên trái để download đoạn phim này)chiếu lại cảnh cha Capodanno đang phục vụ cho các binh sĩ Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam và việc Cha đã hy sinh một cách anh dũng như thế nào trước súng đạn oan nghiệt của bạo quân Cộng Sản Bắc Việt khi trên người Cha chỉ có là Sách Thánh Kinh và tràng Chuổi Mân Côi mà thôi.
Mời Quý Vị hãy dành vài giây phút lắng đọng để nguyện cầu cho Cha và các binh sĩ đang phải ngày đêm quên mình vì sự độc lập, tự do và yên bình của từng người trong chúng ta!
Để xem Video xin mời vào trang Web http://www.vincentcapodanno.org/
Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị về truyền thông xã hội
LM Trần Đức Anh, OP
19:08 23/05/2008
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các giáo sư về truyền thông giúp các sinh viên say mê tìm kiếm và loan truyền sự thật.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 23-5-2008 dành cho 200 giáo sư về truyền thông xã hội thuộc các đại học Công Giáo trên thế giới về Roma tham dự Hội nghị do Hội đồng Tòa Thánh về truyền thông xã hội tổ chức trong những ngày này về căn tính và sứ mạng của các phân khoa truyền thông thuộc các đại học Công Giáo.
Trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhận định rằng một nhà truyền thông có thể cố gắng thông tin, giáo dục, giúp giải trí, thuyết phục và khích lệ; nhưng giá trị tối hậu của mọi việc truyền thông hệ tại nơi tính chất xác thực của nó. Trong một suy tư cổ kính nhất về bản chất của việc truyền thông, triết gia Platon đã nêu rõ những nguy hiểm của thứ truyền thông chỉ tìm cách đạt tới những mục tiêu của người truyền thông hoặc chủ nhân của những người ấy mà không để ý đến tính chất xác thực của những điều được thông truyền...
ĐTC nói:
”Tôi khuyến khích anh chị em, trong tư cách là những nhà giáo dục, hãy nuôi dưỡng và vun trồng niềm say mê đối với sự thật và sự thiện vốn rất mạnh mẽ nơi người trẻ. Hãy giúp họ hiến thân tìm kiếm sự thật. Nhưng cũng hãy dạy họ rằng say mê của họ đối với sự thật không thể bị bóp méo vì những phương pháp hoài nghi, để rồi trở thành một thái độ duy tương đối 'sống chết mặc bay', trong đó người ta thường loại bỏ hoặc không biết đến mọi đòi hỏi đối với sự thật và vẻ đẹp.”
ĐTC cũng tố giác sự chênh lệch trong lãnh vực truyền thông: những người yếu kém về kinh tế và ở ngoài lề xã hội thường không được hưởng các phương tiện truyền thông mau lẹ và hữu hiệu; ngoài ra, ĐTC cảnh giác trước trào lưu hoàn cầu hóa trong thế giới truyền thông làm suy yếu hoặc loại bỏ những phong tục cổ truyền và các nền văn hóa địa phương, nhất là những truyền thống đã từng củng cố các giá trị gia đình và xã hội, tình thương, tình liên đới và thái độ tôn trọng sự sống. (SD 23-5-2008)
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 23-5-2008 dành cho 200 giáo sư về truyền thông xã hội thuộc các đại học Công Giáo trên thế giới về Roma tham dự Hội nghị do Hội đồng Tòa Thánh về truyền thông xã hội tổ chức trong những ngày này về căn tính và sứ mạng của các phân khoa truyền thông thuộc các đại học Công Giáo.Trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhận định rằng một nhà truyền thông có thể cố gắng thông tin, giáo dục, giúp giải trí, thuyết phục và khích lệ; nhưng giá trị tối hậu của mọi việc truyền thông hệ tại nơi tính chất xác thực của nó. Trong một suy tư cổ kính nhất về bản chất của việc truyền thông, triết gia Platon đã nêu rõ những nguy hiểm của thứ truyền thông chỉ tìm cách đạt tới những mục tiêu của người truyền thông hoặc chủ nhân của những người ấy mà không để ý đến tính chất xác thực của những điều được thông truyền...
ĐTC nói:”Tôi khuyến khích anh chị em, trong tư cách là những nhà giáo dục, hãy nuôi dưỡng và vun trồng niềm say mê đối với sự thật và sự thiện vốn rất mạnh mẽ nơi người trẻ. Hãy giúp họ hiến thân tìm kiếm sự thật. Nhưng cũng hãy dạy họ rằng say mê của họ đối với sự thật không thể bị bóp méo vì những phương pháp hoài nghi, để rồi trở thành một thái độ duy tương đối 'sống chết mặc bay', trong đó người ta thường loại bỏ hoặc không biết đến mọi đòi hỏi đối với sự thật và vẻ đẹp.”
ĐTC cũng tố giác sự chênh lệch trong lãnh vực truyền thông: những người yếu kém về kinh tế và ở ngoài lề xã hội thường không được hưởng các phương tiện truyền thông mau lẹ và hữu hiệu; ngoài ra, ĐTC cảnh giác trước trào lưu hoàn cầu hóa trong thế giới truyền thông làm suy yếu hoặc loại bỏ những phong tục cổ truyền và các nền văn hóa địa phương, nhất là những truyền thống đã từng củng cố các giá trị gia đình và xã hội, tình thương, tình liên đới và thái độ tôn trọng sự sống. (SD 23-5-2008)
Đức Thánh Cha tiếp kiến 8 Giám Mục Albani
LM Trần Đức Anh, OP
19:09 23/05/2008
VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 8 GM Albani sáng 23-5-2008, ĐTC Biển Đức 16 nhắc đến những khó khăn của Giáo Hội Albani thời hậu cộng sản và khích lệ các GM tăng cường tình hiệp thông và đoàn kết với nhau trong công tác mục vụ.
Các GM Albani vừa kết thúc tuần lễ hành hương Roma, viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.
Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến gia sản đau buồn mà chế độ độc tài vô thần đã để lại cho Albani và nói: ”Điều hiển nhiên là một sự áp đặt phản dân chủ như thế trong quan hệ giữa các công dân đã để lại cho anh em một công tác không dễ dàng xét về mặt con người, đó là công tác tái khám phá những qui luật chung có thể tái nâng đỡ tòa nhà xã hội... Sau đêm đen của chế độ độc tài cộng sản, vốn không có khả năng hiểu dân tộc Albani trong những thăng trầm lịch sử, Giáo Hội đã hồi sinh nhờ sức mạnh tông đồ của vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Vị Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô 2. Trong cuộc viếng thăm năm 1993 Người đã tái lập hàng giáo phẩm để mưu ích cho các tín hữu và nhân dân Albani”.
ĐTC đặc biệt nhấn mạnh đến sự đồng trách nhiệm của các GM Albani để có thể đương đầu hữu hiệu với các vấn đề và các khó khăn của Giáo Hội. Ngài nói: ”Sự cảm thông hòa hợp và huynh đệ giữa các vị Chủ chăn chắc chắn mang lại những lợi ích lớn lao cho nhân dân Albani, về mặt xã hội cũng như về đại kết và liên tôn. Vì thế, Anh em đáng kính, anh em hãy hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô để rao giảng Tin Mừng và cử hành các mầu nhiệm thánh; hãy biểu lộ tình hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, trong tình huynh đệ rộng rãi và chân thành của GM. Thật là điều không thể tưởng tượng khi một vị chủ chăn đưa ra sáng kiến giải quyết các hoàn cảnh cụ thể, mà lại không quan tâm phối hợp sự dấn thân của mình với các anh em GM khác”.
Sau cùng ĐTC cũng nhắc đến hiện tượng di dân đau buồn gây nên nhiều vấn đề trầm trọng về mục vụ và ngài khích lệ các GM giúp các LM được gửi đi làm việc cho người Albani di dân vun trồng sự nhạy cảm đối với sự kiện tất cả đều thuộc về thân mình duy nhất của Chúa Kitô, vốn đồng nhất ở mọi nơi” (SD 23-5-2008)
Các GM Albani vừa kết thúc tuần lễ hành hương Roma, viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.
Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến gia sản đau buồn mà chế độ độc tài vô thần đã để lại cho Albani và nói: ”Điều hiển nhiên là một sự áp đặt phản dân chủ như thế trong quan hệ giữa các công dân đã để lại cho anh em một công tác không dễ dàng xét về mặt con người, đó là công tác tái khám phá những qui luật chung có thể tái nâng đỡ tòa nhà xã hội... Sau đêm đen của chế độ độc tài cộng sản, vốn không có khả năng hiểu dân tộc Albani trong những thăng trầm lịch sử, Giáo Hội đã hồi sinh nhờ sức mạnh tông đồ của vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Vị Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô 2. Trong cuộc viếng thăm năm 1993 Người đã tái lập hàng giáo phẩm để mưu ích cho các tín hữu và nhân dân Albani”.
ĐTC đặc biệt nhấn mạnh đến sự đồng trách nhiệm của các GM Albani để có thể đương đầu hữu hiệu với các vấn đề và các khó khăn của Giáo Hội. Ngài nói: ”Sự cảm thông hòa hợp và huynh đệ giữa các vị Chủ chăn chắc chắn mang lại những lợi ích lớn lao cho nhân dân Albani, về mặt xã hội cũng như về đại kết và liên tôn. Vì thế, Anh em đáng kính, anh em hãy hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô để rao giảng Tin Mừng và cử hành các mầu nhiệm thánh; hãy biểu lộ tình hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, trong tình huynh đệ rộng rãi và chân thành của GM. Thật là điều không thể tưởng tượng khi một vị chủ chăn đưa ra sáng kiến giải quyết các hoàn cảnh cụ thể, mà lại không quan tâm phối hợp sự dấn thân của mình với các anh em GM khác”.
Sau cùng ĐTC cũng nhắc đến hiện tượng di dân đau buồn gây nên nhiều vấn đề trầm trọng về mục vụ và ngài khích lệ các GM giúp các LM được gửi đi làm việc cho người Albani di dân vun trồng sự nhạy cảm đối với sự kiện tất cả đều thuộc về thân mình duy nhất của Chúa Kitô, vốn đồng nhất ở mọi nơi” (SD 23-5-2008)
Top Stories
Errata for the Letter of Bishop of Vinh Long
J.B. An Dang
06:07 23/05/2008
Dear readers,
We apologize for mistaking “Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul” for “Sisters of Saint Paul of Chartres” in the Letter of Bishop of Vinh Long published on 20th of May. Our sincere thanks to Bishop Thomas Nguyen for notifying us of errors in the text.
The correct version follows:
Vinh Long, 18th of May 2008
To priests, religious, and lay people of Vinh Long diocese,
Dear Brothers and Sisters in Christ,
I am writing this letter in response to your great concerns relating to the Major Seminary on Nguyen Hue street; and to the solicitude of Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul for their monastery on To Thi Huynh street (previously known as Nguyen Truong To).
The September 7, 1977 can be seen as a day of disaster for the diocese of Vinh Long. On that day, the local authorities mobilized its armed force to blockade and raid on Holy Cross College on Pham Thai Buong street (formerly known as Khuu Van Ba), St. Paul monastery, and the Major Seminary. Then, they seized all these properties and arrested those who were in charge of the premises. I myself was among the detainees.
Representatives of the Provincial Superior of Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul and the Bishop office have repeatedly sent petitions to local and central governments. However, these petitions have gone unanswered. Recently, local government of Vinh Long province has issued a decree to build a hotel on the land of 10,235 m2 of Sisters of Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul. Despite the protest of priests at the office of the Fatherland Front, the government has summoned residents in the town to meetings in which they vow to take strong actions against those who dare to prevent the construction.
It is a great suffering of Sisters who have been in Vinh Long since 1871 and have been continuously serving people in the provinces of Ben Tre, Tra Vinh and Vinh Long. It is also a great suffering of the entire diocese. We cannot consent with the decision imposed unjustly by those who have power in their hands, neither we can stay silent in the face of this outrage. Being silent means complicity and a compromise with injustice.
I am convinced that you will be united with each other, and be persistent for justice. In the spirit of solidarity, I ask you to pray earnestly for the diocese and Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul so that we soon overcome these difficulties. Every day, please be united in prayer with us by singing three Hail Mary and the Peace Prayer of St. Francis of Assisi.
In Christ,
+ Bishop Thomas Nguyen Van Tan
Bishop of Vinh Long
Translated from Vietnamese by J.B. An Dang
We apologize for mistaking “Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul” for “Sisters of Saint Paul of Chartres” in the Letter of Bishop of Vinh Long published on 20th of May. Our sincere thanks to Bishop Thomas Nguyen for notifying us of errors in the text.
The correct version follows:
Vinh Long, 18th of May 2008
To priests, religious, and lay people of Vinh Long diocese,
Dear Brothers and Sisters in Christ,
I am writing this letter in response to your great concerns relating to the Major Seminary on Nguyen Hue street; and to the solicitude of Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul for their monastery on To Thi Huynh street (previously known as Nguyen Truong To).
The September 7, 1977 can be seen as a day of disaster for the diocese of Vinh Long. On that day, the local authorities mobilized its armed force to blockade and raid on Holy Cross College on Pham Thai Buong street (formerly known as Khuu Van Ba), St. Paul monastery, and the Major Seminary. Then, they seized all these properties and arrested those who were in charge of the premises. I myself was among the detainees.
Representatives of the Provincial Superior of Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul and the Bishop office have repeatedly sent petitions to local and central governments. However, these petitions have gone unanswered. Recently, local government of Vinh Long province has issued a decree to build a hotel on the land of 10,235 m2 of Sisters of Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul. Despite the protest of priests at the office of the Fatherland Front, the government has summoned residents in the town to meetings in which they vow to take strong actions against those who dare to prevent the construction.
It is a great suffering of Sisters who have been in Vinh Long since 1871 and have been continuously serving people in the provinces of Ben Tre, Tra Vinh and Vinh Long. It is also a great suffering of the entire diocese. We cannot consent with the decision imposed unjustly by those who have power in their hands, neither we can stay silent in the face of this outrage. Being silent means complicity and a compromise with injustice.
I am convinced that you will be united with each other, and be persistent for justice. In the spirit of solidarity, I ask you to pray earnestly for the diocese and Sisters of Charity of Saint Vincent de Paul so that we soon overcome these difficulties. Every day, please be united in prayer with us by singing three Hail Mary and the Peace Prayer of St. Francis of Assisi.
In Christ,+ Bishop Thomas Nguyen Van Tan
Bishop of Vinh Long
Translated from Vietnamese by J.B. An Dang
Un membre de la délégation du Saint-Siège qui se rendra prochainement au Vietnam lève un coin du voile sur le contenu des négociations avec les autorités civiles
Eglises d'Asie
10:58 23/05/2008
Un membre de la délégation du Saint-Siège qui se rendra prochainement au Vietnam lève un coin du voile sur le contenu des négociations avec les autorités civiles
Malgré la discrétion dont la délégation annuelle du Saint-Siège fait généralement preuve avant son départ au Vietnam, quelques-unes de ses intentions viennent d’être révélées grâce à une interview de Mgr Barnabé Nguyên Van Phuong, de la Congrégation pour l’évangélisation des peuples et, depuis longtemps, membre de la délégation romaine au Vietnam. Lors d’un voyage en Allemagne, il a été interrogé à ce sujet par le P. Etienne Bui Thuong Luu, responsable de la revue Dân Chua Au Châu (‘Peuple de Dieu - édition européenne’) (1).
Mgr Phuong a commencé par rappeler les objectifs habituels de la délégation du Saint-Siège, qui, au début du mois de juin, se rendra pour la 15ème fois au Vietnam depuis 1990. Il s’agit avant tout de négocier avec les autorités civiles sur les questions qui intéressent l’Eglise et le pays. Peu à peu, constate le membre de la délégation, une certaine compréhension réciproque s’est établie entre les deux parties, même si tout ce que souhaite la délégation n’a pas encore été obtenu.
Des détails plus précis ont été donnés ensuite sur le déroulement du voyage. La délégation visitera cette fois le diocèse de Huê, où elle ira prier la Vierge de La Vang. Elle soutiendra la demande légitime de l’Eglise du Vietnam et du diocèse de Huê visant à récupérer le terrain du sanctuaire marial pour en faire un Centre de pèlerinage où les chrétiens puissent venir prier la Vierge en toute liberté (2). La délégation se rendra ensuite dans le diocèse de Dalat pour rendre visite à son pasteur, Mgr Pierre Nguyên Van Nhon, récemment nommé président de la Conférence épiscopale, le plus haut responsable de l’Eglise au Vietnam. A Dalat aussi, la délégation soutiendra la requête des évêques vietnamiens concernant la récupération de l’ancien séminaire pontifical.
Mgr Phuong a tenu à préciser qu’il allait de soi que la délégation s’arrêtera également à Hanoi, capitale du Vietnam. A ce propos, il a mentionné les manifestations de prière qui se sont déroulées à Hanoi de la mi-décembre 2007 à la fin janvier 2008 pour la restitution de l’ancienne délégation apostolique. Il a souligné l’ampleur de cette affaire et l’écho international qu’elle avait soulevé. « C’est une question que l’on ne pourra éviter », a déclaré Mgr Phuong. Parmi les problèmes liés aux questions foncières que la délégation soulèvera devant les autorités, certainement celle de la délégation apostolique sera la plus importante. Enfin, des propositions de nominations épiscopales seront soumises à l’avis des autorités, ce qui pour le moment est une condition obligatoire.
Interrogé sur la perspective de l’établissement de liens diplomatiques entre le Vietnam et le Saint-Siège, le prélat a répondu en citant en italien la phrase de Diogène: « L’esperanza è ultima la morire. » (‘L’espérance est la dernière à mourir.’) « Nous ne cessons d’espérer… et nous sommes persuadés que les liens diplomatiques entre le Vietnam et le Saint-Siège sont une chose positive non seulement pour le Saint-Siège mais aussi pour notre pays le Vietnam… »; le Saint-Siège n’a aucun intérêt économique, industriel à défendre; il est seulement une voix, la voix de l’homme, la voix de la conscience, de la justice, de la vérité. Mgr Phuong s’est également déclaré persuadé que, bien qu’il ne l’ait jamais déclaré publiquement, Benoît XVI était très certainement désireux de se rendre au Vietnam, une des plus importantes Eglises d’Asie.
La délégation apportera aussi son entier soutien aux efforts de l’Eglise du Vietnam pour surmonter les limites qui sont assignées aujourd’hui à sa contribution à l’édification de la société. Il a déploré que la participation de l’Eglise à l’éducation de la jeunesse se borne aujourd’hui aux jardins d’enfants et aux écoles maternelles. « L’Eglise du Vietnam voudrait s’engager dans le travail social. Jusqu’à présent, l’Etat a demandé à l’Eglise de s’occuper des malades du sida en phase finale et des lépreux. Ces tâches conviennent parfaitement à l’Eglise et au témoignage de charité qu’elle doit apporter, mais elles ne sont pas suffisantes. »
(1) Une transcription de l’interview en vietnamien a été publiée par Vietcatholic News, le 22 mai 2008.
(2) Le 17 avril dernier, les autorités provinciales du Quang Tri se sont engagées à restituer la quasi-totalité du terrain. Voir EDA 483.
(Source: Eglises d'Asie - 23 mai 2008)
Malgré la discrétion dont la délégation annuelle du Saint-Siège fait généralement preuve avant son départ au Vietnam, quelques-unes de ses intentions viennent d’être révélées grâce à une interview de Mgr Barnabé Nguyên Van Phuong, de la Congrégation pour l’évangélisation des peuples et, depuis longtemps, membre de la délégation romaine au Vietnam. Lors d’un voyage en Allemagne, il a été interrogé à ce sujet par le P. Etienne Bui Thuong Luu, responsable de la revue Dân Chua Au Châu (‘Peuple de Dieu - édition européenne’) (1).
Mgr Phuong a commencé par rappeler les objectifs habituels de la délégation du Saint-Siège, qui, au début du mois de juin, se rendra pour la 15ème fois au Vietnam depuis 1990. Il s’agit avant tout de négocier avec les autorités civiles sur les questions qui intéressent l’Eglise et le pays. Peu à peu, constate le membre de la délégation, une certaine compréhension réciproque s’est établie entre les deux parties, même si tout ce que souhaite la délégation n’a pas encore été obtenu.
Des détails plus précis ont été donnés ensuite sur le déroulement du voyage. La délégation visitera cette fois le diocèse de Huê, où elle ira prier la Vierge de La Vang. Elle soutiendra la demande légitime de l’Eglise du Vietnam et du diocèse de Huê visant à récupérer le terrain du sanctuaire marial pour en faire un Centre de pèlerinage où les chrétiens puissent venir prier la Vierge en toute liberté (2). La délégation se rendra ensuite dans le diocèse de Dalat pour rendre visite à son pasteur, Mgr Pierre Nguyên Van Nhon, récemment nommé président de la Conférence épiscopale, le plus haut responsable de l’Eglise au Vietnam. A Dalat aussi, la délégation soutiendra la requête des évêques vietnamiens concernant la récupération de l’ancien séminaire pontifical.
Mgr Phuong a tenu à préciser qu’il allait de soi que la délégation s’arrêtera également à Hanoi, capitale du Vietnam. A ce propos, il a mentionné les manifestations de prière qui se sont déroulées à Hanoi de la mi-décembre 2007 à la fin janvier 2008 pour la restitution de l’ancienne délégation apostolique. Il a souligné l’ampleur de cette affaire et l’écho international qu’elle avait soulevé. « C’est une question que l’on ne pourra éviter », a déclaré Mgr Phuong. Parmi les problèmes liés aux questions foncières que la délégation soulèvera devant les autorités, certainement celle de la délégation apostolique sera la plus importante. Enfin, des propositions de nominations épiscopales seront soumises à l’avis des autorités, ce qui pour le moment est une condition obligatoire.
Interrogé sur la perspective de l’établissement de liens diplomatiques entre le Vietnam et le Saint-Siège, le prélat a répondu en citant en italien la phrase de Diogène: « L’esperanza è ultima la morire. » (‘L’espérance est la dernière à mourir.’) « Nous ne cessons d’espérer… et nous sommes persuadés que les liens diplomatiques entre le Vietnam et le Saint-Siège sont une chose positive non seulement pour le Saint-Siège mais aussi pour notre pays le Vietnam… »; le Saint-Siège n’a aucun intérêt économique, industriel à défendre; il est seulement une voix, la voix de l’homme, la voix de la conscience, de la justice, de la vérité. Mgr Phuong s’est également déclaré persuadé que, bien qu’il ne l’ait jamais déclaré publiquement, Benoît XVI était très certainement désireux de se rendre au Vietnam, une des plus importantes Eglises d’Asie.
La délégation apportera aussi son entier soutien aux efforts de l’Eglise du Vietnam pour surmonter les limites qui sont assignées aujourd’hui à sa contribution à l’édification de la société. Il a déploré que la participation de l’Eglise à l’éducation de la jeunesse se borne aujourd’hui aux jardins d’enfants et aux écoles maternelles. « L’Eglise du Vietnam voudrait s’engager dans le travail social. Jusqu’à présent, l’Etat a demandé à l’Eglise de s’occuper des malades du sida en phase finale et des lépreux. Ces tâches conviennent parfaitement à l’Eglise et au témoignage de charité qu’elle doit apporter, mais elles ne sont pas suffisantes. »
(1) Une transcription de l’interview en vietnamien a été publiée par Vietcatholic News, le 22 mai 2008.
(2) Le 17 avril dernier, les autorités provinciales du Quang Tri se sont engagées à restituer la quasi-totalité du terrain. Voir EDA 483.
(Source: Eglises d'Asie - 23 mai 2008)
Vatican delegation to discuss with Hanoi on Church property issues
J.B. An Dang
16:35 23/05/2008
Tensions between the Church and Hanoi government have gone deeper unprecedently when a series of protests – bolder than ever - from Catholics as a religious community have erupted in both North and South Vietnam. A Vatican delegation will be in Hanoi next month to discuss with the government on Church property issues.
Among other things, Church property will be a main topic to be discussed in the 15th visit to Vietnam of a Vatican delegation scheduled in June, Monsignor Barnabe Nguyen Van Phuong, chief of Asian affairs of the Congregation for the Evangelization of Peoples, discloses in an interview with VietCatholic News Agency yesterday.
Vietnam has not had diplomatic relations with the Vatican since its communist government took power in 1975. The situation of the Church in Vietnam was improved due in good part to the persistent efforts of the Holy See to maintain an official dialogue with the authorities, including a more or less annual visit to Vietnam of a Vatican delegation.
The appointment of bishops remains one of the thorniest issues, with the officially atheist Communist government refusing to yield control and the Vatican loath to concede its traditional right to appoint church leaders. It results in the long delays in securing the appointment of bishops and diocesan administrators, and difficulties in the carrying out of the Church's normal activities. “This has always been a central point on the agenda in the bilateral meetings between the Vatican and the Vietnam government,” said Mons. Barnabe Nguyen.
The Vatican delegation will visit Our Lady of La Vang Shrine, the main religious Catholic shrine in Vietnam. Local government has promised to return all the land that surrounds the basilica seized by the government in 1975. The decision was announced last month. The area affected covers 21.18 hectares (out of a total of 23.66 hectares originally expropriated) around the basilica.
According to Mons. Barnabe Nguyen, the central point of this visit will be in Hanoi where daily prayer protests are still ongoing. On December 18th last year, a rally was held drawing thousands Catholics to the street after Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi released a pastoral letter telling his congregation that the government planned to convert the nunciature within the premises of his palace, seized illegally by the government since 1959, into an entertainment and commercial center. The daily demonstrations quickly grew into major events when more and more Catholics gathered day and night praying in front of the building. Every day, priests and Catholic followers lit candles, placed flowers and sang at the iron fence. These events have attracted attentions of international Catholic and secular media, and through them of the international community.
Hanoi Catholics prayer protests pose great threats to Vietnam government. This is the first time it has to deal with the protests – bolder than ever - from Catholics as a religious community. Also, these protests occurred just a few months after Vietnam created a watershed, especially for the US, through a wave of harassments, arrests and criminal charges against human rights and democracy advocates engaged in peaceful and perfectly legal activities. Vietnam had been put back on the list of Countries of Particular Concern (CPC) since May 2007. Apparently, it did not want to suffer more economic measures from US and other Western countries.
Protests soon reached to Thai Ha, a parish in Hanoi, where land owned by the Redemptorists was seized by the Communist government. The local authorities mobilized its armed force to back new construction works on the Church land. In response, after each Mass in the morning and evening, Redemptorist priests and their associates, carrying a large cross, lead a procession to the site. There they pray, chant, and sing for hours in front of hundreds of crosses and icons of Our Mother of Perpetual Help which have been placed on the fences. Some Westerners also come to the site to show their solidarity with protestors.
Protests also erupted in Ha Dong, 40 km South of Hanoi, where Catholics have demonstrated every night to demand the return of a parish building seized illegally by the local government 30 years ago. The local government's only response has been to declare that the building was "given" to the government by a "parish leader" in 1977. In fact, the "parish leader" spoken of by the government was in effect a member of the communist party, whom the government itself had appointed as head of the parish council. One of his first decisions was to donate the property to the government.
Tension between Catholics and the government reached to its highest point on January 25th when Catholics entered the nunciature to aid a women being beaten by police as she went into the area to bring flowers to the statue of the Virgin present in the garden. Security personnel found her there and tried to grab hold of her. Without paying any attention to her explanation they began to beat her and kick her. There were at least 2 thousand Catholics there as witnesses. A commander of the security guards even shouted orders to his men to beat her to death. A lawyer, present at the scene, came to the woman’s rescue accusing the guards of breaking the law. But they turned on him dragging him off to an office inside. Seeing all of these happen, demonstrators had no other choice but to force the gate and clash with the security personnel.
The next day, the Peoples Committee of Hanoi released an ultimatum, threatening “extreme action” if demonstrations and the sit-in were not called off by 5pm January 27. In response, over 3 thousand Catholics gathered in the gardens of the Apostolic Nunciature to pray in open defiance of the city government ultimatum.
There was a turning point when Vatican Secretary of State Card Tarcisio Bertone wrote a letter to Archbishop Joseph Ngo. In his letter Cardinal Bertone said that Pope Benedict XVI is following events in Vietnam and that the Vatican has contacted the Vietnamese government to find a solution to the dispute between the archdiocese and city authorities about who owned or held usufructuary rights to the compound that once was home to the former Apostolic Delegation.
In the February 1 statement, Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi confirmed reports that the government of Vietnam had agreed to restore the nunciature in Hanoi after more than a month of public protests by Catholics. On the same day, the protesters agreed to remove a cross and tents from a one hectare (2.5-acre) piece of mostly-vacant land about a block from St. Joseph's Cathedral ending more than a month of protests in Hanoi aimed at pressing the Communist government for the return of Church land seized 50 years ago.
However, the vision of getting the former nunciature back in a near future seems to fade away. Public workers repainted the fence surrounding the site, strengthened the gates, and erected new panels with communist symbols and slogans reiterating that the building is state-owned. In addition, new security measures have been imposed. Security forces are ordered to intervene immediately if anyone stops by to pray in front of the nunciature. Also, no candles are allowed to put on the fence. These signals cast a cloud of suspicion on the willingness of the government to return the building.
More alarming, state-run media continue to attack Hanoi Catholics. This time it comes from the state-owned magazine “Catholics and People”. Its name and contents may suggest that it belongs to the Church. However, in fact, the “Committee for Solidarity of Vietnamese Catholics”, an organization within the communist party runs it.
In addition, in a letter sent to the prime minister on February 16th, the venerable Thich Trung Hau, a representative of an organization "approved" by the government in 1982, affirms that any arrangement for the former delegation building must have the agreement of his church as his is the true owner of the property. The idea of Buddhist ownership was raised by Le Quang Vinh, the former head of the committee for religious affairs. In his opinion, the area of Buddhist ownership would also include the cathedral of St. Joseph, the archbishop's residence, and the major seminary. The move clearly appears to be inspired by the government circles that are trying to renege on the promise made to the Catholics at the beginning of February, to put an end to forty days of peaceful protests that began last December, for the restitution of the former apostolic delegation.
With strong support from the government, the venerable Hau maintains that on the contested property there was once a pagoda called Bao Thien, built in 1054. It was only in 1883 that "the French colonists seized it and gave it to the bishop".
It must be added that in 2001, a state publication found that the pagoda of Bao Thien had been destroyed in 1426, and that it stood five kilometers to the north of the apostolic delegation.
While many still cling to the hope that the government would keep its promises, there are growing concerns within Catholic circles that unless they take some bolder approaches, things will go nowhere.
Since March 17th, the local government in Ho Chi Minh city (formerly known as Saigon), Vietnam has faced analogue protests as that in Hanoi when hundreds of Sisters of Vincent Charity Order hold prayer vigils to protest a government plan to change their property into a night club and a hotel.
The property in question on Nguyen Thi Dieu has belonged to the Order since December 1959 after the French Red Cross transferred ownership to the sisters. The nuns opened a day care center that operated till 1975 when the communists came to power. Eventually the archdiocese of Saigon and the Order had to agree to let the local government use the facility as a school for kindergarteners.
Over the sisters’ protest the authorities took ownership of the building in 1997 by simple administrative fiat (75083/QD-UB), arguing that the property was in the state of absentee-landlord. Soon, the property was rented out in order to financially support local government and converted to a dancing club. In 2007, police raided the club and reported that the property was actually being run as a brothel. The club was shut down.
In the meantime the sisters continued to petition the authorities demanding that the building be returned since it had no socially relevant function, but their demand went nowhere.
In November 2007 ownership was transferred to the Bureau of Railroad System Management which expressed the intention of tearing it down to build a hotel with night club.
The archdiocese joined the sisters, calling on the authorities to reverse the decision. All they got was that the sign advertising the future night club was removed whilst demolition continued.
In the latest event, just a few days ago, Bishop Thomas Nguyen Van Tan of the Diocese of Vinh Long has protested Vietnamese authorities’ plans to demolish a monastery and build a hotel on land confiscated from a religious order in 1977.
The bishop recounted in a strongly-worded May 18 letter what he called “a day of disaster” for the Diocese of Vinh Long. On September 7, 1977, he wrote, “the local authorities mobilized its armed force to blockade and raid Holy Cross College… St. Paul monastery, and the Major Seminary.” Authorities arrested all who were in charge of the institutions, including Bishop Nguyen Van Tan himself.
Local authorities in the southern Vietnamese province of Vinh Long (about 85 miles southwest of Saigon) announced a project to build a new hotel on the land belonging to the Sisters of Saint Paul of Chartres.
Though the sisters have staged protests at the site and priests have voiced their opposition to the office of the Fatherland Front, the government has not responded to their concerns.
Instead, Bishop Nguyen Van Tan writes, “the government has summoned residents in the town to meetings in which they vow to take strong actions against those who dare to prevent the construction.”
The bishop said the pending destruction of the monastery is a “great suffering” both for the entire diocese and also for the Sisters of Saint Paul of Chartres, who have been in Vinh Long since 1871.
“We cannot consent with the decision imposed unjustly by those who have power in their hands, neither we can stay silent in the face of this outrage. Being silent means complicity and a compromise with injustice,” he wrote.
Among other things, Church property will be a main topic to be discussed in the 15th visit to Vietnam of a Vatican delegation scheduled in June, Monsignor Barnabe Nguyen Van Phuong, chief of Asian affairs of the Congregation for the Evangelization of Peoples, discloses in an interview with VietCatholic News Agency yesterday.
Vietnam has not had diplomatic relations with the Vatican since its communist government took power in 1975. The situation of the Church in Vietnam was improved due in good part to the persistent efforts of the Holy See to maintain an official dialogue with the authorities, including a more or less annual visit to Vietnam of a Vatican delegation.
The appointment of bishops remains one of the thorniest issues, with the officially atheist Communist government refusing to yield control and the Vatican loath to concede its traditional right to appoint church leaders. It results in the long delays in securing the appointment of bishops and diocesan administrators, and difficulties in the carrying out of the Church's normal activities. “This has always been a central point on the agenda in the bilateral meetings between the Vatican and the Vietnam government,” said Mons. Barnabe Nguyen.
The Vatican delegation will visit Our Lady of La Vang Shrine, the main religious Catholic shrine in Vietnam. Local government has promised to return all the land that surrounds the basilica seized by the government in 1975. The decision was announced last month. The area affected covers 21.18 hectares (out of a total of 23.66 hectares originally expropriated) around the basilica.
According to Mons. Barnabe Nguyen, the central point of this visit will be in Hanoi where daily prayer protests are still ongoing. On December 18th last year, a rally was held drawing thousands Catholics to the street after Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi released a pastoral letter telling his congregation that the government planned to convert the nunciature within the premises of his palace, seized illegally by the government since 1959, into an entertainment and commercial center. The daily demonstrations quickly grew into major events when more and more Catholics gathered day and night praying in front of the building. Every day, priests and Catholic followers lit candles, placed flowers and sang at the iron fence. These events have attracted attentions of international Catholic and secular media, and through them of the international community.
Hanoi Catholics prayer protests pose great threats to Vietnam government. This is the first time it has to deal with the protests – bolder than ever - from Catholics as a religious community. Also, these protests occurred just a few months after Vietnam created a watershed, especially for the US, through a wave of harassments, arrests and criminal charges against human rights and democracy advocates engaged in peaceful and perfectly legal activities. Vietnam had been put back on the list of Countries of Particular Concern (CPC) since May 2007. Apparently, it did not want to suffer more economic measures from US and other Western countries.
Protests soon reached to Thai Ha, a parish in Hanoi, where land owned by the Redemptorists was seized by the Communist government. The local authorities mobilized its armed force to back new construction works on the Church land. In response, after each Mass in the morning and evening, Redemptorist priests and their associates, carrying a large cross, lead a procession to the site. There they pray, chant, and sing for hours in front of hundreds of crosses and icons of Our Mother of Perpetual Help which have been placed on the fences. Some Westerners also come to the site to show their solidarity with protestors.
Protests also erupted in Ha Dong, 40 km South of Hanoi, where Catholics have demonstrated every night to demand the return of a parish building seized illegally by the local government 30 years ago. The local government's only response has been to declare that the building was "given" to the government by a "parish leader" in 1977. In fact, the "parish leader" spoken of by the government was in effect a member of the communist party, whom the government itself had appointed as head of the parish council. One of his first decisions was to donate the property to the government.
Tension between Catholics and the government reached to its highest point on January 25th when Catholics entered the nunciature to aid a women being beaten by police as she went into the area to bring flowers to the statue of the Virgin present in the garden. Security personnel found her there and tried to grab hold of her. Without paying any attention to her explanation they began to beat her and kick her. There were at least 2 thousand Catholics there as witnesses. A commander of the security guards even shouted orders to his men to beat her to death. A lawyer, present at the scene, came to the woman’s rescue accusing the guards of breaking the law. But they turned on him dragging him off to an office inside. Seeing all of these happen, demonstrators had no other choice but to force the gate and clash with the security personnel.
The next day, the Peoples Committee of Hanoi released an ultimatum, threatening “extreme action” if demonstrations and the sit-in were not called off by 5pm January 27. In response, over 3 thousand Catholics gathered in the gardens of the Apostolic Nunciature to pray in open defiance of the city government ultimatum.
There was a turning point when Vatican Secretary of State Card Tarcisio Bertone wrote a letter to Archbishop Joseph Ngo. In his letter Cardinal Bertone said that Pope Benedict XVI is following events in Vietnam and that the Vatican has contacted the Vietnamese government to find a solution to the dispute between the archdiocese and city authorities about who owned or held usufructuary rights to the compound that once was home to the former Apostolic Delegation.
In the February 1 statement, Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi confirmed reports that the government of Vietnam had agreed to restore the nunciature in Hanoi after more than a month of public protests by Catholics. On the same day, the protesters agreed to remove a cross and tents from a one hectare (2.5-acre) piece of mostly-vacant land about a block from St. Joseph's Cathedral ending more than a month of protests in Hanoi aimed at pressing the Communist government for the return of Church land seized 50 years ago.
However, the vision of getting the former nunciature back in a near future seems to fade away. Public workers repainted the fence surrounding the site, strengthened the gates, and erected new panels with communist symbols and slogans reiterating that the building is state-owned. In addition, new security measures have been imposed. Security forces are ordered to intervene immediately if anyone stops by to pray in front of the nunciature. Also, no candles are allowed to put on the fence. These signals cast a cloud of suspicion on the willingness of the government to return the building.
More alarming, state-run media continue to attack Hanoi Catholics. This time it comes from the state-owned magazine “Catholics and People”. Its name and contents may suggest that it belongs to the Church. However, in fact, the “Committee for Solidarity of Vietnamese Catholics”, an organization within the communist party runs it.
In addition, in a letter sent to the prime minister on February 16th, the venerable Thich Trung Hau, a representative of an organization "approved" by the government in 1982, affirms that any arrangement for the former delegation building must have the agreement of his church as his is the true owner of the property. The idea of Buddhist ownership was raised by Le Quang Vinh, the former head of the committee for religious affairs. In his opinion, the area of Buddhist ownership would also include the cathedral of St. Joseph, the archbishop's residence, and the major seminary. The move clearly appears to be inspired by the government circles that are trying to renege on the promise made to the Catholics at the beginning of February, to put an end to forty days of peaceful protests that began last December, for the restitution of the former apostolic delegation.
With strong support from the government, the venerable Hau maintains that on the contested property there was once a pagoda called Bao Thien, built in 1054. It was only in 1883 that "the French colonists seized it and gave it to the bishop".
It must be added that in 2001, a state publication found that the pagoda of Bao Thien had been destroyed in 1426, and that it stood five kilometers to the north of the apostolic delegation.
While many still cling to the hope that the government would keep its promises, there are growing concerns within Catholic circles that unless they take some bolder approaches, things will go nowhere.
Since March 17th, the local government in Ho Chi Minh city (formerly known as Saigon), Vietnam has faced analogue protests as that in Hanoi when hundreds of Sisters of Vincent Charity Order hold prayer vigils to protest a government plan to change their property into a night club and a hotel.
The property in question on Nguyen Thi Dieu has belonged to the Order since December 1959 after the French Red Cross transferred ownership to the sisters. The nuns opened a day care center that operated till 1975 when the communists came to power. Eventually the archdiocese of Saigon and the Order had to agree to let the local government use the facility as a school for kindergarteners.
Over the sisters’ protest the authorities took ownership of the building in 1997 by simple administrative fiat (75083/QD-UB), arguing that the property was in the state of absentee-landlord. Soon, the property was rented out in order to financially support local government and converted to a dancing club. In 2007, police raided the club and reported that the property was actually being run as a brothel. The club was shut down.
In the meantime the sisters continued to petition the authorities demanding that the building be returned since it had no socially relevant function, but their demand went nowhere.
In November 2007 ownership was transferred to the Bureau of Railroad System Management which expressed the intention of tearing it down to build a hotel with night club.
The archdiocese joined the sisters, calling on the authorities to reverse the decision. All they got was that the sign advertising the future night club was removed whilst demolition continued.
In the latest event, just a few days ago, Bishop Thomas Nguyen Van Tan of the Diocese of Vinh Long has protested Vietnamese authorities’ plans to demolish a monastery and build a hotel on land confiscated from a religious order in 1977.
The bishop recounted in a strongly-worded May 18 letter what he called “a day of disaster” for the Diocese of Vinh Long. On September 7, 1977, he wrote, “the local authorities mobilized its armed force to blockade and raid Holy Cross College… St. Paul monastery, and the Major Seminary.” Authorities arrested all who were in charge of the institutions, including Bishop Nguyen Van Tan himself.
Local authorities in the southern Vietnamese province of Vinh Long (about 85 miles southwest of Saigon) announced a project to build a new hotel on the land belonging to the Sisters of Saint Paul of Chartres.
Though the sisters have staged protests at the site and priests have voiced their opposition to the office of the Fatherland Front, the government has not responded to their concerns.
Instead, Bishop Nguyen Van Tan writes, “the government has summoned residents in the town to meetings in which they vow to take strong actions against those who dare to prevent the construction.”
The bishop said the pending destruction of the monastery is a “great suffering” both for the entire diocese and also for the Sisters of Saint Paul of Chartres, who have been in Vinh Long since 1871.
“We cannot consent with the decision imposed unjustly by those who have power in their hands, neither we can stay silent in the face of this outrage. Being silent means complicity and a compromise with injustice,” he wrote.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo phận Thái Bình thúc đẩy lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể
Đàm Nguyên
13:57 23/05/2008
TIỀN HẢI, Thái Bình – Một Giáo phận miền bắc Việt Nam đang thực hiện những chương trình hành động đã đề ra trong “Năm Hồng Đào” 2008 sau một chuỗi 3 năm thánh liên tiếp, đó là thành lập Trung tâm chầu Mình Thánh suốt ngày đêm để thúc đẩy lòng tôn sùng và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể của các tín hữu trong Giáo phận.
Một cuộc lễ và rước kiệu Thánh Thể hoành tráng và trang nghiêm chưa từng có từ khi Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang về làm giám mục Giáo phận Thái Bình năm 1992 cho đến nay. Thánh lễ Mình và Máu Chúa diễn ra vào buổi chiều ngày 22-5 tại nhà thờ Chính toà Thái Bình, do Đức cha Sang chủ tế cùng với 60 Linh mục và khoảng 5000 người tham dự.
Những ngày trước đó, Đức Cha Sang đã gửi cộng đoàn dân Chúa Thái Bình một lá thư mục vụ nói về Lễ Thánh Tâm, quan thầy Giáo phận, cùng với những chỉ dẫn về việc tổ chức lễ Mình Máu Chúa và lễ Thánh Tâm cấp Giáo phận và cấp giáo xứ sao cho long trọng, sốt sáng, đem lại lợi ích thiêng liêng và làm sáng Danh Chúa.
Trong bài giảng lễ Mình Máu Thánh Chúa, Đức cha Sang diễn giải cho mọi người tin nhận rằng Chúa Giêsu hiện diện với Mình và Máu Chúa trong phép Thánh Thể khi còn hình Bánh và hình Rượu, nghĩa là hình thái vẫn còn được là Bánh và còn được là Rượu. “Để nhấn mạnh tới niềm tin đó, Giáo Hội truyền dạy sau lễ phải rước Mình và Máu Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi mọi nơi có thể đi được: trong làng, ngoài phố…”, đức cha nói.
Bài giảng lễ kết thúc với phần trao bài sai thuyên chuyển một số linh mục trong Giáo phận. Sau Thánh lễ, vị chủ chăn Giáo phận cung nghinh Mình Thánh Chúa trên xe hoa để đi ra ngoài phố Trần Hưng Đạo, vòng về sân Toà giám mục và đi xung quanh nhà thờ Chính toà, trong tiếng kèn, tiếng kinh và tiếng hát liên lỉ.
Đoàn người rước kiệu kéo dài khoảng 400 mét, bao gồm các Linh mục, Tu sĩ nam nữ, các đoàn hội của các giáo xứ và tất cả mọi người theo sau. Sau mỗi chặng đường cung nghinh Mình Thánh, mọi người đứng lại sấp mình thờ lạy Chúa Giêsu hiện diện trong hào quang mặt nhật, rồi Đức giám mục dương cao Mình Thánh để ban phúc lành cho dân chúng.
Khi trời đã về đêm, phép lành Thánh Thể được ban lần cuối tại tiền sảnh nhà thờ cho người tham dự và cư dân thành phố Thái Bình, liền lúc đó, Đức giám mục trao Mình Thánh Chúa cho các Linh mục và đoàn người đến từ giáo hạt Tiền Hải để rước về giáo xứ Đền thánh Tử đạo Đông Phú, đứng đầu là Cha quản hạt Giuse Mai Trần Nga và Cha xứ Đền thánh Đông Phú Giuse Nguyễn Thuân.
Đông Phú là quê hương của hai thánh tử đạo Thuần và Dũng, là một giáo họ lớn mới được tách ra từ giáo xứ Trung Đồng để nâng lên hàng giáo xứ ngày 4-8-2007. Trước đó, Đông Phú cũng đã được giáo quyền suy xét và nhìn nhận nên đã phong làm Đền thánh Tử đạo của Giáo phận từ ngày 6-6-2006. Đặc biệt hơn nữa, kể từ ngày 6-4-2008, nhân dịp tuần chầu đầu tiên thay mặt Giáo phận, tân giáo xứ Đền thánh Tử đạo Đông Phú lại được Đức cha Sang chọn làm Trung tâm chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm.
Đoạn đường dài khoảng trên 40 kilômét từ Nhà thờ Chính toà về Đông Phú, Mình Thánh Chúa đi qua những dãy phố, thị trấn, thôn làng, những công ty xí nghiệp, cả những xóm dân cư chưa hề có ai tin nhận Chúa và những cánh đồng đang đơm đòng trỗ bông. Khi về đến xã Nam Trung huyện Tiền Hải, là nơi toạ lạc của Đền thánh Đông Phú, người ta đốt hàng trăm quả pháo hoa và bắn hàng chục quả pháo giấy để chào mừng. Dòng người thuộc đủ các đoàn hội của Đông Phú và các giáo xứ lân cận đã sẵn sàng đón rước về nhà nguyện hai Thánh Thuần và Dũng.
Đức giám mục, một số linh mục, tu sĩ và giáo dân cũng theo Mình Thánh Chúa về Đông Phú để tham dự các giờ chầu thâu đêm ở đây, cho đến 7 giờ sáng ngày hôm sau (23-5), chính Đức cha Sang đã chủ tế Thánh lễ Tạ ơn cùng với 15 linh mục đồng tế và khoảng 3000 giáo dân tham dự tại nhà thờ giáo xứ Đền thánh Đông Phú.
Trong bài giảng của Đức cha Giáo phận, ngài lưu ý đến những ơn ích cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Đông Phú và ngài mời gọi mọi người năng đến chầu Mình Thánh Chúa để bày tỏ lòng biết ơn và tiếp tục lôi kéo ơn lành xuống cho Giáo phận, giáo xứ và mỗi cá nhân, gia đình.
Đức Cha còn thừa nhận rằng Đông Phú đã được nhiều người ở khắp mọi nơi trên Thế giới biết đến, là nơi thu hút mọi người đến thăm viếng không phân biệt tôn giáo, ranh giới và lãnh thổ. Ngài thông báo thêm rằng trong ngày gần đây Đông Phú sẽ đón chào Đức Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt của Hà Nội và hàng chục chủng sinh đến viếng thăm.
Cha xứ Giuse Nguyễn Thuân sau Thánh lễ đã bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã “ban hết ơn này hết ơn khác” trong một chuỗi “hồng ân nói tiếp hồng ân” cho giáo xứ Đền thánh Tử đạo Đông Phú qua Đức Cha Giáo phận và sự hiệp thông của các Cha, các Tu sĩ nam nữ và mọi thành phần dân Chúa. Cha Thuân hứa rằng sẽ cùng với cộng đoàn giáo xứ quyết tâm thực hiện những điều Đức Cha truyền dạy và ân ban để biến Đông Phú xứng đáng với danh hiệu Trung tâm Thánh Thể và Đền thánh Tử đạo của Giáo phận Thái Bình, cả sáng Danh Chúa và đem lại muôn vàn lợi ích thiêng liêng.
Ngoài việc tham dự Thánh lễ và cử hành các Bí Tích tại nhà thờ, giáo dân không chỉ trong giáo xứ Đông Phú, họ thay đổi nhau đến nhà nguyện hai Thánh tử đạo, nơi đặt Mặt nhật Mình Thánh Chúa để cho họ tôn thờ, đọc kinh, cầu nguyện và hát Thánh ca. Chưa kể nhiều phái đoàn đến từ các Giáo hạt trong Giáo phận tự tổ chức đi hành hương về Đền thánh để chầu Thánh Thể và viếng mộ hai Thánh tử đạo.
Đông Phú hiện có khoảng 1.300 giáo dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ hải sản. Về nơi đây, mọi người còn được cơ hội thăm bãi biển Đồng Châu và ngắm cảnh khu du lịch sinh thái Cồn Vành đang được Na Uy đầu tư để phát triển.
Được biết, Đông Phú còn có một thao thức nữa đó là việc chuyển đổi nhà đất cho một số gia đình nằm sát bên cạnh khuôn viên giáo xứ, để Đền thánh được vuông thành sắc cạnh và tạo thêm cảnh quan cho một Trung tâm cấp Giáo phận. Hiện nay giáo xứ đã có một khu đất phía đầu nhà thờ, chính quyền địa phương đã đồng thuận, các hộ dân cũng đã sẵn sàng, chỉ còn việc xúc tiến di dời các hộ dân khi có kinh phí thực hiện dự án này.
Một cuộc lễ và rước kiệu Thánh Thể hoành tráng và trang nghiêm chưa từng có từ khi Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang về làm giám mục Giáo phận Thái Bình năm 1992 cho đến nay. Thánh lễ Mình và Máu Chúa diễn ra vào buổi chiều ngày 22-5 tại nhà thờ Chính toà Thái Bình, do Đức cha Sang chủ tế cùng với 60 Linh mục và khoảng 5000 người tham dự.Những ngày trước đó, Đức Cha Sang đã gửi cộng đoàn dân Chúa Thái Bình một lá thư mục vụ nói về Lễ Thánh Tâm, quan thầy Giáo phận, cùng với những chỉ dẫn về việc tổ chức lễ Mình Máu Chúa và lễ Thánh Tâm cấp Giáo phận và cấp giáo xứ sao cho long trọng, sốt sáng, đem lại lợi ích thiêng liêng và làm sáng Danh Chúa.
Trong bài giảng lễ Mình Máu Thánh Chúa, Đức cha Sang diễn giải cho mọi người tin nhận rằng Chúa Giêsu hiện diện với Mình và Máu Chúa trong phép Thánh Thể khi còn hình Bánh và hình Rượu, nghĩa là hình thái vẫn còn được là Bánh và còn được là Rượu. “Để nhấn mạnh tới niềm tin đó, Giáo Hội truyền dạy sau lễ phải rước Mình và Máu Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi mọi nơi có thể đi được: trong làng, ngoài phố…”, đức cha nói.
Bài giảng lễ kết thúc với phần trao bài sai thuyên chuyển một số linh mục trong Giáo phận. Sau Thánh lễ, vị chủ chăn Giáo phận cung nghinh Mình Thánh Chúa trên xe hoa để đi ra ngoài phố Trần Hưng Đạo, vòng về sân Toà giám mục và đi xung quanh nhà thờ Chính toà, trong tiếng kèn, tiếng kinh và tiếng hát liên lỉ.
Đoàn người rước kiệu kéo dài khoảng 400 mét, bao gồm các Linh mục, Tu sĩ nam nữ, các đoàn hội của các giáo xứ và tất cả mọi người theo sau. Sau mỗi chặng đường cung nghinh Mình Thánh, mọi người đứng lại sấp mình thờ lạy Chúa Giêsu hiện diện trong hào quang mặt nhật, rồi Đức giám mục dương cao Mình Thánh để ban phúc lành cho dân chúng.
Khi trời đã về đêm, phép lành Thánh Thể được ban lần cuối tại tiền sảnh nhà thờ cho người tham dự và cư dân thành phố Thái Bình, liền lúc đó, Đức giám mục trao Mình Thánh Chúa cho các Linh mục và đoàn người đến từ giáo hạt Tiền Hải để rước về giáo xứ Đền thánh Tử đạo Đông Phú, đứng đầu là Cha quản hạt Giuse Mai Trần Nga và Cha xứ Đền thánh Đông Phú Giuse Nguyễn Thuân.
Đông Phú là quê hương của hai thánh tử đạo Thuần và Dũng, là một giáo họ lớn mới được tách ra từ giáo xứ Trung Đồng để nâng lên hàng giáo xứ ngày 4-8-2007. Trước đó, Đông Phú cũng đã được giáo quyền suy xét và nhìn nhận nên đã phong làm Đền thánh Tử đạo của Giáo phận từ ngày 6-6-2006. Đặc biệt hơn nữa, kể từ ngày 6-4-2008, nhân dịp tuần chầu đầu tiên thay mặt Giáo phận, tân giáo xứ Đền thánh Tử đạo Đông Phú lại được Đức cha Sang chọn làm Trung tâm chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm.
Đoạn đường dài khoảng trên 40 kilômét từ Nhà thờ Chính toà về Đông Phú, Mình Thánh Chúa đi qua những dãy phố, thị trấn, thôn làng, những công ty xí nghiệp, cả những xóm dân cư chưa hề có ai tin nhận Chúa và những cánh đồng đang đơm đòng trỗ bông. Khi về đến xã Nam Trung huyện Tiền Hải, là nơi toạ lạc của Đền thánh Đông Phú, người ta đốt hàng trăm quả pháo hoa và bắn hàng chục quả pháo giấy để chào mừng. Dòng người thuộc đủ các đoàn hội của Đông Phú và các giáo xứ lân cận đã sẵn sàng đón rước về nhà nguyện hai Thánh Thuần và Dũng.
Đức giám mục, một số linh mục, tu sĩ và giáo dân cũng theo Mình Thánh Chúa về Đông Phú để tham dự các giờ chầu thâu đêm ở đây, cho đến 7 giờ sáng ngày hôm sau (23-5), chính Đức cha Sang đã chủ tế Thánh lễ Tạ ơn cùng với 15 linh mục đồng tế và khoảng 3000 giáo dân tham dự tại nhà thờ giáo xứ Đền thánh Đông Phú.
Trong bài giảng của Đức cha Giáo phận, ngài lưu ý đến những ơn ích cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Đông Phú và ngài mời gọi mọi người năng đến chầu Mình Thánh Chúa để bày tỏ lòng biết ơn và tiếp tục lôi kéo ơn lành xuống cho Giáo phận, giáo xứ và mỗi cá nhân, gia đình.
Đức Cha còn thừa nhận rằng Đông Phú đã được nhiều người ở khắp mọi nơi trên Thế giới biết đến, là nơi thu hút mọi người đến thăm viếng không phân biệt tôn giáo, ranh giới và lãnh thổ. Ngài thông báo thêm rằng trong ngày gần đây Đông Phú sẽ đón chào Đức Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt của Hà Nội và hàng chục chủng sinh đến viếng thăm.
Cha xứ Giuse Nguyễn Thuân sau Thánh lễ đã bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã “ban hết ơn này hết ơn khác” trong một chuỗi “hồng ân nói tiếp hồng ân” cho giáo xứ Đền thánh Tử đạo Đông Phú qua Đức Cha Giáo phận và sự hiệp thông của các Cha, các Tu sĩ nam nữ và mọi thành phần dân Chúa. Cha Thuân hứa rằng sẽ cùng với cộng đoàn giáo xứ quyết tâm thực hiện những điều Đức Cha truyền dạy và ân ban để biến Đông Phú xứng đáng với danh hiệu Trung tâm Thánh Thể và Đền thánh Tử đạo của Giáo phận Thái Bình, cả sáng Danh Chúa và đem lại muôn vàn lợi ích thiêng liêng.
Ngoài việc tham dự Thánh lễ và cử hành các Bí Tích tại nhà thờ, giáo dân không chỉ trong giáo xứ Đông Phú, họ thay đổi nhau đến nhà nguyện hai Thánh tử đạo, nơi đặt Mặt nhật Mình Thánh Chúa để cho họ tôn thờ, đọc kinh, cầu nguyện và hát Thánh ca. Chưa kể nhiều phái đoàn đến từ các Giáo hạt trong Giáo phận tự tổ chức đi hành hương về Đền thánh để chầu Thánh Thể và viếng mộ hai Thánh tử đạo.
Đông Phú hiện có khoảng 1.300 giáo dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ hải sản. Về nơi đây, mọi người còn được cơ hội thăm bãi biển Đồng Châu và ngắm cảnh khu du lịch sinh thái Cồn Vành đang được Na Uy đầu tư để phát triển.
Được biết, Đông Phú còn có một thao thức nữa đó là việc chuyển đổi nhà đất cho một số gia đình nằm sát bên cạnh khuôn viên giáo xứ, để Đền thánh được vuông thành sắc cạnh và tạo thêm cảnh quan cho một Trung tâm cấp Giáo phận. Hiện nay giáo xứ đã có một khu đất phía đầu nhà thờ, chính quyền địa phương đã đồng thuận, các hộ dân cũng đã sẵn sàng, chỉ còn việc xúc tiến di dời các hộ dân khi có kinh phí thực hiện dự án này.
Giáo xứ Hòa Loan, giáo phận Bắc Ninh, hân hoan hướng về Ngày Lễ Tạ Ơn
Dom. Thành Công
13:59 23/05/2008
BẮC NINH - Giáo xứ Hoà Loan, giáo phận Bắc Ninh hân hoan hướng về ngày lễ tạ ơn Thiên Chúa, khánh thành và thánh hiến ngôi thánh đường mang tước hiệu: các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Với dòng thời gian, mảnh đất giáo xứ Hoà Loan đã chứng kiến và trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm thử thách. Hạt giống đức tin của cha ông đã vất vả gieo trồng, đã có những lúc tưởng chừng như bị vùi dập, mất đi vĩnh viễn. Nhưng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, ngày hứa hẹn một mùa màng bội thu cũng đang ló rạng. Ngược thời gian, chúng ta cùng điểm lại đôi nét về lịch sử một chặng đường gần hai thế kỷ qua của giáo họ nhà xứ Hoà Loan.
Giáo Xứ Hoà Loan toạ lạc trong khu vực Kinh Đô Phong Châu từ thời các Vua Hùng đến đời Lý Thái Tổ, miền đất này thuộc huyện Vĩnh Tường, nổi tiếng với quan phủ là chồng của thi sĩ nổi danh Hồ Xuân Hương, thuộc tỉnh Sơn Tây. Làng Hoà Loan cũng gần làng Thổ Tang, quê hương của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Nay Hoà Loan thuộc xã Lũng Hoà huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc.
Theo các cụ truyền kể: vào đầu thế kỷ 19 (khoảng năm 1820), mảnh đất Hoà Loan được đón nhật hạt giống Tin Mừng. Ban đầu có ba chi họ trên hai chục gia đình, gồm khoảng 100 nhân danh lãnh nhận phép Rửa Tội. Cụ Dương Văn Hương 83 tuổi kể lại: vào Thời vua Tự Đức, năm 1861 có Linh Mục Phêrô Thạc, sinh quán tại Xứ Hoà Loan chịu tử đạo nhưng nay chưa tìm được tư liệu về vị tử đạo này.
Vào khoảng năm 1881-1882, họ giáo Hoà Loan đã làm được 5 gian nhà nguyện bằng tre gỗ lợp tranh, số tín hữu dần dần được tăng lên. Đến đầu thế kỷ 20, giáo họ Hoà Loan đã có trên 60 hộ, với hơn 300 nhân danh.
Năm 1910, thời Đức cha Vê- las-cô Khâm làm Giám Mục Giáo Phận Bắc Ninh, Ngài đã thiết lập giáo Xứ Hoà Loan, với 4 họ đạo là Hoà Loan, Bồ Sao, Cửa Sông, Hương Nghĩa. Họ Hoà Loan được nâng lên làm nhà xứ. Đức Cha Giáo Phận đã bổ nhiệm Linh Mục Mac-ti-nô Thành về làm Cha chánh xứ tiên khởi, và cha phó xứ là Cha Định. Từ khi có cha xứ trực tiếp coi sóc và ở cùng, giáo dân đã được các ngài hướng dẫn, dạy dỗ cách sống đạo, giữ đạo, tăng trưởng về đức tin, luôn được dự thánh lễ và lĩnh thụ các Bí Tích Thánh.
Vào năm 1913 cha xứ Thành đã tổ chức xây dựng một nhà nguyện bằng tường gạch mái ngói, có chiều dài 12m rộng 6m với tổng bằng 72m. và một nhà giáo lý quy mô, diện tích 80m, có ngăn cách các phòng như phòng khách, phòng nghỉ, gọn gàng sạch đẹp.
Giáo xứ Hoà Loan đã vinh dự lần lượt được đón nhận các Cha xứ về coi sóc như sau: kế tiếp Cha Thành là cha già Lý, chánh xứ; cha Phêrô Tịch, phó Xứ; tiếp đến cha gìa Linh, chánh xứ; cha Nguyễn Quang Hiển là Phó xứ, tiếp là Cha già Tuấn, chánh xứ. Cha Đỗ Thành Nhân, phó xứ; rồi đến Cha già Thận, chánh xứ; cha Quyền là phó Xứ. Tiếp theo cha già Bích, chánh xứ; cha Ngô Văn Tố làm phó Xứ.
Vào năm 1941, Cha già Bích đã khởi công xây dựng ngôi Thánh Đường có chiều dài 41m, rộng 10m. Công trình đang xây dựng tường bao xung quanh cao trên 3m, tháp cao 5 đến 6m, thì vào năm 1943 do hoàn cảnh khó khăn phải tạm dừng. Đến năm 1948- 1949, đất nước lâm cảnh chiến tranh, cha già Bích tản cư lên xứ Văn Thạch, không về lại được, và Ngài đã qua đời tại xứ Văn Thạch, cha phó cũng di dời đi nơi khác. Năm 1950, Đức Cha cử cha Giuse Nguyễn Khắc Mẫn đến làm Cha chính xứ Hoà Loan.
Năm 1954 chiến tranh Việt - Pháp tạm dừng, đất nước chia hai miền Nam - Bắc. Một biến cố xảy ra: giáo dân các giáo phận Miền Bắc ùn ùn di cư vào Miền Nam. Giáo dân nhà xứ Hoà Loan cũng di cư vào Miền Nam quá nửa nhân danh. Cả cha xứ cũng theo Giáo dân vào Nam. Cảnh giáo xứ, gia đình, kẻ Bắc người Nam: tan đàn xẻ nghé, giáo xứ không chủ chiên, bơ vơ, vườn không nhà trống. Mãi cho đến Mùa Chay năm 1957, thời Đức Cha Phêrô Khuất Văn Tạo, Giám Mục Hải Phòng, Giám Quản Giáo Phận Bắc Ninh cử cha già Đa Minh Hoàng Nghĩa Châu, đến làm cha xứ Vĩnh Yên, và quản xứ Hoà Loan. Hàng năm, cha già lo cho giáo dân được lĩnh thụ các nhiệm tích, các ngày lễ trọng Cha đến dâng lễ, động viên an ủi giáo dân vững tin vào Thiên Chúa, tin tưởng thế nào cũng có ngày giáo xứ sẽ có chủ chăn. Đến Mùa Chay năm 1960, Đức Cha giáo phận lại chuyển đổi cha già Châu đi nơi khác, giáo xứ lại trở nên trống vắng. Kể từ Mùa Chay năm 1960 Cho đến mùa Chay năm 1994: 34 năm nhà xứ Hoà Loan không có một linh mục nào đến dâng lễ nữa. Giáo dân muốn dự lễ và lĩnh thụ các nhiệm tích phải đi bộ 30 km về xứ Trung Xuân, lúc đó là Cha Micae Lê Bá Cầm. Cuối năm 1962 Cha già Cầm qua đời. Từ đây, giáo Xứ Hoà Loan muốn đi dự lễ hoặc lĩnh thụ các nhiệm tích lại phải về giáo xứ Yên Mỹ, cách xa trên 40 km nhờ cậy Cha già Giuse Nguyễn Hữu Tất. Tháng 4 năm 1971, cha già Tất qua đời, cả tỉnh Vĩnh Phúc gồm 12 xứ đạo, trên 30 ngàn giáo dân mà không có bóng một linh mục nào coi sóc.
Trong suốt 34 năm; hơn một phần ba thế kỷ, giáo xứ Hoà Loan có nhiều cụ già khi sắp lìa đời không được lãnh các nhiệm tích sau hết, các trẻ em không được học hỏi Giáo Lý, đến tuổi khôn lớn không hiểu biết gì về đạo. Nơi duy nhất có linh mục đó là: Toà Giám Mục Bắc Ninh cách Hoà Loan hơn 100 km. Đời sống kinh tế thì thiếu thốn, đói nghèo, không tiền tàu xe, phương tiện khác không có, nên có nhiều người độ tuổi: từ 25 đến 30 năm không biết Thánh Lễ là gì, không được lĩnh thụ các nhiệm tích, đức tin như tàn lụi. Mùa Chay năm 1994, Đức Cha Giuse Nguyễn QUang Tuyến cử cha Giuse Trần Quang Vinh về làm quản hạt giáo hạt Vĩnh Phúc, tới năm 1998 chuyển giao cho Cha Giuse Bùi Xuân Bính. Với 12 Giáo Xứ, gần một trăm họ đạo trên 30 ngàn Giáo dân, một gánh nặng quá sức cho một linh mục. Kể từ Mùa Chay năm 1994 cho đến Mùa Chay năm 2005, giáo họ Hoà Loan có các Cha đến dâng lễ mỗi năm một lần, ban các nhiệm tích cho Giáo dân.
Trải qua năm tháng dài chiến tranh, cộng thêm thiên tai mưa bão, thời tiết khắc nghiệt, ngôi nhà nguyện xuống cấp trầm trọng, sửa đi sửa lại nhiều lần. Dân họ ít người, từ cụ già bạc đầu đến em bé bồng trên tay tổng số có trên 100 người, đời sống kinh tế quá khó khăn, thiếu thốn.
Ngày 9 tháng 10 năm 2005, Cha xứ mới là Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Huy Liệu về trực tiếp coi sóc các xứ: Dân Trù- Trung Xuân và Hoà Loan. Kể từ đó, các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng luôn luôn có Thánh Lễ, các bí tích được ban thường xuyên hơn khi co nhu cầu.
Cùng chung nỗi băn khoăn, trăn trở với Đức Cha Cố Giuse Nguyễn Quang Tuyến, cha xứ Phanxicô Xaviê đã bắt tay xây dựng nhà thờ. Ngài đã cầu nguyện, kêu gọi, khích lệ tinh thần giáo dân, thế là cả giáo xứ đồng tâm nhất trí với nhau, mọi thành phần dân Chúa trong 10 họ đạo của xứ cùng chung sức chung lòng, đóng góp tinh thần cũng như vật chất, đồng thời kêu gọi quí ân nhân, quí vị hảo tâm trong nước cũng như Hải Ngoại, đã tận tâm giúp đỡ bằng lời cầu nguyện, bằng tài chính, vật chất để giáo họ Hoà Loan có được ngôi Thánh Đường khang trang này. Tuy nhỏ bé so với các nơi khác, nhưng cũng tin rằng ngôi thánh đường mới này sẽ là nơi xứng đáng làm đền Thờ để Chúa ngự, và dâng Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Ngoài ra, ngôi thánh đường còn là một biểu tượng của niềm tin lớn mạnh, của giáo dân giáo xứ Hoà Loan sau bao nhiêu thử thách mà vẫn kiên cường đứng vững. Ngôi thánh đường theo chúng tôi được biết, nó còn là một biểu tượng của sự đoàn kết, hợp nhất, yêu thương giữa những người Công Giáo cũng như những bà con tôn giáo bạn.
Ước mong sao, Ngôi thánh đường mang danh hiệu: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam sẽ nhờ lời cầu bầu của các ngài, để mãi mãi sẽ là biểu tượng của niềm tin thuỷ chung, son sắt, kiên định và hiệp nhất trong yêu thương trên mảnh đất tái truyền giáo này.
Với dòng thời gian, mảnh đất giáo xứ Hoà Loan đã chứng kiến và trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm thử thách. Hạt giống đức tin của cha ông đã vất vả gieo trồng, đã có những lúc tưởng chừng như bị vùi dập, mất đi vĩnh viễn. Nhưng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, ngày hứa hẹn một mùa màng bội thu cũng đang ló rạng. Ngược thời gian, chúng ta cùng điểm lại đôi nét về lịch sử một chặng đường gần hai thế kỷ qua của giáo họ nhà xứ Hoà Loan.
Giáo Xứ Hoà Loan toạ lạc trong khu vực Kinh Đô Phong Châu từ thời các Vua Hùng đến đời Lý Thái Tổ, miền đất này thuộc huyện Vĩnh Tường, nổi tiếng với quan phủ là chồng của thi sĩ nổi danh Hồ Xuân Hương, thuộc tỉnh Sơn Tây. Làng Hoà Loan cũng gần làng Thổ Tang, quê hương của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Nay Hoà Loan thuộc xã Lũng Hoà huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc.
Theo các cụ truyền kể: vào đầu thế kỷ 19 (khoảng năm 1820), mảnh đất Hoà Loan được đón nhật hạt giống Tin Mừng. Ban đầu có ba chi họ trên hai chục gia đình, gồm khoảng 100 nhân danh lãnh nhận phép Rửa Tội. Cụ Dương Văn Hương 83 tuổi kể lại: vào Thời vua Tự Đức, năm 1861 có Linh Mục Phêrô Thạc, sinh quán tại Xứ Hoà Loan chịu tử đạo nhưng nay chưa tìm được tư liệu về vị tử đạo này.
Vào khoảng năm 1881-1882, họ giáo Hoà Loan đã làm được 5 gian nhà nguyện bằng tre gỗ lợp tranh, số tín hữu dần dần được tăng lên. Đến đầu thế kỷ 20, giáo họ Hoà Loan đã có trên 60 hộ, với hơn 300 nhân danh.
Năm 1910, thời Đức cha Vê- las-cô Khâm làm Giám Mục Giáo Phận Bắc Ninh, Ngài đã thiết lập giáo Xứ Hoà Loan, với 4 họ đạo là Hoà Loan, Bồ Sao, Cửa Sông, Hương Nghĩa. Họ Hoà Loan được nâng lên làm nhà xứ. Đức Cha Giáo Phận đã bổ nhiệm Linh Mục Mac-ti-nô Thành về làm Cha chánh xứ tiên khởi, và cha phó xứ là Cha Định. Từ khi có cha xứ trực tiếp coi sóc và ở cùng, giáo dân đã được các ngài hướng dẫn, dạy dỗ cách sống đạo, giữ đạo, tăng trưởng về đức tin, luôn được dự thánh lễ và lĩnh thụ các Bí Tích Thánh.
Vào năm 1913 cha xứ Thành đã tổ chức xây dựng một nhà nguyện bằng tường gạch mái ngói, có chiều dài 12m rộng 6m với tổng bằng 72m. và một nhà giáo lý quy mô, diện tích 80m, có ngăn cách các phòng như phòng khách, phòng nghỉ, gọn gàng sạch đẹp.
Giáo xứ Hoà Loan đã vinh dự lần lượt được đón nhận các Cha xứ về coi sóc như sau: kế tiếp Cha Thành là cha già Lý, chánh xứ; cha Phêrô Tịch, phó Xứ; tiếp đến cha gìa Linh, chánh xứ; cha Nguyễn Quang Hiển là Phó xứ, tiếp là Cha già Tuấn, chánh xứ. Cha Đỗ Thành Nhân, phó xứ; rồi đến Cha già Thận, chánh xứ; cha Quyền là phó Xứ. Tiếp theo cha già Bích, chánh xứ; cha Ngô Văn Tố làm phó Xứ.
Vào năm 1941, Cha già Bích đã khởi công xây dựng ngôi Thánh Đường có chiều dài 41m, rộng 10m. Công trình đang xây dựng tường bao xung quanh cao trên 3m, tháp cao 5 đến 6m, thì vào năm 1943 do hoàn cảnh khó khăn phải tạm dừng. Đến năm 1948- 1949, đất nước lâm cảnh chiến tranh, cha già Bích tản cư lên xứ Văn Thạch, không về lại được, và Ngài đã qua đời tại xứ Văn Thạch, cha phó cũng di dời đi nơi khác. Năm 1950, Đức Cha cử cha Giuse Nguyễn Khắc Mẫn đến làm Cha chính xứ Hoà Loan.
Năm 1954 chiến tranh Việt - Pháp tạm dừng, đất nước chia hai miền Nam - Bắc. Một biến cố xảy ra: giáo dân các giáo phận Miền Bắc ùn ùn di cư vào Miền Nam. Giáo dân nhà xứ Hoà Loan cũng di cư vào Miền Nam quá nửa nhân danh. Cả cha xứ cũng theo Giáo dân vào Nam. Cảnh giáo xứ, gia đình, kẻ Bắc người Nam: tan đàn xẻ nghé, giáo xứ không chủ chiên, bơ vơ, vườn không nhà trống. Mãi cho đến Mùa Chay năm 1957, thời Đức Cha Phêrô Khuất Văn Tạo, Giám Mục Hải Phòng, Giám Quản Giáo Phận Bắc Ninh cử cha già Đa Minh Hoàng Nghĩa Châu, đến làm cha xứ Vĩnh Yên, và quản xứ Hoà Loan. Hàng năm, cha già lo cho giáo dân được lĩnh thụ các nhiệm tích, các ngày lễ trọng Cha đến dâng lễ, động viên an ủi giáo dân vững tin vào Thiên Chúa, tin tưởng thế nào cũng có ngày giáo xứ sẽ có chủ chăn. Đến Mùa Chay năm 1960, Đức Cha giáo phận lại chuyển đổi cha già Châu đi nơi khác, giáo xứ lại trở nên trống vắng. Kể từ Mùa Chay năm 1960 Cho đến mùa Chay năm 1994: 34 năm nhà xứ Hoà Loan không có một linh mục nào đến dâng lễ nữa. Giáo dân muốn dự lễ và lĩnh thụ các nhiệm tích phải đi bộ 30 km về xứ Trung Xuân, lúc đó là Cha Micae Lê Bá Cầm. Cuối năm 1962 Cha già Cầm qua đời. Từ đây, giáo Xứ Hoà Loan muốn đi dự lễ hoặc lĩnh thụ các nhiệm tích lại phải về giáo xứ Yên Mỹ, cách xa trên 40 km nhờ cậy Cha già Giuse Nguyễn Hữu Tất. Tháng 4 năm 1971, cha già Tất qua đời, cả tỉnh Vĩnh Phúc gồm 12 xứ đạo, trên 30 ngàn giáo dân mà không có bóng một linh mục nào coi sóc.
Trong suốt 34 năm; hơn một phần ba thế kỷ, giáo xứ Hoà Loan có nhiều cụ già khi sắp lìa đời không được lãnh các nhiệm tích sau hết, các trẻ em không được học hỏi Giáo Lý, đến tuổi khôn lớn không hiểu biết gì về đạo. Nơi duy nhất có linh mục đó là: Toà Giám Mục Bắc Ninh cách Hoà Loan hơn 100 km. Đời sống kinh tế thì thiếu thốn, đói nghèo, không tiền tàu xe, phương tiện khác không có, nên có nhiều người độ tuổi: từ 25 đến 30 năm không biết Thánh Lễ là gì, không được lĩnh thụ các nhiệm tích, đức tin như tàn lụi. Mùa Chay năm 1994, Đức Cha Giuse Nguyễn QUang Tuyến cử cha Giuse Trần Quang Vinh về làm quản hạt giáo hạt Vĩnh Phúc, tới năm 1998 chuyển giao cho Cha Giuse Bùi Xuân Bính. Với 12 Giáo Xứ, gần một trăm họ đạo trên 30 ngàn Giáo dân, một gánh nặng quá sức cho một linh mục. Kể từ Mùa Chay năm 1994 cho đến Mùa Chay năm 2005, giáo họ Hoà Loan có các Cha đến dâng lễ mỗi năm một lần, ban các nhiệm tích cho Giáo dân.
Trải qua năm tháng dài chiến tranh, cộng thêm thiên tai mưa bão, thời tiết khắc nghiệt, ngôi nhà nguyện xuống cấp trầm trọng, sửa đi sửa lại nhiều lần. Dân họ ít người, từ cụ già bạc đầu đến em bé bồng trên tay tổng số có trên 100 người, đời sống kinh tế quá khó khăn, thiếu thốn.
Ngày 9 tháng 10 năm 2005, Cha xứ mới là Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Huy Liệu về trực tiếp coi sóc các xứ: Dân Trù- Trung Xuân và Hoà Loan. Kể từ đó, các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng luôn luôn có Thánh Lễ, các bí tích được ban thường xuyên hơn khi co nhu cầu.
Cùng chung nỗi băn khoăn, trăn trở với Đức Cha Cố Giuse Nguyễn Quang Tuyến, cha xứ Phanxicô Xaviê đã bắt tay xây dựng nhà thờ. Ngài đã cầu nguyện, kêu gọi, khích lệ tinh thần giáo dân, thế là cả giáo xứ đồng tâm nhất trí với nhau, mọi thành phần dân Chúa trong 10 họ đạo của xứ cùng chung sức chung lòng, đóng góp tinh thần cũng như vật chất, đồng thời kêu gọi quí ân nhân, quí vị hảo tâm trong nước cũng như Hải Ngoại, đã tận tâm giúp đỡ bằng lời cầu nguyện, bằng tài chính, vật chất để giáo họ Hoà Loan có được ngôi Thánh Đường khang trang này. Tuy nhỏ bé so với các nơi khác, nhưng cũng tin rằng ngôi thánh đường mới này sẽ là nơi xứng đáng làm đền Thờ để Chúa ngự, và dâng Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Ngoài ra, ngôi thánh đường còn là một biểu tượng của niềm tin lớn mạnh, của giáo dân giáo xứ Hoà Loan sau bao nhiêu thử thách mà vẫn kiên cường đứng vững. Ngôi thánh đường theo chúng tôi được biết, nó còn là một biểu tượng của sự đoàn kết, hợp nhất, yêu thương giữa những người Công Giáo cũng như những bà con tôn giáo bạn.
Ước mong sao, Ngôi thánh đường mang danh hiệu: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam sẽ nhờ lời cầu bầu của các ngài, để mãi mãi sẽ là biểu tượng của niềm tin thuỷ chung, son sắt, kiên định và hiệp nhất trong yêu thương trên mảnh đất tái truyền giáo này.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hôn Nhân, Đức Tin Và Tình Yêu (4)
Vũ Văn An
03:33 23/05/2008
Hôn Nhân, Đức Tin Và Tình Yêu (4)
CHƯƠNG BA: THỰC TẠI TÂM LÝ
Trong chương trước, khung cảnh xã hội của hôn nhân hiện đại đã được trình bày khái quát và một điểm được nhấn mạnh là các thay đổi khác nhau đã khiến cho liên hệ vợ chồng trở nên thân mật nhiều hơn, khiến họ đem vào mối liên hệ cái phần bản ngã sâu sắc hơn của mình. Nhưng cái phần sâu sắc hơn của bản ngã ấy là gì ?
Trong các cuộc hôn nhân ở các xã hội Phương Tây hiện nay, ta thấy có mối liên hệ giao ước giữa chồng và vợ, trong đó cảm quan, xúc cảm và bản năng tạo thành một cái khung chính cho các tham chiếu và hoài mong căn bản. Người ta không còn coi là đủ nữa khi người chồng chỉ đóng vai kiếm kế sinh nhai và làm chủ gia đình, và người vợ thì đóng vai sinh sản con cái và trông nom việc gia đình, còn tình cảm chỉ đóng vai trò phụ thuộc với giòng đời trôi qua. Trái lại ngày nay, ngay từ thuở đầu, đã có sự tương hành của tình cảm và tính dục, được hai vợ chồng biểu lộ dựa trên những kinh nghiệm học hỏi được từ gia đình, đặc biệt từ cha mẹ hai bên. Liên hệ cha mẹ và con cái với những đóng góp đáng kể của thân nhân đã tạo nên mối liên hệ thân mật đầu tiên giúp vợ/chồng có được những trang bị cần thiết cho các liên hệ thân mật sẽ có sau này, trong đó liên hệ hôn nhân là liên hệ quan trọng thứ hai trong cuộc sống của vợ chồng.
Ðối với 90 đến 95% các cặp vợ chồng, thì cuộc đời bao giờ cũng là vở kịch hai màn. Màn một là kinh nghiệm giữa đứa trẻ và các thành viên quan trọng của gia đình, và màn hai là sự lập lại và phát triển thêm kinh nghiệm đó trong liên hệ vợ chồng. Lý do vì bất cứ khi nào ta giáp mặt với một liên hệ thân mật tình cảm, ta đều lập tức sử dụng đến những kinh nghiệm đã học được trong hai mươi năm đầu tiên trong đời. Thời trước, những đáp ứng tình cảm luôn luôn giữ vai trò phụ thuộc đối với các yếu tố xã hội. Ngày nay thì ngược lại, chúng giữ vai trò chủ yếu trong mối liên hệ ngay từ buổi đầu. Chính trong thực tế ấy mà ta gặp một trong những nguy hiểm chính của hôn nhân hiện đại, và việc thiếu hiểu biết về tâm lý học cũng như chuẩn bị thích đáng về phương diện này hiện là một trong những lý do chính đưa tới thất bại và cay đắng trong hôn nhân. Sự tương hành về xã hội và tâm lý đã tiến tới trình độ khiến cho sự chuẩn bị cũng như trợ giúp của xã hội hiện dành cho hôn nhân trở thành thiếu sót.
ÐÓNG GÓP TÂM LÝ - YẾU TỐ SINH HỌC
Có hai thành tố chính góp phần vào việc tăng trưởng nhân cách ta. Nói một cách tổng quát, thành tố thứ nhất chính là yếu tố sinh học (biological). Lúc thụ thai, hai đơn vị di truyền (genes) của cha và mẹ kết hợp với nhau và quyết định việc ra đời của con cái. Nhưng các đơn vị di truyền không phải là yếu tố duy nhất có tính quyết định. Trong giai đoạn bào thai, đứa trẻ có thể chịu ảnh hưởng những yếu tố tác hại, như sự nhiễm trùng của người mẹ phát sinh bệnh ban đỏ chẳng hạn, hoặc những hậu quả trầm trọng hơn liên quan đến các thứ thuốc như Thalidomide.
Các nghiên cứu trong lãnh vực di truyền học cho thấy những đặc điểm như lo âu (1), tính khí thất thường (2), thích sống cô độc và các đặc điểm phân tâm loạn trí (schizoid) (3) một phần được quyết định bởi các ảnh hưởng di truyền nhận được từ cha mẹ. Ðiều này có nghĩa là những người thừa hưởng các đặc điểm trên có thể để lộ chúng ra trong thời niên thiếu cũng như nhiều năm sau. Vì các đặc điểm trên ảnh hưởng nhiều đến hành động giữa chồng và vợ, nên sự hiện diện của chúng có một hiệu quả mạnh đối với mối liên hệ của họ. Sự góp phần của yếu tố sinh học này được gọi là yếu tố tự nhiên; trái với nó là yếu tố dưỡng dục tức các kinh nghiệm đứa trẻ học được trong khung cảnh gia đình.
Cuộc tranh luận về phần đóng góp chính xác của hai yếu tố này vào nhân cách người trưởng thành hiện vẫn đang tiếp diễn, với một bên là các nhà phân tâm học và tâm lý học có khuynh hướng sinh học chủ trương rằng yếu tố thể lý đóng góp nhiều hơn, và bên kia là các nhà phân tâm học và tâm lý học nghiêng về năng động học (dynamic) chủ trương rằng môi trường nhân bản và các ảnh hưởng của gia đình góp phần quan trọng hơn. Không có chủ trương nào làm tất cả mọi người hài lòng. Có điều chắc là cả hai yếu tố đó cùng đều đóng góp đáng kể.
ÐÓNG GÓP TÂM LÝ - YẾU TỐ NĂNG ÐỘNG
NĂM ÐẦU TIÊN:
Từ lúc sinh ra đời, đứa trẻ chịu ảnh hưởng các tác động hỗ tương của cả cha lẫn mẹ. Tác động hỗ tương này có tính năng động học, theo nghĩa, nó được diễn tiến kèm theo cảm quan là thứ luôn luôn ở trạng thái thay đổi. Các cảm quan này xác định ra phẩm chất của tình thân mật giữa đứa trẻ và cha mẹ cũng như các khuôn mặt quan trọng khác như anh chị, thân nhân, các thày giáo và bạn bè.
Các cảm quan ấy sẽ được diễn dịch thành những mẫu mực xúc cảm nhất định mà đứa trẻ sẽ lĩnh hội được trong diễn trình lớn lên. Như Erickson đã nói: cái mà nó lãnh hội là "sự cảm thức vễ" những gì xẽ được xây vào hoặc sẽ bị đào thải đi trong những năm sau này (4).
Trong năm đầu tiên, đứa trẻ được bế, được chơi với, được bú vú mẹ, và thường được mẹ, cha hoặc một người thay thế ôm ấp vỗ về. Từ những kinh nghiệm sớm sủa ấy, đứa trẻ lãnh hội được cái cảm nhận căn bản về sự tin tưởng trong việc gần gũi tuyệt đối về thể lý (5). Sự nên một do gần gũi này làm đứa trẻ có được sự hợp nhất có tính cộng sinh (symbiotic union) qua đó nó cảm thấy là một với mẹ. Tùy theo phẩm chất của sự hợp nhất đó, mà sau này, trong diễn biến của cuộc sống, đứa trẻ sẽ nhớ lại sự gần gũi thể lý ấy như là một cảm nhận của lòng tín nhiệm, hoặc ngược lại, như một cảm nhận của sự bất tín nhiệm. Ðiều này rất quan trọng trong sinh hoạt dục tính, thể hiện qua sự kết hợp giữa hai thể xác, trong đó cảm quan tin tưởng và an ổn không thể thiếu được. Có những trường hợp trong đó nhiều người đàn ông cũng như đàn bà nói rằng họ không chịu được sự gần gũi giữa hai thân xác, ngại bị đụng tới, chứ đừng nói chi đến việc làm tình. Thành thử cái cảm quan về sự an ổn thể lý, vốn đi kèm với bất cứ giao tiếp yêu đương nào, có thể trở thành cơn mộng hãi hùng khiến cho sự gần gũi không sao thực hiện được.
Trong khi ấy, lòng tin tưởng tiếp tục phát triển: đứa trẻ hoặc được bú sữa mẹ, bú sữa bình hoặc được cai sữa trong năm thứ nhất. Hoạt động này tập trung ở miệng và đó là "giai đoạn miệng", theo quan điểm của Freud. Miệng, môi, lưỡi, tất cả đều tham dự vào hoạt động nuốt và nhai. Ðặc tính mềm của môi và phía bên trong của miệng làm phát sinh một cảm giác khoan khoái, mà theo Freud, đó là vùng gợi dục đầu tiên trong biến hóa của dục năng (libido)(6). Cho bú mang lại sự thoả mãn liên tiếp cho miệng, nhưng miệng cũng là chỗ để hôn hít và các hoạt động tính dục khác. Một lần nữa, cần có cảm nhận tin tưởng giúp hai con người có thể tới với nhau và thông đạt qua miệng.
Freud, Erickson và Bowlby đều là những lý thuyết gia chính chủ trương tâm động học. Các công trình nghiên cứu của Bowlby tương đối gần đây, mới chỉ khoảng 50 năm qua, nhưng rất quan trọng để hiểu các mối liên hệ nhân bản. Ðối với Freud, sợi dây liên kết giữa mẹ với con trong năm thứ nhất là liên hệ qua miệng. Ðứa trẻ chú ý đến mẹ vì mẹ luôn luôn thỏa mãn các nhu cầu ăn uống của nó. Sợi dây liên kết mẹ và con được giả định dựa trên sự trao đổi ấy. Bowlby không đồng ý như vậy. Ông cho rằng sự gắn bó của đứa trẻ vào mẹ dựa trên sự tiếp xúc rộng hơn thế nhờ các mạch chuyển có tính bản năng của xúc giác, thị giác và thính giác. Ðứa trẻ nhận ra và gắn bó với mẹ vào tháng thứ tư, khi nó nhận ra bà bằng thị giác, quen thuộc với giọng nói của bà và hơn hết với sự mơn trớn của bà. Bowlby viết ba cuốn sách về đề tài này (7) và một cuốn nhỏ hơn tóm tắt các ý tưởng của ông (8). Như thế sợi dây tình cảm hoặc sự gắn bó yêu thương đã bắt đầu có ở sáu tháng đầu đời và tiếp tục suốt thời thơ ấu. Khởi đầu, sự gắn bó này rất thân mật và gần gũi. Ðứa trẻ, lúc đó đang tập bò, tập đi, vẫn không ở quá xa mẹ. Mẹ là trung tâm thể lý và xúc cảm của đời nó và nó luôn luôn chạy lại với mẹ mỗi khi có gì đe dọa hoặc làm nó lo lắng ở khu vực chung quanh. Những người lạ, các con vật, tiếng động, nước là một vài yếu tố quấy rối khiến đứa trẻ vội chạy lại với mẹ để tìm sự an ổn. Sự gắn bó này là sợi dây liên kết yêu thương trong đó sự lo âu và sự an ổn đóng một vai trò then chốt. Sự khởi đầu của yêu thương chính là cảm nhận an ổn vì có sự gần gũi thể lý và, như Erickson đã cho thấy, sự an ổn này mang theo đặc tính tin tưởng.
Tất cả những điều xẩy ra trong năm đầu tiên như trên sẽ tiếp tục trong suốt cuộc đời. Các tình bạn và các liên hệ thân mật sau này của ta đều là những dây liên kết tình cảm gắn bó. Bất cứ nơi nào sợi dây liên kết đó mạnh mẽ, hôn nhân là một, thì người bạn của ta luôn mang đến một cảm quan an ổn và tin tưởng, và ta sẽ hướng về họ để tìm được an tâm và nâng đỡ.
NĂM THỨ HAI VÀ NĂM THỨ BA
Năm thứ nhất là thời của thân mật thể lý trong đó nền tảng của tin tưởng, của an toàn và gắn bó được xây dựng. Nhưng khi đứa trẻ lớn lên, nó sẽ dần dị biệt hóa bản thân nó với mẹ. Erickson gọi thời gian này là giai đoạn "cảm nhận về tự chủ mà chưa mất tự hào"(9).
Trong hai năm này, đứa trẻ đi qua giai đoạn đầu của tự chủ. Ðây là lúc nó cảm thấy nhu cầu phải làm lấy mọi chuyện. Nó muốn đút ăn lấy, học cách tự mặc lấy quần áo, tự chạy đi đây đi đó, và làm việc này việc nọ. Nó thực hiện việc đó một cách dò chừng, hễ sai thì làm lại, với sự giúp đỡ tích cực của mẹ. Có lúc được mẹ khen nức nở vì làm khéo, nhưng đôi khi cũng bị mẹ vì sốt ruột rày la là kém cỏi và bị mẹ làm thế, do đó vô tình mẹ làm nó buồn tủi vì cảm thấy mình không làm gì nên trò.
Có lẽ kinh nghiệm tự chủ đặc biệt nhất là khả năng kiểm soát việc đại tiện. Trong việc huấn luyện đi vệ sinh này, nhiều biểu lộ xúc cảm đã xảy ra. Ðương nhiên, mẹ bao giờ cũng muốn con mình được huấn luyện về chuyện đi cầu càng sớm càng tốt. Tuy nhiên điều quan trọng là đứa trẻ cần cảm nhận là nó làm chủ được cơ thể nó, không phải vì sợ hoặc để vui lòng mẹ, cho bằng vì nó được tự do làm việc ấy. Với cha mẹ hiểu biết, thì điều này là điều tốt và vì thế việc huấn luyện đi cầu trở thành một phần thành công của giai đoạn tự lập.
Freud chú tâm đến diễn trình điều khiển việc đi cầu. Ông ta gọi giai đoạn này là giai đoạn hậu môn (anal phase). Ðứa trẻ học cách giữ lại hoặc tống khứ cái nó cảm nhận như là thế giới bên trong của nó. Ðiều ấy làm đứa trẻ cảm thấy trong tay nó một sức mạnh lớn lao, và đôi khi, giai đoạn này cũng là thời gian của nhiều sáo trộn. Ðây là những năm có những dấu hiệu rõ rệt của tính gây hấn. Việc kềm chế chất bài tiết có thể là một hành vi gây nổi loạn, nhưng việc không vâng lời mẹ một cách tổng quát có thể là dấu hiệu đầu tiên của độc lập. Nếu độc lập ấy bị trừng phạt, thì đứa trẻ có thể cảm nhận lần đầu tiên sự tương phản ý nghĩa trong cùng một sự kiện (ambivalence), tức là nó có thể sẽ yêu và ghét cùng một con người. Lúc thì mẹ là nguồn của mọi điều tốt đẹp, lúc mẹ lại giận dữ, la hét và có thể phét đít nó. Khả năng di động từ yêu thương qua giận dữ, ghét bỏ, hối hận, tha thứ và rồi lại trở lại với yêu thương là một chu trình quen thuộc mà đứa trẻ sẽ nhận xét thấy trong giai đoạn này, dù một số nhà phân tâm học như Melanie Klein cho rằng chu trình đó xẩy ra sớm hơn. Với tự chủ và giai đoạn hậu môn, ta thấy có hiện tượng lưỡng gía trị (ambivalence) đã bàn ở trên. Freud cũng nhấn mạnh rằng hậu môn, giống như môi và miệng, có một lớp da mịn, tạo ra một khu vực khoái cảm. Việc đi cầu có thể là việc gây khoái và, như người ta thấy, hậu môn đã được một số người sử dụng cho mục đích tính dục. Thành ra hiện tượng sinh dục trẻ thơ này cũng sẽ có vang dội trong thời trưởng thành.
Một phần của tự lập là việc đứa trẻ dần dần tách rời mẹ về phương diện thể lý. Việc tách rời này là một vấn đề tế nhị và cần được xảy ra từ từ. Dần dà đứa trẻ có thể đương đầu được với sự đơn độc thể lý mà không cảm thấy hoảng hốt vì cô lập và lẻ loi. Khoảng năm thứ ba, nó có thể sống xa mẹ mấy tiếng đồng hồ để đi tới vườn trẻ hoặc các nhóm chơi đùa. Giờ đây nó sẵn sàng không chú ý đến sự có mặt về thể lý của mẹ, vì nó đã an ổn ghi vào ký ức sự hiện diện của bà, và điều ấy mang lại cho nó thời gian an ổn đầu tiên phải sống xa mẹ. Thời gian sống xa mẹ sẽ dần dần được kéo dài hơn trong suốt thời thơ ấu, và đứa trẻ sẽ phát triển được thế quân bình giữa sự gần gũi và sự xa cách. Thế quân bình này cần thiết trong bất cứ liên hệ thân mật nào, đặc biệt là liên hệ hôn nhân. Quá nhiều gần gũi chứng tỏ sự lệ thuộc có tính trẻ thơ, nhưng ít gần gũi quá lại cho thấy tình thân mật không có chi bảo đảm an toàn.
Khả năng trở nên tự lập một phần, tức là tách rời khỏi mẹ mà vẫn an tâm về sự tách rời ấy, là một bước rất quan trọng trong diễn trình tạo được lòng tự hào (self-esteem) và cảm thức tự chủ. Theo Erickson (10), nét đối nghịch chính là cảm thức hoài nghi và xấu hổ. Trong cuộc sống trưởng thành, nhiều người sẽ ray rứt vì thiếu lòng tự hào khiến họ cảm thấy bất lực không tự làm được việc gì; và do đó dễ dàng rơi vào chỗ tự hoài nghi chính mình và cảm thấy xấu hổ về sự thiếu sót của mình khi thất bại. Trong hôn nhân, những người phối ngẫu nào nặng nề với những khó khăn xúc cảm loại này rất dễ là mồi cho nhau chỉ trích, và do đó, mối liên hệ của họ có thể trở thành một chuỗi liên tục những kết tội lẫn nhau.
NĂM THỨ TƯ VÀ NĂM THỨ NĂM:
Theo Erickson (10), trong năm thứ tư và năm thứ năm, đứa trẻ phát triển được cảm thức tạo sáng kiến. Cảm thức này được biểu lộ qua hiện tượng xâm nhập (intrusion): xâm nhập vào không gian bằng chuyển động mạnh bạo, vào những cái lạ lẫm bằng cách khám phá tò mò, vào người khác bằng giọng nói gây hấn, xâm nhập bằng tấn công thể lý và nỗi sợ của vật đực đi vào vật thể nữ.
Giai đoạn sáng kiến này có thể gây nên hỗn loạn trong gia đình vì đứa trẻ la hét, nhào lộn, leo trèo, làm gián đoạn cuộc nói truyện. Ở nhiều trường hợp, hiện tượng đó kéo dài đến lúc trưởng thành, người ta tiếp tục coi người khác như những đối vật để họ thăm dò khám phá và xâm nhập, để họ chơi đùa với mà không cần phải chú ý tới các ý muốn của những người này. Khi họ khám phá ra sự vô tâm của họ, họ có thể cảm thấy hối hận, nhưng vì không phát triển được cái nhìn xâu sắc nào, nên chẳng chóng thì chầy, họ lại trở về với cái tính trẻ con nông cạn của mình. Tất nhiên điều đó khác với trẻ em. Với trẻ em, thì ngưòi ta còn châm chước được, chứ người lớn mà hành động như thế thì quả là người chưa trưởng thành.
Các đặc điểm ngược lại với hiện tượng tìm tòi tích cực này là cảm thức thụ động, và hôn nhân giữa những người thụ động và những người hoạt bát và ưa thống trị vẫn thường xảy ra. Sự thụ động có thể được châm chước một thời gian, nhưng sau ít năm, nó sẽ bị thù ghét, vì người phối ngẫu kia có cố gắng bao nhiêu cũng không thể tạo được một chút hứng thú nào hoặc một chút hành động nào nơi họ.
Tình huống xâm nhập cũng bao gồm việc đụng chạm đến dương vật. Và ở đây, Erickson, một đồ đệ của Freud, chỉ lập lại luận đề cổ điển của thày, đó là mặc cảm Oedipe ba chiều: đứa trẻ trai bị mẹ lôi cuốn về phương diện tính dục, muốn chiếm hữu bà, nhưng sợ cha nên đã khước từ ý muốn trên và tự đồng hóa với cha. Khi Freud đưa ra giai đoạn ba tức giai đoạn dương vật (phallic phase) trong lý thuyết của ông về dục năng với giải đáp Mặc cảm Oedipe, rất ít người chấp nhận lối giải thích ấy nơi đứa trẻ. Ngày nay, ta có nhiều hiểu biết hơn về dục tính của trẻ em và những mối liên hệ phức tạp có tính vô thức của nó. Ðứa trẻ trai nào vẫn cứ gắn bó với mẹ trong khi đang lớn lên, khó có thể thấy những người đàn bà khác hấp dẫn về phương diện tính dục và vì vậy, có thể chỉ lấy những người đàn bà này để tiếp tục tìm lại mối liên hệ có tính mẫu tử. Cũng thế, thiếu nữ nào vốn thần tượng hóa cha mình hoặc ngược lại không bao giờ có sự gần gũi với cha, có thể chỉ lấy những người gợi lại được hình ảnh cha mình.
Người ta cho rằng cái mặc cảm Oedipe và cảm thức xâm nhập của Erickson luôn đi kèm với tâm thức tội lỗi. Thực ra, cái tâm thức tội lỗi này, như ta thấy, đã bước vào đời đứa trẻ sớm hơn thế, khi nó cảm thấy nó đang tấn công và có thể gây hại hoặc tàn phá mẹ qua giận dữ. Ghen tuông, đặc biệt khi có người thứ ba đe dọa lấy mất sự âu yếm mà đứa trẻ vốn nhận được từ người thân yêu, cũng có thể có mặt ở giai đọan này. Ganh tị là một kinh nghiệm hai chiều trong đó có sự cạnh tranh giữa hai người, và cảm quan này có thể có mặt bất cứ lúc nào trong thời thơ ấu khi đứa trẻ cảm thấy ghen tị đối với cha hoặc mẹ hoặc một anh chị nào đó.
GẮN BÓ XÚC CẢM TỪ XA
Lúc đứa trẻ đi học, khoảng 5 hoặc 6 tuổi, nó đã có thể ở xa mẹ cả ngày và càng lớn, nó càng có thể ở một mình lâu hơn mà không cảm thấy sợ sệt lo âu chi. Sự gắn bó với mẹ và cha được cảm nhận là vững ổn. Cảm thức được nhìn nhận, được ước muốn và được quý chuộng giờ đây trở thành một cảm nghiệm được phát biểu qua cái nhìn và lời nói, chứ không còn nặng về xúc giác như trước nữa. Ðứa trẻ ý thức được rằng liên hệ tình cảm của nó đã vững ổn. Tuy thỉnh thỏang bị ngắt quãng gián đoạn qua những biến cố bất đồng nhỏ, nhưng liên hệ ấy lại được tái lập mau chóng. Chúng mang trong thâm tâm cảm quan được nhìn nhận, được chấp thuận và được ước muốn. Tuy cảm quan này vẫn cần được khẳng nhận luôn luôn, nhưng nó không cần phải được liên tục tạo lập như mới nữa.
Tuy nhiên, chuyện gì sẽ xảy ra,nếu sự gắn bó kia không vững ổn? Ðâu là những yếu tố góp phần vào sự gắn bó không vững ổn, một gắn bó từng là nguyên nhân chủ yếu gây trở ngại cho các cuộc hôn nhân sau này, khi một trong hai vợ chồng không được thừa nhận, ước muốn và quý chuộng, phải sống trong nỗi sợ sệt bị bỏ rơi bất cứ lúc nào?
Bowlby miêu tả sự gắn bó đầy lo âu như thế này: “Các cuộc nghiên cứu cho thấy(những người có tác phong trên) từng chịu ít nhất là một (và thường là nhiều hơn một) trong những cách đối xử không lành mạnh sau đây của cha mẹ:
(i) Một hoặc cả hai cha mẹ liên tục không đáp ứng tác phong đòi săn sóc của đứa trẻ và/hoặc tích cực coi nhẹ và từ khước đứa trẻ;
(ii) Việc săn sóc của cha mẹ bị gián đoạn, bao gồm thời gian nằm bệnh viện hoặc đi tù;
(iii) Cha mẹ luôn đe dọa không thương đứa trẻ, cốt ý để kiểm soát nó;
(iv) Cha mẹ đe dọa rời bỏ gia đình, như cách dể răn đe kỷ luật con hoặc như cách để khuất phục người phối ngẫu;
(v) Một trong hai cha mẹ đe dọa bỏ bê hoặc giết người kia, nếu không sẽ tự tử;
(vi) Làm đứa trẻ có mặc cảm tội lỗi bằng cách cho rằng tác phong của nó sẽ làm cha mẹ lâm bệnh hoặc chết.
Bất cứ kinh nghiệm nào trong số các kinh nghiệm trên đều khiến một đứa nhỏ, một thiếu niên hoặc một người trưởng thành phải sống trong lo âu liên tục vì sợ phải mất người thân yêu và do đó, không dám biểu lộ tình cảm gắn bó nữa” (11).
Người trưởng thành nào đã kết hôn mà có sự gắn bó đầy lo âu như trên luôn luôn sợ vợ hoặc chồng mình sẽ ra đi. Có điều nghịch thường là điều ấy có thể dẫn họ đến tác phong coi mình như thể hoàn toàn độc lập và cóc cần lưu tâm đến việc người phối ngẫu mình đi hay ở nữa. Tuy nhiên, nếu họ ra đi thực, thì người tự hào cóc cần kia sẽ thất vọng ê chề. Người có gắn bó bất ổn luôn lo âu, ám ảnh, ghen tuông và tìm cách bao vây cuộc sống của người phối ngẫu để khống chế họ. Nhiều người vợ hoặc chồng than rằng họ cảm thấy ngột ngạt hoặc tù túng vì thái độ sống đó. Gốc rễ của tác phong lo âu đó thường thấy trong tuổi thơ, và mẫu tác phong này tiếp tục trong liên hệ vợ chồng: nỗi sợ mất người phối ngẫu làm họ do dự không dám biểu lộ sự giận dữ và thường hay giận hờn sôi sục dưới cái vỏ bề ngoài tuỳ thuộc và khiếp sợ kia.
CHỐNG CHẾ VÀ LO ÂU
Lo âu xao xuyến đóng một vai trò nổi bật trong các gắn bó của con người. Trong diễn trình lớn lên, ta cảm thấy lo âu xao xuyến khi ta còn nhỏ và sợ bị bỏ rơi. Sự lo sợ này tiếp tục trong đời sống trưởng thành và là cội rễ của tác phong lo âu. Lo âu gia tăng khi đứa trẻ sợ cơn giận của nó có thể gây hại hoặc làm tiêu tan bậc cha mẹ mà nó thương yêu. Lo âu cũng có thể xảy ra khi đứa trẻ cảm thấy bị đe doạ bỏ rơi hoặc khi người ta cho nó cảm nhận rằng nó không đáng yêu, vô nghĩa hoặc bị xử như một đồ vật. Những xao xuyến lo âu này tự lặp lại trong các liên hệ thân mật lúc đã trưởng thành, khi người ta phải sống lại với nỗi sợ bị bỏ rơi hoặc bị từ khước, sợ cảm thấy mình vô nghĩa, hoặc những cảm nghĩ tồi bại, tội lỗi hoặc khiêu khích.
Các lo âu xao xuyến này làm ta khổ đến nỗi phải đưa ra các biện pháp chống chế. Ta có thể từ chối không chấp nhận trách nhiệm hoặc đổ trách nhiệm đó lên đầu người phối ngẫu khiến họ phải lãnh hậu quả của bất cứ trục trặc nào, hoặc ta cũng có thể giận cá chém thớt bằng cách trút những cảm nghĩ xấu của ta lên đầu vợ con thay vì lên đầu kẻ ta vốn sợ như ông xếp của ta chẳng hạn. Ta cũng có thể lý giải tác phong của mình khiến vợ con quên khuấy các hậu quả của việc ta làm hoặc bỏ sót không làm. Những cách chống chế như vậy đã được Anna Freud miêu tả rất chi tiết(12).
Như thế, trong khi lớn lên, đứa trẻ học cách đương đầu với nỗi xao xuyến của nó bằng cách tự bảo vệ về phương diện tâm lý chống lại hậu quả của xao xuyến bằng các cơ chế chống chế. Khi các cơ chế chống chế này được sử dụng trong các liên hệ thân mật của người trưởng thành, như hôn nhân chẳng hạn, thì hình thức thường thấy nhất là chối, đổ tội, lý giải, ức chế và đè nén, qua đó, người phối ngẫu từ khước trách nhiệm đối với các trục trặc xảy ra.
Các hình thức khác của chống chế trong tác phong gắn bó lo âu có thể dẫn ta đến chỗ tin cậy nhau ít đến nỗi gần như chẳng còn gắn bó gần gũi nào nữa. Hoặc nếu còn một chút gắn bó nào đó, thì ta cũng có thể cho người phối ngẫu thấy ta không cần đến sự hiện diện của họ chút nào, qua đó, ta tạo ra một thứ độc lập giả tạo giúp ta tránh khỏi phải đau khổ khi trục trặc xảy ra. Ngược lại, cũng có thể ta vẫn tiếp tục lệ thuộc người phối ngẫu với hy vọng là nếu ta làm vui lòng họ, ta có thể tránh được cảnh bị họ bỏ rơi. Những mẫu tác phong này cần được khảo sát kỹ lưỡng hơn, tuy nhiên gốc rễ của chúng nằm ở chỗ lo âu xao xuyến thái quá, và nguồn gốc của chúng tìm thấy trong tuổi thơ.
NHỮNG NĂM ÐI HỌC
Khỏang cuối 10 năm đầu, những cảm nghiệm căn bản của mối liên hệ đã được ổn định hẳn. Tuy những biến động liên tiếp của 10 năm sau có thể làm méo mó sự phát triển đó, nhưng một cách tổng quát, kinh nghiệm của 10 năm đầu sẽ được phát triển thêm và được củng cố. Trong các biểu đồ của Freud, thời gian vào tuổi lên sáu đến lúc dậy thì là giai đoạn yên lặng trong đó không còn sự phát triển nào về dục năng nữa.
Ðối với Erickson, trong những năm đó, đứa trẻ bước vào thế giới của những hoạt động có tính xã hội, với việc phát triển cảm thức khéo léo (sense of industry) và cảm quan đối nghịch là tự ti. Chắc chắn một điều, trong các xã hội phương Tây, người ta nhấn mạnh đến trí thông minh và trí hiểu, nên những đứa trẻ kém thông minh thường bị mặc cảm tự ti về phương diện tri thức. Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần trên, giá trị của đứa trẻ đã được vun trồng ở những năm trước đó khi nó nhận được sự chấp nhận vô điều kiện dựa trên giá trị nội tại của nó trước khi nó thực hiện được những thành quả. Người an tâm, vốn được yêu thương cách trên, sẽ tiếp tục cảm nhận mình có giá trị và có niềm tự hào cao bất kể các thành quả về thể lý và tri thức. Người thiếu niềm tự hào sẽ đi tìm bù trừ qua các thành quả. Sự bất tương hợp của những người đạt thành quả cao nhưng thiếu niềm tự hào về phương diện xúc cảm là một trong những vấn đề cố hữu trong các nhân cách đau khổ và trong hôn nhân. Những người bề ngoài thành công đôi khi làm vợ hoặc chồng họ phải ngạc nhiên vì họ biểu lộ một loạt những cảm quan và những vấn đề thuộc xúc cảm chứng tỏ họ không có khả năng yêu thương và ghi nhận yêu thương.
DẬY THÌ VÀ TUỔI THIẾU NIÊN:
Dạy thì là thời gian những đặc điểm đệ nhị đẳng của dục tính tự bộc lộ ra. Bản sắc của người thiếu niên cần thâu nhập và hoà hợp chiều kích mới này, giúp họ tiến tới chỗ từ từ tách rời hẳn cha mẹ, với khả năng tự biết và tự chiếm hữu mình, đủ để có thể liên hệ với những người trưởng thành khác.
Tuy vậy, một số thiếu niên tiến tới ngưỡng cửa trưởng thành mà vẫn chưa rõ về chính bản sắc mình. Họ vẫn còn chưa biết họ là ai, đi về đâu, giá trị của họ như thế nào và họ sẽ làm gì. Với thời gian, các vấn đề đó sẽ được giải quyết. Nhưng giải pháp tệ nhất là kết hôn ở tuổi 18 hoặc sớm hơn với hy vọng là hôn nhân sẽ giải quyết các khúc mắc bằng cách đem lại cho họ một vai trò và một bản sắc nào đó. Có được như vậy đi chăng nữa, thì đó chỉ là những thành quả ngắn hạn, trong khi những vấn đề căn bản thuộc nhân cách chẳng chóng thì chày phải được giải quyết. Nhiều khi để giải quyết chúng, người ta phải hy sinh cả cuộc hôn nhân của mình.
LIÊN HỂ THÂN MẬT THỨ HAI: HÔN NHÂN
Nhiều người đàn ông cũng như đàn bà bước vào liên hệ thân mật thứ hai mà vẫn còn mang theo cái phức tạp của diễn trình trưởng thành với nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết và đôi khi cả vết thương nặng về tình cảm nữa. Việc bước vào liên hệ thân mật thứ hai sẽ dẫn vợ chồng vào mối liên hệ xã hội và tâm lý, là mối liên hệ có mục đích đem thế giới nội tâm của họ, là cái tầng sâu kế tiếp của bản ngã, chủ yếu mang tính chất tâm lý, vào các tiếp xúc thân mật giữa họ với nhau. Sự tương hành tâm lý sẽ khởi sự ngay từ buổi đầu của hôn nhân và, tuỳ theo tình trạng trưởng thành và tính khí, một liên lập sẽ được thiết dựng trong đó, hai vợ chồng sẽ đem các khả năng của họ để tạo thành một liên hệ xã hội và tâm lý thoải mái. Nếu các vết thương hoặc các khó khăn mà hai vợ chồng đem đến cho nhau tỏ ra quá rộng và quá sâu, thì việc đương đầu với chúng sẽ là một thách đố lớn đối với họ. Ðối với phần lớn các cuộc hôn nhân, các khó khăn ấy thường được biểu lộ ngay từ buổi đầu; đối với một số khác, chúng có thể được biểu lộ muộn hơn. Nhưng bất kể được biểu lộ lúc nào, chúng đều giữ vai trò chủ chốt đối với hạnh phúc và sự ổn định của hôn nhân.
Trong quá trình đương đầu với các khía cạnh tình cảm của liên hệ thân mật thứ hai này, sẽ có những khó khăn và những khó khăn này có thể đè bẹp hai vợ chồng, nhưng cũng có thể là cơ hội để họ nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và cùng giúp nhau lớn mạnh; nhờ thế, họ tạo được căn bản để biến giai đọan si tình thành giai đoạn yêu thương đúng nghĩa.
TÓM LƯỢC
Liên hệ thân mật của hôn nhân hiện nay là một liên hệ trong đó, cảm quan, xúc cảm và bản năng đóng vai trò quan trọng. Hai vợ chồng liên hệ với nhau ở một trình độ sâu hơn qua cam kết bản thân của họ. Cái cảm thức về bản thân ấy, bản thân một con người biết yêu thương và đáp trả yêu thương trong một liên hệ thân mật, đã thu lượm được ngay ở buổi thiếu thời. Hôn nhân trở thành màn thứ hai của một vở kịch hai màn, trong đó màn thứ nhất chính là tuổi thơ. Hai vợ chồng bước vào hôn nhân với một pha trộn những kinh nghiệm tốt và những kinh nghiệm xấu về yêu thương. Sự ổn định của hôn nhân tuỳ thuộc ở chỗ các kinh nghiệm tốt có trổi vượt hơn các kinh nghiệm xấu hay không.
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Slater, E., and Shields, J., Genetical Aspects of Anxiety in Studies of Anxiety, (ed. M. H. Lader), RMPA, 1969.
2. Price, J., British Journal of Psychiatry, Special Publication (1968) Nọ 2, 37.
3. Shields, J., Psychological Medicine, 1977, 7, 1, 7.
4. Erickson, E.H., Identity,Faber and Faber, 1968
5. Ibid. p. 96
6. Freud, S., Three Essays on Sexuality, Hogarth Press, 1968
7. Bowlby,J., Attachment and Loss,Vol.1: Attachment (1969) Vol. 2: Separation: Anxiety and Anger (1973); Vo. 3: Loss, sadness and Depression (1980). Hogarth Press.
8. Bowlby, J., The Making and Breaking of Affectional Bonds. Tavistock Publications, 1979
9. Erickson p. 109
10. Ibid. p.116
11. Bowlby, J., Affectional Bonds, p.137.
12 Freud, A., The Ego and the Mechanism of Defence. Hogarth Press, 1966.
13. Dominian, J., Cycles of Affirmation.Darton, Longman and Toff, 1975
CHƯƠNG BA: THỰC TẠI TÂM LÝ
Trong chương trước, khung cảnh xã hội của hôn nhân hiện đại đã được trình bày khái quát và một điểm được nhấn mạnh là các thay đổi khác nhau đã khiến cho liên hệ vợ chồng trở nên thân mật nhiều hơn, khiến họ đem vào mối liên hệ cái phần bản ngã sâu sắc hơn của mình. Nhưng cái phần sâu sắc hơn của bản ngã ấy là gì ?
Trong các cuộc hôn nhân ở các xã hội Phương Tây hiện nay, ta thấy có mối liên hệ giao ước giữa chồng và vợ, trong đó cảm quan, xúc cảm và bản năng tạo thành một cái khung chính cho các tham chiếu và hoài mong căn bản. Người ta không còn coi là đủ nữa khi người chồng chỉ đóng vai kiếm kế sinh nhai và làm chủ gia đình, và người vợ thì đóng vai sinh sản con cái và trông nom việc gia đình, còn tình cảm chỉ đóng vai trò phụ thuộc với giòng đời trôi qua. Trái lại ngày nay, ngay từ thuở đầu, đã có sự tương hành của tình cảm và tính dục, được hai vợ chồng biểu lộ dựa trên những kinh nghiệm học hỏi được từ gia đình, đặc biệt từ cha mẹ hai bên. Liên hệ cha mẹ và con cái với những đóng góp đáng kể của thân nhân đã tạo nên mối liên hệ thân mật đầu tiên giúp vợ/chồng có được những trang bị cần thiết cho các liên hệ thân mật sẽ có sau này, trong đó liên hệ hôn nhân là liên hệ quan trọng thứ hai trong cuộc sống của vợ chồng.
Ðối với 90 đến 95% các cặp vợ chồng, thì cuộc đời bao giờ cũng là vở kịch hai màn. Màn một là kinh nghiệm giữa đứa trẻ và các thành viên quan trọng của gia đình, và màn hai là sự lập lại và phát triển thêm kinh nghiệm đó trong liên hệ vợ chồng. Lý do vì bất cứ khi nào ta giáp mặt với một liên hệ thân mật tình cảm, ta đều lập tức sử dụng đến những kinh nghiệm đã học được trong hai mươi năm đầu tiên trong đời. Thời trước, những đáp ứng tình cảm luôn luôn giữ vai trò phụ thuộc đối với các yếu tố xã hội. Ngày nay thì ngược lại, chúng giữ vai trò chủ yếu trong mối liên hệ ngay từ buổi đầu. Chính trong thực tế ấy mà ta gặp một trong những nguy hiểm chính của hôn nhân hiện đại, và việc thiếu hiểu biết về tâm lý học cũng như chuẩn bị thích đáng về phương diện này hiện là một trong những lý do chính đưa tới thất bại và cay đắng trong hôn nhân. Sự tương hành về xã hội và tâm lý đã tiến tới trình độ khiến cho sự chuẩn bị cũng như trợ giúp của xã hội hiện dành cho hôn nhân trở thành thiếu sót.
ÐÓNG GÓP TÂM LÝ - YẾU TỐ SINH HỌC
Có hai thành tố chính góp phần vào việc tăng trưởng nhân cách ta. Nói một cách tổng quát, thành tố thứ nhất chính là yếu tố sinh học (biological). Lúc thụ thai, hai đơn vị di truyền (genes) của cha và mẹ kết hợp với nhau và quyết định việc ra đời của con cái. Nhưng các đơn vị di truyền không phải là yếu tố duy nhất có tính quyết định. Trong giai đoạn bào thai, đứa trẻ có thể chịu ảnh hưởng những yếu tố tác hại, như sự nhiễm trùng của người mẹ phát sinh bệnh ban đỏ chẳng hạn, hoặc những hậu quả trầm trọng hơn liên quan đến các thứ thuốc như Thalidomide.
Các nghiên cứu trong lãnh vực di truyền học cho thấy những đặc điểm như lo âu (1), tính khí thất thường (2), thích sống cô độc và các đặc điểm phân tâm loạn trí (schizoid) (3) một phần được quyết định bởi các ảnh hưởng di truyền nhận được từ cha mẹ. Ðiều này có nghĩa là những người thừa hưởng các đặc điểm trên có thể để lộ chúng ra trong thời niên thiếu cũng như nhiều năm sau. Vì các đặc điểm trên ảnh hưởng nhiều đến hành động giữa chồng và vợ, nên sự hiện diện của chúng có một hiệu quả mạnh đối với mối liên hệ của họ. Sự góp phần của yếu tố sinh học này được gọi là yếu tố tự nhiên; trái với nó là yếu tố dưỡng dục tức các kinh nghiệm đứa trẻ học được trong khung cảnh gia đình.
Cuộc tranh luận về phần đóng góp chính xác của hai yếu tố này vào nhân cách người trưởng thành hiện vẫn đang tiếp diễn, với một bên là các nhà phân tâm học và tâm lý học có khuynh hướng sinh học chủ trương rằng yếu tố thể lý đóng góp nhiều hơn, và bên kia là các nhà phân tâm học và tâm lý học nghiêng về năng động học (dynamic) chủ trương rằng môi trường nhân bản và các ảnh hưởng của gia đình góp phần quan trọng hơn. Không có chủ trương nào làm tất cả mọi người hài lòng. Có điều chắc là cả hai yếu tố đó cùng đều đóng góp đáng kể.
ÐÓNG GÓP TÂM LÝ - YẾU TỐ NĂNG ÐỘNG
NĂM ÐẦU TIÊN:
Từ lúc sinh ra đời, đứa trẻ chịu ảnh hưởng các tác động hỗ tương của cả cha lẫn mẹ. Tác động hỗ tương này có tính năng động học, theo nghĩa, nó được diễn tiến kèm theo cảm quan là thứ luôn luôn ở trạng thái thay đổi. Các cảm quan này xác định ra phẩm chất của tình thân mật giữa đứa trẻ và cha mẹ cũng như các khuôn mặt quan trọng khác như anh chị, thân nhân, các thày giáo và bạn bè.
Các cảm quan ấy sẽ được diễn dịch thành những mẫu mực xúc cảm nhất định mà đứa trẻ sẽ lĩnh hội được trong diễn trình lớn lên. Như Erickson đã nói: cái mà nó lãnh hội là "sự cảm thức vễ" những gì xẽ được xây vào hoặc sẽ bị đào thải đi trong những năm sau này (4).
Trong năm đầu tiên, đứa trẻ được bế, được chơi với, được bú vú mẹ, và thường được mẹ, cha hoặc một người thay thế ôm ấp vỗ về. Từ những kinh nghiệm sớm sủa ấy, đứa trẻ lãnh hội được cái cảm nhận căn bản về sự tin tưởng trong việc gần gũi tuyệt đối về thể lý (5). Sự nên một do gần gũi này làm đứa trẻ có được sự hợp nhất có tính cộng sinh (symbiotic union) qua đó nó cảm thấy là một với mẹ. Tùy theo phẩm chất của sự hợp nhất đó, mà sau này, trong diễn biến của cuộc sống, đứa trẻ sẽ nhớ lại sự gần gũi thể lý ấy như là một cảm nhận của lòng tín nhiệm, hoặc ngược lại, như một cảm nhận của sự bất tín nhiệm. Ðiều này rất quan trọng trong sinh hoạt dục tính, thể hiện qua sự kết hợp giữa hai thể xác, trong đó cảm quan tin tưởng và an ổn không thể thiếu được. Có những trường hợp trong đó nhiều người đàn ông cũng như đàn bà nói rằng họ không chịu được sự gần gũi giữa hai thân xác, ngại bị đụng tới, chứ đừng nói chi đến việc làm tình. Thành thử cái cảm quan về sự an ổn thể lý, vốn đi kèm với bất cứ giao tiếp yêu đương nào, có thể trở thành cơn mộng hãi hùng khiến cho sự gần gũi không sao thực hiện được.
Trong khi ấy, lòng tin tưởng tiếp tục phát triển: đứa trẻ hoặc được bú sữa mẹ, bú sữa bình hoặc được cai sữa trong năm thứ nhất. Hoạt động này tập trung ở miệng và đó là "giai đoạn miệng", theo quan điểm của Freud. Miệng, môi, lưỡi, tất cả đều tham dự vào hoạt động nuốt và nhai. Ðặc tính mềm của môi và phía bên trong của miệng làm phát sinh một cảm giác khoan khoái, mà theo Freud, đó là vùng gợi dục đầu tiên trong biến hóa của dục năng (libido)(6). Cho bú mang lại sự thoả mãn liên tiếp cho miệng, nhưng miệng cũng là chỗ để hôn hít và các hoạt động tính dục khác. Một lần nữa, cần có cảm nhận tin tưởng giúp hai con người có thể tới với nhau và thông đạt qua miệng.
Freud, Erickson và Bowlby đều là những lý thuyết gia chính chủ trương tâm động học. Các công trình nghiên cứu của Bowlby tương đối gần đây, mới chỉ khoảng 50 năm qua, nhưng rất quan trọng để hiểu các mối liên hệ nhân bản. Ðối với Freud, sợi dây liên kết giữa mẹ với con trong năm thứ nhất là liên hệ qua miệng. Ðứa trẻ chú ý đến mẹ vì mẹ luôn luôn thỏa mãn các nhu cầu ăn uống của nó. Sợi dây liên kết mẹ và con được giả định dựa trên sự trao đổi ấy. Bowlby không đồng ý như vậy. Ông cho rằng sự gắn bó của đứa trẻ vào mẹ dựa trên sự tiếp xúc rộng hơn thế nhờ các mạch chuyển có tính bản năng của xúc giác, thị giác và thính giác. Ðứa trẻ nhận ra và gắn bó với mẹ vào tháng thứ tư, khi nó nhận ra bà bằng thị giác, quen thuộc với giọng nói của bà và hơn hết với sự mơn trớn của bà. Bowlby viết ba cuốn sách về đề tài này (7) và một cuốn nhỏ hơn tóm tắt các ý tưởng của ông (8). Như thế sợi dây tình cảm hoặc sự gắn bó yêu thương đã bắt đầu có ở sáu tháng đầu đời và tiếp tục suốt thời thơ ấu. Khởi đầu, sự gắn bó này rất thân mật và gần gũi. Ðứa trẻ, lúc đó đang tập bò, tập đi, vẫn không ở quá xa mẹ. Mẹ là trung tâm thể lý và xúc cảm của đời nó và nó luôn luôn chạy lại với mẹ mỗi khi có gì đe dọa hoặc làm nó lo lắng ở khu vực chung quanh. Những người lạ, các con vật, tiếng động, nước là một vài yếu tố quấy rối khiến đứa trẻ vội chạy lại với mẹ để tìm sự an ổn. Sự gắn bó này là sợi dây liên kết yêu thương trong đó sự lo âu và sự an ổn đóng một vai trò then chốt. Sự khởi đầu của yêu thương chính là cảm nhận an ổn vì có sự gần gũi thể lý và, như Erickson đã cho thấy, sự an ổn này mang theo đặc tính tin tưởng.
Tất cả những điều xẩy ra trong năm đầu tiên như trên sẽ tiếp tục trong suốt cuộc đời. Các tình bạn và các liên hệ thân mật sau này của ta đều là những dây liên kết tình cảm gắn bó. Bất cứ nơi nào sợi dây liên kết đó mạnh mẽ, hôn nhân là một, thì người bạn của ta luôn mang đến một cảm quan an ổn và tin tưởng, và ta sẽ hướng về họ để tìm được an tâm và nâng đỡ.
NĂM THỨ HAI VÀ NĂM THỨ BA
Năm thứ nhất là thời của thân mật thể lý trong đó nền tảng của tin tưởng, của an toàn và gắn bó được xây dựng. Nhưng khi đứa trẻ lớn lên, nó sẽ dần dị biệt hóa bản thân nó với mẹ. Erickson gọi thời gian này là giai đoạn "cảm nhận về tự chủ mà chưa mất tự hào"(9).
Trong hai năm này, đứa trẻ đi qua giai đoạn đầu của tự chủ. Ðây là lúc nó cảm thấy nhu cầu phải làm lấy mọi chuyện. Nó muốn đút ăn lấy, học cách tự mặc lấy quần áo, tự chạy đi đây đi đó, và làm việc này việc nọ. Nó thực hiện việc đó một cách dò chừng, hễ sai thì làm lại, với sự giúp đỡ tích cực của mẹ. Có lúc được mẹ khen nức nở vì làm khéo, nhưng đôi khi cũng bị mẹ vì sốt ruột rày la là kém cỏi và bị mẹ làm thế, do đó vô tình mẹ làm nó buồn tủi vì cảm thấy mình không làm gì nên trò.
Có lẽ kinh nghiệm tự chủ đặc biệt nhất là khả năng kiểm soát việc đại tiện. Trong việc huấn luyện đi vệ sinh này, nhiều biểu lộ xúc cảm đã xảy ra. Ðương nhiên, mẹ bao giờ cũng muốn con mình được huấn luyện về chuyện đi cầu càng sớm càng tốt. Tuy nhiên điều quan trọng là đứa trẻ cần cảm nhận là nó làm chủ được cơ thể nó, không phải vì sợ hoặc để vui lòng mẹ, cho bằng vì nó được tự do làm việc ấy. Với cha mẹ hiểu biết, thì điều này là điều tốt và vì thế việc huấn luyện đi cầu trở thành một phần thành công của giai đoạn tự lập.
Freud chú tâm đến diễn trình điều khiển việc đi cầu. Ông ta gọi giai đoạn này là giai đoạn hậu môn (anal phase). Ðứa trẻ học cách giữ lại hoặc tống khứ cái nó cảm nhận như là thế giới bên trong của nó. Ðiều ấy làm đứa trẻ cảm thấy trong tay nó một sức mạnh lớn lao, và đôi khi, giai đoạn này cũng là thời gian của nhiều sáo trộn. Ðây là những năm có những dấu hiệu rõ rệt của tính gây hấn. Việc kềm chế chất bài tiết có thể là một hành vi gây nổi loạn, nhưng việc không vâng lời mẹ một cách tổng quát có thể là dấu hiệu đầu tiên của độc lập. Nếu độc lập ấy bị trừng phạt, thì đứa trẻ có thể cảm nhận lần đầu tiên sự tương phản ý nghĩa trong cùng một sự kiện (ambivalence), tức là nó có thể sẽ yêu và ghét cùng một con người. Lúc thì mẹ là nguồn của mọi điều tốt đẹp, lúc mẹ lại giận dữ, la hét và có thể phét đít nó. Khả năng di động từ yêu thương qua giận dữ, ghét bỏ, hối hận, tha thứ và rồi lại trở lại với yêu thương là một chu trình quen thuộc mà đứa trẻ sẽ nhận xét thấy trong giai đoạn này, dù một số nhà phân tâm học như Melanie Klein cho rằng chu trình đó xẩy ra sớm hơn. Với tự chủ và giai đoạn hậu môn, ta thấy có hiện tượng lưỡng gía trị (ambivalence) đã bàn ở trên. Freud cũng nhấn mạnh rằng hậu môn, giống như môi và miệng, có một lớp da mịn, tạo ra một khu vực khoái cảm. Việc đi cầu có thể là việc gây khoái và, như người ta thấy, hậu môn đã được một số người sử dụng cho mục đích tính dục. Thành ra hiện tượng sinh dục trẻ thơ này cũng sẽ có vang dội trong thời trưởng thành.
Một phần của tự lập là việc đứa trẻ dần dần tách rời mẹ về phương diện thể lý. Việc tách rời này là một vấn đề tế nhị và cần được xảy ra từ từ. Dần dà đứa trẻ có thể đương đầu được với sự đơn độc thể lý mà không cảm thấy hoảng hốt vì cô lập và lẻ loi. Khoảng năm thứ ba, nó có thể sống xa mẹ mấy tiếng đồng hồ để đi tới vườn trẻ hoặc các nhóm chơi đùa. Giờ đây nó sẵn sàng không chú ý đến sự có mặt về thể lý của mẹ, vì nó đã an ổn ghi vào ký ức sự hiện diện của bà, và điều ấy mang lại cho nó thời gian an ổn đầu tiên phải sống xa mẹ. Thời gian sống xa mẹ sẽ dần dần được kéo dài hơn trong suốt thời thơ ấu, và đứa trẻ sẽ phát triển được thế quân bình giữa sự gần gũi và sự xa cách. Thế quân bình này cần thiết trong bất cứ liên hệ thân mật nào, đặc biệt là liên hệ hôn nhân. Quá nhiều gần gũi chứng tỏ sự lệ thuộc có tính trẻ thơ, nhưng ít gần gũi quá lại cho thấy tình thân mật không có chi bảo đảm an toàn.
Khả năng trở nên tự lập một phần, tức là tách rời khỏi mẹ mà vẫn an tâm về sự tách rời ấy, là một bước rất quan trọng trong diễn trình tạo được lòng tự hào (self-esteem) và cảm thức tự chủ. Theo Erickson (10), nét đối nghịch chính là cảm thức hoài nghi và xấu hổ. Trong cuộc sống trưởng thành, nhiều người sẽ ray rứt vì thiếu lòng tự hào khiến họ cảm thấy bất lực không tự làm được việc gì; và do đó dễ dàng rơi vào chỗ tự hoài nghi chính mình và cảm thấy xấu hổ về sự thiếu sót của mình khi thất bại. Trong hôn nhân, những người phối ngẫu nào nặng nề với những khó khăn xúc cảm loại này rất dễ là mồi cho nhau chỉ trích, và do đó, mối liên hệ của họ có thể trở thành một chuỗi liên tục những kết tội lẫn nhau.
NĂM THỨ TƯ VÀ NĂM THỨ NĂM:
Theo Erickson (10), trong năm thứ tư và năm thứ năm, đứa trẻ phát triển được cảm thức tạo sáng kiến. Cảm thức này được biểu lộ qua hiện tượng xâm nhập (intrusion): xâm nhập vào không gian bằng chuyển động mạnh bạo, vào những cái lạ lẫm bằng cách khám phá tò mò, vào người khác bằng giọng nói gây hấn, xâm nhập bằng tấn công thể lý và nỗi sợ của vật đực đi vào vật thể nữ.
Giai đoạn sáng kiến này có thể gây nên hỗn loạn trong gia đình vì đứa trẻ la hét, nhào lộn, leo trèo, làm gián đoạn cuộc nói truyện. Ở nhiều trường hợp, hiện tượng đó kéo dài đến lúc trưởng thành, người ta tiếp tục coi người khác như những đối vật để họ thăm dò khám phá và xâm nhập, để họ chơi đùa với mà không cần phải chú ý tới các ý muốn của những người này. Khi họ khám phá ra sự vô tâm của họ, họ có thể cảm thấy hối hận, nhưng vì không phát triển được cái nhìn xâu sắc nào, nên chẳng chóng thì chầy, họ lại trở về với cái tính trẻ con nông cạn của mình. Tất nhiên điều đó khác với trẻ em. Với trẻ em, thì ngưòi ta còn châm chước được, chứ người lớn mà hành động như thế thì quả là người chưa trưởng thành.
Các đặc điểm ngược lại với hiện tượng tìm tòi tích cực này là cảm thức thụ động, và hôn nhân giữa những người thụ động và những người hoạt bát và ưa thống trị vẫn thường xảy ra. Sự thụ động có thể được châm chước một thời gian, nhưng sau ít năm, nó sẽ bị thù ghét, vì người phối ngẫu kia có cố gắng bao nhiêu cũng không thể tạo được một chút hứng thú nào hoặc một chút hành động nào nơi họ.
Tình huống xâm nhập cũng bao gồm việc đụng chạm đến dương vật. Và ở đây, Erickson, một đồ đệ của Freud, chỉ lập lại luận đề cổ điển của thày, đó là mặc cảm Oedipe ba chiều: đứa trẻ trai bị mẹ lôi cuốn về phương diện tính dục, muốn chiếm hữu bà, nhưng sợ cha nên đã khước từ ý muốn trên và tự đồng hóa với cha. Khi Freud đưa ra giai đoạn ba tức giai đoạn dương vật (phallic phase) trong lý thuyết của ông về dục năng với giải đáp Mặc cảm Oedipe, rất ít người chấp nhận lối giải thích ấy nơi đứa trẻ. Ngày nay, ta có nhiều hiểu biết hơn về dục tính của trẻ em và những mối liên hệ phức tạp có tính vô thức của nó. Ðứa trẻ trai nào vẫn cứ gắn bó với mẹ trong khi đang lớn lên, khó có thể thấy những người đàn bà khác hấp dẫn về phương diện tính dục và vì vậy, có thể chỉ lấy những người đàn bà này để tiếp tục tìm lại mối liên hệ có tính mẫu tử. Cũng thế, thiếu nữ nào vốn thần tượng hóa cha mình hoặc ngược lại không bao giờ có sự gần gũi với cha, có thể chỉ lấy những người gợi lại được hình ảnh cha mình.
Người ta cho rằng cái mặc cảm Oedipe và cảm thức xâm nhập của Erickson luôn đi kèm với tâm thức tội lỗi. Thực ra, cái tâm thức tội lỗi này, như ta thấy, đã bước vào đời đứa trẻ sớm hơn thế, khi nó cảm thấy nó đang tấn công và có thể gây hại hoặc tàn phá mẹ qua giận dữ. Ghen tuông, đặc biệt khi có người thứ ba đe dọa lấy mất sự âu yếm mà đứa trẻ vốn nhận được từ người thân yêu, cũng có thể có mặt ở giai đọan này. Ganh tị là một kinh nghiệm hai chiều trong đó có sự cạnh tranh giữa hai người, và cảm quan này có thể có mặt bất cứ lúc nào trong thời thơ ấu khi đứa trẻ cảm thấy ghen tị đối với cha hoặc mẹ hoặc một anh chị nào đó.
GẮN BÓ XÚC CẢM TỪ XA
Lúc đứa trẻ đi học, khoảng 5 hoặc 6 tuổi, nó đã có thể ở xa mẹ cả ngày và càng lớn, nó càng có thể ở một mình lâu hơn mà không cảm thấy sợ sệt lo âu chi. Sự gắn bó với mẹ và cha được cảm nhận là vững ổn. Cảm thức được nhìn nhận, được ước muốn và được quý chuộng giờ đây trở thành một cảm nghiệm được phát biểu qua cái nhìn và lời nói, chứ không còn nặng về xúc giác như trước nữa. Ðứa trẻ ý thức được rằng liên hệ tình cảm của nó đã vững ổn. Tuy thỉnh thỏang bị ngắt quãng gián đoạn qua những biến cố bất đồng nhỏ, nhưng liên hệ ấy lại được tái lập mau chóng. Chúng mang trong thâm tâm cảm quan được nhìn nhận, được chấp thuận và được ước muốn. Tuy cảm quan này vẫn cần được khẳng nhận luôn luôn, nhưng nó không cần phải được liên tục tạo lập như mới nữa.
Tuy nhiên, chuyện gì sẽ xảy ra,nếu sự gắn bó kia không vững ổn? Ðâu là những yếu tố góp phần vào sự gắn bó không vững ổn, một gắn bó từng là nguyên nhân chủ yếu gây trở ngại cho các cuộc hôn nhân sau này, khi một trong hai vợ chồng không được thừa nhận, ước muốn và quý chuộng, phải sống trong nỗi sợ sệt bị bỏ rơi bất cứ lúc nào?
Bowlby miêu tả sự gắn bó đầy lo âu như thế này: “Các cuộc nghiên cứu cho thấy(những người có tác phong trên) từng chịu ít nhất là một (và thường là nhiều hơn một) trong những cách đối xử không lành mạnh sau đây của cha mẹ:
(i) Một hoặc cả hai cha mẹ liên tục không đáp ứng tác phong đòi săn sóc của đứa trẻ và/hoặc tích cực coi nhẹ và từ khước đứa trẻ;
(ii) Việc săn sóc của cha mẹ bị gián đoạn, bao gồm thời gian nằm bệnh viện hoặc đi tù;
(iii) Cha mẹ luôn đe dọa không thương đứa trẻ, cốt ý để kiểm soát nó;
(iv) Cha mẹ đe dọa rời bỏ gia đình, như cách dể răn đe kỷ luật con hoặc như cách để khuất phục người phối ngẫu;
(v) Một trong hai cha mẹ đe dọa bỏ bê hoặc giết người kia, nếu không sẽ tự tử;
(vi) Làm đứa trẻ có mặc cảm tội lỗi bằng cách cho rằng tác phong của nó sẽ làm cha mẹ lâm bệnh hoặc chết.
Bất cứ kinh nghiệm nào trong số các kinh nghiệm trên đều khiến một đứa nhỏ, một thiếu niên hoặc một người trưởng thành phải sống trong lo âu liên tục vì sợ phải mất người thân yêu và do đó, không dám biểu lộ tình cảm gắn bó nữa” (11).
Người trưởng thành nào đã kết hôn mà có sự gắn bó đầy lo âu như trên luôn luôn sợ vợ hoặc chồng mình sẽ ra đi. Có điều nghịch thường là điều ấy có thể dẫn họ đến tác phong coi mình như thể hoàn toàn độc lập và cóc cần lưu tâm đến việc người phối ngẫu mình đi hay ở nữa. Tuy nhiên, nếu họ ra đi thực, thì người tự hào cóc cần kia sẽ thất vọng ê chề. Người có gắn bó bất ổn luôn lo âu, ám ảnh, ghen tuông và tìm cách bao vây cuộc sống của người phối ngẫu để khống chế họ. Nhiều người vợ hoặc chồng than rằng họ cảm thấy ngột ngạt hoặc tù túng vì thái độ sống đó. Gốc rễ của tác phong lo âu đó thường thấy trong tuổi thơ, và mẫu tác phong này tiếp tục trong liên hệ vợ chồng: nỗi sợ mất người phối ngẫu làm họ do dự không dám biểu lộ sự giận dữ và thường hay giận hờn sôi sục dưới cái vỏ bề ngoài tuỳ thuộc và khiếp sợ kia.
CHỐNG CHẾ VÀ LO ÂU
Lo âu xao xuyến đóng một vai trò nổi bật trong các gắn bó của con người. Trong diễn trình lớn lên, ta cảm thấy lo âu xao xuyến khi ta còn nhỏ và sợ bị bỏ rơi. Sự lo sợ này tiếp tục trong đời sống trưởng thành và là cội rễ của tác phong lo âu. Lo âu gia tăng khi đứa trẻ sợ cơn giận của nó có thể gây hại hoặc làm tiêu tan bậc cha mẹ mà nó thương yêu. Lo âu cũng có thể xảy ra khi đứa trẻ cảm thấy bị đe doạ bỏ rơi hoặc khi người ta cho nó cảm nhận rằng nó không đáng yêu, vô nghĩa hoặc bị xử như một đồ vật. Những xao xuyến lo âu này tự lặp lại trong các liên hệ thân mật lúc đã trưởng thành, khi người ta phải sống lại với nỗi sợ bị bỏ rơi hoặc bị từ khước, sợ cảm thấy mình vô nghĩa, hoặc những cảm nghĩ tồi bại, tội lỗi hoặc khiêu khích.
Các lo âu xao xuyến này làm ta khổ đến nỗi phải đưa ra các biện pháp chống chế. Ta có thể từ chối không chấp nhận trách nhiệm hoặc đổ trách nhiệm đó lên đầu người phối ngẫu khiến họ phải lãnh hậu quả của bất cứ trục trặc nào, hoặc ta cũng có thể giận cá chém thớt bằng cách trút những cảm nghĩ xấu của ta lên đầu vợ con thay vì lên đầu kẻ ta vốn sợ như ông xếp của ta chẳng hạn. Ta cũng có thể lý giải tác phong của mình khiến vợ con quên khuấy các hậu quả của việc ta làm hoặc bỏ sót không làm. Những cách chống chế như vậy đã được Anna Freud miêu tả rất chi tiết(12).
Như thế, trong khi lớn lên, đứa trẻ học cách đương đầu với nỗi xao xuyến của nó bằng cách tự bảo vệ về phương diện tâm lý chống lại hậu quả của xao xuyến bằng các cơ chế chống chế. Khi các cơ chế chống chế này được sử dụng trong các liên hệ thân mật của người trưởng thành, như hôn nhân chẳng hạn, thì hình thức thường thấy nhất là chối, đổ tội, lý giải, ức chế và đè nén, qua đó, người phối ngẫu từ khước trách nhiệm đối với các trục trặc xảy ra.
Các hình thức khác của chống chế trong tác phong gắn bó lo âu có thể dẫn ta đến chỗ tin cậy nhau ít đến nỗi gần như chẳng còn gắn bó gần gũi nào nữa. Hoặc nếu còn một chút gắn bó nào đó, thì ta cũng có thể cho người phối ngẫu thấy ta không cần đến sự hiện diện của họ chút nào, qua đó, ta tạo ra một thứ độc lập giả tạo giúp ta tránh khỏi phải đau khổ khi trục trặc xảy ra. Ngược lại, cũng có thể ta vẫn tiếp tục lệ thuộc người phối ngẫu với hy vọng là nếu ta làm vui lòng họ, ta có thể tránh được cảnh bị họ bỏ rơi. Những mẫu tác phong này cần được khảo sát kỹ lưỡng hơn, tuy nhiên gốc rễ của chúng nằm ở chỗ lo âu xao xuyến thái quá, và nguồn gốc của chúng tìm thấy trong tuổi thơ.
NHỮNG NĂM ÐI HỌC
Khỏang cuối 10 năm đầu, những cảm nghiệm căn bản của mối liên hệ đã được ổn định hẳn. Tuy những biến động liên tiếp của 10 năm sau có thể làm méo mó sự phát triển đó, nhưng một cách tổng quát, kinh nghiệm của 10 năm đầu sẽ được phát triển thêm và được củng cố. Trong các biểu đồ của Freud, thời gian vào tuổi lên sáu đến lúc dậy thì là giai đoạn yên lặng trong đó không còn sự phát triển nào về dục năng nữa.
Ðối với Erickson, trong những năm đó, đứa trẻ bước vào thế giới của những hoạt động có tính xã hội, với việc phát triển cảm thức khéo léo (sense of industry) và cảm quan đối nghịch là tự ti. Chắc chắn một điều, trong các xã hội phương Tây, người ta nhấn mạnh đến trí thông minh và trí hiểu, nên những đứa trẻ kém thông minh thường bị mặc cảm tự ti về phương diện tri thức. Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần trên, giá trị của đứa trẻ đã được vun trồng ở những năm trước đó khi nó nhận được sự chấp nhận vô điều kiện dựa trên giá trị nội tại của nó trước khi nó thực hiện được những thành quả. Người an tâm, vốn được yêu thương cách trên, sẽ tiếp tục cảm nhận mình có giá trị và có niềm tự hào cao bất kể các thành quả về thể lý và tri thức. Người thiếu niềm tự hào sẽ đi tìm bù trừ qua các thành quả. Sự bất tương hợp của những người đạt thành quả cao nhưng thiếu niềm tự hào về phương diện xúc cảm là một trong những vấn đề cố hữu trong các nhân cách đau khổ và trong hôn nhân. Những người bề ngoài thành công đôi khi làm vợ hoặc chồng họ phải ngạc nhiên vì họ biểu lộ một loạt những cảm quan và những vấn đề thuộc xúc cảm chứng tỏ họ không có khả năng yêu thương và ghi nhận yêu thương.
DẬY THÌ VÀ TUỔI THIẾU NIÊN:
Dạy thì là thời gian những đặc điểm đệ nhị đẳng của dục tính tự bộc lộ ra. Bản sắc của người thiếu niên cần thâu nhập và hoà hợp chiều kích mới này, giúp họ tiến tới chỗ từ từ tách rời hẳn cha mẹ, với khả năng tự biết và tự chiếm hữu mình, đủ để có thể liên hệ với những người trưởng thành khác.
Tuy vậy, một số thiếu niên tiến tới ngưỡng cửa trưởng thành mà vẫn chưa rõ về chính bản sắc mình. Họ vẫn còn chưa biết họ là ai, đi về đâu, giá trị của họ như thế nào và họ sẽ làm gì. Với thời gian, các vấn đề đó sẽ được giải quyết. Nhưng giải pháp tệ nhất là kết hôn ở tuổi 18 hoặc sớm hơn với hy vọng là hôn nhân sẽ giải quyết các khúc mắc bằng cách đem lại cho họ một vai trò và một bản sắc nào đó. Có được như vậy đi chăng nữa, thì đó chỉ là những thành quả ngắn hạn, trong khi những vấn đề căn bản thuộc nhân cách chẳng chóng thì chày phải được giải quyết. Nhiều khi để giải quyết chúng, người ta phải hy sinh cả cuộc hôn nhân của mình.
LIÊN HỂ THÂN MẬT THỨ HAI: HÔN NHÂN
Nhiều người đàn ông cũng như đàn bà bước vào liên hệ thân mật thứ hai mà vẫn còn mang theo cái phức tạp của diễn trình trưởng thành với nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết và đôi khi cả vết thương nặng về tình cảm nữa. Việc bước vào liên hệ thân mật thứ hai sẽ dẫn vợ chồng vào mối liên hệ xã hội và tâm lý, là mối liên hệ có mục đích đem thế giới nội tâm của họ, là cái tầng sâu kế tiếp của bản ngã, chủ yếu mang tính chất tâm lý, vào các tiếp xúc thân mật giữa họ với nhau. Sự tương hành tâm lý sẽ khởi sự ngay từ buổi đầu của hôn nhân và, tuỳ theo tình trạng trưởng thành và tính khí, một liên lập sẽ được thiết dựng trong đó, hai vợ chồng sẽ đem các khả năng của họ để tạo thành một liên hệ xã hội và tâm lý thoải mái. Nếu các vết thương hoặc các khó khăn mà hai vợ chồng đem đến cho nhau tỏ ra quá rộng và quá sâu, thì việc đương đầu với chúng sẽ là một thách đố lớn đối với họ. Ðối với phần lớn các cuộc hôn nhân, các khó khăn ấy thường được biểu lộ ngay từ buổi đầu; đối với một số khác, chúng có thể được biểu lộ muộn hơn. Nhưng bất kể được biểu lộ lúc nào, chúng đều giữ vai trò chủ chốt đối với hạnh phúc và sự ổn định của hôn nhân.
Trong quá trình đương đầu với các khía cạnh tình cảm của liên hệ thân mật thứ hai này, sẽ có những khó khăn và những khó khăn này có thể đè bẹp hai vợ chồng, nhưng cũng có thể là cơ hội để họ nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và cùng giúp nhau lớn mạnh; nhờ thế, họ tạo được căn bản để biến giai đọan si tình thành giai đoạn yêu thương đúng nghĩa.
TÓM LƯỢC
Liên hệ thân mật của hôn nhân hiện nay là một liên hệ trong đó, cảm quan, xúc cảm và bản năng đóng vai trò quan trọng. Hai vợ chồng liên hệ với nhau ở một trình độ sâu hơn qua cam kết bản thân của họ. Cái cảm thức về bản thân ấy, bản thân một con người biết yêu thương và đáp trả yêu thương trong một liên hệ thân mật, đã thu lượm được ngay ở buổi thiếu thời. Hôn nhân trở thành màn thứ hai của một vở kịch hai màn, trong đó màn thứ nhất chính là tuổi thơ. Hai vợ chồng bước vào hôn nhân với một pha trộn những kinh nghiệm tốt và những kinh nghiệm xấu về yêu thương. Sự ổn định của hôn nhân tuỳ thuộc ở chỗ các kinh nghiệm tốt có trổi vượt hơn các kinh nghiệm xấu hay không.
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Slater, E., and Shields, J., Genetical Aspects of Anxiety in Studies of Anxiety, (ed. M. H. Lader), RMPA, 1969.
2. Price, J., British Journal of Psychiatry, Special Publication (1968) Nọ 2, 37.
3. Shields, J., Psychological Medicine, 1977, 7, 1, 7.
4. Erickson, E.H., Identity,Faber and Faber, 1968
5. Ibid. p. 96
6. Freud, S., Three Essays on Sexuality, Hogarth Press, 1968
7. Bowlby,J., Attachment and Loss,Vol.1: Attachment (1969) Vol. 2: Separation: Anxiety and Anger (1973); Vo. 3: Loss, sadness and Depression (1980). Hogarth Press.
8. Bowlby, J., The Making and Breaking of Affectional Bonds. Tavistock Publications, 1979
9. Erickson p. 109
10. Ibid. p.116
11. Bowlby, J., Affectional Bonds, p.137.
12 Freud, A., The Ego and the Mechanism of Defence. Hogarth Press, 1966.
13. Dominian, J., Cycles of Affirmation.Darton, Longman and Toff, 1975
Thánh Philipphê Phan Văn Minh và Hội Tao Đàn Quốc Ngữ (2)
Lê Đình thông
11:56 23/05/2008
Thánh Philipphê Phan Văn Minh ((1815-1853)
NHÀ THƠ VÀ NGỮ HỌC TIỀN PHONG
III - HỘI TAO ĐÀN QUỐC NGỮ:
1) Ý nghĩa văn học: Vua Lê Thánh Tôn có công lập ra Hội Tao Đàn (Quốc âm). Tiếp nối công trình của tiền nhân, thánh Phan Văn Minh lập ra Hội Tao Đàn Quốc ngữ, đặt tên là Hội Thi Xướng Họa Phi Năng. Thiết tưởng cũng cần kể đến bối cảnh văn học đã đưa đến việc thành lập hội thơ.
Vua Lê Thái Tông ( 黎 聖 宗 ) (1442-1497) chọn 28 văn thần sung Hội Tao Đàn, gọi là nhị thập bát tú ( 二 十 八 宿 ), cổ võ quốc âm. Hồng Đức Quốc âm Thi tập tập hợp các bài thơ sáng tác vào giai đoạn này.
Vào thời thánh Phan Văn Minh, tuy chữ quốc ngữ do Linh mục Alexandre de Rhodes (1591-1660) đã sáng tác từ thế kỷ XVII với việc ấn hành Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum do Ấn quán của Tòa Thánh ở Roma ấn hành năm 1651, nhưng việc trước tác sử dụng mẫu tự la tinh vẫn chưa thông dụng. Cụ Nguyễn Đình Chiểu sống đồng thời với thánh Phan Văn Minh, sáng tác Lục Vân Tiên bằng quốc âm. Thánh Phan Văn Minh có công trong việc ‘‘sửa đổi cách viết chữ quốc ngữ giống hệt như bây giờ’’ (Dương Quảng Hàm), đồng thời quảng bá việc sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác văn học.
Tập Nước Trời Ca tập hợp các bài thơ xướng họa viết bằng chữ quốc ngữ do thánh Phan Văn Minh khởi xướng. Tác giả đã giải thích về tên thi tập ‘‘Nước Trời’’ như sau:
Đời trước, Thiên cơ bất khả lậu,
Đời nay, Con Chúa đã ra đời.
Nho gia không còn chi ẩn giấu,
Mà khắp bốn phương thấy rạng ngời,
Thiên cơ chính thật: NƯỚC TRỜI.
XƯỚNG I
Da-tô Cơ-đốc Đấng Con Trời,
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng vương bá để xây đời.
Vâng lời Thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ,
Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời.
Philipphê Minh
Bài thơ xướng trên đây làm theo thể thất ngôn bát cú, luật bằng, gồm 8 câu x 7 chữ = 56 chữ đã tóm tắt lịch sử cứu chuộc:
1) Đề ( 题 ):
w Câu phá đề giới thiệu nhân vật lịch sử, vào thế kỷ XIX phiên âm là Da tô Cơ đốc, ngày nay viết là Giêsu Kitô.
w Câu thừa đề nói đến việc Chúa xuống thế làm người.
2) Thực ( 真 ) giải nghĩa Chúa Giêsu không dùng ‘‘lợi danh’’ hoặc ‘‘vương bá để xây đời’’.
3) Luận ( 論 ): Chúa vâng lời Ngôi Cha (Thiên Mệnh) chịu khổ giá thập hình.
4) Kết ( 结 ): Chúa lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường cho kiếp sống đời đời.
Bài xướng cho thấy thi sĩ thừa hưởng truyền thống Nho gia khi sử dụng các thuật từ thiên mệnh ( 天 命 ), dĩ nhược thắng cường ( 以 弱 胜 强 ).
Bài xướng của thánh Phan Văn Minh đã có 48 bài họa. Các bài từ 46 đến 48 họa sau khi thánh Minh được phúc tử đạo.
Sau bài Xướng trên đây, tác giả sang tác bài ‘‘Khai Hội Thơ Vịnh E Vang’’. E Vang là phiên âm của Évangile, ngày nay gọi là Phúc Âm hoặc Tin Mừng. Thánh Minh sáng tác hơn 30 bài vịnh như sau:
KHAI HỘI THƠ
VỊNH E-VANG
Gia cang, đất nước với thân danh,
Tô điểm E-vang tận gốc nhành.
Cơ cấu nhân sinh theo Đạo thanh,
Đốc-hành thế sự với tân thanh.
Con đường bác ái khi chung sống,
Đức độ công bằng lúc đấu tranh.
Chúa đã hoằng khai nguồn cứu rỗi,
Trời cao không bỏ kẻ ngay lành.
SỰ XÉT ĐOÁN
(Mt.7, 3-3. Lc 4,41-42)
Một chàng nho nhã, mặt thông minh,
Chỉ biết hắn ta khá giả hình.
Cọng rác mắt người thì chỉ trích,
Cây xà tròng hắn chẳng phê bình.
Dám khươi cọng rác nơi người khác.
Mà vứt cây xà ở mắt mình!
Tiên xử kỷ rồi hậu xử bỉ,
Ở đời như thế mới công bình.
XEM TRÁI BIẾT CÂY
(Mt 7,16-20)
Đời nhiều giả dối phải đo lường,
Xem trái biết cây ấy lẽ thường.
Quýt chua ai hái ở cam đường,
Công bằng chẳng mọc miền tham nhũng,
Bác ái không đơm đất nhiễu nhương.
Cây xấu bao giờ sinh trái tốt,
Luôn luôn nhận xét kẻo lầm đường.
NƯỚC TRỜI ĐÂU ?
Nước trời họ hỏi ở đâu?
Chẳng như đối tượng làm sao mà nhìn.
Nói rằng: ở đó … chớ tin,
Ở đây… chớ vội đinh ninh mà lầm.
Nước Trời ở tại chân tâm,
Luôn luôn tỉnh thức mà tầm đạo ngay.
TIỆC CƯỚI
(Mt 13,1-14. Lc 14, 15-24)
Nước Trời như một đế vương,
Lịnh truyền mở hội tân hôn linh đình.
Những người mời trước ghi danh,
Lính vua đến thỉnh mấy lần chẳng đi.
Họ rằng mua bán kịp thì,
Người tìm thăm bạn, kẻ thì ruộng nương.
Có người đánh lính trọng thương,
Hoặc làm sỉ nhục, giết luôn chẳng từ.
Vua đem ngàn lính có dư,
Bao vây tàn sát chúng như giết ruồi.
Đoạn truyền lính đến khắp nơi,
Gặp ai bất cứ cũng mời tham gia.
Ngoài trong khách đến đầy nhà,
Vua vào chủ tọa, nhìn qua các bàn.
Có người ăn mặc xuyềnh xoàng,
Vua rằng: “ lễ phục đàng hoàng ngươi đâu?”
Dạy đem hắn nhốt nhà lao
Là nơi giam phạt kẻ nào khi quân.
Xưa nay kêu gọi rộn ràng,
Nhưng khi chọn lực là phần ít hơn.
LÚA VÀ CỎ
(Mt 13, 24-30)
Nước Trời đưa xuống cánh đồng?
Như đem lúa tốt gieo trồng xinh tươi.
Kẻ thù thừa lúc tối trời,
Lén đi rải hột khắp nơi cỏ lùng.
Cả hai đua mọc xanh um,
Gia nhân xin chủ, nhân công tẩy trừ.
Rằng: “ không phân biệt thực hư
Chờ mùa gặt đến nông gia ôm về;
Lúa vào kho trữ một bề,
Cỏ quăng vào lửa không hề tắt đi.”
HỘT CẢI
(Mt, 13, 31-32. Mc 4, 30-33. Lc 13,18)
Nước Trời ví với vật chi,
Ví như hột cải tí ti đen tròn.
Gieo vào đất một thời gian,
Mọc lên đâm tược, nẩy cành sum suê.
Chim trời bốn hướng bay về,
Nắng thì núp bóng, mưa thì ẩn thân.
MEN CHẤT
(Mt 13, 35. Lc 13, 20-21)
Nước Trời sánh với vật chi,
Ví như men tốt, bỏ vào bột trong.
Vài hôm cảm thấy hơn nồng,
Xem ra bột trắng đã cùng dậy men.
TAY LƯỚI
(Mt 13, 45-47)
Nước đem xuống thế gian,
Ví như tay lưới bủa quang biển đời.
Kéo lên các giống cá tươi,
Lựa ra tốt xấu, xấu thời bỏ đi.
Thế gian tới lúc chung thì,
Người lành kẻ dữ, phân thì hai nơi.
Lành thì kiếp kiếp thảnh thơi,
Dữ thì bị phạt đời đời hỏa thiêu.
TÌM TRƯỚC HẾT
(Mt 6, 33. Lc 12, 31)
Việc tìm trước hết ở đời,
Là lo đoạt được Nước Trời mà thôi.
Sống theo công chính giữa đời,
Còn muôn điều khác Chúa Trời sẽ ban.
HŨ VÀNG
(Mt 13I,44)
Nước Trời như một hũ vàng,
Giấu trong thửa ruộng, một chàng biết qua.
Chàng về bán hết cửa nhà,
Xin mua ruộng đó để mà hộ thân.
KIM CƯƠNG
(Mt 13, 45-46)
Nước Trời như hột kim cương,
Lái buôn kia biết tìm đường tới mua.
Bán nhà ruộng đất không chừa,
Quyết mua cho được mới vừa lương tâm.
TÁI SINH
( Jn 3, 3-5)
Nước Trời mắt thịt chẳng nhìn,
Nhờ ơn trên giúp, tái sinh hẳn hòi.
Mới trông thấy được Nước Trời,
Tức là phối hợp nguồn vui trường tồn.
NGOÀI MÔI MIỆNG
(Mt 7,1)
Tưởng rằng lạy Chúa không thôi!
Thì là chiếm được Nước Trời ai ơi?
Thật là đời sống mổi người,
Làm theo Thánh Ý Chúa Trời mới nên.
KẺ GIÀU CÓ
(Mt 19, 22 -24. Mc 10, 20-22. Lc 17,19-30)
Kẻ giàu vô được Nước Trời,
Khó hơn hang chuột bắt voi chui vào
Lạc đà chui lỗ kim thâu,
Dễ hơn những kẻ sang giàu qui thiên.
NGÓ LẠI SAU
(Lc 9, 61)
Cầm cày mà ngó lại sau,
Thì không xứng đáng vào chưng Nước Trời.
Sự đời để lại cho đời,
Biết đàng dứt khoát là người khôn ngoan.
LÒNG NGHÈO KHÓ
(Mt 5, 3. Lc 6, 20)
Ai người một dạ thanh bần,
Vì chưng sẽ được sống an Nước Trời.
Kẻ nghèo cam chịu thiệt thòi,
Hơn thua cũng chẳng mấy hồi ai ơi.
BÉ THƠ
(Mt 30, 14. Mc 9, 14)
Quí thay xích tử chi tâm ?
Ngây thơ, đơn giản, chẳng ham vị đời.
Dễ dàng chiếm lấy Nước Trời,
Vì chưng chốn ấy của người bé thơ.
HỒI TÂM
(Mt 21 31 - 32)
Kiêu căng cắt đứt mối giềng,
Quá dùng lý trí, hết phương tư thời.
Hồi tâm đĩ điếm khắp nơi,
Gian nhơn tỉnh ngộ Nước Trời được vô.
CHO DÂN KHÁC
(Mt 21, 43)
Nước Trời đến với dân này,
Đã không chấp nhận còn gây bạo tàn.
Cho nên cất khỏi toàn dân,
Giao cho dân khác mở mang trí lòng.
HOẠN NHÂN
(Mt 19, 12)
Thật là cao quí vô chừng,
Những ai chịu hoạn vì chưng Nước Trời.
Là điều khó hiểu cho đời,
Nhưng mà ơn Chúa giúp người độc thân.
CẢN TRỞ
(Mt 23, 13)
Khốn ai giáo lý cầm tay,
Cản người thiện chí vào ngay Nước Trời.
Dựa theo lý luận người đời,
Làm cho mờ ám lòng người ngây ngô.
LỚN NHỎ
(Mt 5, 19)
Giới răn Chúa dạy muôn loài,
Ai sai điều nhỏ mà bày kẻ theo.
Nước Trời kẻ ấy tí teo,
Còn ai giữ trọn mà kêu bảo người.
Họ là lớn nhứt Nước Trời,
Ai nghe xin hiểu những lời trên đây.
TẬP LUYỆN
(Mt 18I, 4)
Lời Thầy chí thánh dặn dò,
Tâm hồn của trẻ bé thơ nhứt đời,
Rán mà tập luyện kịp thời,
Đó là trọng vọng Nước Trời mai sau,
THẤY PHÉP LẠ
(Mt 12, 28. Lc 9, 20)
Da-tô dùng phép Thánh Linh,
Diệt trừ ma quỉ, huờn sinh loài người.
Nước Trời đã đến đây rồi,
Cho người đừng thấy, ấy đời tối tăm.
CỐ GẮNG
(Mt 11, 12. Lc16, 16)
Kể từ Giăng-Bạch qua đời,
Các thế Nước Trời, đón kẻ gắng công.
Còn ai tâm trí bất đồng,
Chẳng bao giờ được cảm thông Nước Trời.
Kể từ Giăng-Bạch hy sinh,
Kẻ nào đem hết sức mình không lơi.
Mới trông chiếm được Nước Trời,
Là trang dũng mãnh, là người khôn ngoan.
BÁO TIN
(Mt 10, 7. Lc 10, 9)
Hãy đi khắp các nẻo đường,
Báo tin thiên hạ Nước Trời đến đây.
Bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây,
Báo tin thế giới được hay Nước Trời.
Nước Trời đến giữa loài người,
Ngày nay ứng nghiệm các lời Sấm Kinh.
TỪ SA MẠC
(Mt 3, 2)
Tiếng từ sa mạc sơn lâm,
Vang lên kêu gọi: “Hồi tâm sẵn sàng.
Nước Trời nay đã đến gần,
Kiến nhi bất thủ như tầm dậm xa.”
ĐƯỢC MỜI
(Lc 19, 15)
Phúc thay những kẻ được mời,
Dự vào đại yến Nước Trời hiển vinh.
Vì chưng họ sống đức tin,
Cuộc đời xử sự: công bình, ái nhân.
BỊ ĐUỔI
(Mt 7I, 12. Lc 13, 28)
Áp-ram Gia-cóp tổ tông,
Tiên tri các Đấng ngồi trong Nước Trời.
Nhưng mà miêu duệ hậu thời,
Có phần bị đuổi ra nơi khổ hình.
Chỉ vì con cháu chẳng tin,
Chạy theo phù phiếm còn khinh ông bà.
ĐIỀU SAU CÙNG
(Mt 24, 14. Lc 13, 10)
Khi nghe ách nước tai trời,
Xảy ra khắp chốn liên hồi đó đây.
Cũng là biến cố xưa nay,
Loài người chưa phải đến ngày cáo chung.
Nhưng khi thiên hạ các vùng,
E-vang phổ cập đến cùng khắp nơi.
Muôn dân đủ các giống nòi,
Thảy đều thấy rõ Nước Trời siêu nhân.
Bấy giờ chấm dứt thời gian,
Đến thời chung phẩm, hạ màng thế gian.
Ngoài các bài vịnh Phúc âm, thánh Phan Văn Minh còn xướng họa với ông Đồ Ốc, dạy học, bốc thuốc ở Giồng Găng, Lâm Vồ, tỉnh Ba Tri (nay là tỉnh Bến Tre). Khoảng năm 1845, nhân thầy Phan Văn Minh về Ba Giồng chữa bệnh, ông Đồ Ốc đến thăm, xướng họa cùng thánh nhân.
XƯỚNG
Da-tô Cơ-đốc Đấng Con Trời
Đặt cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng vương bá để xây đời.
Vâng lời thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ,
Kiếp sau hiện hữu sống muôn thời.
Phil. Phan Văn Minh
HỌA
Thế gian vạn sự nói do Trời,
Nhưng tại làm sao vạn sự khổ khắp nơi?
Cứu khổ đã nêu bên đạo Chúa,
Giải nguy chưa thấy phía người đời.
Triều đình Nam-quốc xô không ngã,
Đạo trưởng Tây phương bám chẳng rơi.
Đã đẩy giáo nhơn vào thế khổ,
Vậy ai phải chịu bất tri thời.
Đồ Ốc
ĐÁP HỌA VẬN
Cai trị thế gian luật của Trời,
Có yên có khổ cũng tùy nơi.
Tranh danh: oán hận do người thế,
Giành lợi: chiến tranh lại thói đời.
Thuốc bổ vào người sinh thuận, nghịch,
Đạo ngay nhập thế có xuôi, rơi.
Xưa nay đau khổ do tham vọng,
Lịch sử chứng minh kẻ thức thời.
Phil. Phan Văn Minh
HỌA
Đau khổ xưa nay vốn tại Trời,
Thất mùa ôn dịch khắp nơi nơi.
Thủy tai chôn lấp bao nhiêu mạng,
Địa chấn nát tan mấy cuộc đời.
Khổ đó con người làm chẳng được,
Nạn này, Tạo Hóa trút đầy nơi.
Thiên tai, đại nạn, Trời làm cả,
Nhân loại chỉ gây giặc nhứt thời.
Đồ Ốc
ĐÁP HỌA VẬN
Sống ở thế gian chẳng khỏi Trời,
Khác nào loài cá khắp nơi nơi.
Sông sâu khỏe xác tha hồ lội,
Sông cạn, phơi thây há trách đời.
Cá có oán sông lên hoặc xuống,
Mình không biết nước lớn hay vơi.
Dĩ nhiên phải chịu vì không biết,
Thượng bất oán Thiên, lẽ thức thời.
Phil. Phan Văn Minh
2) Ý nghĩa tôn giáo: Ngoài ý nghĩa văn học, việc thành lập Tao đàn Phi Năng còn có ý nghĩa tôn giáo. Thánh nhân mời gọi thi nhân mặc khách tham gia Tao Đàn, họa thơ vừa để quảng bá chữ quốc ngữ còn ở giai đoạn sơ khai, lại vừa để cụ thể hóa Thánh vịnh 98.
Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt,
Nương hạc cầm réo rắt tiếng ca.
Thánh vịnh 98 là kinh thơ tứ hải giai huynh đệ, thế giới kinh nguyện đại đồng trong Giáo Hội là ngôi nhà chung (Église collégiale), mỗi người chung lưng góp sức, thi nhân cùng góp vần thơ. Công việc của thánh nhân đã đạt được kết quả mong muốn, các bài họa nguyên vận không những nhiều về số lượng mà cả về phẩm chất. Tất cả đều thể hiện cố gắng chung là tạo không khí cầu nguyện bằng thi ca, theo truyền thống Thánh vịnh.
KẾT LUẬN:
Sự nghiệp văn học của thánh Philipphê Phan Văn Minh được đánh dấu bằng nhiều bài thơ quốc ngữ đủ thể loại, từ lục bát đến ngũ ngôn, từ song thất lục bát đến thất ngôn bát cú. Vì muốn giữ gìn sự trong sáng của chữ quốc ngữ trong buổi giao thời, khác với các văn nhân mặc khách cùng thời có khuynh hướng sử dụng chữ Hán, thánh nhân chú trọng đến việc dùng chữ quốc ngữ. Sự uyên bác Hán tự của thánh nhân chỉ được chứng tỏ qua mấy chữ Hán viết trên mộ bia. Niên biểu in trong Phi Năng Thi tập trình thuật cuộc khổ nạn của Thánh Minh: Qua sông Long Hồ bằng ghe, thánh nhân bị dẫn giải đến rạch Cái Mơn Bé, trở thành Pháp trường Đình Khao. Cha ngước mắt cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu cho con trong cơn lâm chung nguy biến này. Lạy Chúa, xin thương xót con. Xin chúa ban cho con đặng mạnh sức mà chịu đau khổ cho sáng danh Chúa. Lạy Chúa, xin tha muôn vàn tội lỗi cho con. Lạy Mẹ Maria, xin giúp sức cho con. Trời đang nắng chói chang bỗng dịu mát, quan giám sát hô to: Tà đao cứ việc. Đầu thánh Minh rơi xuống. Bổn đạo rước xác ngài về nhà thờ Cái Nhum an táng ngày 6-7-1853, thánh giá trên phần mộ khắc ghi:
Linh Mục Phi Lý Bá Minh Tử Vì Đạo
靈 牧 丕 理 播 明 死 爲 道
w Linh Mục Tử Vì Đạo: ý nghĩa đã sáng tỏ. Nhưng tại sao lại là Phi Lý ?
w Phi Lý là dịch âm: Philipphê. Nhưng Phi Lý không phải là phi lý theo ý nghĩa thông thường:
Phi 丕 (bộ Nhất 一) có nghĩa là lớn lao
Lý 理 (bộ Ngọc 玉) có nghĩa là cái đạo tự nhiên (Thiều Chửu)
Như vậy, từ ý nghĩa ‘‘không hợp lẽ phải‘’ (phi lý), Phi Lý trở thành đạo trời tự nhiên, cao cả.
Chúng tôi xin mượn bản tụng ca tán dương công đức của các anh hùng tử đạo nước Việt của thi sĩ Lương Nhi Tử để kết thúc cho bài nói chuyện hôm nay:
Họ là ai những anh hùng tử đạo ?
Là Quan cao, Cai, Đội, Tổng, thường dân,
Là Linh mục, là Tu sĩ, Giáo dân,
Là Chủng sinh, là Trùm họ, Thầy giảng.
Là Giám mục, y, thương gia, lính tráng.
Tóc hoa râm, tuyết trắng hay còn xanh
Là nam nữ nổi tiếng hay vô danh
Tên tuổi đủ hay mơ hồ khuyếm khuyết...
Họ là ai trong số ít được biết,
Thuộc dòng tộc Lê, Nguyễn, Phạm, Trần, Hoàng
Chi Đinh, Trương, Đỗ, Vũ, Tống, Bùi, Đoàn
Ngành Phan, Võ hay Hà, Hồ, Tạ, Đặng ?
. .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Họ là ai muôn đời quên sao được
Lấy máu đào viết Giáo Sử Quê hương
Gieo vào lòng đất mẹ hạt yêu thương
Bằng hàng trăm ngàn con tim bác ái…
Lạy tiên tổ vô cùng thánh ái,
Giúp chúng con vững chãi niềm tin.
Trung kiên thờ Chúa hết mình,
Đi đâu vẫn thắm mối tình Việt Nam.
NHÀ THƠ VÀ NGỮ HỌC TIỀN PHONG
III - HỘI TAO ĐÀN QUỐC NGỮ:
1) Ý nghĩa văn học: Vua Lê Thánh Tôn có công lập ra Hội Tao Đàn (Quốc âm). Tiếp nối công trình của tiền nhân, thánh Phan Văn Minh lập ra Hội Tao Đàn Quốc ngữ, đặt tên là Hội Thi Xướng Họa Phi Năng. Thiết tưởng cũng cần kể đến bối cảnh văn học đã đưa đến việc thành lập hội thơ.
Vua Lê Thái Tông ( 黎 聖 宗 ) (1442-1497) chọn 28 văn thần sung Hội Tao Đàn, gọi là nhị thập bát tú ( 二 十 八 宿 ), cổ võ quốc âm. Hồng Đức Quốc âm Thi tập tập hợp các bài thơ sáng tác vào giai đoạn này.
Vào thời thánh Phan Văn Minh, tuy chữ quốc ngữ do Linh mục Alexandre de Rhodes (1591-1660) đã sáng tác từ thế kỷ XVII với việc ấn hành Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum do Ấn quán của Tòa Thánh ở Roma ấn hành năm 1651, nhưng việc trước tác sử dụng mẫu tự la tinh vẫn chưa thông dụng. Cụ Nguyễn Đình Chiểu sống đồng thời với thánh Phan Văn Minh, sáng tác Lục Vân Tiên bằng quốc âm. Thánh Phan Văn Minh có công trong việc ‘‘sửa đổi cách viết chữ quốc ngữ giống hệt như bây giờ’’ (Dương Quảng Hàm), đồng thời quảng bá việc sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác văn học.
Tập Nước Trời Ca tập hợp các bài thơ xướng họa viết bằng chữ quốc ngữ do thánh Phan Văn Minh khởi xướng. Tác giả đã giải thích về tên thi tập ‘‘Nước Trời’’ như sau:
Đời trước, Thiên cơ bất khả lậu,
Đời nay, Con Chúa đã ra đời.
Nho gia không còn chi ẩn giấu,
Mà khắp bốn phương thấy rạng ngời,
Thiên cơ chính thật: NƯỚC TRỜI.
XƯỚNG I
Da-tô Cơ-đốc Đấng Con Trời,
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng vương bá để xây đời.
Vâng lời Thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ,
Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời.
Philipphê Minh
Bài thơ xướng trên đây làm theo thể thất ngôn bát cú, luật bằng, gồm 8 câu x 7 chữ = 56 chữ đã tóm tắt lịch sử cứu chuộc:
1) Đề ( 题 ):
w Câu phá đề giới thiệu nhân vật lịch sử, vào thế kỷ XIX phiên âm là Da tô Cơ đốc, ngày nay viết là Giêsu Kitô.
w Câu thừa đề nói đến việc Chúa xuống thế làm người.
2) Thực ( 真 ) giải nghĩa Chúa Giêsu không dùng ‘‘lợi danh’’ hoặc ‘‘vương bá để xây đời’’.
3) Luận ( 論 ): Chúa vâng lời Ngôi Cha (Thiên Mệnh) chịu khổ giá thập hình.
4) Kết ( 结 ): Chúa lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường cho kiếp sống đời đời.
Bài xướng cho thấy thi sĩ thừa hưởng truyền thống Nho gia khi sử dụng các thuật từ thiên mệnh ( 天 命 ), dĩ nhược thắng cường ( 以 弱 胜 强 ).
Bài xướng của thánh Phan Văn Minh đã có 48 bài họa. Các bài từ 46 đến 48 họa sau khi thánh Minh được phúc tử đạo.
Sau bài Xướng trên đây, tác giả sang tác bài ‘‘Khai Hội Thơ Vịnh E Vang’’. E Vang là phiên âm của Évangile, ngày nay gọi là Phúc Âm hoặc Tin Mừng. Thánh Minh sáng tác hơn 30 bài vịnh như sau:
KHAI HỘI THƠ
VỊNH E-VANG
Gia cang, đất nước với thân danh,
Tô điểm E-vang tận gốc nhành.
Cơ cấu nhân sinh theo Đạo thanh,
Đốc-hành thế sự với tân thanh.
Con đường bác ái khi chung sống,
Đức độ công bằng lúc đấu tranh.
Chúa đã hoằng khai nguồn cứu rỗi,
Trời cao không bỏ kẻ ngay lành.
SỰ XÉT ĐOÁN
(Mt.7, 3-3. Lc 4,41-42)
Một chàng nho nhã, mặt thông minh,
Chỉ biết hắn ta khá giả hình.
Cọng rác mắt người thì chỉ trích,
Cây xà tròng hắn chẳng phê bình.
Dám khươi cọng rác nơi người khác.
Mà vứt cây xà ở mắt mình!
Tiên xử kỷ rồi hậu xử bỉ,
Ở đời như thế mới công bình.
XEM TRÁI BIẾT CÂY
(Mt 7,16-20)
Đời nhiều giả dối phải đo lường,
Xem trái biết cây ấy lẽ thường.
Quýt chua ai hái ở cam đường,
Công bằng chẳng mọc miền tham nhũng,
Bác ái không đơm đất nhiễu nhương.
Cây xấu bao giờ sinh trái tốt,
Luôn luôn nhận xét kẻo lầm đường.
NƯỚC TRỜI ĐÂU ?
Nước trời họ hỏi ở đâu?
Chẳng như đối tượng làm sao mà nhìn.
Nói rằng: ở đó … chớ tin,
Ở đây… chớ vội đinh ninh mà lầm.
Nước Trời ở tại chân tâm,
Luôn luôn tỉnh thức mà tầm đạo ngay.
TIỆC CƯỚI
(Mt 13,1-14. Lc 14, 15-24)
Nước Trời như một đế vương,
Lịnh truyền mở hội tân hôn linh đình.
Những người mời trước ghi danh,
Lính vua đến thỉnh mấy lần chẳng đi.
Họ rằng mua bán kịp thì,
Người tìm thăm bạn, kẻ thì ruộng nương.
Có người đánh lính trọng thương,
Hoặc làm sỉ nhục, giết luôn chẳng từ.
Vua đem ngàn lính có dư,
Bao vây tàn sát chúng như giết ruồi.
Đoạn truyền lính đến khắp nơi,
Gặp ai bất cứ cũng mời tham gia.
Ngoài trong khách đến đầy nhà,
Vua vào chủ tọa, nhìn qua các bàn.
Có người ăn mặc xuyềnh xoàng,
Vua rằng: “ lễ phục đàng hoàng ngươi đâu?”
Dạy đem hắn nhốt nhà lao
Là nơi giam phạt kẻ nào khi quân.
Xưa nay kêu gọi rộn ràng,
Nhưng khi chọn lực là phần ít hơn.
LÚA VÀ CỎ
(Mt 13, 24-30)
Nước Trời đưa xuống cánh đồng?
Như đem lúa tốt gieo trồng xinh tươi.
Kẻ thù thừa lúc tối trời,
Lén đi rải hột khắp nơi cỏ lùng.
Cả hai đua mọc xanh um,
Gia nhân xin chủ, nhân công tẩy trừ.
Rằng: “ không phân biệt thực hư
Chờ mùa gặt đến nông gia ôm về;
Lúa vào kho trữ một bề,
Cỏ quăng vào lửa không hề tắt đi.”
HỘT CẢI
(Mt, 13, 31-32. Mc 4, 30-33. Lc 13,18)
Nước Trời ví với vật chi,
Ví như hột cải tí ti đen tròn.
Gieo vào đất một thời gian,
Mọc lên đâm tược, nẩy cành sum suê.
Chim trời bốn hướng bay về,
Nắng thì núp bóng, mưa thì ẩn thân.
MEN CHẤT
(Mt 13, 35. Lc 13, 20-21)
Nước Trời sánh với vật chi,
Ví như men tốt, bỏ vào bột trong.
Vài hôm cảm thấy hơn nồng,
Xem ra bột trắng đã cùng dậy men.
TAY LƯỚI
(Mt 13, 45-47)
Nước đem xuống thế gian,
Ví như tay lưới bủa quang biển đời.
Kéo lên các giống cá tươi,
Lựa ra tốt xấu, xấu thời bỏ đi.
Thế gian tới lúc chung thì,
Người lành kẻ dữ, phân thì hai nơi.
Lành thì kiếp kiếp thảnh thơi,
Dữ thì bị phạt đời đời hỏa thiêu.
TÌM TRƯỚC HẾT
(Mt 6, 33. Lc 12, 31)
Việc tìm trước hết ở đời,
Là lo đoạt được Nước Trời mà thôi.
Sống theo công chính giữa đời,
Còn muôn điều khác Chúa Trời sẽ ban.
HŨ VÀNG
(Mt 13I,44)
Nước Trời như một hũ vàng,
Giấu trong thửa ruộng, một chàng biết qua.
Chàng về bán hết cửa nhà,
Xin mua ruộng đó để mà hộ thân.
KIM CƯƠNG
(Mt 13, 45-46)
Nước Trời như hột kim cương,
Lái buôn kia biết tìm đường tới mua.
Bán nhà ruộng đất không chừa,
Quyết mua cho được mới vừa lương tâm.
TÁI SINH
( Jn 3, 3-5)
Nước Trời mắt thịt chẳng nhìn,
Nhờ ơn trên giúp, tái sinh hẳn hòi.
Mới trông thấy được Nước Trời,
Tức là phối hợp nguồn vui trường tồn.
NGOÀI MÔI MIỆNG
(Mt 7,1)
Tưởng rằng lạy Chúa không thôi!
Thì là chiếm được Nước Trời ai ơi?
Thật là đời sống mổi người,
Làm theo Thánh Ý Chúa Trời mới nên.
KẺ GIÀU CÓ
(Mt 19, 22 -24. Mc 10, 20-22. Lc 17,19-30)
Kẻ giàu vô được Nước Trời,
Khó hơn hang chuột bắt voi chui vào
Lạc đà chui lỗ kim thâu,
Dễ hơn những kẻ sang giàu qui thiên.
NGÓ LẠI SAU
(Lc 9, 61)
Cầm cày mà ngó lại sau,
Thì không xứng đáng vào chưng Nước Trời.
Sự đời để lại cho đời,
Biết đàng dứt khoát là người khôn ngoan.
LÒNG NGHÈO KHÓ
(Mt 5, 3. Lc 6, 20)
Ai người một dạ thanh bần,
Vì chưng sẽ được sống an Nước Trời.
Kẻ nghèo cam chịu thiệt thòi,
Hơn thua cũng chẳng mấy hồi ai ơi.
BÉ THƠ
(Mt 30, 14. Mc 9, 14)
Quí thay xích tử chi tâm ?
Ngây thơ, đơn giản, chẳng ham vị đời.
Dễ dàng chiếm lấy Nước Trời,
Vì chưng chốn ấy của người bé thơ.
HỒI TÂM
(Mt 21 31 - 32)
Kiêu căng cắt đứt mối giềng,
Quá dùng lý trí, hết phương tư thời.
Hồi tâm đĩ điếm khắp nơi,
Gian nhơn tỉnh ngộ Nước Trời được vô.
CHO DÂN KHÁC
(Mt 21, 43)
Nước Trời đến với dân này,
Đã không chấp nhận còn gây bạo tàn.
Cho nên cất khỏi toàn dân,
Giao cho dân khác mở mang trí lòng.
HOẠN NHÂN
(Mt 19, 12)
Thật là cao quí vô chừng,
Những ai chịu hoạn vì chưng Nước Trời.
Là điều khó hiểu cho đời,
Nhưng mà ơn Chúa giúp người độc thân.
CẢN TRỞ
(Mt 23, 13)
Khốn ai giáo lý cầm tay,
Cản người thiện chí vào ngay Nước Trời.
Dựa theo lý luận người đời,
Làm cho mờ ám lòng người ngây ngô.
LỚN NHỎ
(Mt 5, 19)
Giới răn Chúa dạy muôn loài,
Ai sai điều nhỏ mà bày kẻ theo.
Nước Trời kẻ ấy tí teo,
Còn ai giữ trọn mà kêu bảo người.
Họ là lớn nhứt Nước Trời,
Ai nghe xin hiểu những lời trên đây.
TẬP LUYỆN
(Mt 18I, 4)
Lời Thầy chí thánh dặn dò,
Tâm hồn của trẻ bé thơ nhứt đời,
Rán mà tập luyện kịp thời,
Đó là trọng vọng Nước Trời mai sau,
THẤY PHÉP LẠ
(Mt 12, 28. Lc 9, 20)
Da-tô dùng phép Thánh Linh,
Diệt trừ ma quỉ, huờn sinh loài người.
Nước Trời đã đến đây rồi,
Cho người đừng thấy, ấy đời tối tăm.
CỐ GẮNG
(Mt 11, 12. Lc16, 16)
Kể từ Giăng-Bạch qua đời,
Các thế Nước Trời, đón kẻ gắng công.
Còn ai tâm trí bất đồng,
Chẳng bao giờ được cảm thông Nước Trời.
Kể từ Giăng-Bạch hy sinh,
Kẻ nào đem hết sức mình không lơi.
Mới trông chiếm được Nước Trời,
Là trang dũng mãnh, là người khôn ngoan.
BÁO TIN
(Mt 10, 7. Lc 10, 9)
Hãy đi khắp các nẻo đường,
Báo tin thiên hạ Nước Trời đến đây.
Bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây,
Báo tin thế giới được hay Nước Trời.
Nước Trời đến giữa loài người,
Ngày nay ứng nghiệm các lời Sấm Kinh.
TỪ SA MẠC
(Mt 3, 2)
Tiếng từ sa mạc sơn lâm,
Vang lên kêu gọi: “Hồi tâm sẵn sàng.
Nước Trời nay đã đến gần,
Kiến nhi bất thủ như tầm dậm xa.”
ĐƯỢC MỜI
(Lc 19, 15)
Phúc thay những kẻ được mời,
Dự vào đại yến Nước Trời hiển vinh.
Vì chưng họ sống đức tin,
Cuộc đời xử sự: công bình, ái nhân.
BỊ ĐUỔI
(Mt 7I, 12. Lc 13, 28)
Áp-ram Gia-cóp tổ tông,
Tiên tri các Đấng ngồi trong Nước Trời.
Nhưng mà miêu duệ hậu thời,
Có phần bị đuổi ra nơi khổ hình.
Chỉ vì con cháu chẳng tin,
Chạy theo phù phiếm còn khinh ông bà.
ĐIỀU SAU CÙNG
(Mt 24, 14. Lc 13, 10)
Khi nghe ách nước tai trời,
Xảy ra khắp chốn liên hồi đó đây.
Cũng là biến cố xưa nay,
Loài người chưa phải đến ngày cáo chung.
Nhưng khi thiên hạ các vùng,
E-vang phổ cập đến cùng khắp nơi.
Muôn dân đủ các giống nòi,
Thảy đều thấy rõ Nước Trời siêu nhân.
Bấy giờ chấm dứt thời gian,
Đến thời chung phẩm, hạ màng thế gian.
Ngoài các bài vịnh Phúc âm, thánh Phan Văn Minh còn xướng họa với ông Đồ Ốc, dạy học, bốc thuốc ở Giồng Găng, Lâm Vồ, tỉnh Ba Tri (nay là tỉnh Bến Tre). Khoảng năm 1845, nhân thầy Phan Văn Minh về Ba Giồng chữa bệnh, ông Đồ Ốc đến thăm, xướng họa cùng thánh nhân.
XƯỚNG
Da-tô Cơ-đốc Đấng Con Trời
Đặt cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng vương bá để xây đời.
Vâng lời thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ,
Kiếp sau hiện hữu sống muôn thời.
Phil. Phan Văn Minh
HỌA
Thế gian vạn sự nói do Trời,
Nhưng tại làm sao vạn sự khổ khắp nơi?
Cứu khổ đã nêu bên đạo Chúa,
Giải nguy chưa thấy phía người đời.
Triều đình Nam-quốc xô không ngã,
Đạo trưởng Tây phương bám chẳng rơi.
Đã đẩy giáo nhơn vào thế khổ,
Vậy ai phải chịu bất tri thời.
Đồ Ốc
ĐÁP HỌA VẬN
Cai trị thế gian luật của Trời,
Có yên có khổ cũng tùy nơi.
Tranh danh: oán hận do người thế,
Giành lợi: chiến tranh lại thói đời.
Thuốc bổ vào người sinh thuận, nghịch,
Đạo ngay nhập thế có xuôi, rơi.
Xưa nay đau khổ do tham vọng,
Lịch sử chứng minh kẻ thức thời.
Phil. Phan Văn Minh
HỌA
Đau khổ xưa nay vốn tại Trời,
Thất mùa ôn dịch khắp nơi nơi.
Thủy tai chôn lấp bao nhiêu mạng,
Địa chấn nát tan mấy cuộc đời.
Khổ đó con người làm chẳng được,
Nạn này, Tạo Hóa trút đầy nơi.
Thiên tai, đại nạn, Trời làm cả,
Nhân loại chỉ gây giặc nhứt thời.
Đồ Ốc
ĐÁP HỌA VẬN
Sống ở thế gian chẳng khỏi Trời,
Khác nào loài cá khắp nơi nơi.
Sông sâu khỏe xác tha hồ lội,
Sông cạn, phơi thây há trách đời.
Cá có oán sông lên hoặc xuống,
Mình không biết nước lớn hay vơi.
Dĩ nhiên phải chịu vì không biết,
Thượng bất oán Thiên, lẽ thức thời.
Phil. Phan Văn Minh
2) Ý nghĩa tôn giáo: Ngoài ý nghĩa văn học, việc thành lập Tao đàn Phi Năng còn có ý nghĩa tôn giáo. Thánh nhân mời gọi thi nhân mặc khách tham gia Tao Đàn, họa thơ vừa để quảng bá chữ quốc ngữ còn ở giai đoạn sơ khai, lại vừa để cụ thể hóa Thánh vịnh 98.
Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt,
Nương hạc cầm réo rắt tiếng ca.
Thánh vịnh 98 là kinh thơ tứ hải giai huynh đệ, thế giới kinh nguyện đại đồng trong Giáo Hội là ngôi nhà chung (Église collégiale), mỗi người chung lưng góp sức, thi nhân cùng góp vần thơ. Công việc của thánh nhân đã đạt được kết quả mong muốn, các bài họa nguyên vận không những nhiều về số lượng mà cả về phẩm chất. Tất cả đều thể hiện cố gắng chung là tạo không khí cầu nguyện bằng thi ca, theo truyền thống Thánh vịnh.
KẾT LUẬN:
Sự nghiệp văn học của thánh Philipphê Phan Văn Minh được đánh dấu bằng nhiều bài thơ quốc ngữ đủ thể loại, từ lục bát đến ngũ ngôn, từ song thất lục bát đến thất ngôn bát cú. Vì muốn giữ gìn sự trong sáng của chữ quốc ngữ trong buổi giao thời, khác với các văn nhân mặc khách cùng thời có khuynh hướng sử dụng chữ Hán, thánh nhân chú trọng đến việc dùng chữ quốc ngữ. Sự uyên bác Hán tự của thánh nhân chỉ được chứng tỏ qua mấy chữ Hán viết trên mộ bia. Niên biểu in trong Phi Năng Thi tập trình thuật cuộc khổ nạn của Thánh Minh: Qua sông Long Hồ bằng ghe, thánh nhân bị dẫn giải đến rạch Cái Mơn Bé, trở thành Pháp trường Đình Khao. Cha ngước mắt cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu cho con trong cơn lâm chung nguy biến này. Lạy Chúa, xin thương xót con. Xin chúa ban cho con đặng mạnh sức mà chịu đau khổ cho sáng danh Chúa. Lạy Chúa, xin tha muôn vàn tội lỗi cho con. Lạy Mẹ Maria, xin giúp sức cho con. Trời đang nắng chói chang bỗng dịu mát, quan giám sát hô to: Tà đao cứ việc. Đầu thánh Minh rơi xuống. Bổn đạo rước xác ngài về nhà thờ Cái Nhum an táng ngày 6-7-1853, thánh giá trên phần mộ khắc ghi:
Linh Mục Phi Lý Bá Minh Tử Vì Đạo
靈 牧 丕 理 播 明 死 爲 道
w Linh Mục Tử Vì Đạo: ý nghĩa đã sáng tỏ. Nhưng tại sao lại là Phi Lý ?
w Phi Lý là dịch âm: Philipphê. Nhưng Phi Lý không phải là phi lý theo ý nghĩa thông thường:
Phi 丕 (bộ Nhất 一) có nghĩa là lớn lao
Lý 理 (bộ Ngọc 玉) có nghĩa là cái đạo tự nhiên (Thiều Chửu)
Như vậy, từ ý nghĩa ‘‘không hợp lẽ phải‘’ (phi lý), Phi Lý trở thành đạo trời tự nhiên, cao cả.
Chúng tôi xin mượn bản tụng ca tán dương công đức của các anh hùng tử đạo nước Việt của thi sĩ Lương Nhi Tử để kết thúc cho bài nói chuyện hôm nay:
Họ là ai những anh hùng tử đạo ?
Là Quan cao, Cai, Đội, Tổng, thường dân,
Là Linh mục, là Tu sĩ, Giáo dân,
Là Chủng sinh, là Trùm họ, Thầy giảng.
Là Giám mục, y, thương gia, lính tráng.
Tóc hoa râm, tuyết trắng hay còn xanh
Là nam nữ nổi tiếng hay vô danh
Tên tuổi đủ hay mơ hồ khuyếm khuyết...
Họ là ai trong số ít được biết,
Thuộc dòng tộc Lê, Nguyễn, Phạm, Trần, Hoàng
Chi Đinh, Trương, Đỗ, Vũ, Tống, Bùi, Đoàn
Ngành Phan, Võ hay Hà, Hồ, Tạ, Đặng ?
. .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Họ là ai muôn đời quên sao được
Lấy máu đào viết Giáo Sử Quê hương
Gieo vào lòng đất mẹ hạt yêu thương
Bằng hàng trăm ngàn con tim bác ái…
Lạy tiên tổ vô cùng thánh ái,
Giúp chúng con vững chãi niềm tin.
Trung kiên thờ Chúa hết mình,
Đi đâu vẫn thắm mối tình Việt Nam.
Thánh Philippê Phan Văn Minh: Nhà thơ và Nhà ngữ học tiền phong (1)
Lê Đình Thông
12:15 23/05/2008
Thánh Philippê Phan Văn Minh (1815-1853)
NHÀ THƠ VÀ NGỮ HỌC TIỀN PHONG
(Bài nói chuyện trong khuôn khổ Ngày Văn Hóa và Sinh Nhật thứ XVIII Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Paris tổ chức ngày 30-3-2008).
«Di ảnh thánh Philipphê Phan Văn Minh được cất giữ tại Đan Viện Carmel (Cát Minh), 33 đường Cường Để Saigon. Mặt khác, Đại Chủng Viện Pénang (Mã Lai), nơi thánh Philipphê Phan Văn Minh tu học cùng với các thánh tử đạo khác là Phêrô Đoàn Công Quý, Phaolô Lê Văn Lộc, Gioan Đoàn Trinh Hoan và Phêrô Nguyễn Văn Lựu cũng tôn kính di ảnh ngài. (Ngày nay, Đại Chủng Viện Pénang trực thuộc Giáo Hoàng Học Viện Urbani Roma). Trường San Juan de Latran ở thủ đô Manila dựng tượng thánh Phan Văn Minh. Đại Chủng Viện Pénang là nơi đào tạo cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài (Thư Viện Giáo Xứ đã tổ chức nói chuyện về sự nghiệp văn học của Cụ Nguyễn Hữu Bài do GS Vũ Quốc Thúc và Luật sư Lê Trọng Quát trinh bày). Theo nhà văn Võ Long Tê: ‘‘Ông Nguyễn Văn Hiệp, trụ trì Bửu Long tự có đến thưa với Đức Cha Nguyễn Văn Diệp, Phó Giám mục Vĩnh Long rằng: Theo lưu truyền từ đời trước, chùa thờ bài vị thánh Minh Tử đạo và bài vị ấy đã trao cho Tòa Giám mục Vĩnh Long khoảng 1957-1958. Nay chùa muốn xin lại một bài vị khác để thờ.’’. Nhà văn Phạm Đình Khiêm cho biết tiểu sử thánh Philipphê Phan Văn Minh đã được đưa lên màn ảnh qua cuốn phim ‘‘Áo Dòng Đẫm Máu’’.
20 tháng 3 dương lịch là ngày lập xuân. Ngày Văn Hóa Thư Viện năm nay kỷ niệm 20 năm phong thánh 117 Anh hùng Tử đạo Việt Nam và 155 năm thánh Philipphê Phan Văn Minh tử đạo (1853-2008). Thánh Phan Văn Minh là nhà điển ngữ và nhà thơ tiền phong của văn học quốc ngữ. Trong Dictionarium anamitico-latinum (Tự điển Việt-La tinh) xuất bản năm 1838 do Ngài biên soạn cùng với Đức Cha Taberd, thánh nhân đã dẫn chứng bài ngũ ngôn Tứ Thời (四 时) của Thôi Hiệu để giải nghĩa ‘‘cách thức đặt thơ năm chữ’’. Bài ngũ ngôn như sau:
Xuân du phương thảo địa,
春 遊 芳 草 地,
Hạ thưởng lục hà trì.
夏 賞 綠 荷 池,
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
秋 飲 黃 菊 酒,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
冬 吟 白 雪 詩.
Thánh Minh trích dẫn ngũ ngôn. Bằng không, hẳn là thi nhân đã chọn bài Tứ Thời của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chỗ lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao.
Vì trích dẫn trong Tự điển Việt-La tinh, thánh Phan Văn Minh đã dịch bài ngũ ngôn của Thôi Hiệu sang tiếng La tinh như sau:
Vere novo pergratum invisere amœna vireta,
Æstu nymphæas aspectare libet.
Autumno recreant spumantia munera Bacchi,
Bruma opus est niveos ore ciere modos.
Trong bài nói chuyện chiều nay, chúng tôi lần lượt trình bày trong phần I Thánh Phan Văn Minh, nhà điển ngữ và phần II, Thánh Phan Văn Minh, nhà thơ.
I - THÁNH PHAN VĂN MINH, NHÀ ĐIỂN NGỮ:
Lịch sử chữ quốc ngữ trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thành lập và giai đoạn phát triển.
w Giai đoạn thành lập:
• 1651: Linh mục Alexandre de Rhodes soạn thảo Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum (Tự điển An nam, Bồ đào nha và La tinh) do Ấn quán Toà Thánh (Roma) in năm 1651. Ngoài phần tự điển, công trình này còn gồm bản mục lục và ngữ pháp tiếng Việt.
• 1772: Đức Cha Pierre Georges Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) soạn thảo Vocabularium annamitico-latinum (Tự vựng An nam La tinh) soạn thảo năm 1772-1773 tại Pondichéry (Ấn Độ).
w Giai đoạn phát triển:
• 1838: Đức Cha Taberd soạn thảo Dictionarium anamitico-latinum
- Theo Niên biểu in trong Phi Năng Thi Tập: Nhân lễ Thêm sức năm 1828, Đức Cha Taberd chấp nhận thỉnh nguyện của cậu Phan Văn Minh, gửi cậu tu học ở Chủng viện Lái Thiêu.
- 1833: Thi hành Chiếu cấm đạo của vua Minh Mệnh, chủng viện Lái Thiêu bị phá hủy. Thầy Phan Văn Minh và các chủng sinh khác tiếp tục tu học ở Chủng viện Pénang (Mã Lai).
- 1835: Đức Cha Taberd gọi Thầy Phan Văn Minh sang Calcutta để soạn Tự điển Việt-La tinh và Tự điển La tinh-Việt.
• 1838 (tại Serampore - Ấn Độ), xuất bản Dictionarium anamitico-latinum. Công trình này gồm phần Khái luận về tiểu từ và đại từ (Tractatus de variis particulus et pronominibus), Cách đếm (Nomina numeralia, 10 trang), Tự vựng chữ Hán (18 trang), Tự vựng chữ Nôm (111 trang), Tự vựng chữ Hán sắp theo mấu tự (106 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus Floridus Cocincinæ), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ (Compendium versificationis anamiticæ) (14 trang).
‘‘Lược bày niêm luật làm văn làm thơ’’ gồm: vãn, niêm luật làm thơ, phán xét công bình Bắt đạo thơ. Cách thức đặt thơ năm chữ. Cách thức làm vãn khi người ta đã qua đời (văn tế). Cách phải giữ cho đặng làm văn vần bình, mẫu văn đặt vần trắc. Cách phải giữ mà đặt văn vần trắc. Vãn: Inê Tử đạo.
Trong phần dẫn chứng, ngoại trừ bài ngũ ngôn Tứ Thời (四 时) của Thôi Hiệu, các bài khác đều do Thánh Phan Văn Minh trước tác. Mỗi bài đều kèm theo bản dịch La tinh. Bài vãn Inê Tử đạo có bản dịch Anh ngữ, Pháp ngữ và La tinh, chứng tỏ thánh Phan Văn Minh không những là nhà điển ngữ (lexicologue) uyên bác mà còn là nhà bác ngữ học (polyglotte) am hiểu nhiều ngôn ngữ (Hán văn, La tinh, tiếng Pháp và tiếng Anh).
Bài Vãn làm theo thể lục bát phối hợp yêu vận của ta và cước vận của Tàu mở đầu phần Compendium versificationis anamiticæ chứng tỏ tác giả hằng tha thiết đến văn học nuớc nhà.
Bài Vãn gồm gồm 6 câu lục bát như sau:
Đội ơn Chúa cả ba ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thỉ vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.
Cũng như thơ Đường của Thôi Hiệu, bài lục bát Vãn Thiên Chúa Ba Ngôi được dịch sang tiếng La tinh như sau:
Trino unique Deo promo de pectore grates
Usus ad nostros clemens cuncta creans
Omnipotens sine principio sine fine manebit
Morte careens, sceptre frenat cuncta suo
Numen perfectum numen summeque peritum
Non similis coelo vel qua terra patet.
Phán xét công bình thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, luật bằng như sau:
Hãi hùng kinh khiếp hỡi người ta,
Chúa xét công bình chẳng thứ tha.
Công bẵng mũi lông không khuất lấp,
Tội dầu hơi thở cũng nghiêm tra.
Bấy giờ ngãi tử giao thần thánh,
Khi ấy tội nhơn phú quỉ ma.
Bởi đó mười răng tua nắm giữ,
Rượu trà cờ bạc chớ mê sa.
Bài Bắt đạo thơ theo thể thất ngôn bát cú, luật trắc như sau:
Lừng lẫy oai hùm tiếng dã rân,
Chỉ truyền cấm đạo khắp xa gần.
Thánh đàng chốn chốn đều tiêu diệt,
Giáo hữu người người chịu khổ bần.
Linh mục giảo lưu, hình thảm khắc,
Cận thần trảm quyết lính đồ thân.
Há rằng vương đế làm nhơn chánh !
Sao nỡ phiền hà hại chúng dân.
Sau đó, thánh nhân trích dẫn hai bài văn tế, một vần bằng, một vần trắc. Vần bằng như sau:
Phép Chúa khiến đổi dời,
Cơ hội ấy ai không thảm thiết,
Hễ người đời sống thác,
Cớ sự này ốt đã rõ ràng.
Tưởng đến lòng nên chua xót,
Nghe thôi da rất thảm thương.
Vần trắc có câu:
Xưa có kẻ lui về Phật kiểng,
Chiếc dép hãy di tông
Nay như thầy thẳng tách thiên đàng
Nửa lời khôn phụ nhỉ
Trăm mình ý khó chuộc cầu,
Muôn kiếp no nao đặng thấy.
Kết thúc phần Compendium versificationis anamiticæ là bài vãn Inê Tử đạo, kèm theo bản dịch Anh, Pháp và La tinh. Sau đây là đoạn giới thiệu thân thế Thánh Inê tử đạo:
Gái thì đặng một Inê
Là con thứ tám trọn bề thảo ngay.
Vốn hiền từ bé nhẫn nay,
Nết na khiêm nhượng tính hay nhơn từ.
Bản dịch tiếng Anh:
Among the daughters, Agnes claims our attention;
She their eighth child, a model of virtue,
From her earliest infancy till death,
Was ever distinguished for modesty, meekness and humility.
Bản dịch tiếng Pháp:
Parmi leurs filles, Agnès est digne d’attention,
Elle fut le huitième enfant, et un modèle de vertu,
Depuis son enfance jusqu’à sa mort,
Elle se distingua toujours par sa modestie, son humilité et sa douceur.
Bản dịch La tinh:
Inter filias, memoria Agnetis est colenda,
Octava fuit parentum progenies, virtutum exemplar,
A teneris annis usque ad mortem præbuit
Semper modestia gravis, corde humilis ac mitis refulsit.
Theo Giáo sư Dương Quảng Hàm, ‘‘Cứ theo bộ tự điển của cố Alexandre de Rhodes soạn và in năm 1651 thì chữ quốc ngữ về hạ bán thế kỷ thứ XVII còn có nhiều cách phiên âm khác bây giờ và chưa được hoàn toàn tiện lợi. Theo cố Cadière, trong một bài thông cáo đọc ở Hội đồng Khảo cổ Đông Pháp ở Paris (Commission archéologique de l’Indochine) năm 1912 thì các hình thức hiện thời của chữ quốc ngữ chính là do Đức cha Bá Đa Lộc đã sửa đổi lại mà thành nhất định. Đức cha có soạn cuốn Tự diển An nam La tinh, tuy chưa xong hẳn, nhưng cố Taberd đã kế tiếp công cuộc ấy mà soạn ra cuốn Nam việt Dương hiệp Tự vựng (Dictionarium annamitico-latinum), in năm 1838. Trong cuốn này, cách viết chữ quốc ngữ giống hệt bây giờ: mỗi tiếng Nam đều có chua kèm chữ Nôm: cuốn sách ấy sẽ là một cuốn sách làm gốc cho các tự điển tiếng Nam sau này.’’ (Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn học Sử yếu, Bộ Giáo dục, Trung tâm Học liệu tái bản 1968, tr. 337-338). Kết quả này có được một phần là nhờ công lao của thầy Phan Văn Minh vừa am hiểu điển ngữ, lại là một nhà thơ. Nhờ điển ngữ, ngôn ngữ trong thơ Thánh Phan Văn Minh chuẩn xác. Với hồn thơ, trước tác của thánh Phan Văn Minh mang tình tự dân tộc, như được trình bày trong phần II: thánh Phan Văn Minh, nhà thơ.
II - THÁNH PHAN VĂN MINH, NHÀ THƠ:
Toàn tập Phi Năng Thi Tập của Thánh Philipphê Phan Văn Minh được in lại trong tập tài liệu văn học chữ quốc ngữ nhan đề ‘‘Về sách báo của tác giả công giáo (thế kỷ XVII-XIX)’’ do Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Thành phố HCM ấn hành năm 1993. Ngoài ra, Thư viện Đại Chủng viện Thánh Giuse Saigon lưu giữ Phi Năng Thi tập (Nước Trời Ca) của thánh Philipphê Phan Văn Minh, do ông Léon Nguyễn Văn Quý ấn hành năm 2003. Tài liệu thứ nhất gồm phần chú giải của nhà văn Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, tài liệu thứ hai ngoài phần tiểu sử còn in lại Nước Trời Ca. Sau đây, ta sẽ xét qua về nội dung của hai tài liệu vừa nói trước khi bàn về giá trị văn học của Phi Năng Thi tập.
A) GIỚI THIỆU TÀI LIỆU:
1 - TÀI LIỆU CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC TỔNG HỢP:
1.1. Về hình thức: Tài liệu ấn hành khổ A4, dày 25 trang, do Linh mục Trần Anh Dũng tặng Thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris.
1.2. Về nội dung: Tập tài liệu in lại công trình nhan đề: Phi Năng Thi tập: Thánh Philipphê Phan Văn Minh của nhà văn Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm. bố cục như sau:
Dẫn nhập (tr. 88)
I. Quá trình truyền bản
1. Nguyên bản thủ bút
2. Bản sao tập IV của thầy Hầu trao tặng ông Paulus Nguyễn Cang Thường (tr. 89)
Nhan đề của tập IV như sau: Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853): Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christus). Tập IV Phi Năng Thi tập (tr. 90).
3. Bản sưu tập của thầy Trạch trao tặng ông Paulus Nguyễn Cang Thường
4. Bản sao của ông Paulus Nguyễn Cang Thường (tr. 91)
5. Bản sao của ông Thaddoœus Nguyễn Văn Nhạn.
- Trang 1: Nhan đề tập IV: Văn Thơ Công Giáo. Phi Năng Thi tập (Thế kỷ IXI). Tập IV: Sưu tầm của Nguyễn Cang Thường (1909-1962) (tr. 92).
- Trang 31: Nhan đề Phi Năng Thi tập do thầy Trạch sưu tầm: Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853) Vịnh Ê Vang. Phần sưu tầm của ông Nguyễn Cang Thường (1919-1962) (tr. 93).
- Trang 56: Nước Trời Ca. Phần II. Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853).
II - Công tác hiệu đính (tr.94)
1. Về cách sắp xếp trình bày
2. Về các trường hợp hiệu đính (tr. 95).
3. Về chú giải
III - Về nhận định tổng quát (tr.96)
1. Bối cảnh văn học
2. Bối cảnh tôn giáo và chính tri
3. Nhà thơ công giáo (tr.98)
4. Một thi đàn của đức tin (tr.101)
5. Sau Phi Năng Thi tập (tr. 103)
I1 - TÀI LIỆU CỦA ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE:
1.1. Về hình thức: Tài liệu ấn hành khổ A4, dày 81 trang, có chữ ký tặng của ông Léon Nguyễn Văn Quí biếu Đức Cha Nguyễn Văn Diệp. Thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris lưu giữ bản chụp.
1.2. Về nội dung: Trang 5 của tập tài liệu in bản đồ Việt Nam với lời chủ giải: Những hạt giống đức tin được gieo vào lòng đất Nam Kỳ.
Trang 7 viết chữ Hán nguyên văn như sau:
信 友 之 種 子
殉 道 者
Dịch âm:
Tín hũu chi chúng từử
TUẤN ĐẠO GIẢ
Trang 11: Lược sử Giảng đạo. Truyền đạo. Giữ đạo. Cấm đạo. Bắt đạo. Tử đạo.
Trang 15: Phần I: Niêu biểu và Tiểu sử
Trang 27: Nước Trời Ca
Trang 29: Thi đàn Phi Năng Thi tập
Trang 31: Nước Trời Ca
Trang 32: Xướng và Đáp họa
Trang 73: Trùm Họ Mặc Bắc Tử đạo
Trang 77: Phụ bản: Họ đạo Cái Mơn
NƯỚC TRỜI CA
Trong bài Đôi nét về Văn học Công giáo Việt Nam, tác giả Nguyễn Vy Khanh viết về Thánh Phan Văn Minh như sau: ‘‘Thánh Phi-líp Phan Văn Minh (1815-1853) đã để lại tác phẩm Phi năng Thi tập được truyền tụng đến nay, gồm 35 bài lục bát của ngài và 93 bài ngâm vịnh xướng họa của thi đàn. Đối với thánh nhân, thơ "ca tụng lòng lân mẫn vô biên của Thiên Chúa" (Lời phi lộ phần I), thi tập là "một bổn kinh nguyện". Như vậy, thánh nhân đã đồng hóa thi ca với lời cầu nguyện:
"Đội ơn Chúa Cả Ba Ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thủy vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy"
"Gia Tô Cơ đốc đấng Con Trời,
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng Vương Bá để xây đời.
(.. ) Dĩ nhược thắng cương minh chứng rõ:
Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời. (Đấng Cứu Thế)
Trước khi tìm hiểu về thi phẩm của thánh nhân và Thi đàn Phi Năng, ta hãy nghe nhà thơ tự sự qua Lời Phi Lộ của thi tập Nước Trời Ca:
‘‘Lạy Chúa Giêsu, Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi. Tôi xin chọn Thánh Danh Chúa làm chủ tể trong hội thi xướng họa này để tỏ lòng tha thiết kính yêu, và cũng là việc giải trí tốt đẹp trong đời sống thường ngày của hàng văn gia đất nước Đại Nam.
Bài học giáo lý của Cố Phan, tôi học khi còn thơ bé ở Cái Mơn có đoạn:
Đạo Đức Chúa Trời
Giảng dạy khắp nơi
Cứu khổ cho đời
Địa ngục khổ rồi
Khá giữ kịp thời…
Tôi xin chọn để gieo vần, vậy xin quý hữu có lòng mến Chúa Giêsu và yêu thơ xin đáp họa, hầu góp lại như bổn kinh nguyện ngâm lên ca tụng lòng lân mẫn vô biên của Thiên Chúa. Như trong Kinh Thánh đã kêu mời.
“Laudate Dominum, omnes gentes…”
(Thánh vịnh, CXVII, 1)
Phi-năng, ngày 25 tháng 12 năm 1894
Philipphê Phan Văn Minh’’
Thi nhân làm công việc khai sơn phá thạch, góp phần xây dựng nền quốc văn mới. Thánh Phan Văn Minh (1815-1853) hơn văn hào Trương Vĩnh Ký (1837-1898) 22 tuổi, hơn Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) 19 tuổi. Thánh nhân và Trương Tiên sinh cùng thôn Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là tỉnh Bến Tre). Các bài thơ quốc ngữ của Thánh nhân mở đường cho văn học quốc ngữ nói chung, không phân biệt Nam Bắc, lương giáo. Ngôn ngữ thi ca của thánh nhân bình dị, chữ Nôm là chính, chữ Hán thường là các danh từ thần học. Qua Lời Phi Lộ chứng tỏ thánh nhân chiu ảnh hưởng sâu đậm của Thánh vịnh. Ngay dòng khai từ: Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi gợi ý từ Thánh vịnh 16. Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào liên quan đến bản dịch Thánh vịnh sang Việt ngữ nên không thể quyết đoán thánh Minh là người có công dịch ‘‘Yahvé, ma part d’héritage’’ (Psaume 16) ra tiếng Việt ‘‘Chúa là gia nghiệp’’. Cách dịch này đến nay vẫn giữ được thi vị đậm đà và sự trong sáng của tiếng Việt. Trong Kinh Thánh, Thánh vịnh là lời cầu nguyện bằng thơ (prière poétique) gồm nhiều đoạn. Vào đầu thế kỷ X trước Công nguyên, vua David đã soạn một số Thánh vịnh ngợi ca Thiên Chúa. Thánh Phan Văn Minh cho rằng Thi tập Nước Trời Ca là Kinh Thơ. Cách viết ‘‘Nước Trời’’ thay vì ‘‘Thiên Quốc’’ chứng tỏ tác giả muốn dùng ngôn ngữ riêng của ta để có thể phổ cập đến dân gian. Trong phần sau đây, ta sẽ nói qua về đặc điểm thi pháp và Thi đàn Phi Năng.
B - THI PHÁP PHI NĂNG THI TẬP:
Nhà văn Võ Long Tê cho rằng ‘‘ngôn ngữ thơ của thánh Minh (tiền bán thế kỷ XIX) xét ra khác hẳn ngôn ngữ thơ của thế hệ trước và có những mẫu số chung với ngôn ngữ thơ hiện đại’’. ‘‘Thánh Minh đậm đà tính chất phổ quát của đạo Công Giáo và truyền thống văn học dân tộc trong tiến trình canh tân”. Sau đây, ta sẽ bàn đến sự khác biệt giữa trước tác của thánh Minh và thơ cổ điển, những nét tương đồng với thơ mới.
A) Sự khác biệt với thơ cũ:
1) Khác biệt về đề tài:
Nhà thơ lấy chất liệu trong Phúc âm dệt thành thơ lục bát, gần gũi với ca dao:
Đội ơn Chúa Cả Ba Ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thủy vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.
Sáu câu lục bát trên đây lời lẽ bình dị, tuy có điểm xuyết một vài chữ Hán, nhưng là chữ Hán đã du nhập trong ngôn ngữ nước ta như: vật ( 物 ), hưởng ( 享 ); hoặc là các thành ngữ đối nhau: vô thủy vô chung ( 无 始 无 终 ) ≠ thường sinh thường vượng ( 常 生 常 旺 ).
Ngoài sự đổi mới về thể tài còn phải kể đến nỗ lực của thi nhân đưa thơ về với nguồn cội cầu nguyện. Trong Giáo hội, nhiều vị thánh đồng thời là thi nhân, như thanh Phanxicô thành Assise, Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu. Các thánh nhân thi sĩ phần nhiều đều là tu sĩ dòng chiêm niệm (ordres contemplatifs). Trong hàng giáo sĩ, nhiều linh mục là thi sĩ như Xuân Ly Băng (LM Lê Xuân Hoa), Cung Chi, Lương Nhi Tử (LM Đinh Đồng Thượng Sách), Trăng Thập Tự (LM Võ Tá Khánh), Nguyễn Tầm Thường (LM Nguyễn Trọng Tước). Nhiều giáo dân là nhà thơ nổi tiếng như Hàn Mặc Tử, Quách Thoại. Các giáo dân đều có tâm hồn thơ, mỗi chủ nhật được nghe Thánh vịnh. Đối với họ, cầu nguyện là vấn đề hệ trọng (la prière est une question de vie ou de mort) như nhận định của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI Người ta thuật lại một giai thoại liên quan đến nhà văn Franz Kafka. Có người hỏi ông rằng: ‘‘Phải chăng thơ đưa (ta) về tôn giáo ? (la poésie tiendrait donc à la religion ?), Franz Kafka đáp: ‘‘Tôi không nói vậy, nhưng chắc chắn là tôn giáo dẫn ta về cõi thơ (Je ne dirai pas cela, mais à la poésie sûrement). Chính tâm tình mộ đạo đã thúc đẩy thánh Minh làm thơ.
2) Khác biệt về ngôn ngữ:
Thánh Minh hơn Cụ Nguyễn Đình Chiểu 7 tuổi. Cụ Đồ Chiểu sinh ở Gia Định, soạn truyện Lục Vân Tiên viết bằng chữ Nôm. Cũng như Lục Vân Tiên, thánh nhân soạn Inê Tử Đạo theo thể lục bát bằng chữ quốc ngữ. Tuy cả hai sống cùng thời, cùng miền Nam nhưng ngôn ngữ Inê Tử Đạo khác Lục Vân Tiên. Trong khi ngôn ngữ của Lục Vân Tiên có nhiều từ ngữ cổ của miền Nam và nhiều chữ Hán. Thí dụ: an nơi (câu 561, 1533) (yên chỗ), áo không bâu (1585) (áo không cổ), bảng lảng bơ lơ (1857) (không chú tâm), không hòa mùi chi (1112) (không ăn uống), tọa tiền chứng miêng (798) (ngồi trước bàn thờ mà chứng giám) v.v. Ngược lại, thánh Minh sử dụng ít từ cổ, ít dùng chữ Hán. Nhờ vậy lời văn nhẹ nhàng, dễ hiểu. Thơ của thánh Minh là cánh én, báo trước sự chuyển biến của văn học nước nhà, từ Hán-Nôm chuyển sang quốc ngữ. Sự chuyển hóa này còn kèm theo sự đổi mới về ngôn ngữ, ta về ta tắm ao ta. Đó chinh là ưu điểm văn thơ thánh Minh vậy.
Bài vãn ‘‘Inê Tử Đạo’’ thể lục bát gồm 562 câu là bản trường ca tử đạo nước Việt, ca ngợi nữ thánh Inê Đê tức Lê Thị Thành, tử đạo năm 1841, trước thánh Minh 12 năm
Mở đầu bài Vãn có những câu:
Có người đức hạnh danh Lam,
Dòng truyền giữ đạo nước Nam nên tài.
Carolo hiệu là người,
Diên Ninh ấy phủ, nhà nơi Lâm Tuyền.
Vợ hiệu Save là tên,
Giai lão kết nguyền, đạo đức kính tin.
Sinh đặng mười hai con hiền,
Bảy trai hai gái đã nên phước nhà.
Gái thì đặng một Inê,
Là con thứ tám trọn bề thảo ngay.
Đoạn tả Inê từ biệt chồng con, bị giam vào ngục thất như sau:
Inê lẳng lặng làm thinh,
Chồng càng than khóc vợ mình kể khuyên:
- Sắt cầm từ thuở ấu niên,
Nỡ nào ly biệt cho an tấc lòng.
Dầu chăng nên đạo vợ chồng,
Con thơ ai kẻ quan phòng dưỡng nuôi ?
Má hồng mặt bạc mày môi,
Mình vàng vó ngọc bỏ tôi chẳng nhìn ?
Em hỡi nghe lời anh khuyên,
Sắt cầm giai lão nhơn duyên hợp hòa.
.. . .
Anh thì ở lại chớ sờn
Thìn lòng giữ đạo chẳng hơn cũng tày.
Ngày sau ta lại hiệp vầy,
Thương thì cầu nguyện hồn ngay thẳng về,
Ấy là ngãi đạo phu thê,
Chớ ra lòng mọn lỗi thì chẳng nên.
Trước giờ bị hành quyết, thánh nữ không quên dặn dò con cái, câu thơ thể lòng thương yêu và ý chí can trường:
Bức thư này để lại cho con,
Sau khôn lớn mọi lời cho biết.
Con thì giữ đức nết hạnh khiêm nhường,
Bé thờ cha vâng giữ gia nương.
Lớn theo cậu ủi an dạy dỗ,
Cù lao báo bổ ơn ấy chớ nài.
Miễn là con giữ đạo thành tài,
Cho mẹ đặng ngày sau thấy mặt.
Dầu cha cải nghiệp kế mẫu qui đàng,
Hai con thìn khiêm nhượng kính đang.
Chớ khá ở bạc tình kiêu ngạo.
Lời lành dặn bảo thương mẹ thì nghe;
Áng vui chơi tửu sắc rượu chè,
Lời độc dữ gian tà lánh vẹn.
Mẹ rầy đã đến cõi thọ diệu quang,
Mọi lời sau trước rõ ràng,
Mẹ giã từ con còn ở thế.
Phần kết bài vãn là khải hoàn ca chung cho các anh hùng tử đạo nước Nam:
Bia vàng tạc chữ chí linh,
Để truyền sách ấy nối tình đời sau.
Inê là hiệu làm đầu,
Hiền kia Thánh nọ xem lầu bổ căn.
Ngoài 35 bài lục bát, thánh Phan Văn Minh còn để lại gần một trăm thơ Đường xướng họa của Phi năng Thi đàn. Việc thánh Minh sáng lập thi đoàn sẽ được đề cập trong phần sau đây.
(Xem tiếp phần II: Hội Tao Đàn Quốc Ngữ )
NHÀ THƠ VÀ NGỮ HỌC TIỀN PHONG
(Bài nói chuyện trong khuôn khổ Ngày Văn Hóa và Sinh Nhật thứ XVIII Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Paris tổ chức ngày 30-3-2008).
«Di ảnh thánh Philipphê Phan Văn Minh được cất giữ tại Đan Viện Carmel (Cát Minh), 33 đường Cường Để Saigon. Mặt khác, Đại Chủng Viện Pénang (Mã Lai), nơi thánh Philipphê Phan Văn Minh tu học cùng với các thánh tử đạo khác là Phêrô Đoàn Công Quý, Phaolô Lê Văn Lộc, Gioan Đoàn Trinh Hoan và Phêrô Nguyễn Văn Lựu cũng tôn kính di ảnh ngài. (Ngày nay, Đại Chủng Viện Pénang trực thuộc Giáo Hoàng Học Viện Urbani Roma). Trường San Juan de Latran ở thủ đô Manila dựng tượng thánh Phan Văn Minh. Đại Chủng Viện Pénang là nơi đào tạo cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài (Thư Viện Giáo Xứ đã tổ chức nói chuyện về sự nghiệp văn học của Cụ Nguyễn Hữu Bài do GS Vũ Quốc Thúc và Luật sư Lê Trọng Quát trinh bày). Theo nhà văn Võ Long Tê: ‘‘Ông Nguyễn Văn Hiệp, trụ trì Bửu Long tự có đến thưa với Đức Cha Nguyễn Văn Diệp, Phó Giám mục Vĩnh Long rằng: Theo lưu truyền từ đời trước, chùa thờ bài vị thánh Minh Tử đạo và bài vị ấy đã trao cho Tòa Giám mục Vĩnh Long khoảng 1957-1958. Nay chùa muốn xin lại một bài vị khác để thờ.’’. Nhà văn Phạm Đình Khiêm cho biết tiểu sử thánh Philipphê Phan Văn Minh đã được đưa lên màn ảnh qua cuốn phim ‘‘Áo Dòng Đẫm Máu’’.20 tháng 3 dương lịch là ngày lập xuân. Ngày Văn Hóa Thư Viện năm nay kỷ niệm 20 năm phong thánh 117 Anh hùng Tử đạo Việt Nam và 155 năm thánh Philipphê Phan Văn Minh tử đạo (1853-2008). Thánh Phan Văn Minh là nhà điển ngữ và nhà thơ tiền phong của văn học quốc ngữ. Trong Dictionarium anamitico-latinum (Tự điển Việt-La tinh) xuất bản năm 1838 do Ngài biên soạn cùng với Đức Cha Taberd, thánh nhân đã dẫn chứng bài ngũ ngôn Tứ Thời (四 时) của Thôi Hiệu để giải nghĩa ‘‘cách thức đặt thơ năm chữ’’. Bài ngũ ngôn như sau:
Xuân du phương thảo địa,
春 遊 芳 草 地,
Hạ thưởng lục hà trì.
夏 賞 綠 荷 池,
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
秋 飲 黃 菊 酒,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
冬 吟 白 雪 詩.
Thánh Minh trích dẫn ngũ ngôn. Bằng không, hẳn là thi nhân đã chọn bài Tứ Thời của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chỗ lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao.
Vì trích dẫn trong Tự điển Việt-La tinh, thánh Phan Văn Minh đã dịch bài ngũ ngôn của Thôi Hiệu sang tiếng La tinh như sau:
Vere novo pergratum invisere amœna vireta,
Æstu nymphæas aspectare libet.
Autumno recreant spumantia munera Bacchi,
Bruma opus est niveos ore ciere modos.
Trong bài nói chuyện chiều nay, chúng tôi lần lượt trình bày trong phần I Thánh Phan Văn Minh, nhà điển ngữ và phần II, Thánh Phan Văn Minh, nhà thơ.
I - THÁNH PHAN VĂN MINH, NHÀ ĐIỂN NGỮ:
Lịch sử chữ quốc ngữ trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thành lập và giai đoạn phát triển.
w Giai đoạn thành lập:
• 1651: Linh mục Alexandre de Rhodes soạn thảo Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum (Tự điển An nam, Bồ đào nha và La tinh) do Ấn quán Toà Thánh (Roma) in năm 1651. Ngoài phần tự điển, công trình này còn gồm bản mục lục và ngữ pháp tiếng Việt.
• 1772: Đức Cha Pierre Georges Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) soạn thảo Vocabularium annamitico-latinum (Tự vựng An nam La tinh) soạn thảo năm 1772-1773 tại Pondichéry (Ấn Độ).
w Giai đoạn phát triển:
• 1838: Đức Cha Taberd soạn thảo Dictionarium anamitico-latinum
- Theo Niên biểu in trong Phi Năng Thi Tập: Nhân lễ Thêm sức năm 1828, Đức Cha Taberd chấp nhận thỉnh nguyện của cậu Phan Văn Minh, gửi cậu tu học ở Chủng viện Lái Thiêu.
- 1833: Thi hành Chiếu cấm đạo của vua Minh Mệnh, chủng viện Lái Thiêu bị phá hủy. Thầy Phan Văn Minh và các chủng sinh khác tiếp tục tu học ở Chủng viện Pénang (Mã Lai).
- 1835: Đức Cha Taberd gọi Thầy Phan Văn Minh sang Calcutta để soạn Tự điển Việt-La tinh và Tự điển La tinh-Việt.
• 1838 (tại Serampore - Ấn Độ), xuất bản Dictionarium anamitico-latinum. Công trình này gồm phần Khái luận về tiểu từ và đại từ (Tractatus de variis particulus et pronominibus), Cách đếm (Nomina numeralia, 10 trang), Tự vựng chữ Hán (18 trang), Tự vựng chữ Nôm (111 trang), Tự vựng chữ Hán sắp theo mấu tự (106 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus Floridus Cocincinæ), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ (Compendium versificationis anamiticæ) (14 trang). ‘‘Lược bày niêm luật làm văn làm thơ’’ gồm: vãn, niêm luật làm thơ, phán xét công bình Bắt đạo thơ. Cách thức đặt thơ năm chữ. Cách thức làm vãn khi người ta đã qua đời (văn tế). Cách phải giữ cho đặng làm văn vần bình, mẫu văn đặt vần trắc. Cách phải giữ mà đặt văn vần trắc. Vãn: Inê Tử đạo.
Trong phần dẫn chứng, ngoại trừ bài ngũ ngôn Tứ Thời (四 时) của Thôi Hiệu, các bài khác đều do Thánh Phan Văn Minh trước tác. Mỗi bài đều kèm theo bản dịch La tinh. Bài vãn Inê Tử đạo có bản dịch Anh ngữ, Pháp ngữ và La tinh, chứng tỏ thánh Phan Văn Minh không những là nhà điển ngữ (lexicologue) uyên bác mà còn là nhà bác ngữ học (polyglotte) am hiểu nhiều ngôn ngữ (Hán văn, La tinh, tiếng Pháp và tiếng Anh).
Bài Vãn làm theo thể lục bát phối hợp yêu vận của ta và cước vận của Tàu mở đầu phần Compendium versificationis anamiticæ chứng tỏ tác giả hằng tha thiết đến văn học nuớc nhà.
Bài Vãn gồm gồm 6 câu lục bát như sau:
Đội ơn Chúa cả ba ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thỉ vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.
Cũng như thơ Đường của Thôi Hiệu, bài lục bát Vãn Thiên Chúa Ba Ngôi được dịch sang tiếng La tinh như sau:
Trino unique Deo promo de pectore grates
Usus ad nostros clemens cuncta creans
Omnipotens sine principio sine fine manebit
Morte careens, sceptre frenat cuncta suo
Numen perfectum numen summeque peritum
Non similis coelo vel qua terra patet.
Phán xét công bình thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, luật bằng như sau:
Hãi hùng kinh khiếp hỡi người ta,
Chúa xét công bình chẳng thứ tha.
Công bẵng mũi lông không khuất lấp,
Tội dầu hơi thở cũng nghiêm tra.
Bấy giờ ngãi tử giao thần thánh,
Khi ấy tội nhơn phú quỉ ma.
Bởi đó mười răng tua nắm giữ,
Rượu trà cờ bạc chớ mê sa.
Bài Bắt đạo thơ theo thể thất ngôn bát cú, luật trắc như sau:
Lừng lẫy oai hùm tiếng dã rân,
Chỉ truyền cấm đạo khắp xa gần.
Thánh đàng chốn chốn đều tiêu diệt,
Giáo hữu người người chịu khổ bần.
Linh mục giảo lưu, hình thảm khắc,
Cận thần trảm quyết lính đồ thân.
Há rằng vương đế làm nhơn chánh !
Sao nỡ phiền hà hại chúng dân.
Sau đó, thánh nhân trích dẫn hai bài văn tế, một vần bằng, một vần trắc. Vần bằng như sau:
Phép Chúa khiến đổi dời,
Cơ hội ấy ai không thảm thiết,
Hễ người đời sống thác,
Cớ sự này ốt đã rõ ràng.
Tưởng đến lòng nên chua xót,
Nghe thôi da rất thảm thương.
Vần trắc có câu:
Xưa có kẻ lui về Phật kiểng,
Chiếc dép hãy di tông
Nay như thầy thẳng tách thiên đàng
Nửa lời khôn phụ nhỉ
Trăm mình ý khó chuộc cầu,
Muôn kiếp no nao đặng thấy.
Kết thúc phần Compendium versificationis anamiticæ là bài vãn Inê Tử đạo, kèm theo bản dịch Anh, Pháp và La tinh. Sau đây là đoạn giới thiệu thân thế Thánh Inê tử đạo:
Gái thì đặng một Inê
Là con thứ tám trọn bề thảo ngay.
Vốn hiền từ bé nhẫn nay,
Nết na khiêm nhượng tính hay nhơn từ.
Bản dịch tiếng Anh:
Among the daughters, Agnes claims our attention;
She their eighth child, a model of virtue,
From her earliest infancy till death,
Was ever distinguished for modesty, meekness and humility.
Bản dịch tiếng Pháp:
Parmi leurs filles, Agnès est digne d’attention,
Elle fut le huitième enfant, et un modèle de vertu,
Depuis son enfance jusqu’à sa mort,
Elle se distingua toujours par sa modestie, son humilité et sa douceur.
Bản dịch La tinh:
Inter filias, memoria Agnetis est colenda,
Octava fuit parentum progenies, virtutum exemplar,
A teneris annis usque ad mortem præbuit
Semper modestia gravis, corde humilis ac mitis refulsit.
Theo Giáo sư Dương Quảng Hàm, ‘‘Cứ theo bộ tự điển của cố Alexandre de Rhodes soạn và in năm 1651 thì chữ quốc ngữ về hạ bán thế kỷ thứ XVII còn có nhiều cách phiên âm khác bây giờ và chưa được hoàn toàn tiện lợi. Theo cố Cadière, trong một bài thông cáo đọc ở Hội đồng Khảo cổ Đông Pháp ở Paris (Commission archéologique de l’Indochine) năm 1912 thì các hình thức hiện thời của chữ quốc ngữ chính là do Đức cha Bá Đa Lộc đã sửa đổi lại mà thành nhất định. Đức cha có soạn cuốn Tự diển An nam La tinh, tuy chưa xong hẳn, nhưng cố Taberd đã kế tiếp công cuộc ấy mà soạn ra cuốn Nam việt Dương hiệp Tự vựng (Dictionarium annamitico-latinum), in năm 1838. Trong cuốn này, cách viết chữ quốc ngữ giống hệt bây giờ: mỗi tiếng Nam đều có chua kèm chữ Nôm: cuốn sách ấy sẽ là một cuốn sách làm gốc cho các tự điển tiếng Nam sau này.’’ (Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn học Sử yếu, Bộ Giáo dục, Trung tâm Học liệu tái bản 1968, tr. 337-338). Kết quả này có được một phần là nhờ công lao của thầy Phan Văn Minh vừa am hiểu điển ngữ, lại là một nhà thơ. Nhờ điển ngữ, ngôn ngữ trong thơ Thánh Phan Văn Minh chuẩn xác. Với hồn thơ, trước tác của thánh Phan Văn Minh mang tình tự dân tộc, như được trình bày trong phần II: thánh Phan Văn Minh, nhà thơ.
II - THÁNH PHAN VĂN MINH, NHÀ THƠ:
Toàn tập Phi Năng Thi Tập của Thánh Philipphê Phan Văn Minh được in lại trong tập tài liệu văn học chữ quốc ngữ nhan đề ‘‘Về sách báo của tác giả công giáo (thế kỷ XVII-XIX)’’ do Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Thành phố HCM ấn hành năm 1993. Ngoài ra, Thư viện Đại Chủng viện Thánh Giuse Saigon lưu giữ Phi Năng Thi tập (Nước Trời Ca) của thánh Philipphê Phan Văn Minh, do ông Léon Nguyễn Văn Quý ấn hành năm 2003. Tài liệu thứ nhất gồm phần chú giải của nhà văn Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, tài liệu thứ hai ngoài phần tiểu sử còn in lại Nước Trời Ca. Sau đây, ta sẽ xét qua về nội dung của hai tài liệu vừa nói trước khi bàn về giá trị văn học của Phi Năng Thi tập.
A) GIỚI THIỆU TÀI LIỆU:
1 - TÀI LIỆU CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC TỔNG HỢP:
1.1. Về hình thức: Tài liệu ấn hành khổ A4, dày 25 trang, do Linh mục Trần Anh Dũng tặng Thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris.
1.2. Về nội dung: Tập tài liệu in lại công trình nhan đề: Phi Năng Thi tập: Thánh Philipphê Phan Văn Minh của nhà văn Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm. bố cục như sau:
Dẫn nhập (tr. 88)
I. Quá trình truyền bản
1. Nguyên bản thủ bút
2. Bản sao tập IV của thầy Hầu trao tặng ông Paulus Nguyễn Cang Thường (tr. 89)
Nhan đề của tập IV như sau: Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853): Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christus). Tập IV Phi Năng Thi tập (tr. 90).
3. Bản sưu tập của thầy Trạch trao tặng ông Paulus Nguyễn Cang Thường
4. Bản sao của ông Paulus Nguyễn Cang Thường (tr. 91)
5. Bản sao của ông Thaddoœus Nguyễn Văn Nhạn.
- Trang 1: Nhan đề tập IV: Văn Thơ Công Giáo. Phi Năng Thi tập (Thế kỷ IXI). Tập IV: Sưu tầm của Nguyễn Cang Thường (1909-1962) (tr. 92).
- Trang 31: Nhan đề Phi Năng Thi tập do thầy Trạch sưu tầm: Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853) Vịnh Ê Vang. Phần sưu tầm của ông Nguyễn Cang Thường (1919-1962) (tr. 93).
- Trang 56: Nước Trời Ca. Phần II. Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853).
II - Công tác hiệu đính (tr.94)
1. Về cách sắp xếp trình bày
2. Về các trường hợp hiệu đính (tr. 95).
3. Về chú giải
III - Về nhận định tổng quát (tr.96)
1. Bối cảnh văn học
2. Bối cảnh tôn giáo và chính tri
3. Nhà thơ công giáo (tr.98)
4. Một thi đàn của đức tin (tr.101)
5. Sau Phi Năng Thi tập (tr. 103)
I1 - TÀI LIỆU CỦA ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE:
1.1. Về hình thức: Tài liệu ấn hành khổ A4, dày 81 trang, có chữ ký tặng của ông Léon Nguyễn Văn Quí biếu Đức Cha Nguyễn Văn Diệp. Thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris lưu giữ bản chụp.
1.2. Về nội dung: Trang 5 của tập tài liệu in bản đồ Việt Nam với lời chủ giải: Những hạt giống đức tin được gieo vào lòng đất Nam Kỳ.
Trang 7 viết chữ Hán nguyên văn như sau:
信 友 之 種 子
殉 道 者
Dịch âm:
Tín hũu chi chúng từử
TUẤN ĐẠO GIẢ
Trang 11: Lược sử Giảng đạo. Truyền đạo. Giữ đạo. Cấm đạo. Bắt đạo. Tử đạo.
Trang 15: Phần I: Niêu biểu và Tiểu sử
Trang 27: Nước Trời Ca
Trang 29: Thi đàn Phi Năng Thi tập
Trang 31: Nước Trời Ca
Trang 32: Xướng và Đáp họa
Trang 73: Trùm Họ Mặc Bắc Tử đạo
Trang 77: Phụ bản: Họ đạo Cái Mơn
NƯỚC TRỜI CA
Trong bài Đôi nét về Văn học Công giáo Việt Nam, tác giả Nguyễn Vy Khanh viết về Thánh Phan Văn Minh như sau: ‘‘Thánh Phi-líp Phan Văn Minh (1815-1853) đã để lại tác phẩm Phi năng Thi tập được truyền tụng đến nay, gồm 35 bài lục bát của ngài và 93 bài ngâm vịnh xướng họa của thi đàn. Đối với thánh nhân, thơ "ca tụng lòng lân mẫn vô biên của Thiên Chúa" (Lời phi lộ phần I), thi tập là "một bổn kinh nguyện". Như vậy, thánh nhân đã đồng hóa thi ca với lời cầu nguyện:
"Đội ơn Chúa Cả Ba Ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thủy vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy"
"Gia Tô Cơ đốc đấng Con Trời,
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng Vương Bá để xây đời.
(.. ) Dĩ nhược thắng cương minh chứng rõ:
Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời. (Đấng Cứu Thế)
Trước khi tìm hiểu về thi phẩm của thánh nhân và Thi đàn Phi Năng, ta hãy nghe nhà thơ tự sự qua Lời Phi Lộ của thi tập Nước Trời Ca:
‘‘Lạy Chúa Giêsu, Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi. Tôi xin chọn Thánh Danh Chúa làm chủ tể trong hội thi xướng họa này để tỏ lòng tha thiết kính yêu, và cũng là việc giải trí tốt đẹp trong đời sống thường ngày của hàng văn gia đất nước Đại Nam.
Bài học giáo lý của Cố Phan, tôi học khi còn thơ bé ở Cái Mơn có đoạn:
Đạo Đức Chúa Trời
Giảng dạy khắp nơi
Cứu khổ cho đời
Địa ngục khổ rồi
Khá giữ kịp thời…
Tôi xin chọn để gieo vần, vậy xin quý hữu có lòng mến Chúa Giêsu và yêu thơ xin đáp họa, hầu góp lại như bổn kinh nguyện ngâm lên ca tụng lòng lân mẫn vô biên của Thiên Chúa. Như trong Kinh Thánh đã kêu mời.
“Laudate Dominum, omnes gentes…”
(Thánh vịnh, CXVII, 1)
Phi-năng, ngày 25 tháng 12 năm 1894
Philipphê Phan Văn Minh’’
Thi nhân làm công việc khai sơn phá thạch, góp phần xây dựng nền quốc văn mới. Thánh Phan Văn Minh (1815-1853) hơn văn hào Trương Vĩnh Ký (1837-1898) 22 tuổi, hơn Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) 19 tuổi. Thánh nhân và Trương Tiên sinh cùng thôn Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là tỉnh Bến Tre). Các bài thơ quốc ngữ của Thánh nhân mở đường cho văn học quốc ngữ nói chung, không phân biệt Nam Bắc, lương giáo. Ngôn ngữ thi ca của thánh nhân bình dị, chữ Nôm là chính, chữ Hán thường là các danh từ thần học. Qua Lời Phi Lộ chứng tỏ thánh nhân chiu ảnh hưởng sâu đậm của Thánh vịnh. Ngay dòng khai từ: Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi gợi ý từ Thánh vịnh 16. Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào liên quan đến bản dịch Thánh vịnh sang Việt ngữ nên không thể quyết đoán thánh Minh là người có công dịch ‘‘Yahvé, ma part d’héritage’’ (Psaume 16) ra tiếng Việt ‘‘Chúa là gia nghiệp’’. Cách dịch này đến nay vẫn giữ được thi vị đậm đà và sự trong sáng của tiếng Việt. Trong Kinh Thánh, Thánh vịnh là lời cầu nguyện bằng thơ (prière poétique) gồm nhiều đoạn. Vào đầu thế kỷ X trước Công nguyên, vua David đã soạn một số Thánh vịnh ngợi ca Thiên Chúa. Thánh Phan Văn Minh cho rằng Thi tập Nước Trời Ca là Kinh Thơ. Cách viết ‘‘Nước Trời’’ thay vì ‘‘Thiên Quốc’’ chứng tỏ tác giả muốn dùng ngôn ngữ riêng của ta để có thể phổ cập đến dân gian. Trong phần sau đây, ta sẽ nói qua về đặc điểm thi pháp và Thi đàn Phi Năng.
B - THI PHÁP PHI NĂNG THI TẬP:
Nhà văn Võ Long Tê cho rằng ‘‘ngôn ngữ thơ của thánh Minh (tiền bán thế kỷ XIX) xét ra khác hẳn ngôn ngữ thơ của thế hệ trước và có những mẫu số chung với ngôn ngữ thơ hiện đại’’. ‘‘Thánh Minh đậm đà tính chất phổ quát của đạo Công Giáo và truyền thống văn học dân tộc trong tiến trình canh tân”. Sau đây, ta sẽ bàn đến sự khác biệt giữa trước tác của thánh Minh và thơ cổ điển, những nét tương đồng với thơ mới.
A) Sự khác biệt với thơ cũ:
1) Khác biệt về đề tài:
Nhà thơ lấy chất liệu trong Phúc âm dệt thành thơ lục bát, gần gũi với ca dao:
Đội ơn Chúa Cả Ba Ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thủy vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.
Sáu câu lục bát trên đây lời lẽ bình dị, tuy có điểm xuyết một vài chữ Hán, nhưng là chữ Hán đã du nhập trong ngôn ngữ nước ta như: vật ( 物 ), hưởng ( 享 ); hoặc là các thành ngữ đối nhau: vô thủy vô chung ( 无 始 无 终 ) ≠ thường sinh thường vượng ( 常 生 常 旺 ).
Ngoài sự đổi mới về thể tài còn phải kể đến nỗ lực của thi nhân đưa thơ về với nguồn cội cầu nguyện. Trong Giáo hội, nhiều vị thánh đồng thời là thi nhân, như thanh Phanxicô thành Assise, Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu. Các thánh nhân thi sĩ phần nhiều đều là tu sĩ dòng chiêm niệm (ordres contemplatifs). Trong hàng giáo sĩ, nhiều linh mục là thi sĩ như Xuân Ly Băng (LM Lê Xuân Hoa), Cung Chi, Lương Nhi Tử (LM Đinh Đồng Thượng Sách), Trăng Thập Tự (LM Võ Tá Khánh), Nguyễn Tầm Thường (LM Nguyễn Trọng Tước). Nhiều giáo dân là nhà thơ nổi tiếng như Hàn Mặc Tử, Quách Thoại. Các giáo dân đều có tâm hồn thơ, mỗi chủ nhật được nghe Thánh vịnh. Đối với họ, cầu nguyện là vấn đề hệ trọng (la prière est une question de vie ou de mort) như nhận định của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI Người ta thuật lại một giai thoại liên quan đến nhà văn Franz Kafka. Có người hỏi ông rằng: ‘‘Phải chăng thơ đưa (ta) về tôn giáo ? (la poésie tiendrait donc à la religion ?), Franz Kafka đáp: ‘‘Tôi không nói vậy, nhưng chắc chắn là tôn giáo dẫn ta về cõi thơ (Je ne dirai pas cela, mais à la poésie sûrement). Chính tâm tình mộ đạo đã thúc đẩy thánh Minh làm thơ.
2) Khác biệt về ngôn ngữ:
Thánh Minh hơn Cụ Nguyễn Đình Chiểu 7 tuổi. Cụ Đồ Chiểu sinh ở Gia Định, soạn truyện Lục Vân Tiên viết bằng chữ Nôm. Cũng như Lục Vân Tiên, thánh nhân soạn Inê Tử Đạo theo thể lục bát bằng chữ quốc ngữ. Tuy cả hai sống cùng thời, cùng miền Nam nhưng ngôn ngữ Inê Tử Đạo khác Lục Vân Tiên. Trong khi ngôn ngữ của Lục Vân Tiên có nhiều từ ngữ cổ của miền Nam và nhiều chữ Hán. Thí dụ: an nơi (câu 561, 1533) (yên chỗ), áo không bâu (1585) (áo không cổ), bảng lảng bơ lơ (1857) (không chú tâm), không hòa mùi chi (1112) (không ăn uống), tọa tiền chứng miêng (798) (ngồi trước bàn thờ mà chứng giám) v.v. Ngược lại, thánh Minh sử dụng ít từ cổ, ít dùng chữ Hán. Nhờ vậy lời văn nhẹ nhàng, dễ hiểu. Thơ của thánh Minh là cánh én, báo trước sự chuyển biến của văn học nước nhà, từ Hán-Nôm chuyển sang quốc ngữ. Sự chuyển hóa này còn kèm theo sự đổi mới về ngôn ngữ, ta về ta tắm ao ta. Đó chinh là ưu điểm văn thơ thánh Minh vậy.
Bài vãn ‘‘Inê Tử Đạo’’ thể lục bát gồm 562 câu là bản trường ca tử đạo nước Việt, ca ngợi nữ thánh Inê Đê tức Lê Thị Thành, tử đạo năm 1841, trước thánh Minh 12 năm
Mở đầu bài Vãn có những câu:
Có người đức hạnh danh Lam,
Dòng truyền giữ đạo nước Nam nên tài.
Carolo hiệu là người,
Diên Ninh ấy phủ, nhà nơi Lâm Tuyền.
Vợ hiệu Save là tên,
Giai lão kết nguyền, đạo đức kính tin.
Sinh đặng mười hai con hiền,
Bảy trai hai gái đã nên phước nhà.
Gái thì đặng một Inê,
Là con thứ tám trọn bề thảo ngay.
Đoạn tả Inê từ biệt chồng con, bị giam vào ngục thất như sau:
Inê lẳng lặng làm thinh,
Chồng càng than khóc vợ mình kể khuyên:
- Sắt cầm từ thuở ấu niên,
Nỡ nào ly biệt cho an tấc lòng.
Dầu chăng nên đạo vợ chồng,
Con thơ ai kẻ quan phòng dưỡng nuôi ?
Má hồng mặt bạc mày môi,
Mình vàng vó ngọc bỏ tôi chẳng nhìn ?
Em hỡi nghe lời anh khuyên,
Sắt cầm giai lão nhơn duyên hợp hòa.
.. . .
Anh thì ở lại chớ sờn
Thìn lòng giữ đạo chẳng hơn cũng tày.
Ngày sau ta lại hiệp vầy,
Thương thì cầu nguyện hồn ngay thẳng về,
Ấy là ngãi đạo phu thê,
Chớ ra lòng mọn lỗi thì chẳng nên.
Trước giờ bị hành quyết, thánh nữ không quên dặn dò con cái, câu thơ thể lòng thương yêu và ý chí can trường:
Bức thư này để lại cho con,
Sau khôn lớn mọi lời cho biết.
Con thì giữ đức nết hạnh khiêm nhường,
Bé thờ cha vâng giữ gia nương.
Lớn theo cậu ủi an dạy dỗ,
Cù lao báo bổ ơn ấy chớ nài.
Miễn là con giữ đạo thành tài,
Cho mẹ đặng ngày sau thấy mặt.
Dầu cha cải nghiệp kế mẫu qui đàng,
Hai con thìn khiêm nhượng kính đang.
Chớ khá ở bạc tình kiêu ngạo.
Lời lành dặn bảo thương mẹ thì nghe;
Áng vui chơi tửu sắc rượu chè,
Lời độc dữ gian tà lánh vẹn.
Mẹ rầy đã đến cõi thọ diệu quang,
Mọi lời sau trước rõ ràng,
Mẹ giã từ con còn ở thế.
Phần kết bài vãn là khải hoàn ca chung cho các anh hùng tử đạo nước Nam:
Bia vàng tạc chữ chí linh,
Để truyền sách ấy nối tình đời sau.
Inê là hiệu làm đầu,
Hiền kia Thánh nọ xem lầu bổ căn.
Ngoài 35 bài lục bát, thánh Phan Văn Minh còn để lại gần một trăm thơ Đường xướng họa của Phi năng Thi đàn. Việc thánh Minh sáng lập thi đoàn sẽ được đề cập trong phần sau đây.
(Xem tiếp phần II: Hội Tao Đàn Quốc Ngữ )
Văn Hóa
Thơ: Góa phụ Nain
Nguyễn Trung Tây, SVD
01:25 23/05/2008
Góa phụ Nain
![]() |
Đường về âm phủ lối bạt ngàn.Lá vàng rơi phủ đậy áo quan,Mộ khúc bi ca tấu ly biệt,Một cõi trời buồn trắng khăn tang.
Khói trắng nhang thơm hay khói sương?Bạch lạp nến cháy ảo thiên đường?Khói cay mắt mẹ hay mẹ khóc?Lệ nào thương mẹ? Lệ khóc con?
Sỏi đá hai bên lệ hai hàng,Sỏi buồn sỏi khóc ướt khăn tang,Đá buồn đá khóc khô nước mắt,Trời đông nhỏ lệ buồn mênh mang.
Góa phụ khăn tang sầu tuổi xanh, Lá vàng héo úa buồn lá xanh,Sầu tủi duyên mẹ duyên góa phụ.Buồn thương phận mẹ phận độc hành.
Cõi tang ma,Góa phụ khóc,Người người khóc,Sỏi đá khóc,Lệ che tối Bóng một người!Đang bước tới.
Tiếng chân Chúa bước nghe rộn ràng.Trời xanh nín thở gió ngừng ngang, Thiên đàng đất thấp yên lặng ngắm,Giây phút tay Trời đụng áo quan.
Dế mèn rũ cánh ngưng sầu ca,Cỏ úa kinh ngạc mở mắt ra,Trời xanh thầm thì vào tai gió,“Sao lại ngạc nhiên? Đó, Chúa ta”.
“Chúa đã chết!”(1), nếu Chúa đã chết,Trần gian đen đặc tối tang ma.Trời đông tái xám màu ly biệt.Nếu không có Chúa, đời mộ ca!
Bước chân Chúa tới, trần gian đổi mới, màu trắng tang ma hóa màu hồng,Mùa Xuân tươi!
Bàn tay Chúa chạm,Xác chết thôi xám,Khóc ngưng thôi khóc hạt lệ khô.Cõi thiên đàng.
(1) Nietzsche
www.nguyentrungtay.com
Chuyện phiếm: Ai Da Màu ?
Trà Lũ
09:15 23/05/2008
Chuyện phiếm: AI DA MÀU ?
Các cụ có biết trên thế gian này ai đã tìm ra chất ngọt không ? Người Da Đỏ Canada đấy các cụ ạ. Theo sách vở thì khi tới đây vào thế kỷ 15, người da trắng đã thấy người Da Đỏ uống một thứ nước ngọt lấy từ thân một loại cây phong mà sau này họ đặt tên là cây Sugar Maple. Người Da Đỏ gốc Algonguin gọi cái thứ nước ngọt này là sinzoibuckud. Người da trắng đã dùng kỹ thuật cơ khí mà chế biến ra sirô và đường.
Gia tộc nhà cây phong có tới hơn hai ngàn anh em, có mặt khắp nơi trên thế giới. Bên Tàu bên ta đều có. Chứng cớ là các nhà văn Tàu và VN đều có nhắc tới phong trong thơ văn. Nhưng chỉ cây phong ở Canada mới sinh ra chất ngọt. Đây là món qùa đặc biệt Thượng Đế tặng riêng cho người Da Đỏ Canada. Theo sách vở thì ban đầu người Da Đỏ hứng cái chất ngọt trời cho này rồi dùng đá nóng mà cô đọng lại.
Trước đây tôi cứ tưởng người ta hứng cái chất ngọt như hứng nhựa cây cao su. Không riêng tôi mà cả làng An Lạc của tôi đều nghĩ thế. Không đơn sơ và giản dị như thế đâu các cụ ạ. Phải thấy tận mắt mới biết con đường từ nhựa cây đến chai sirô, đến thỏi đường dài lắm. Anh John là người đã giúp chúng tôi hiểu sự việc. Xin tạ ơn Trời Phật vì làng tôi có anh John người bản địa.Tôi xin kể chuyện này từ từ nha.
Gần đây, làng tôi mới nảy ra ý kiến là ngoài việc ngồi ở nhà nhậu nhẹt, dân làng cũng nên xuất hành, đi đây đi đó cho biết người biết ta. Và việc xuất hành đầu tiên đã xảy ra tháng trước. Ở Canada cứ đầu mùa xuân thì có lễ hội Maple Syrup ở các đồn điền cây phong. Anh John đã mời cả làng đi du khảo. Có những chuyến xe đưa rước. Ai cũng hồ hỏi lên đường. Phe các bà ríu ra ríu rít, vui vẻ hết sức.
Xe chạy ra ngoài thành phố chừng hơn hai tiếng đồng hồ thì tới trại. Chúng tôi được tiếp rước rất niềm nở, được mời lên xe ngựa tham quan, và được giải thích rất tường tận về cách chế biến sirô. Đây không phải là cánh rừng hoang mà là một cánh rừng được trồng toàn loại cây phong cho đường. Người ta chăm sóc từng gốc phong. Khi thân cây có đường kính khoảng 25 phân thì người ta bắt bầu lấy nhựa. Lấy nhựa không phải bằng cách cắt vỏ cây mà là khoan vào thân cây một cái lỗ, nhựa phong sẽ theo lỗ này mà chảy ra. Ngày xưa người ta hứng nhựa vào thùng, nay thì người ta đặt hệ thống dẫn nhựa thẳng về nhà máy. Nói là nhựa cho dễ hiểu chứ cái chất mà cây phong chảy ra chỉ là một hỗn hợp chất lỏng, 97% là nước, chỉ có 3% là chất ngọt. Bây giờ phải cô đọng lại, phải loại nước đi. Cứ 40 lít nước hỗn hợp này mới cho 1 lít sirô. Khi sirô còn đang nóng thì phải đóng vào chai ngay, để diệt trùng. Theo luật thực phẩm Canada thì các hãng sản xuất không được phép pha vào sirô bất cứ chất bảo trì nào, bởi vật maple syrup do Canada sản xuất được tiếng là tinh khiết nhất thế giới. Sirô có nhiều loại nhưng sirô có màu hổ phách là ngon nhất vì đậm đặc nhất. Phó sản của sirô là bơ, tên tiếng Anh là Maple Butter, và kẹo đường, Maple Sugar Candy.
Maple syrup bán trên thị trường thế giới, 80% là sản phẩm của Canada. Tỉnh bang sản xuất nhiều nhất là Québec. Bên Mỹ cũng có sản xuất maple syrup, ở miền Minnesota, nơi có nhiều người Da Đỏ sinh sống. Nghe cô hướng dẫn viên nói đến đây thì ông H.O. cười ha ha. Ông bảo đây là những người Da Đỏ gốc ở Canada. Khi họ di cư xuống Hoa Kỳ thì đem thep cây phong, nhờ vậy Hoa Kỳ mới sản xuất được một chút maple syrup. Hoa Kỳ phải mang ơn Canada về mặt này.
Lúc ra về, phe các bà trong làng tôi ai cũng mua một túi nặng, nào sirô, nào bơ, nào đường. Phe liền ông chúng tôi sung sướng qúa sức vì biết rằng từ đây dân làng sẽ được ăn các loại bánh pancake, waffles, icecream với maple syrup.
Cụ Chánh tiên chỉ của làng thích thú chuyến đi này lắm. Cụ bảo mọi người: Cây phong mọc những nơi khác không cho gì cả, chỉ cây phong mọc nơi miền đất hạnh phúc này mới cho đường ngọt. Phong mọc nơi khác khi lá đổi màu không đẹp bằng phong đổi màu ở Canada. Du khách khắp nơi trên thế giới tấp nập đến Canada vào mùa thu chỉ để ngắm rừng phong là vậy. Đất này đúng là đất cây phong. Canada đã rất có lý khi chọn lá phong làm biểu tượng. Các cụ biết quốc kỳ Canada chứ ? Lá cờ có hình lá phong đỏ ở giữa ấy mà. Tôi yêu đất nước cây phong này qúa.
Ngay sau chuyến du khảo, phe các bà họp nhau làm các loại bánh với maple syrup. Phe liền ông chúng tôi cũng họp nhau, không phải để các bà sai khiến, mà để bàn các chuyện quốc sự. Toàn những việc trọng đại không à. Chẳng hạn việc rước đuốc thế vận hội, chẳng hạn việc Tây Tạng nổi dậy, chẳng hạn việc xăng dầu tăng giá và đồng mỹ kim sụt giá. Nơi họp bàn vẫn là quán cà phê Starbucks ở ngã tư. Các cụ còn nhớ lịch sinh hoạt cuối tuần của phe liền ông chúng tôi chứ. Xưa thì điểm xuất phát bắt đầu từ tư gia cá nhân, và điểm hội tụ là quán cà phê. Nay thì có sự thay đổi về lộ trình và sinh hoạt. Ông ODP mới nghĩ ra việc tập thể dục ở trung tâm YMCA, tập xong thì mới đi bộ đến Starbucks..
Cái ông ODP này giỏi thật. Các cụ biết YMCA chứ ? YMCA đã có mặt ở 120 quốc gia và đã sinh hoạt 150 năm nay. Ban đầu đây chỉ là một trung tâm xã hội của Thiên Chúa Giáo, được thiết lập năm 1844 tại London.. YMCA là tiếng viết tắt của Young Men’s Christian Association. Ban đầu trung tâm chỉ nhắm phục vụ phe liền ông có đạo. Nay thì biên giới đã mở rộng cho mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, phái tính. Ở Hoa Kỳ và ở Canada, trung tâm nào cũng trương một bảng hiệu to lớn với chữ Y thật bự. Trong chữ Y hoa này có hình tam giác đỏ, 3 cạnh đều nhau. Ba cạnh tượng trưng cho việc thăng tiến thân xác, tâm hồn và trí tuệ.
Ngoài các sinh hoạt về giáo dục và xã hội, YMCA nào cũng có những phòng tập thể dục thật vĩ đại, những phòng chơi banh thật lớn, những hồ bơi thật rộng. Riêng thành phố Toronto này có tới 4 trung tâm lận. Nơi các cụ ở, chắc phải có YMCA. Cụ vào thử mà coi. Mê lắm. Cứ thấy tòa nhà nào có bảng chữ Y to tổ chảng thì đích thị là nó đấy. Mỗi tháng cụ đóng chút xíu tiền hội viên là cụ có toàn quyền xử dụng mọi tiện nghi.
Nhờ ông ODP mà phe liền ông làng tôi trở thành hội viên YMCA hết. Cụ Chánh cũng tham gia. Sáng nào chúng tôi cũng đến đây tập thể dục, bơi lội. Anh John, Chị Ba, ông H.O, bơi xong rồi mới đi làm. Nước thiên đàng ở ngay đây, chứ đâu ở xa, các cụ ơi.
Hôm nay tôi miên man về YMCA nhiều qúa, ý tôi muốn nói chuyện khác cơ. Ý tôi muốn kể các cụ nghe cái màn nói chuyện tầm phào khi uống cà phê sau khi tập thể dục và bơi lội cơ. Phe liền ông chúng tôi, tức các nhà trượng phu quân tử trong làng, có thói quen vừa nhâm nhi cà phê vừa xem báo tây, báo chùa của Starbucks, vừa chia sẻ tin tức quốc nội quốc ngoại. Tuần qua, ông ODP đem bài ‘Nghĩ suy từ Ấn Độ’ của tác giả Phạm Đình Trọng ra bình luận. Bài này đăng trên internet ngày 9.4.2008. Theo ông ODP thì bài này hay qúa. Tác giả tự xưng là một nhà thơ trong nước, đại diện văn giới VN sang dự hội thơ thế giới họp bên Ấn Độ. Xưa nay nhóm chúng tôi không thích Hội Nhà Văn trong nước vì tiếng nói của họ không trung thực, họ bị chính quyền CS chỉ đạo. Nay đọc bài ông Trọng, chúng tôi ngạc nhiên qúa. Ông dám bạo vậy sao ? Ông lấy cớ kể chuyện Ấn Độ để dẫn vào chuyện VN. Rằng Ấn Độ là xứ của thần linh. Thần linh khắp nơi. Thần linh hiển hiện trong Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Rabindranah Tagore. Qua thánh Gandhi, thần linh đã dẫn dắt dân Ấn Độ không dùng bạo lực mà đạt được độc lập, xã hội Ấn Độ nhiều giai cấp nhưng không hận thù đấu tố nhau. VN cũng có một thánh Gandhi, đó là chí sĩ Phan Chu Trinh, nhưng tiếc rằng vận nước ta suy, ta không được may mắn như Ấn Độ.
Tác giả Phạm Đình Trọng viết:
. . . Cùng thời với Gandhi, cùng tư tưởng, cùng cách chọn lựa như Gandhi, Phan Chu Trinh cũng chủ trương không dùng bạo lực, không đẩy người dân tay không ra đối đầu với súng đạn thực dân, mà phải trước hết nâng cao dân trí. Dân trí cao, người dân sẽ ý thức được quyền con người, quyền dân tộc mà bền bỉ đấu tranh chính trị, đấu tranh nghị trường giành độc lập. Gandhi đã thực hiện điều đó. Ấn Độ đã giành độc lập theo cách đó và đã thắng lợi !
Định mệnh trớ trêu đưa đẩy, VN chúng ta đã chọn con đường cách mạnh vô sản! Sự lựa chọn ấy đã xác định luôn cả bạn đường cho dân tộc ta là giai cấp vô sản thế giới ! Tiêu chí giai cấp được đưa lên trên hết. Dân tộc không còn được tính đến. Dân tộc phải hòa tan trong giai cấp. Từ một khái niệm còn mơ hồ, giai cấp bỗng hiện hình sừng sững trùm lên xã hội, đè xuống từng số phận con người ! Từ đó, con người VN vốn bao dung ‘Chín bỏ làm mười’, ‘ Tranh quyền cướp đất chi đây, Coi nhau như bát nước đầy là hơn’, con người VN vốn chan chứa thương yêu ‘ Thương người như thể thương thân’, dân tộc VN vốn rộng lòng đùm bọc ‘ Nhiễu điều phủ lấy gía gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng’, bỗng thành con người khác, dân tộc khác.
Con người ấy, dân tộc ấy bỗng đằng đằng sát khí ôm súng lao vào hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, lâu dài và thảm khốc. Con người ấy, dân tộc ấy bỗng lạnh lùng cay nghiệt, tay cầm nghị quyết, mê mải đi từ cuộc đấu tranh giai cấp này đến cuộc đấu tranh giai cấp khác. Chiến tranh kéo dài, mất mát của chiến tranh trải rộng trên đất nước, đè nặng xuống số phận cả dân tộc.
Và khốc liệt nhất, mất mát lớn nhất, đau thương lớn nhất, phân rã, li tán dân tộc lớn nhất là cuộc tương tàn Nam Bắc hơn mười năm trời...
Chúng ta suốt hơn nửa thế kỷ giành và giữ chính quyền bằng bạo lực cách mạng, chúng ta đã coi chính quyền tồn tại bằng bạo lực như một lẽ đương nhiên, như một điều bình thường. Xài bạo lực qúa lâu đã trở thành nghiện, khi ấy bạo lực đã trở thành ma túy của chính quyền ! Qúa nghiền, qúa ỷ vào bạo lực, làm sao có thể nói đến dân chủ !
Tác giả viết dài lắm. Trên đây là mấy đoạn chính. Đọc xong bài thì ta thấy cái ý bàng bạc của tác giả: Giá mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN có cái tâm và cái trí của Phan Chu Trinh thì dân VN ta đã và đang hạnh phúc hơn nhiều. Than ôi ! Tiếc thay !
Ông H.O. góp lời: Vì cách mạng vô sản mà cả nước đã ngập trong máu và nước mắt. Bây giờ cả nước đang chuyển sang cách mạng thuộc địa. Miền Nam đang bị ‘Bắc thuộc’. Bao nhiêu chỗ ngồi quan trọng ở Saigon đều do dân Bắc kỳ chiếm hết. Năm xưa Việt kiều về nước thì sáng giá nhất. Nay chuyện đó xưa rồi. Bạn bè tôi bây giờ nói: Việt kiều thua xa Hà kiều. Hà kiều là ai vậy ? Thưa, Hà kiều là những đảng viên và vợ con gốc Hà Nội giàu có ở Saigon hiện nay ạ.
Ông ODP góp ý: Tiếc thì tiếc thật, nhưng cũng chưa muọn. Kìa xem nước Balan thập niên 1980 cũng bị CS tắm máu và nước mắt, nhưng, ôi chữ ‘nhưng’ quý giá thay, Ba Lan CS đã có một tổng thống can đảm. Đó là tướng W. Jaruzelski. Năm 1989, ông đã công khai nhân danh đảng CS lên tiếng nhận lỗi và xin lỗi toàn dân và chịu trách nhiệm trước lịch sử, và ông đã trao lại quyền cho dân năm 1990 qua Lech Walesa.Ta hãy cầu nguyện với tổ tiên để VN cũng có một Jaruzelski. Việc này chưa muộn.
Chuyện quê hương nghe buồn qúa, phải không các cụ. Xin được chuyển qua chuyện làng tôi, cam đoan vui hơn. Xin được kể chuyện buổi họp làng đầu mùa xuân ở nhà Cụ B.95.
Chúng tôi đã có một bữa ăn rất Bắc Kỳ: Cơm nóng ăn với món củ cải hầm thịt bò, và món rau muống và rau rút luộc. Bữa ăn có dáng dấp dân giả miền quê giống y như con người Cụ B.95 vạy. Các bạn biết làm món củ cải hầm thịt bò chứ ? Món này dễ qúa mà. Bò thịt nạm xắt miếng nhỏ, ướp hành tiêu tỏi nước mắm. Củ cải trắng và cà rốt gọt vỏ rồi cũng xắt miếng nhỏ. Bắc chảo lên bếp, phi hành tỏi cho thơm rồi cho thịt bò vào xào cho săn. Thêm chừng hai lít nước. Hầm thịt chừng một giờ rồi cho củ cải cà rốt, hầm thêm chừng 15 phút. Nêm nếm cho vừa miệng. Là được. Thêm chút ớt tươi, chút lá răm, chút lá hành. Là xong. Đó là món thứ nhất. Món thứ hai thì dễ qúa, rau muống mà. Nhưng cái đặc biệt là có thêm rau rút, tiếng Miền Nam gọi là rau nhút thì phải. Cụ B.95 đi chợ VN, thấy mấy gói rau rút từ VN mới đem qua. Cụ mua hết. Chao ôi, rau muống luộc chung với rau rút, sao mà nó hợp nhau, sao mà nó thơm thế và ngon thế. Món rau luộc này đã cho thấy rõ cái gốc Bắc Kỳ Nam Kỳ trong làng tôi. Người Nam không ăn nước rau luộc bao giờ. Chỉ có dân Bắc Kỳ là uống nước rau luộc chói chanh. Nghĩ cũng buồn cười quá. Ông ODP bảo anh John: Bao nhiêu sinh tố và chất bổ của rau đều tan vào nước luộc hết, anh thử nếm mà coi. Anh John nếm nước rau, cái đầu gật gù, miệng cười tủm tỉm mà không nói gì. Anh này khôn tổ chảng, các cụ thấy chưa. Chi Ba Biên Hòa là vợ anh đâu có biết uống nước rau muống.
Cũng chưa hết chuyện rau muống và rau rút luộc. Hết chuyện nước rau thì đến chuyện nước mắm chấm rau. Cụ B.95 và Cụ Chánh, hai gốc tổ Bắc Kỳ thì chấm rau với nước mắm tôm chanh. Ông ODP, Ông H.O. và kẻ hèn này thì chấm rau với nước mắm chanh ớt. Phe Chị Ba và hai cô Huế thì chấm rau với chính nước củ cải hầm thịt bò. Một đĩa rau mà có tới ba chén nước mắm chấm khác nhau. Vui qúa chứ. Bữa ăn toàn rau với cơm tám nóng sốt. Ôi, quê hương VN là đây chứ có ở đâu xa. Quê hương vừa ở trong lòng ta, vừa ở trên bàn ăn này.
Và có một điều lạ lùng đã xảy ra là lần này phe liền bà không bắt phe liền ông chúng tôi nói chuyện về tình yêu. Họ nói chuyện phim ảnh. Mà chính các bà nói mới ghê. Tôi là dân nhà quê có theo rõi tình hình phim ảnh thế giới bao giờ. Các bà đã đem bộ phim Harry Potter ra bàn. Chị Ba, cô Cao Xuân, cô Tôn Nữ thao thao bất tuyệt. Các bà còn đem tác giả ra bàn thêm nữa, mới khiếp chứ. Ông ODP được các bà hỏi ý kiến về bộ phim. Ông này không bàn về bộ phim mà bàn chuyện bên lề. Rằng con người ta có số. Tác giả J.K.Rowling ngày trước nghèo mạt rệp, có lúc bà đã nghĩ tới việc quyên sinh. Nhưng nhờ cái nghèo mà hàng ngày ngồi xe lửa đi làm, bà đã có giờ suy gẫm và nghĩ ra nhân vật thần kỳ Harry Potter. Cái số bà Rowling giống y như số nhà văn Kim Dung bên Tàu. Thuở đầu đời, Kim Dung mơ ước được làm việc trong ngành ngoại giao, nhưng mộng ước không thành. Người ta chỉ cho ông cái việc làm trong thư viện. Nhờ tiếp cận với sách mà nữ thần văn chương đã nhập vào ông, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng. Nếu xưa kia ông được làm việc trong ngành ngoại giao thì chắc bây giờ ông là một người vô danh tiểu tốt. Cái viẹc mà ban đầu ông không thích đã dẫn ông vào cõi văn chương. Mà không phải văn chương tầm phào, văn chương của ông là văn chương đỉnh cao, nó chuyên chở triết lý và tôn giáo. Thật đáng nể vậy thay.
Rồi hai cô Huế quay sang phỏng vấn anh John. Anh cười ha ha. Anh bảo rằng anh khác vợ về mặt này. Anh không thích phim tình cảm, không thích Harry Potter, anh chỉ thích phim Cao Bồi. Cô Cao Xuân ngạc nhiên vô cùng. Cô bảo phim cao bồi có gì hay đâu, vì từ đầu phim tới cuối phim toàn chuyện bắn súng èng èng. Anh John như bị điểm đúng huyệt liền cãi. Anh hùng hồn ca ngợi phim cao bồi:
Cô nghĩ thế là lầm. Phim cao bồi miền viễn tây là phim giáo dục, kẻ gian ác bao giờ cũng bị trơì phạt, người công chính bao giờ cũng được trời thưởng, chân lý bao giờ cũng hiện ra bàng bạc trong phần cuối phim. Đứng lên ra về, lòng khán giả bao giờ cũng vui vẻ thoải mái.
Thấy cô Cao Xuân chưa thấy hết ý mình, ông bèn đem những nét đặc biệt trong các phim cao bồi ra tả:
Các cảnh đấu súng trong phim miền viễn tây đẹp vô cùng. Chẳng hạn những phim nổi tiếng như Rio Bravo, High Noon, OK Corals. .. đều có những cảnh đấu súng nghẹt thở, nhưng rất đẹp mắt. Bao giờ cũng thế này: Ngồi trong quán rượu, người hùng viễn tây đưa tay kiểm soát khẩu súng lục, nạp đạn, quay khẩu súng mấy vòng, rồi cho súng vào bao, cột súng bên đùi. Chàng rút bao thuốc lá, lấy một điếu ngậm lên môi, rút que diêm quệt vào đế giầy để lấy lửa, rồi châm thuốc. Chàng lượm cái mũ da dính dầy bụi đội lên đầu. Rồi đứng lên tung cửa chàng bước ra khỏi quán. Chàng tiến ra giữa đường, nhìn về phía đối thủ đang đứng gờm gờm từ phiá xa.
Người trong quán nhốn nháo, ai cũng tìm một chỗ bên cửa sổ, nép vào cửa, để xem cảnh đấu súng sắp xảy ra.
Đối thủ trông cũng oai hùng không kém. Con mắt tóe lửa. Anh đã đứng chờ sẵn trên đường cách đó mấy chục thước. Anh ta ném điếu thuốc xuống đất, lấy đế giầy miết lên, hai tay buông thõng bên khẩu súng. Tư thế sẵn sàng.
Rồi loáng một cái. Đoàng ! Anh giơ tay rút súng nhưng đã trễ. Đối thủ đã bắn trước. Anh ngã vật xuống đất.
Lúc đó người hùng cao bồi liếc nhìn khẩu súng còn bốc khói, từ từ cho súng vào bao, rồi nhảy lên ngựa, lặng lẽ quất ngựa tiến về phía mặt trời đang lặn. Chân trời đỏ au. Gió bỗng thổi ào ào. Nhạc từ đâu vang ầm lên. Và đèn trong rạp bật sáng.
Nghe đến đây, cô Cao Xuân vái anh John một cái rồi nói: Miệng anh qủa là có thần, tôi đã bắt đầu thấy mê phim cao bồi rồi đây. Chắc tối nay tôi sẽ đi thuê bộ phim ‘OK Corals’, sẽ thức suốt đêm để xem cho đã.
Anh John bèn hỏi lại cô Cao Xuân: Thế xưa nay cô mê loại phim nào? Phim tình cảm hay phim chưởng. Cô Huế trả lời ngay: Tôi chỉ mê có James Bond, chàng điệp viên 007 đẹp trai hào hoa phong nhã ấy mà. Tôi có đầy đủ tài liệu về 21 cuốn phim danh tiếng của tác giả Ian Fleming. Nghe nói cuốn thứ 22, Quantum of Solace, sắp ra. Tôi đang chuẩn bị đi coi đây. Phim James Bond cũng như phim cao bồi mà anh vừa ca tụng, bao giờ cũng có hậu, đề cao đạo lý. Hiện trong tủ của tôi có 3 bộ phim mà tôi mê nhất: Casino Royal, From Russia With Love, và Die Another Day.
Cụ B.95 lên tiếng: Xin các bác đừng nói những chuyện văn hóa cao qúa, lão già này không hiểu được bao nhiêu. Xin cứ nói chuyện văn hóa, nhưng nói chuyện văn hoá thấp, dễ hiểu, được không ạ ?
Anh John và Cô Cao Xuân chưa biết trả lời ra sao thì ông ODP lên tiếng ngay: Việc này xin để tôi. Tôi có câu chuyện văn hóa rất đơn sơ dễ hiểu nhưng được thế giới đánh giá rất cao. Đó là bài thơ của một em bé bên Phi Châu nói về danh xưng ‘Da màu’. Xưa nay thế giới người da trắng gọi chung tất cả các sắc dân da vàng da đen là ‘ Ngưòi Da Màu ’ Bài thơ này được LHQ chọn là bài thơ hay nhất trong năm 2005. Tôi đọc báo đăng bài thơ mà không thấy đề tên em bé da đen tác giả, tôi tìm trên internet cũng không thấy. Bài thơ lời Việt dịch như thế này:
Khi tôi sinh ra,da tôi màu đen.
Khi tôi lớn lên, da tôi màu đen.
Khi tôi đi dưới nắng, da tôi màu đen.
Khi tôi sợ, da tôi màu đen.
Khi tôi bệnh, da tôi màu đen.
Và khi tôi chết, da tôi vẫn màu đen.
Còn bạn, hỡi người da trắng !
Khi bạn sinh ra, da bạn màu hồng.
Khi bạn lớn lên, da bạn màu trắng.
Khi bạn đi dưới nắng, da bạn màu đỏ.
Khi bạn lạnh, da bạn màu xanh tái..
Khi bạn sợ, da bạn màu vàng
Khi bạn bệnh, da bạn màu xanh mét
Và khi bạn chết, da bạn màu xám.
Thế mà, bạn gọi tôi là da màu ư ?
Nghe xong bài thơ, cụ B.95 gật gù khen bài thơ đơn sơ dễ hiểu mà ý thì hay qúa.
Các cụ thì sao, các cụ có thấy bài thơ em bé Phi Châu hay qúa không ?
Các cụ có biết trên thế gian này ai đã tìm ra chất ngọt không ? Người Da Đỏ Canada đấy các cụ ạ. Theo sách vở thì khi tới đây vào thế kỷ 15, người da trắng đã thấy người Da Đỏ uống một thứ nước ngọt lấy từ thân một loại cây phong mà sau này họ đặt tên là cây Sugar Maple. Người Da Đỏ gốc Algonguin gọi cái thứ nước ngọt này là sinzoibuckud. Người da trắng đã dùng kỹ thuật cơ khí mà chế biến ra sirô và đường.
Gia tộc nhà cây phong có tới hơn hai ngàn anh em, có mặt khắp nơi trên thế giới. Bên Tàu bên ta đều có. Chứng cớ là các nhà văn Tàu và VN đều có nhắc tới phong trong thơ văn. Nhưng chỉ cây phong ở Canada mới sinh ra chất ngọt. Đây là món qùa đặc biệt Thượng Đế tặng riêng cho người Da Đỏ Canada. Theo sách vở thì ban đầu người Da Đỏ hứng cái chất ngọt trời cho này rồi dùng đá nóng mà cô đọng lại.
Trước đây tôi cứ tưởng người ta hứng cái chất ngọt như hứng nhựa cây cao su. Không riêng tôi mà cả làng An Lạc của tôi đều nghĩ thế. Không đơn sơ và giản dị như thế đâu các cụ ạ. Phải thấy tận mắt mới biết con đường từ nhựa cây đến chai sirô, đến thỏi đường dài lắm. Anh John là người đã giúp chúng tôi hiểu sự việc. Xin tạ ơn Trời Phật vì làng tôi có anh John người bản địa.Tôi xin kể chuyện này từ từ nha.
Gần đây, làng tôi mới nảy ra ý kiến là ngoài việc ngồi ở nhà nhậu nhẹt, dân làng cũng nên xuất hành, đi đây đi đó cho biết người biết ta. Và việc xuất hành đầu tiên đã xảy ra tháng trước. Ở Canada cứ đầu mùa xuân thì có lễ hội Maple Syrup ở các đồn điền cây phong. Anh John đã mời cả làng đi du khảo. Có những chuyến xe đưa rước. Ai cũng hồ hỏi lên đường. Phe các bà ríu ra ríu rít, vui vẻ hết sức.
Xe chạy ra ngoài thành phố chừng hơn hai tiếng đồng hồ thì tới trại. Chúng tôi được tiếp rước rất niềm nở, được mời lên xe ngựa tham quan, và được giải thích rất tường tận về cách chế biến sirô. Đây không phải là cánh rừng hoang mà là một cánh rừng được trồng toàn loại cây phong cho đường. Người ta chăm sóc từng gốc phong. Khi thân cây có đường kính khoảng 25 phân thì người ta bắt bầu lấy nhựa. Lấy nhựa không phải bằng cách cắt vỏ cây mà là khoan vào thân cây một cái lỗ, nhựa phong sẽ theo lỗ này mà chảy ra. Ngày xưa người ta hứng nhựa vào thùng, nay thì người ta đặt hệ thống dẫn nhựa thẳng về nhà máy. Nói là nhựa cho dễ hiểu chứ cái chất mà cây phong chảy ra chỉ là một hỗn hợp chất lỏng, 97% là nước, chỉ có 3% là chất ngọt. Bây giờ phải cô đọng lại, phải loại nước đi. Cứ 40 lít nước hỗn hợp này mới cho 1 lít sirô. Khi sirô còn đang nóng thì phải đóng vào chai ngay, để diệt trùng. Theo luật thực phẩm Canada thì các hãng sản xuất không được phép pha vào sirô bất cứ chất bảo trì nào, bởi vật maple syrup do Canada sản xuất được tiếng là tinh khiết nhất thế giới. Sirô có nhiều loại nhưng sirô có màu hổ phách là ngon nhất vì đậm đặc nhất. Phó sản của sirô là bơ, tên tiếng Anh là Maple Butter, và kẹo đường, Maple Sugar Candy.
Maple syrup bán trên thị trường thế giới, 80% là sản phẩm của Canada. Tỉnh bang sản xuất nhiều nhất là Québec. Bên Mỹ cũng có sản xuất maple syrup, ở miền Minnesota, nơi có nhiều người Da Đỏ sinh sống. Nghe cô hướng dẫn viên nói đến đây thì ông H.O. cười ha ha. Ông bảo đây là những người Da Đỏ gốc ở Canada. Khi họ di cư xuống Hoa Kỳ thì đem thep cây phong, nhờ vậy Hoa Kỳ mới sản xuất được một chút maple syrup. Hoa Kỳ phải mang ơn Canada về mặt này.
Lúc ra về, phe các bà trong làng tôi ai cũng mua một túi nặng, nào sirô, nào bơ, nào đường. Phe liền ông chúng tôi sung sướng qúa sức vì biết rằng từ đây dân làng sẽ được ăn các loại bánh pancake, waffles, icecream với maple syrup.
Cụ Chánh tiên chỉ của làng thích thú chuyến đi này lắm. Cụ bảo mọi người: Cây phong mọc những nơi khác không cho gì cả, chỉ cây phong mọc nơi miền đất hạnh phúc này mới cho đường ngọt. Phong mọc nơi khác khi lá đổi màu không đẹp bằng phong đổi màu ở Canada. Du khách khắp nơi trên thế giới tấp nập đến Canada vào mùa thu chỉ để ngắm rừng phong là vậy. Đất này đúng là đất cây phong. Canada đã rất có lý khi chọn lá phong làm biểu tượng. Các cụ biết quốc kỳ Canada chứ ? Lá cờ có hình lá phong đỏ ở giữa ấy mà. Tôi yêu đất nước cây phong này qúa.
Ngay sau chuyến du khảo, phe các bà họp nhau làm các loại bánh với maple syrup. Phe liền ông chúng tôi cũng họp nhau, không phải để các bà sai khiến, mà để bàn các chuyện quốc sự. Toàn những việc trọng đại không à. Chẳng hạn việc rước đuốc thế vận hội, chẳng hạn việc Tây Tạng nổi dậy, chẳng hạn việc xăng dầu tăng giá và đồng mỹ kim sụt giá. Nơi họp bàn vẫn là quán cà phê Starbucks ở ngã tư. Các cụ còn nhớ lịch sinh hoạt cuối tuần của phe liền ông chúng tôi chứ. Xưa thì điểm xuất phát bắt đầu từ tư gia cá nhân, và điểm hội tụ là quán cà phê. Nay thì có sự thay đổi về lộ trình và sinh hoạt. Ông ODP mới nghĩ ra việc tập thể dục ở trung tâm YMCA, tập xong thì mới đi bộ đến Starbucks..
Cái ông ODP này giỏi thật. Các cụ biết YMCA chứ ? YMCA đã có mặt ở 120 quốc gia và đã sinh hoạt 150 năm nay. Ban đầu đây chỉ là một trung tâm xã hội của Thiên Chúa Giáo, được thiết lập năm 1844 tại London.. YMCA là tiếng viết tắt của Young Men’s Christian Association. Ban đầu trung tâm chỉ nhắm phục vụ phe liền ông có đạo. Nay thì biên giới đã mở rộng cho mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, phái tính. Ở Hoa Kỳ và ở Canada, trung tâm nào cũng trương một bảng hiệu to lớn với chữ Y thật bự. Trong chữ Y hoa này có hình tam giác đỏ, 3 cạnh đều nhau. Ba cạnh tượng trưng cho việc thăng tiến thân xác, tâm hồn và trí tuệ.
Ngoài các sinh hoạt về giáo dục và xã hội, YMCA nào cũng có những phòng tập thể dục thật vĩ đại, những phòng chơi banh thật lớn, những hồ bơi thật rộng. Riêng thành phố Toronto này có tới 4 trung tâm lận. Nơi các cụ ở, chắc phải có YMCA. Cụ vào thử mà coi. Mê lắm. Cứ thấy tòa nhà nào có bảng chữ Y to tổ chảng thì đích thị là nó đấy. Mỗi tháng cụ đóng chút xíu tiền hội viên là cụ có toàn quyền xử dụng mọi tiện nghi.
Nhờ ông ODP mà phe liền ông làng tôi trở thành hội viên YMCA hết. Cụ Chánh cũng tham gia. Sáng nào chúng tôi cũng đến đây tập thể dục, bơi lội. Anh John, Chị Ba, ông H.O, bơi xong rồi mới đi làm. Nước thiên đàng ở ngay đây, chứ đâu ở xa, các cụ ơi.
Hôm nay tôi miên man về YMCA nhiều qúa, ý tôi muốn nói chuyện khác cơ. Ý tôi muốn kể các cụ nghe cái màn nói chuyện tầm phào khi uống cà phê sau khi tập thể dục và bơi lội cơ. Phe liền ông chúng tôi, tức các nhà trượng phu quân tử trong làng, có thói quen vừa nhâm nhi cà phê vừa xem báo tây, báo chùa của Starbucks, vừa chia sẻ tin tức quốc nội quốc ngoại. Tuần qua, ông ODP đem bài ‘Nghĩ suy từ Ấn Độ’ của tác giả Phạm Đình Trọng ra bình luận. Bài này đăng trên internet ngày 9.4.2008. Theo ông ODP thì bài này hay qúa. Tác giả tự xưng là một nhà thơ trong nước, đại diện văn giới VN sang dự hội thơ thế giới họp bên Ấn Độ. Xưa nay nhóm chúng tôi không thích Hội Nhà Văn trong nước vì tiếng nói của họ không trung thực, họ bị chính quyền CS chỉ đạo. Nay đọc bài ông Trọng, chúng tôi ngạc nhiên qúa. Ông dám bạo vậy sao ? Ông lấy cớ kể chuyện Ấn Độ để dẫn vào chuyện VN. Rằng Ấn Độ là xứ của thần linh. Thần linh khắp nơi. Thần linh hiển hiện trong Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Rabindranah Tagore. Qua thánh Gandhi, thần linh đã dẫn dắt dân Ấn Độ không dùng bạo lực mà đạt được độc lập, xã hội Ấn Độ nhiều giai cấp nhưng không hận thù đấu tố nhau. VN cũng có một thánh Gandhi, đó là chí sĩ Phan Chu Trinh, nhưng tiếc rằng vận nước ta suy, ta không được may mắn như Ấn Độ.
Tác giả Phạm Đình Trọng viết:
. . . Cùng thời với Gandhi, cùng tư tưởng, cùng cách chọn lựa như Gandhi, Phan Chu Trinh cũng chủ trương không dùng bạo lực, không đẩy người dân tay không ra đối đầu với súng đạn thực dân, mà phải trước hết nâng cao dân trí. Dân trí cao, người dân sẽ ý thức được quyền con người, quyền dân tộc mà bền bỉ đấu tranh chính trị, đấu tranh nghị trường giành độc lập. Gandhi đã thực hiện điều đó. Ấn Độ đã giành độc lập theo cách đó và đã thắng lợi !
Định mệnh trớ trêu đưa đẩy, VN chúng ta đã chọn con đường cách mạnh vô sản! Sự lựa chọn ấy đã xác định luôn cả bạn đường cho dân tộc ta là giai cấp vô sản thế giới ! Tiêu chí giai cấp được đưa lên trên hết. Dân tộc không còn được tính đến. Dân tộc phải hòa tan trong giai cấp. Từ một khái niệm còn mơ hồ, giai cấp bỗng hiện hình sừng sững trùm lên xã hội, đè xuống từng số phận con người ! Từ đó, con người VN vốn bao dung ‘Chín bỏ làm mười’, ‘ Tranh quyền cướp đất chi đây, Coi nhau như bát nước đầy là hơn’, con người VN vốn chan chứa thương yêu ‘ Thương người như thể thương thân’, dân tộc VN vốn rộng lòng đùm bọc ‘ Nhiễu điều phủ lấy gía gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng’, bỗng thành con người khác, dân tộc khác.
Con người ấy, dân tộc ấy bỗng đằng đằng sát khí ôm súng lao vào hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, lâu dài và thảm khốc. Con người ấy, dân tộc ấy bỗng lạnh lùng cay nghiệt, tay cầm nghị quyết, mê mải đi từ cuộc đấu tranh giai cấp này đến cuộc đấu tranh giai cấp khác. Chiến tranh kéo dài, mất mát của chiến tranh trải rộng trên đất nước, đè nặng xuống số phận cả dân tộc.
Và khốc liệt nhất, mất mát lớn nhất, đau thương lớn nhất, phân rã, li tán dân tộc lớn nhất là cuộc tương tàn Nam Bắc hơn mười năm trời...
Chúng ta suốt hơn nửa thế kỷ giành và giữ chính quyền bằng bạo lực cách mạng, chúng ta đã coi chính quyền tồn tại bằng bạo lực như một lẽ đương nhiên, như một điều bình thường. Xài bạo lực qúa lâu đã trở thành nghiện, khi ấy bạo lực đã trở thành ma túy của chính quyền ! Qúa nghiền, qúa ỷ vào bạo lực, làm sao có thể nói đến dân chủ !
Tác giả viết dài lắm. Trên đây là mấy đoạn chính. Đọc xong bài thì ta thấy cái ý bàng bạc của tác giả: Giá mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN có cái tâm và cái trí của Phan Chu Trinh thì dân VN ta đã và đang hạnh phúc hơn nhiều. Than ôi ! Tiếc thay !
Ông H.O. góp lời: Vì cách mạng vô sản mà cả nước đã ngập trong máu và nước mắt. Bây giờ cả nước đang chuyển sang cách mạng thuộc địa. Miền Nam đang bị ‘Bắc thuộc’. Bao nhiêu chỗ ngồi quan trọng ở Saigon đều do dân Bắc kỳ chiếm hết. Năm xưa Việt kiều về nước thì sáng giá nhất. Nay chuyện đó xưa rồi. Bạn bè tôi bây giờ nói: Việt kiều thua xa Hà kiều. Hà kiều là ai vậy ? Thưa, Hà kiều là những đảng viên và vợ con gốc Hà Nội giàu có ở Saigon hiện nay ạ.
Ông ODP góp ý: Tiếc thì tiếc thật, nhưng cũng chưa muọn. Kìa xem nước Balan thập niên 1980 cũng bị CS tắm máu và nước mắt, nhưng, ôi chữ ‘nhưng’ quý giá thay, Ba Lan CS đã có một tổng thống can đảm. Đó là tướng W. Jaruzelski. Năm 1989, ông đã công khai nhân danh đảng CS lên tiếng nhận lỗi và xin lỗi toàn dân và chịu trách nhiệm trước lịch sử, và ông đã trao lại quyền cho dân năm 1990 qua Lech Walesa.Ta hãy cầu nguyện với tổ tiên để VN cũng có một Jaruzelski. Việc này chưa muộn.
Chuyện quê hương nghe buồn qúa, phải không các cụ. Xin được chuyển qua chuyện làng tôi, cam đoan vui hơn. Xin được kể chuyện buổi họp làng đầu mùa xuân ở nhà Cụ B.95.
Chúng tôi đã có một bữa ăn rất Bắc Kỳ: Cơm nóng ăn với món củ cải hầm thịt bò, và món rau muống và rau rút luộc. Bữa ăn có dáng dấp dân giả miền quê giống y như con người Cụ B.95 vạy. Các bạn biết làm món củ cải hầm thịt bò chứ ? Món này dễ qúa mà. Bò thịt nạm xắt miếng nhỏ, ướp hành tiêu tỏi nước mắm. Củ cải trắng và cà rốt gọt vỏ rồi cũng xắt miếng nhỏ. Bắc chảo lên bếp, phi hành tỏi cho thơm rồi cho thịt bò vào xào cho săn. Thêm chừng hai lít nước. Hầm thịt chừng một giờ rồi cho củ cải cà rốt, hầm thêm chừng 15 phút. Nêm nếm cho vừa miệng. Là được. Thêm chút ớt tươi, chút lá răm, chút lá hành. Là xong. Đó là món thứ nhất. Món thứ hai thì dễ qúa, rau muống mà. Nhưng cái đặc biệt là có thêm rau rút, tiếng Miền Nam gọi là rau nhút thì phải. Cụ B.95 đi chợ VN, thấy mấy gói rau rút từ VN mới đem qua. Cụ mua hết. Chao ôi, rau muống luộc chung với rau rút, sao mà nó hợp nhau, sao mà nó thơm thế và ngon thế. Món rau luộc này đã cho thấy rõ cái gốc Bắc Kỳ Nam Kỳ trong làng tôi. Người Nam không ăn nước rau luộc bao giờ. Chỉ có dân Bắc Kỳ là uống nước rau luộc chói chanh. Nghĩ cũng buồn cười quá. Ông ODP bảo anh John: Bao nhiêu sinh tố và chất bổ của rau đều tan vào nước luộc hết, anh thử nếm mà coi. Anh John nếm nước rau, cái đầu gật gù, miệng cười tủm tỉm mà không nói gì. Anh này khôn tổ chảng, các cụ thấy chưa. Chi Ba Biên Hòa là vợ anh đâu có biết uống nước rau muống.
Cũng chưa hết chuyện rau muống và rau rút luộc. Hết chuyện nước rau thì đến chuyện nước mắm chấm rau. Cụ B.95 và Cụ Chánh, hai gốc tổ Bắc Kỳ thì chấm rau với nước mắm tôm chanh. Ông ODP, Ông H.O. và kẻ hèn này thì chấm rau với nước mắm chanh ớt. Phe Chị Ba và hai cô Huế thì chấm rau với chính nước củ cải hầm thịt bò. Một đĩa rau mà có tới ba chén nước mắm chấm khác nhau. Vui qúa chứ. Bữa ăn toàn rau với cơm tám nóng sốt. Ôi, quê hương VN là đây chứ có ở đâu xa. Quê hương vừa ở trong lòng ta, vừa ở trên bàn ăn này.
Và có một điều lạ lùng đã xảy ra là lần này phe liền bà không bắt phe liền ông chúng tôi nói chuyện về tình yêu. Họ nói chuyện phim ảnh. Mà chính các bà nói mới ghê. Tôi là dân nhà quê có theo rõi tình hình phim ảnh thế giới bao giờ. Các bà đã đem bộ phim Harry Potter ra bàn. Chị Ba, cô Cao Xuân, cô Tôn Nữ thao thao bất tuyệt. Các bà còn đem tác giả ra bàn thêm nữa, mới khiếp chứ. Ông ODP được các bà hỏi ý kiến về bộ phim. Ông này không bàn về bộ phim mà bàn chuyện bên lề. Rằng con người ta có số. Tác giả J.K.Rowling ngày trước nghèo mạt rệp, có lúc bà đã nghĩ tới việc quyên sinh. Nhưng nhờ cái nghèo mà hàng ngày ngồi xe lửa đi làm, bà đã có giờ suy gẫm và nghĩ ra nhân vật thần kỳ Harry Potter. Cái số bà Rowling giống y như số nhà văn Kim Dung bên Tàu. Thuở đầu đời, Kim Dung mơ ước được làm việc trong ngành ngoại giao, nhưng mộng ước không thành. Người ta chỉ cho ông cái việc làm trong thư viện. Nhờ tiếp cận với sách mà nữ thần văn chương đã nhập vào ông, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng. Nếu xưa kia ông được làm việc trong ngành ngoại giao thì chắc bây giờ ông là một người vô danh tiểu tốt. Cái viẹc mà ban đầu ông không thích đã dẫn ông vào cõi văn chương. Mà không phải văn chương tầm phào, văn chương của ông là văn chương đỉnh cao, nó chuyên chở triết lý và tôn giáo. Thật đáng nể vậy thay.
Rồi hai cô Huế quay sang phỏng vấn anh John. Anh cười ha ha. Anh bảo rằng anh khác vợ về mặt này. Anh không thích phim tình cảm, không thích Harry Potter, anh chỉ thích phim Cao Bồi. Cô Cao Xuân ngạc nhiên vô cùng. Cô bảo phim cao bồi có gì hay đâu, vì từ đầu phim tới cuối phim toàn chuyện bắn súng èng èng. Anh John như bị điểm đúng huyệt liền cãi. Anh hùng hồn ca ngợi phim cao bồi:
Cô nghĩ thế là lầm. Phim cao bồi miền viễn tây là phim giáo dục, kẻ gian ác bao giờ cũng bị trơì phạt, người công chính bao giờ cũng được trời thưởng, chân lý bao giờ cũng hiện ra bàng bạc trong phần cuối phim. Đứng lên ra về, lòng khán giả bao giờ cũng vui vẻ thoải mái.
Thấy cô Cao Xuân chưa thấy hết ý mình, ông bèn đem những nét đặc biệt trong các phim cao bồi ra tả:
Các cảnh đấu súng trong phim miền viễn tây đẹp vô cùng. Chẳng hạn những phim nổi tiếng như Rio Bravo, High Noon, OK Corals. .. đều có những cảnh đấu súng nghẹt thở, nhưng rất đẹp mắt. Bao giờ cũng thế này: Ngồi trong quán rượu, người hùng viễn tây đưa tay kiểm soát khẩu súng lục, nạp đạn, quay khẩu súng mấy vòng, rồi cho súng vào bao, cột súng bên đùi. Chàng rút bao thuốc lá, lấy một điếu ngậm lên môi, rút que diêm quệt vào đế giầy để lấy lửa, rồi châm thuốc. Chàng lượm cái mũ da dính dầy bụi đội lên đầu. Rồi đứng lên tung cửa chàng bước ra khỏi quán. Chàng tiến ra giữa đường, nhìn về phía đối thủ đang đứng gờm gờm từ phiá xa.
Người trong quán nhốn nháo, ai cũng tìm một chỗ bên cửa sổ, nép vào cửa, để xem cảnh đấu súng sắp xảy ra.
Đối thủ trông cũng oai hùng không kém. Con mắt tóe lửa. Anh đã đứng chờ sẵn trên đường cách đó mấy chục thước. Anh ta ném điếu thuốc xuống đất, lấy đế giầy miết lên, hai tay buông thõng bên khẩu súng. Tư thế sẵn sàng.
Rồi loáng một cái. Đoàng ! Anh giơ tay rút súng nhưng đã trễ. Đối thủ đã bắn trước. Anh ngã vật xuống đất.
Lúc đó người hùng cao bồi liếc nhìn khẩu súng còn bốc khói, từ từ cho súng vào bao, rồi nhảy lên ngựa, lặng lẽ quất ngựa tiến về phía mặt trời đang lặn. Chân trời đỏ au. Gió bỗng thổi ào ào. Nhạc từ đâu vang ầm lên. Và đèn trong rạp bật sáng.
Nghe đến đây, cô Cao Xuân vái anh John một cái rồi nói: Miệng anh qủa là có thần, tôi đã bắt đầu thấy mê phim cao bồi rồi đây. Chắc tối nay tôi sẽ đi thuê bộ phim ‘OK Corals’, sẽ thức suốt đêm để xem cho đã.
Anh John bèn hỏi lại cô Cao Xuân: Thế xưa nay cô mê loại phim nào? Phim tình cảm hay phim chưởng. Cô Huế trả lời ngay: Tôi chỉ mê có James Bond, chàng điệp viên 007 đẹp trai hào hoa phong nhã ấy mà. Tôi có đầy đủ tài liệu về 21 cuốn phim danh tiếng của tác giả Ian Fleming. Nghe nói cuốn thứ 22, Quantum of Solace, sắp ra. Tôi đang chuẩn bị đi coi đây. Phim James Bond cũng như phim cao bồi mà anh vừa ca tụng, bao giờ cũng có hậu, đề cao đạo lý. Hiện trong tủ của tôi có 3 bộ phim mà tôi mê nhất: Casino Royal, From Russia With Love, và Die Another Day.
Cụ B.95 lên tiếng: Xin các bác đừng nói những chuyện văn hóa cao qúa, lão già này không hiểu được bao nhiêu. Xin cứ nói chuyện văn hóa, nhưng nói chuyện văn hoá thấp, dễ hiểu, được không ạ ?
Anh John và Cô Cao Xuân chưa biết trả lời ra sao thì ông ODP lên tiếng ngay: Việc này xin để tôi. Tôi có câu chuyện văn hóa rất đơn sơ dễ hiểu nhưng được thế giới đánh giá rất cao. Đó là bài thơ của một em bé bên Phi Châu nói về danh xưng ‘Da màu’. Xưa nay thế giới người da trắng gọi chung tất cả các sắc dân da vàng da đen là ‘ Ngưòi Da Màu ’ Bài thơ này được LHQ chọn là bài thơ hay nhất trong năm 2005. Tôi đọc báo đăng bài thơ mà không thấy đề tên em bé da đen tác giả, tôi tìm trên internet cũng không thấy. Bài thơ lời Việt dịch như thế này:
Khi tôi sinh ra,da tôi màu đen.
Khi tôi lớn lên, da tôi màu đen.
Khi tôi đi dưới nắng, da tôi màu đen.
Khi tôi sợ, da tôi màu đen.
Khi tôi bệnh, da tôi màu đen.
Và khi tôi chết, da tôi vẫn màu đen.
Còn bạn, hỡi người da trắng !
Khi bạn sinh ra, da bạn màu hồng.
Khi bạn lớn lên, da bạn màu trắng.
Khi bạn đi dưới nắng, da bạn màu đỏ.
Khi bạn lạnh, da bạn màu xanh tái..
Khi bạn sợ, da bạn màu vàng
Khi bạn bệnh, da bạn màu xanh mét
Và khi bạn chết, da bạn màu xám.
Thế mà, bạn gọi tôi là da màu ư ?
Nghe xong bài thơ, cụ B.95 gật gù khen bài thơ đơn sơ dễ hiểu mà ý thì hay qúa.
Các cụ thì sao, các cụ có thấy bài thơ em bé Phi Châu hay qúa không ?
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Khỏe
Nguyễn Đăng Khoa
00:21 23/05/2008
KHỎE
Ảnh của Nguyễn Đăng Khoa, Giáo phận Vinh Việt Nam.
![]() |
Giống Lạc Hồng uy hùng vô biên
Trong khốn nguy can trường, sống thác ta coi thường
Việt Nam thanh hiên anh dũng muôn năm.
(Trích ca khúc Khỏe Vì Nước của Hùng Lân)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền




