Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúqa Giêsu sống lại - Lên Trời
Lm. Fx. Nguyễn hùng Oánh
08:40 29/05/2014
Đức Chúa Giêsu Kytô sống lại thật, Ngài mới là Chúa, mới là Con Thiên Chúa, mới thật có bản tinh Thiên Chúa. Hội Thánh chỉ cho ta đọc Kinh Thánh để tin, căn cứ vào quyền Giáo huấn của Hội Thánh để tin, căn cứ vào đời sống đạo mà tôi là thành phần để tin thật vào Chúa Giêsu Kytô . Nhưng Đức Tin của ta luôn bị thử thách. Đọc Kinh Thánh cũng thấy được những thắc mắc. Xin bạn đọc với chúng tôi suy nghĩ những điều sau đây:
A. ĐỨC KITÔ SỐNG LẠI (PHỤC SINH)
1. Ngày giờ Đức Kytô sống lại (phục sinh)
Thánh Mathêu viết (theo bản Latinh Vulgata): “Véspere autem sábbati, quae lucéscit in prima sábbati, venit Maria Magdaléna et á1tera Maria vidére sépulchrum. Et ecce terraemotus factus est magnus Angelus enim Domini descendit de caelo : et accedens revolvit lapidem, et sedebat super eum.” (Vespere có ba nghĩa: chiều, đã muộn, sau). Bản Latinh Vulgata dịch: Chiều tối ngày Hưu lễ, rạng ngày thứ nhất trong tuần, Maria người Magdala và một Maria khác đến xem mồ. Và nầy xảy ra có một động đất lớn; vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tiến đến lăn tảng đá đi, rồi ngồi trên đó” (Mt 28, 1-2)
Thánh Marcô viết: “Ngày Hưu lễ qua rồi, thì Maria người Magdala và Maria, mẹ của Giacôbê, cùng Salomê, mua hương liệu để đến xức xác Ngài. Sáng sớm tinh sương, ngày thứ nhất trong tuần, họ đi đến mồ lúc mặt trời hé mọc. Và họ hỏi với nhau: ”Ai sẽ vần tảng đá ra khỏi mồ cho ta ? (Mc 16,1-3).
Thánh Luca viết: “Vào ngày thứ nhất trong tuần, vừa rạng tảng binh minh, các bà đến mồ, có người mang theo hương liệu đã dọn sẵn. Và họ thấy viên đá lăn khỏi mồ, nhưng khi vào trong, họ không gặp thấy xác Chúa Giêsu (Lc 24, 1-3).
Thánh Gioan viết: Ngày thứ nhất trong tuần, Maria người Magdala đi đến mồ lúc sáng sớm, trời vẫn còn tối, và thấy tảng đá đã cất khỏi mồ. Bà chạy đi gặp Simon Phêro và người môn đệ kia, người Đức Giêsu yêu dấu, và nói với họ :”Người ta đã cất xác Chúa ra khỏi mồ,mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu ? (Gioan 20, 1-2).(theo bản dịch cùa Linh mục Nguyễn Thế Thuấn)
2. Số các bà đi thăm mồ (xem có vẻ khác nhau):
• Thánh Gioan chỉ đề cập đến Maria Madalêna,
• Thánh Matthêô kể thêm bà Maria,
• Thánh Marcô kể thêm người thứ ba: Bà Salômê,
• Thánh Luca kể rõ có bà Maria Mađalêna, Maria Mẹ của ông Giacôbê, Giona và các bà khác.
3. Thời gian viếng mồ:
• Thánh Gioan: “Đến mố lúc sáng sớm, trời vẫn còn tối”;
• Thánh Matthêô Nói về thời gian ấy, bản Latinh dịch là“Chiều thứ bảy: vespere autem sabbati".
• Thánh Marcô: “Sáng sớm tinh sương, ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc”;
• Thánh Luca: “Sáng sớm ngày thứ nhất”;
4. Số các Thiên Thần và vị trí đứng ngồi của các ngài,
Các Tin Mừng cũng mô tả khác nhau :
Thánh Mathêu: Thiên thần Chúa từ trời xuống, lăn tảng đá ra rồi ngồi lên trên (Mt 28, 2).
Thánh Marcô: Vào trong mồ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.(Mc 16, 5)
Thánh Luca: Các bà con đang phân vân thì bổng thấy có hai người đàn ông, y phục sáng chói đứng bên các bà (Lc 24,4).
Thánh Gioan: Bà Maria Madalêna vừa khóc vừa cúi xuông nhìn vào trong mồ thì thấy hai Thiên thần mặc áo trắng ngồi nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phia đầu một vị ở phia chân (Gioan 20, 11-12).
Nhìn vào phái đoàn các bà đi viếng mồ, ta không thể biết rõ con số chính xác bao nhiêu, nhưng chắc chắn ngoài các bà “trưởng đoàn” Maria Mađalêna, Maria mẹ ông Giacôbê, bà Salomê, bà Giona, còn một số bà khác, thế mà Thánh Gioan chỉ nói tới một mình bà Maria Mađalêna "đi viếng mồ lúc sáng sớm", trời vẫn còn tối, và bà thấy viên đá đã cất khỏi mồ, bà chạy đi gặp Simon Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu yêu dấu” (Gioan 20, 1-2), hẳn Thánh Gioan có một dụng ý gì đây, muốn truyền một sứ điệp gì đây ?
5. Chúa sống lại và hiện ra
Thánh Mathêu : Thiên thần nói:”Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu đã bị đóng đinh trên thập giá ! Ngài không có đây vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói. Hãy đến mà xem chỗ đặt Ngài và mau mau đi nói với các môn đệ của Ngài rằng: Ngài đã sống lại tử cõi chết ! Và nầy Ngài đi trước các ngươi tới Galilê. Ở đó các ngươi sẽ thấy Ngài “(Mt 28, 5-7).
Thánh Marcô: Đức Kytô sống lại lúc tảng sáng, ngày thứ nhất trong tuần,trước tiên Ngài hiện ra cho Maria Mađalêna, kẻ đã được Ngài trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho kẻ ở với Ngài, họ đang rên, đang khóc. Nghe nói Ngài đang sống và bà đã thấy Ngài, nhưng họ không tin. Sau đó với một hình dạng khac, Ngài đã tỏ mình ra cho hai người trong nhóm họ đi đường về quê nhà, họ trở lại và báo cho những người khác nhưng họ không tin, Sau cùng, Ngài tỏ mình ra cho chính nhóm Mười Một đang dùng bữa và Ngài quở trách họ cứng lòng tin “(Mc 16, 9-14).
Thánh Luca:Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà có mang theo hương liệu. Họ thấy viên dá đã lăn ra khỏi mồ, nhưng khi vào trong họ không thấy xác Chúa. Đang khi họ phân vân thì có hai người bỗng hiện ra, áo chói lòa và nói với họ: “Làm sao các bà đi tìm Đấng sống giữa người chết. Đi thăm mồ về, các bà đã nói cho nhóm Mười Một và các kẻ khác. .. Phêrô chỗi dậy chạy đến mồ, cúi minh nhìn vào, ông chỉ thấy có những dải vải mà thôi…
Cùng đi đường với hai môn đệ, Ngài nói: “Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói. Thế thì Đức Kytô lại không phải chịu khổ nạn như thế đã rồi mới vào vinh quang của Ngài sao … Và xảy ra khi Ngài vào bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng đoạn bẽ ra, Ngài trao cho họ thì mắt họ mở ra và nhận biết Ngài …. Ngay giờ đó, họ chỗi dậy trở về Giêrusalem và họ gặp thấy đang tề tựu cùng nhau có nhóm Mười Một cùng các bạn.
Các người nầy nói: “Thực rồi, Chúa đã sống lại và hiện ra cho Simon” Họ còn đang nói thì Chúa Kytô hiện ra và nói: “Bằng an cho các ngươi. Kinh hoàng, kiếp đảm, họ tưởng thấy ma. Chúa nói: “Tại sao mà hoảng hốt thế ? Tại sao có những suy nghỉ vậy ? Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đây.Hãy rờ nắn mà xem ma nào có thịt có xương như các ngươi thấy Ta. Chúa nói với họ: “Ở đây có gì ăn không ? Họ dâng cho Chúa một miếng cá nướng. Chúa ăn trước mặt họ. Đoạn Chúa nói với họ: “Phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật Moisen và các Tiên tri cùng với Thánh vịnh”. Rồi Chúa mở trí và cho họ hiểu Kinh Thánh: “Đức Kytô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba thì sống lại từ cõi chết, và nhân danh Ngài phải được rao giảng cho mọi dân tộc việc sám hối để được tha thứ tội lỗi. Và Ta sắp sai đến trên các ngươi đều Cha Ta đã hứa (Thánh Thần). Rồi Ngài dẫn họ đến Bêtania, đoạn giơ tay, Người chúc lành cho họ. Và đã xảy ra khi Ngài chúc lành thì Ngài đựợc nhắc lên trời” (tóm tắt Lc 24, 1-50).
Thánh Gioan: Ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna đi đến mồ lúc sáng sớm, trời vẫn còn tối, và thấy tảng đá đã cất khỏi mồ, Bà chạy đi gặp Simon Phêrô và môn đệ kia, người được Đức Giêsu yêu dấu….Phêrô và Gioan cùng chạy tới mồ. Phêrô đến sau vảo mồ trước, Gioan đến trước ngó vào mồ thấy những dải vải còn đặt đó rồi vào sau: ông thấy và ông đã tin Đức Kytô sống lại.
Maria đứng ngoài mồ khóc, bà nhìn vào mồ thấy hai thiên thần ngồi, áo trắng xóa, một người đàng đầu một người đàng chân nơi đã đặt xác Đức Giêsu. Bà khóc và nói: “Người ta đã lấy xác Chúa tôi đi mà tôi không biết họ để ở đâu ? Nói thế rồi bà quay lại gặp Đức Giêsu và bà tưởng là người làm vườn, bà thưa: “Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi xin nói cho tôi biết “…Đức Giêsu kêu: “Maria”. Quay lại, bà thưa: “Rabbuni. Đức Giêsu nói: “Đừng giữ Ta lại vì Ta chưa lên cùng Cha Ta nhưng hãy đi gặp anh em và nói với họ: Ta lên cùng Cha Ta và cũng là Cha các ngươi, Thiên Chúa của Ta cũng là Thiên Chúa của các ngươi…..
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi ở của các môn đệ,, các cửa đóng kín vì sợ người Do thái. Đức Giêsu hiện đến giữa các ông và nói: Bình an cho các ngươi”. Nói thế rồi Ngài cho họ xem tay và cạnh sườn Ngài. Ngài lại nói: “Bình an cho các ngươi, như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi”. Nói thề rồi Ngài thổi hơi trên họ và nói: “Hãy chịu lấy Thánh Thần, các ngươi tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các ngươi cầm giữ tội ai thì tội người ấy bị cầm giữ” ….
Tôma không có mặt ở đó, các môn đồ nói với ông: “Chúng tôi đã thấy Chúa”. Ông trả lời: “Nếu nơi tay Ngài tôi không thấy dấu đinh, và tay tôi không chạm vào lỗ đinh cùng bàn tay không thọc vào cạnh sườn Ngải, tôi không tin”. Tám ngày sau, Đức Giêsu hiện đến, nói với Tôma: “Hãy đem ngón tay ngươi chạm vào tay Ta, hãy đem bàn tay thọc vào sườn Ta, đừng cứng lòng tin nữa “. Tôma thưa: “Lạy Chúa của con,lạy Thiên Chúa của con “(theo Gioan 20, 1-28),
B. TÌM HIỂU SỰ KHÁC NHAU
Trước khi tim hiểu ý nghĩa sự khác nhau, ta thấy được một điều chung nhất của các Tông đồ, của các môn đệ và những người theo Đức Kytô là: Chúa Kytô không sống lại (không phục sinh, chết rồi không thể sống lại được) Vì tin chắc như vậy nên các ngài không đặt ra được một giả thuyết “Thầy đã nói Thầy chết ba ngày, Thầy sống lại “chúng ta ra mồ chờ !
Ngoài điểm chung nầy ra, ta thấy có nhiều cách nói khác nhau, các tác giả Tin Mừng muốn truyền cho ta “mầu nhiệm gì” hơn là mô tả một sự kiện ?
1. Khác nhau trong bốn Tin Mừng:
Thánh Gioan, và thánh Luca đều nói : Ngày thứ nhất trong tuần, còn thánh Marcô nói rất rõ: “Ngày Hưu lễ qua rồi…. sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần “, riêng về Tin Mừng theo thánh Mathêu, bản Latinh dịch từ “opsé” trong bản Hylạp là “vespere” (chiều). Trong ngôn ngữ Hylạp, tiếng “opsé” có ba nghĩa: buổi chiều (vespere), đã muộn (sero) và sau (post). Đọc cả câu: “Vespere autem sabbati quae lucescit in prima sabbati”(Nova Vulgata dịch: “Sero autem post sabbatum, cum illucesceret in primam sabbati) ta phải hiểu “opsé” là sau. Vậy phải dịch như bản dịch Nova Vulgata:” Sau ngày thứ bảy..
Chúng ta biết bốn thánh sử viết Sách Phúc âm (Tin Mừng) lịch sử Chúa Kitô chỉ là bản Tóm tắt lời nói, việc làm và đời sống trần gian của Chúa Kytô hướng về nhóm độc giả khác nhau để phục vụ sứ mệnh rao giảng.
• Có lẽ “Bài giảng Tám Mối Phúc Thật”, Chúa giảng thành nhiều bài và ở nhiều nơi, Thánh Matthêô tóm lại cho độc giả dễ nhớ, đễ học thuộc.
• Tường thuật “chữa người bất toại”:
• Thánh Marcô tả: “Họ rỡ mái nhà chỗ có Ngài, khoét một lỗ” (Mc 2,4),
• Thánh Luca viết: “Họ trèo lên sân thượng và ngang qua ngói, họ chuyển cả người và cả chõng xuống” (Lc 5,19).
Thánh Marcô đã mô tả đúng kiến trúc của người Do Thái (qua cầu thang bên ngoài, người ta đưa lên mái sân thượng, khoét một lỗ hổng bằng cách hất các thanh que rơm rạ, đất sét (người Do thái nghe hiểu ngay,người Hy lạp không hiểu). Thánh Luca lấy lại các yếu tố của Thánh Marcô nhưng đã thích nghi với lối kiến trúc Hy Lạp bằng cách thay thế sân thượng trét đất trộn rơm bằng một mái ngói.
Nơi Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu lên Giêrusalem trong ba Lễ Vượt qua và Ngài tẩy uế Đền thờ trong Lễ vượt qua đầu tiên trong khi ba Tin Mừng Mathêu, Marcô, Luca, gọi là nhất lãm (nhìn thoáng thấy giống nhau như một) chỉ nói tới một lễ Vượt qua.Do đó ta thấy Chúa Giêsu hoạt động ờ Galilê và chỉ đi Giêrusalem một lần’. Về rao giảng, thánh Gioan trinh bày thành một loạt diễn từ theo hinh thúc một cuộc đối thoại và chìm sâu trong suy tưởng về “sự sống, sự sáng, sự thật “trong khi Nhất lãm có những châm ngôn đanh thép, thí dụ hấp dẫn về Nước Thiên Chúa (Người gieo giống, Cỏ lùng, Hạt cài, Men trong bột, Kho báu và Ngọc quý, Chiếc lưới). Nhưng bốn Tin mừng có một chủ đế căn bản chung : Chúa Giêsu là Đấng Messia, là Con Thiên Chúa, nhưng thánh Gioan đã nói nhiều hơn, còn thì nhiều cái khác nhau.
Thí dụ, những việc liên can tới sự kiện Chúa Kytô sống lại, là bằng chứng Chúa Kytô là Thiên Chúa, là Con Chúa Cha mà bốn Tin Mừng làm chứng lại viết có những điểm khác nhau ?
Thánh Mathêu viết Chúa lên trời ở Galilê còn thánh Luca viết Chúa lên trời ở miển Giêrusalem v,v. Khác nhau có thể vì: Dân Do thái Giêrusalem đã giết Đức Kytô thì không xứng đáng nói Đức Kytô lên trời ở vùng Giêrusalem, miền Galilê xứng đáng hơn để Đức Kytô lên trời, ngoài ra Thánh Luca viết Tin Mừng theo một bố cục riêng của Ngài: từ Galilê Chúa đi qua nhiều nơi trên đường đến Giêrusalem để chịu chết cứu độ nhân loại và lên trời để đưa nhân loại về trời. Như vậy, một sự kiện có thật trong lịch sử Chúa Kytô, qua ngòi bút các Tông đồ viết khác nhau để giúp người nghe hiểu tức là để phục vụ sứ mệnh rao giảng. Làm như thế không có nghĩa là bóp méo, xuyên tạc lịch sử, trái lại đó là cách thế linh động do Chúa Thánh Thần hướng dẫn khiến các ngài truyền sứ điệp cứu rỗi đến độc giả của mình thành công.
Trở lại các bài Tin Mừng mô tả sự kiện Chúa phục sinh, thì ngôi mổ trống, các bà tới thăm mồ vào sáng ngày thứ nhất, rồi Chúa hiện ra cho các môn đệ, cho hai môn đệ đi làng Emmaus... là những sự kiện có thật. Còn hai hoặc một Thiên thần hiện ra báo tin cho các bà biết Chúa sống lại và căn dặn các bà đi báo lại cho các Tông đồ, một số nhà chú giải nghĩ rằng “là cách diễn tả” một mạc khải siêu nhiên, vượt khỏi sự hiểu biết của loài người, cách riêng vượt khỏi sự không ngờ trước, không tưởng tượng trước của các Tông đồ (chẳng có ai tin Chúa sống lại, chưa có ai tưởng tượng ra việc Chúa sống lại). Việc Thánh Gioan dành cho một mình bà Maria Mađalêna, người được thánh sử ghi rõ tên tuổi đứng bên Thập giá, buồn khổ nhìn Chúa bị treo “cũng sẽ hết sức vui mừng khi Chúa sống lại”, Thánh nhân đã cho bà đóng vai “Hội Thánh”: hết sức vui mừng gặp Chúa sống lại và được Ngài ủy thác loan báo Tin Mừng Chúa sống lại cho người khác. (xem Gioan 20, 17=18)
Nơi thánh Gioan, Tin Mừng của Ngài là một trước tác có tính thần học. Muốn lĩnh hội đạo lý của thánh Gioan và vượt khỏi đặt ra tính lịch sử, ta phải thấy trong Tin Mừng thánh Gioan: thánh Gioan là chứng nhân hiện thực (thay cho tính lịch sử) đưa Hội Thánh, sau khi Chúa lên trởi,vào đời sống huyển nhiệm nơi Chúa Kytô dưới ánh sáng của Thần Chân Lý (Chúa Thánh Thần).
2. Chứng của Thánh Phaolô:
Thánh Phaolo cũng được Thần Chân lý hướng dẫn nhưng ngài trong cái thế ‘đối đầu “với đồng bào của mình nên có những lời lẽ mạnh liệt, giọng hùng hồn đanh thép:
“Quả vây, mọi sự tôi đã truyền cho anh em, điều mà chính tôi đã nhận lấy: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta theo lời Kinh Thánh, Ngài đã bị chôn cất, Ngài đã sống lại ngày thứ ba theo lời Kinh Thánh, và Ngài đã hiện ra cho hơn năm trăm người một lần, trong số đó phần đông vẫn còn sống, nhưng cũng có người đã qua đời; rồi Ngài hiện ra cho Giacôbê, rồi cho các Tông đồ hết thảy” (1Cor 15,3-7).
Trưng bằng chứng Chúa hiện ra cho các Tông đồ đã đành, còn hiện ra cho một số đông “trên năm trăm người”, phần đông còn sống khi Ngài viết thư nầy nếu thánh nhân “nói dối” thì “gậy ông đập lưng ông ngay ”, niềm tin sống lại sụp đổ ngay, kéo theo sự tan rã của các giáo đoàn.
Thánh nhân còn nhấn mạnh những câu liên quan tới sự nghiệp của Ngài: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi thành hư không, và niềm tin của anh em cũng thành ảo tưởng. Và chúng tôi hóa thành chứng gian của Thiên Chúa, vì đã dám chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Ngài đã cho Đức Kitô sống lại... Nếu Đức Kitô không sống lại thì lòng tin của anh em cũng hão huyền và hiện anh em cũng còn sống trong tội lỗi của anh em... Nếu ta chỉ đặt niềm tin vào Đức Kitô lúc sinh thời mà thôi, thì ta quả là kẻ khốn nạn nhất trong thiên hạ” (1Cor 15,14-18). (Có nhóm dịch: Nếu Đức Kytô không trỗi dậy ….Từ điển giải thích chữ trỗi dậy:phong trào tranh thủ độc lập trõi dậy tại các thuộc địa)
Như vậy, Đức Kitô phục sinh là mầu nhiệm đức tin, nhưng còn là một sự kiện lịch sử nữa.
Cần phải nhấn mạnh tính lịch sử của sự kiện Đức Kitô phục sinh mặc dầu tin Đức Kitô phục sinh thuộc lãnh vực Đức Tin.
Thời gian, địa điểm Đức Kitô phục sinh, một số người “thấy và hiểu” sự kiện Đức Kitô phục sinh thật rõ ràng, minh bạch. Rồi ảnh hưởng của Đức Kitô phục sinh chiếm đoạt tất cả con người của các Tông đồ, các môn đệ trước đó đã không tin Đức Kitô phục sinh. Không ai chấp nhận chết vì lời nói dối của chính mính nói ra. Nếu các Tông đồ “phịa” chuyện Đức Kitô phục sinh, đi rao giảng... rồi làm sao dám chết cho lời nói dối của mình ? Đàng này, các ngài đã chết vì rao giảng Đức Kitô phục sinh. Cái chết của các ngài viết nên trang sử của các ngài, nhưng những trang sử nầy có nguyên nhân là tính lịch sử của sự kiện Đức Kitô phục sinh.
3. Quyền giáo huấn:
"Ngày thứ ba, Đức Kitô sống lại vinh hiển từ trong kẻ chết" (de fide: tín điều).
Lời tuyên xứng này ngay từ đầu của Kitô giáo đã vang lên khắp các giáo đoàn trong Giáo Hội sơ khai. Các Kinh Tin Kính (Tín Biểu) đều diễn tả, thật ra là đều ghi rõ lới tuyên tín này.
Công đồng Nicê năm 325 đã tuyên xưng Đức Kytô có bản tinh Thiên Chúa, là Con Đức Chúa Cha đã làm người, chịu chết và sống lại và đã ấn định ngày Lễ Phục Sinh: a/ Ngày Chúa Nhật. - b/ Chúa Nhật này ngay sau ngày 14 tháng Nizan (ngày trăng tròn tháng giêng của lịch Do thái). Đối chiếu với dương lịch, ngày 14 Nizan xảy ra trùng 21 tháng ba dương lịch và là ngày Chúa Nhật thì mừng Lễ Phục Sinh. Tiếp theo thì dời chuyển từ ngày 22 tháng ba đến 25 tháng tư dương lịch.
Công đồng Tolède II, năm 675, dạy:"Đức Kitô sống lại bởi sức riêng của mình: virtute propria sua" (D.286). Lý lẽ đưa ra là: Ngôi Lời ngang quyển với Ngôi Cha và Ngôi Thánh Thần, nguyên nhân dụng cụ là phần của nhân tính Đức Kitô (hồn xác) hiệp nhất, nhờ Ngôi hiệp (Ngôi Hai làm chủ,kết hiệp trực tiếp với nhân tinh Đức Kytô nên Đức Kytô ăn, uống, ngủ, đi, nói thì phài nói là Ngôi Hai Thiên Chúa ăn, uống, ngủ. đi, nói. Kinh Thánh nói Đức Kitô được phục sinh nhờ Thiên Chúa hoặc nhờ Chúa Cha (x. CvTđ 2,24; Gal 1,1), những lời xác quyết này nói về nhân tính phải do Ngôi Hai Thiên Chúa làm chủ, làm chủ thể làm cái ‘tôi”, và vì đây là hoạt động ngoại tại nên cả Ba Ngôi cùng làm. Thí dụ: Chúa Cha tạo thành trời đất là việc ngoại tại nên phải hiểu cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng làm, còn Chúa Cha sinh ra Chúa Con là việc nội tại nên chì có một Ngôi vị là Chúa Cha sinh ra Chúa Con.
4. Thân xác được vinh hiển:
Ngay từ phút đầu Nhập Thể, nhờ mầu nhiệm Ngôi Hiệp, Đức Kitô có tri thức hưởng kiến Thiên Chúa với tất cả hạnh phúc viên mãn vượt trên các thiên thần. Nhưng phần thân xác cảm giác của Đức Kitô không dự vào nên Ngài vẫn cảm thụ (cảm thấy vui buồn, đau khổ và chết) để thực hiện chương trình làm người như chúng ta (kenosis): “Địa vị là một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài không nghĩ phài dành cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa. Ngài đã hủy bỏ chính mính đi mà lĩnh lấy thân phận tôi đòi trở nên giống hẳn người ta, đem thân đội lốt người phàm” (Philip 2,6-7).
Sau mấy chục năm sống đời tự hạ, rồi chịu chết, và sau ba ngày nằm trong mồ, thân xác Đức Giêsu đã phục sinh. Phục sinh, không phải là phục hồi sức khỏe, không phải từ một “giấc ngủ mê, chết giấc” rồi hồi tỉnh lại, nhưng từ một thân xác chết thật và được biến đổi thành một thân xác vinh quang đầy sức sống linh thiêng, còn giữ lại những dấu đanh làm bằng chứng sự chiến thắng thần chết.
Phục sinh chấm dứt đời sống tự hạ, và làm cho việc nhập thể đạt tới đích điểm cao nhất. Phục sinh là dấu chứng Thiên Chúa đã chấp nhận hy lễ của Đức Kitô, mà còn làm cho hy lễ được hoàn toàn hoàn hảo, nhưng không chấm dứt, trái lại hy lễ hoàn hảo kéo dài đời đời, vì Đức Kytô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi chẳng cùng (Dothái 13, 8) tâm tình vâng phục và yêu mến Chúa Cha, với lễ vật hiến dâng còn đó, và còn trở nên rất xứng đáng nữa. Do đó, Chúa mới dạy: ”Hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy (Mt 26, 26-28; Mc 14, 22-25; Lc 22 19-20; I Cor 11, 23-25)
C. ĐỨC KITÔ LÊN TRỜI (THĂNG THIÊN)
. Sau cuộc thương khó. Đức Kitô đã tỏ mình ra cho các Tông đồ, dùng nhiều dấu chứng minh Ngài sống lại. Trong bốn mươi ngày, Ngài hiện ra với các ông và nói với các ông về Triều đại Nước Chúa. Lần kia, lúc đang ăn với các Tông đồ... có anh em trong đám hỏi Ngài: “Lạy Chúa, phải chăng bây giờ là lúc Chúa sắp phục hưng Triều đại nước Israen ?”. Ngài đáp: “Không phải việc các con tìm hiểu biết thời gian và giờ phút do Cha đã toàn quyền ấn định. Nhưng các con sẽ chịu lấy quyền năng của Thánh Thần đến trên các con. Rồi các con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa, Samaria và mãi cho tới tận cùng trái đất. Nói xong, các ông thấy Ngài lên trời và một đám mây bay đến quyện lấy Ngài, che khuất mắt họ” (CvTđ 1,3-9).
Bản văn cho biết rõ địa điểm, ngày Đức Kitô lên trời. Các bản văn khác chỉ nói tới Đức Kitô được tôn vinh lên trời mà không nhắc tới địa điểm ngày giờ (x. Cv 2,33; Eph 4,10; 1Tm 3,16; 1P 3,22; Ga 20,17).
• Họ thấy Đức Kitô lên trời (x. Cv 1,9).
• Đức Kitô được nhắc lên trời (x. Mc 16,19; Lc 24,51; Cv 1,11).
Các đoạn văn trên đều nói Đức Kitô được cất nhắc lên trời.
Ta có thể nghĩ thế này: Đức Kitô lên trời bằng bởi sức riêng của mình, xét về phương diện Ngài là Thiên Chúa, tức là bởi sức của thiên tính của Ngài; còn xét về nhân tính, Đức Kitô được cất nhắc lên trời nhờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
• Theo Thánh Luca, Đức Kitô sống lại, hiện ra nhiều lần với các Tông đồ, rồi hiện ra lần chót vào đúng bốn mươi ngày sau khi sống lại.
• Còn Thánh Gioan cho biết Đức Kitô sống lại, lên trời ngay (Ga 20,17; 12,32; 13,32; 14,2-3).
Nếu Đức Kitô sống lại rồi bốn mươi ngày mới lên trời, thì thời gian này Ngài ở đâu để rồi thỉnh thoảng hiện ra với các Tông đồ và rút về ?
. Không thể hiểu “trời” là một nơi chốn ở rất xa, rất xa phía trên ta. Trái lại phải phân biệt đất là nơi chốn, không gian và thời gian chi phối và là lãnh vực tự nhiên, còn trời ở lãnh vực siêu nhiên vinh quang hạnh phúc, không thể hiểu đó là một nơi như lãnh vực tự nhiên.
Đức Kitô sống ở trần gian, chết, được an táng trong mồ, thân xác Đức Kitô thuộc lãnh vực tự nhiên, chịu thời gian và không gian chi phối, khi xác sống lại, xác biến đổi hoàn toàn như là xác linh thiêng, không bị thời gian và không gian chi phối (cửa đóng kín mà Đức Kitô hiện ra đứng ở giữa các môn đệ đang tụ họp trong nhà) ở lĩnh vực siêu nhiên vinh hiển, hạnh phúc ngay, không có một trung gian giữa đất và trời đối với Đức Kitô. Sống lại Đức Kitô ở cõi trời ngay.. Thời gian bốn mươi ngày sau khi sống lại là thời gian Đức Kitô tiếp xúc thân mật với các môn đệ bằng những lần hiện ra (hiện ra cho các môn đệ thấy thân xác Ngài không phải từ trời Ngài đi xuống... nhưng Ngài ban ơn để cho các môn đệ thấy được con người của Ngài, nghe được lời Ngài nói v.v....) Đến ngày thứ bốn mươi, bằng một cử chỉ “lên trời”, sau khi ra lệnh cuối cùng cho các môn đệ, Ngài “lên trời” tức là không ban ơn cho thấy nữa,chấm dứt thời gian Ngài hiện ra với các môn đệ. .
Phục sinh và lên trời gắn chặt với nhau, một bên diễn tả sự sống lại của thân xác, một bên diễn tả sự vinh hiển, vinh quang, hạnh phúc, mặc dầu theo tư tưởng Kinh Thánh, phục sinh phải hiểu là phục sinh trong vinh hiển, hạnh phúc (còn chúng ta ngày tận thế, xác ai cũng sống lại cả, phục sinh cả, nhưng có người được lên trời, có người trầm luân trong hỏa ngục...).
Cử chỉ Đức Kitô lên trời cho các môn đệ thấy và biết Đức Kitô đã đạt tới vinh quang tột đỉnh trên thiên quốc, quyền phép Ngài đã được Chúa Cha trao ban, công trình cứu độ của Ngài sẽ đạt tới hoàn thành tốt đẹp khi Ngài trở lại.Thời gian Ngài lên trời và trở lại phán xét thiên hạ là thời gian của Hội Thánh tiếp tục công trình của Ngài với sự yểm trợ vô hình nhưng trực tiếp của Ngài:"Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20) .
Cử chỉ Đức Kitô lên trời còn có ý nghĩa “ra đi” lãnh quyền năng và gửi Thánh Thần xuống là hiệu quả phục sinh và lên trời.
Lên trời bằng một dấu hiệu hữu hình (con ngưởi nhẹ nhàng của Ngài) đập vào mắt mọi môn đệ, gây những xúc cảm mạnh khiến các môn đệ ngây ngất nhìn trời (x. CvTđ 1,11), Thánh Thần hiện xuống cũng bằng dấu hiệu hữu hình (lưỡi lửa) thâm nhập vào các môn đệ sức mạnh vô hình. Những dấu hiệu hữu hình này rất có ý nghĩa như là thí dụ cụ thể giải thích lời nói của Đức Kitô: "Mọi quyền phép đã được trao cho Thầy..." (Mt 28,18)... "Các con hãy ở trong thành cho đến lúc mặc lấy sức mạnh từ trên ban xuống" (Lc 24,49).
Thư người Do thái nhấn mạnh: ”Vào thời sau hết, tức là những ngày nầy, Thiên Chúa đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà Thiên Chúa đã làm ra thế giới. Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Thiên Chúa và cẩm giữ cả vân vật bằng lời quyền năng của Ngài, sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi, Ngài đã ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng (Dt 1. 2-3).
. Thánh Thần trở thành linh hồn của Hội Thánh tức là Hội Thánh Giáo Hội Chúa Kytô do Chúa Kytô lập ra khi Ngài đi rao giảng, Hội Thánh`bây giờ nhờ nhận được sứ mệnh và quyền năng do Chúa Phục Sinh lên trời vinh hiển, Hội Thánh hoạt động công khai và đem về kết quả lớn. Đức Kitô đã thi hành chức vụ Ngôn sứ, Tư tế, Vương đế bây giờ lên trời Ngài cũng thi hành các chức vụ đó trong Hội Thánh bẳng ban ơn v.v.. nhất là nhớ tác động của Thánh Thần vừa gây chuyển biến “khởi động” trong các tâm hồn, vừa giúp ơn của Đức Kitô đạt tới kết quả. Vì thế, việc Đức Kitô phục sinh lên trời vinh hiển làm cho mọi chức vụ, quyền năng của Đức Kitô đã có trong giây phút nhập thể nhờ Ngôi hiệp đạt tới tột đỉnh trong khi đi rao giảng, bây giờ được trọn vẻn đúng như Chúa Kytô đã nói: ”được thi hành trọn hảo và kết quả lớn hơn” Gioan 14,12). Chính ChúaThánh Thần là hoạt động và kết quả của lời xác nhận câu Kinh Thánh trên của Chúa Kytô.
. Sự phục sinh lên trời vinh hiển của Đức Kitô còn ảnh hưởng tới sự phục sinh hiển vinh của thân xác chúng ta: Ngôi Lời với Ngôi Cha và ngôi Thánh Thần là nguyên nhân chính,là nguyên nhân tác thành còn nhân tính Đức Kitô là nguyên nhân dụng cụ. Nhờ cuộc tự hạ và lãnh nhận cái chết tàn nhẫn, gạt bỏ mọi cản trở của ý chí, để đón nhận ý chí Chúa Cha cách tuyệt đối, để đón nhận hoàn toàn vinh quang Thiên Chúa lan toả tận cùng nhân tính Đức Kitô phục sinh, Đức Kitô hoạt động theo nhân tính không còn bị hạn chế gì nữa. Với sức mạnh của Thánh Thần thông qua Giáo Hội, Đức Kitô gây ảnh hưởng cảm hóa tới mọi người. Đức Kitô là Đầu với sự sống lại của Ngài là nguyên nhân kiểu mẫu (mô phạm), là tiêu biểu cho sự sống lại của con người chúng ta, Hội Thánh là thân Mình Chúa Kytô, mỗi người chúng ta là chi thể của Đầu và Thân Mình tạo ra một liên kết tuyệt hảo để mọi người đi về trời.
Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên Năm A
Mai Tá
17:51 29/05/2014
Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên năm A 01-6-2014
“Ta trơ trọi như một người lữ thữ,”
“quán trọ nằm không ngủ, nhớ quê hương.”
(Dẫn từ thơ Tế Hanh)
Mt 28: 16-20
Như người lữ-thứ, cứ trơ trọi một mình. Trơ trọi, còn là tâm-trạng của nhà thơ, nhạc sĩ, cả ngài Hillary lừng danh tên tuổi một thời, từng leo núi. Nhưng trơ trọi, chẳng bao giờ là tâm-trạng của người nhà Chúa vẫn hân-hoan với mọi người, trong kinh-nghiệm sống, rất yêu-thương.
Kinh nghiệm sống, lại cũng có trường-hợp những thăng quan tiến chức; hoặc, những tháng ngày dù có xuống cấp, tủi nhục, người từng trải vẫn có thể ngồi cạnh bên để kể cho nhau rất nhiều chuyện suốt hàng giờ, không biết mệt. Nhưng, kinh nghiệm kề cận giới thần linh siêu thoát thì số người như trên chỉ đếm được trên đầu ngón tay, như truyện kể về ngài Edmund Hillary nước Tân Tây Lan, ở bên dưới:
Hồi còn là chú học trò nhỏ mài đũng quần nơi ghế nhà trường, tôi đã được vinh dự cùng trường với lớp đón tiếp ngài Hillary đến ghé thăm để kể cho nhau nghe kinh nghiệm đời ông.
Tôi còn nhớ, bầu khí hôm ấy thật huyên náo vì chuyến viếng thăm độc nhất vô nhị này. Đây là buổi nói chuyện thân mật của người đầu tiên đặt chân lên đỉnh Everest, chốn non cao vời vợi ấy. Ngày nay, người ta có cả một trường dạy leo núi gồm các lực sĩ nổi tiếng như Tenzin Norgay của Tây Tạng, từng đè bẹp kỷ lục nhỏ của vị quán quân người Tân Tây Lan, từ lâu rồi. Nhưng hào quang sùng bái kia, vẫn chưa rời thoát khỏi người anh hùng trên “đỉnh mùa đông” ấy.
Một số giáo sư nghiêm khắc của tôi khi trước, vẫn hết lòng bái phục ngài Edmund Hillary. Vì, lúc bấy giờ dân chúng có thói quen tôn sùng các vị anh hùng nhỏ như thế. Có điều kỳ lạ, là: trong chuyến ghé thăm trường làng, ngài Edmund tuyệt nhiên không đả động gì đến các cuộc leo núi ngọan mục.
Ngược lại, ông chỉ chú ý đến những gì chúng tôi đang làm ở chốn đồng bằng miền xuôi này. Hôm ấy, quả là ông nói nhiều đến công lý, hòa bình và nhân phẩm con người, hơn là các kỷ lục thần thánh. Tôi nhớ rất rõ, vào phút cuối buổi chuyện trò hôm ấy, ngài quý tộc đã gửi đến chúng tôi lời khuyên nhủ, là: ta nên tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn, cho mọi người, ở mọi nơi trên chốn trần gian này.
Vào giây phút giải đáp thắc mắc sau đó, có người hỏi ngài Edmund rằng: “Khi leo lên đến chóp đỉnh của địa cầu trần thế, ông có cảm giác gì như gần gũi Đức Chúa không?” Rõ ràng, tôi nghe tiếng ông trả lời là: “Có chứ!” Tuy câu trả lời là như thế; nhưng, ông vẫn nhấn mạnh đến khoảnh khắc cuộc đời đầy những thăng trầm/đổi thay, lúc lên cao, khi xuống thấp.
Ông nói: Ông có cảm giác rất thực, về sự sống năng động và về cái chết gần kề, vào những lúc leo lên/trèo xuống chốn non cao, nơi ấy. Chính đó, là lúc ông thấy rõ, có sự hiện diện của Đức Chúa. Và, Ngài đồng hành với ông vào những lúc thăng trầm, trên núi cũng như suốt đời mình.
Chuyến ghé thăm của ngài Hillary thật ra không xa cách là bao, đối với những gì xảy đến với môn đệ của Đức Chúa trong trình thuật Tin Mừng hôm nay.
Thánh sử Matthêu, hôm nay kể rằng: mười một người con thân yêu lâu nay sùng kính Đức Kitô, đã được Thầy Chí Thánh sai phái ra đi đến với thế giới nhân trần. Và, Thầy hứa: Thầy sẽ lưu lại với con Thầy mọi ngày cho đến thế tận. Và, Thầy vẫn giữ lời hứa ấy.
Tôn thờ và sùng bái, là cụm từ ít được người Công Giáo ta sử dụng, hằng ngày. Trong khi các tôn giáo khác, mô tả nghi tiết tế tự của họ, như một “tôn thờ và sùng bái”, thì ta lại có khuynh hướng chỉ sử dụng cụm từ này theo cách thế phàm trần như tôn sùng các anh hùng/thần tượng siêu sao thể dục/phim ảnh. Tuyệt nhiên, không ở trên bàn thờ, nơi đó có nghi lễ sùng bái, có tế tự.
Tuy thế, ý niệm nằm phía sau ngôn từ, là một ý niệm hệ trọng. Tôn kính và phượng thờ Đức Chúa, có nghĩa là: ta công nhận ta chẳng là thần linh - Chúa tể, của riêng ai. Ta chỉ là tạo vật, nên việc phụng thờ sùng bái được hướng đến Tạo Hoá, Đấng dựng nên ta. Đấng Cứu Độ muôn người. Và, cũng là Đấng Bảo vệ ta, luôn mãi.
Dù có công nhận hay không, ta vẫn được sai đi đến với thế giới nhân trần vào mỗi lần kết thúc nghi thức phượng thờ: “Anh chị em ra đi bình an để phụng sự Chúa”. Khẩu lệnh này, làm đổi thay việc ta tôn sùng, và phượng thờ. Nghĩa là: tham dự Tiệc Thánh, không phải để ta đạt được điều gì đó, có lợi cho chính mình.
Cụm từ “Tiệc Thánh Thể” ngay từ đầu, đã mang ý nghĩa của khẩu lệnh “được sai đi”, rồi. Điều này chứng tỏ, rằng: nghi lễ phụng vụ của ta cốt là để mừng kính những điều mà Đức Giê-su đã làm cho thế giới nhân trần. Ngài vẫn ở trong ta. Và, ngang qua ta, vẫn đến với người khác, nữa. Đây là một chuẩn bị mà Đức Chúa vẫn muốn kiện toàn.
Cuối cùng, ta vẫn tiếp tục có được kinh nghiệm cuộc đời, về sự hiện hữu của Đức Giêsu trong cuộc sống hiện thực. Bằng không, sẽ chẳng có lý do gì chánh đáng, để ta tụ tập nhau đây. Nơi bàn tiệc này. Đức Chúa, qua mạc khải nơi Đức Kitô, không bao giờ cách xa cuộc sống đời thường, của chúng ta. Ngài chẳng bao giờ tỏ ra thản nhiên/lãnh đạm, trước nhu cầu của mỗi người, rất riêng lẻ. Chúng ta tin vào Chúa, Đấng luôn đồng hành với ta, trong mọi khoảnh khắc, giữa cuộc đời. Ngài không ngưng tháp tùng ta. Và, mong ta kề cận bên Ngài. Và, Ngài cũng mong ta luôn có nhu cầu được Ngài cận kề.
Tham dự Tiệc thánh hôm nay, ta cảm tạ Chúa đã để cho sự việc diễn tiến ở chốn non cao, miền đồi núi ấy. Ở nơi đây, có Đức Giêsu tiến thẳng về với Cha. Sự kiện này xảy ra, là để nâng ta lên khỏi cuộc sống đời thường. Khi ta mừng kính sự kiện này, là để chứng tỏ ta chính là tạo vật, chứ không phải kẻ tạo dựng ra mọi vật.
Bởi thế, hãy lắng tai nghe cho kỹ, lời Đức Kitô mời gọi, là lời khích lệ mỗi người hãy rời quán xá/trần tục những vênh vang, tự mãn. Hãy ra đi, đến với Hội thánh trong cố gắng thay đổi toàn bộ thế giới này.
Hãy cứ vui và hy vọng, vì có Đức Kitô hiện diện ở bên ta. Ngài luôn trung thành cận kề, trước sau như một. Ngài luôn ở trên ta. Và, trong ta. Ngài luôn sống cùng và sống với ta. Ngài vẫn hiện diện nơi ta, bây giờ và mãi mãi, suốt đời sau. Vui và hy vọng, vì Ngài đã hứa và Ngài giữ lời. Lời Ngài hứa, là lời thề sẽ ở mãi với ta và với mọi người. Cả những người đã để luột mất sự thủy chung dịu dàng.
Trong tinh thần an vui, hy vọng ta lại hướng về lời thơ/ý nhạc, vẫn ngâm rằng:
“Ta trơ trọi như một người lữ thứ,
Quán trọ nằm không ngủ, nhớ quê hương.
Ta thơ thẩn, như một cô trinh-nữ,
Lở mộng đầu, rã rượi khóc tình thương.”
(Tế Hanh – Trăng Tàn)
Trơ trọi như người lữ thứ, hay thơ thẩn như cô trinh-nữ, cũng chỉ vì “rã rượi khóc tình thương”. Xem như thế, thì tình thương mới là tất cả, cho con người. Dù người đó, hay tôi đây là con dân nhà Đạo hay chỉ là người thường ở ngoài đời, rất tình đời.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch
“Ta trơ trọi như một người lữ thữ,”
“quán trọ nằm không ngủ, nhớ quê hương.”
(Dẫn từ thơ Tế Hanh)
Mt 28: 16-20
Như người lữ-thứ, cứ trơ trọi một mình. Trơ trọi, còn là tâm-trạng của nhà thơ, nhạc sĩ, cả ngài Hillary lừng danh tên tuổi một thời, từng leo núi. Nhưng trơ trọi, chẳng bao giờ là tâm-trạng của người nhà Chúa vẫn hân-hoan với mọi người, trong kinh-nghiệm sống, rất yêu-thương.
Kinh nghiệm sống, lại cũng có trường-hợp những thăng quan tiến chức; hoặc, những tháng ngày dù có xuống cấp, tủi nhục, người từng trải vẫn có thể ngồi cạnh bên để kể cho nhau rất nhiều chuyện suốt hàng giờ, không biết mệt. Nhưng, kinh nghiệm kề cận giới thần linh siêu thoát thì số người như trên chỉ đếm được trên đầu ngón tay, như truyện kể về ngài Edmund Hillary nước Tân Tây Lan, ở bên dưới:
Hồi còn là chú học trò nhỏ mài đũng quần nơi ghế nhà trường, tôi đã được vinh dự cùng trường với lớp đón tiếp ngài Hillary đến ghé thăm để kể cho nhau nghe kinh nghiệm đời ông.
Tôi còn nhớ, bầu khí hôm ấy thật huyên náo vì chuyến viếng thăm độc nhất vô nhị này. Đây là buổi nói chuyện thân mật của người đầu tiên đặt chân lên đỉnh Everest, chốn non cao vời vợi ấy. Ngày nay, người ta có cả một trường dạy leo núi gồm các lực sĩ nổi tiếng như Tenzin Norgay của Tây Tạng, từng đè bẹp kỷ lục nhỏ của vị quán quân người Tân Tây Lan, từ lâu rồi. Nhưng hào quang sùng bái kia, vẫn chưa rời thoát khỏi người anh hùng trên “đỉnh mùa đông” ấy.
Một số giáo sư nghiêm khắc của tôi khi trước, vẫn hết lòng bái phục ngài Edmund Hillary. Vì, lúc bấy giờ dân chúng có thói quen tôn sùng các vị anh hùng nhỏ như thế. Có điều kỳ lạ, là: trong chuyến ghé thăm trường làng, ngài Edmund tuyệt nhiên không đả động gì đến các cuộc leo núi ngọan mục.
Ngược lại, ông chỉ chú ý đến những gì chúng tôi đang làm ở chốn đồng bằng miền xuôi này. Hôm ấy, quả là ông nói nhiều đến công lý, hòa bình và nhân phẩm con người, hơn là các kỷ lục thần thánh. Tôi nhớ rất rõ, vào phút cuối buổi chuyện trò hôm ấy, ngài quý tộc đã gửi đến chúng tôi lời khuyên nhủ, là: ta nên tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn, cho mọi người, ở mọi nơi trên chốn trần gian này.
Vào giây phút giải đáp thắc mắc sau đó, có người hỏi ngài Edmund rằng: “Khi leo lên đến chóp đỉnh của địa cầu trần thế, ông có cảm giác gì như gần gũi Đức Chúa không?” Rõ ràng, tôi nghe tiếng ông trả lời là: “Có chứ!” Tuy câu trả lời là như thế; nhưng, ông vẫn nhấn mạnh đến khoảnh khắc cuộc đời đầy những thăng trầm/đổi thay, lúc lên cao, khi xuống thấp.
Ông nói: Ông có cảm giác rất thực, về sự sống năng động và về cái chết gần kề, vào những lúc leo lên/trèo xuống chốn non cao, nơi ấy. Chính đó, là lúc ông thấy rõ, có sự hiện diện của Đức Chúa. Và, Ngài đồng hành với ông vào những lúc thăng trầm, trên núi cũng như suốt đời mình.
Chuyến ghé thăm của ngài Hillary thật ra không xa cách là bao, đối với những gì xảy đến với môn đệ của Đức Chúa trong trình thuật Tin Mừng hôm nay.
Thánh sử Matthêu, hôm nay kể rằng: mười một người con thân yêu lâu nay sùng kính Đức Kitô, đã được Thầy Chí Thánh sai phái ra đi đến với thế giới nhân trần. Và, Thầy hứa: Thầy sẽ lưu lại với con Thầy mọi ngày cho đến thế tận. Và, Thầy vẫn giữ lời hứa ấy.
Tôn thờ và sùng bái, là cụm từ ít được người Công Giáo ta sử dụng, hằng ngày. Trong khi các tôn giáo khác, mô tả nghi tiết tế tự của họ, như một “tôn thờ và sùng bái”, thì ta lại có khuynh hướng chỉ sử dụng cụm từ này theo cách thế phàm trần như tôn sùng các anh hùng/thần tượng siêu sao thể dục/phim ảnh. Tuyệt nhiên, không ở trên bàn thờ, nơi đó có nghi lễ sùng bái, có tế tự.
Tuy thế, ý niệm nằm phía sau ngôn từ, là một ý niệm hệ trọng. Tôn kính và phượng thờ Đức Chúa, có nghĩa là: ta công nhận ta chẳng là thần linh - Chúa tể, của riêng ai. Ta chỉ là tạo vật, nên việc phụng thờ sùng bái được hướng đến Tạo Hoá, Đấng dựng nên ta. Đấng Cứu Độ muôn người. Và, cũng là Đấng Bảo vệ ta, luôn mãi.
Dù có công nhận hay không, ta vẫn được sai đi đến với thế giới nhân trần vào mỗi lần kết thúc nghi thức phượng thờ: “Anh chị em ra đi bình an để phụng sự Chúa”. Khẩu lệnh này, làm đổi thay việc ta tôn sùng, và phượng thờ. Nghĩa là: tham dự Tiệc Thánh, không phải để ta đạt được điều gì đó, có lợi cho chính mình.
Cụm từ “Tiệc Thánh Thể” ngay từ đầu, đã mang ý nghĩa của khẩu lệnh “được sai đi”, rồi. Điều này chứng tỏ, rằng: nghi lễ phụng vụ của ta cốt là để mừng kính những điều mà Đức Giê-su đã làm cho thế giới nhân trần. Ngài vẫn ở trong ta. Và, ngang qua ta, vẫn đến với người khác, nữa. Đây là một chuẩn bị mà Đức Chúa vẫn muốn kiện toàn.
Cuối cùng, ta vẫn tiếp tục có được kinh nghiệm cuộc đời, về sự hiện hữu của Đức Giêsu trong cuộc sống hiện thực. Bằng không, sẽ chẳng có lý do gì chánh đáng, để ta tụ tập nhau đây. Nơi bàn tiệc này. Đức Chúa, qua mạc khải nơi Đức Kitô, không bao giờ cách xa cuộc sống đời thường, của chúng ta. Ngài chẳng bao giờ tỏ ra thản nhiên/lãnh đạm, trước nhu cầu của mỗi người, rất riêng lẻ. Chúng ta tin vào Chúa, Đấng luôn đồng hành với ta, trong mọi khoảnh khắc, giữa cuộc đời. Ngài không ngưng tháp tùng ta. Và, mong ta kề cận bên Ngài. Và, Ngài cũng mong ta luôn có nhu cầu được Ngài cận kề.
Tham dự Tiệc thánh hôm nay, ta cảm tạ Chúa đã để cho sự việc diễn tiến ở chốn non cao, miền đồi núi ấy. Ở nơi đây, có Đức Giêsu tiến thẳng về với Cha. Sự kiện này xảy ra, là để nâng ta lên khỏi cuộc sống đời thường. Khi ta mừng kính sự kiện này, là để chứng tỏ ta chính là tạo vật, chứ không phải kẻ tạo dựng ra mọi vật.
Bởi thế, hãy lắng tai nghe cho kỹ, lời Đức Kitô mời gọi, là lời khích lệ mỗi người hãy rời quán xá/trần tục những vênh vang, tự mãn. Hãy ra đi, đến với Hội thánh trong cố gắng thay đổi toàn bộ thế giới này.
Hãy cứ vui và hy vọng, vì có Đức Kitô hiện diện ở bên ta. Ngài luôn trung thành cận kề, trước sau như một. Ngài luôn ở trên ta. Và, trong ta. Ngài luôn sống cùng và sống với ta. Ngài vẫn hiện diện nơi ta, bây giờ và mãi mãi, suốt đời sau. Vui và hy vọng, vì Ngài đã hứa và Ngài giữ lời. Lời Ngài hứa, là lời thề sẽ ở mãi với ta và với mọi người. Cả những người đã để luột mất sự thủy chung dịu dàng.
Trong tinh thần an vui, hy vọng ta lại hướng về lời thơ/ý nhạc, vẫn ngâm rằng:
“Ta trơ trọi như một người lữ thứ,
Quán trọ nằm không ngủ, nhớ quê hương.
Ta thơ thẩn, như một cô trinh-nữ,
Lở mộng đầu, rã rượi khóc tình thương.”
(Tế Hanh – Trăng Tàn)
Trơ trọi như người lữ thứ, hay thơ thẩn như cô trinh-nữ, cũng chỉ vì “rã rượi khóc tình thương”. Xem như thế, thì tình thương mới là tất cả, cho con người. Dù người đó, hay tôi đây là con dân nhà Đạo hay chỉ là người thường ở ngoài đời, rất tình đời.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:04 29/05/2014
SỰ SỐNG CỦA CÂY CỎ NHỎ
Mùa xuân này, cỏ nhỏ mọc đầy cả một đồng bằng rộng lớn, một vùng phơi phới đi lên.
Thần vận mệnh ngạc nhiên nói:
- “Tụi bây không phải đã chết hết rồi hay sao?”
Cỏ nhỏ trả lời:
- “Ông bóp nghẹt được sinh mệnh, nhưng không bóp nghẹt được sức sống của tôi.”
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Hơn ba trăm năm đạo Chúa bị bách hại ở Rô-ma, tưởng chừng như...tuyệt chủng, thế nhưng trong âm thầm nó vẫn lớn mạnh, đến khi được tự do giữ đạo, thì nó đã trở thành cây cổ thụ lớn.
Giáo Hội Việt Nam cũng đã bị bách hại điêu đứng dưới thời các vua chúa, các quan quyền ngoại đạo đã hớn hở vui mừng vì đã tiêu diệt được đạo “Gia-tô”, nhưng khi cơn bách hại Giáo Hội qua đi, thì hạt giống đức tin đã tràn lan khắp các miền đất nước, tức là giáo dân ngày càng phát triển thêm nhiều...
Thế gian có thể cướp mất mạng sống của chúng ta, nhưng sức sống của Giáo Hội thì thế gian và ma quỷ không làm gì được, bởi vì Giáo Hội Công Giáo là của Thiên Chúa, cho nên càng giết thì càng sống, càng cấm thì Giáo Hội càng bành trướng, bởi vì chính Thiên Chúa là nguồn mạch sự
sống, mà có loại thụ tạo nào có thể giết được Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình và muôn vật chứ ?
Không ai có thể giết được Thiên Chúa, nhưng thế gian và ma quỷ có thể giết Thiên Chúa trong tâm hồn của chúng ta, nghĩa là chúng nó dùng những cám dỗ đam mê xác thịt, tiền tài danh vọng chức quyền và những hưởng thụ để bóp nghẹt các ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong cuộc sống.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
-----------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
| N2T |
Mùa xuân này, cỏ nhỏ mọc đầy cả một đồng bằng rộng lớn, một vùng phơi phới đi lên.
Thần vận mệnh ngạc nhiên nói:
- “Tụi bây không phải đã chết hết rồi hay sao?”
Cỏ nhỏ trả lời:
- “Ông bóp nghẹt được sinh mệnh, nhưng không bóp nghẹt được sức sống của tôi.”
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Hơn ba trăm năm đạo Chúa bị bách hại ở Rô-ma, tưởng chừng như...tuyệt chủng, thế nhưng trong âm thầm nó vẫn lớn mạnh, đến khi được tự do giữ đạo, thì nó đã trở thành cây cổ thụ lớn.
Giáo Hội Việt Nam cũng đã bị bách hại điêu đứng dưới thời các vua chúa, các quan quyền ngoại đạo đã hớn hở vui mừng vì đã tiêu diệt được đạo “Gia-tô”, nhưng khi cơn bách hại Giáo Hội qua đi, thì hạt giống đức tin đã tràn lan khắp các miền đất nước, tức là giáo dân ngày càng phát triển thêm nhiều...
Thế gian có thể cướp mất mạng sống của chúng ta, nhưng sức sống của Giáo Hội thì thế gian và ma quỷ không làm gì được, bởi vì Giáo Hội Công Giáo là của Thiên Chúa, cho nên càng giết thì càng sống, càng cấm thì Giáo Hội càng bành trướng, bởi vì chính Thiên Chúa là nguồn mạch sự
sống, mà có loại thụ tạo nào có thể giết được Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình và muôn vật chứ ?
Không ai có thể giết được Thiên Chúa, nhưng thế gian và ma quỷ có thể giết Thiên Chúa trong tâm hồn của chúng ta, nghĩa là chúng nó dùng những cám dỗ đam mê xác thịt, tiền tài danh vọng chức quyền và những hưởng thụ để bóp nghẹt các ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong cuộc sống.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
-----------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:07 29/05/2014
![]() |
| N2T |
19. Tôi chỉ có một mong đợi, chính là đến được trên đỉnh núi cao của tình ái.
(Thánh Terese of Lisieux)-----------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo Hội Phi Luật Tân mong đợi thêm chi tiết về cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng
Sr. Minh Du
01:50 29/05/2014
Các viên chức Giáo Hội Công Giáo ở Phi Luật Tân mong đợi một cách tha thiết việc Đức Thánh Cha đến thăm nước này mặc dù chưa có một thông báo chính thức nào về chuyến viếng thăm đầy mong đợi này.
“Văn phòng Tổng Thư Ký chưa nhận được trao đổi chính thức nào từ Tòa thánh hoặc từ Sứ thần Tòa thánh”. Đức ông Marvin Mejia, tổng thư ký Hội đồng giám mục Phi Luật Tân nói. Ban truyền thông của Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, tổng giám mục Manila, cũng đưa ra một tuyên bố tương tự, dù bày tỏ khát khao cho một cuộc thăm viếng như thế. “Chưa có thông tin chính thức từ Tòa thánh.” Peachy Yamsuan, người đứng đầu ban truyền thông của tổng giáo phận Manila cho biết.
Các báo chí trên các phương tiện truyền thông hôm thứ ba đã trích dẫn Đức Giáo Hoàng trong cuộc họp báo các ký giả trên chuyến bay trở về Roma từ Thánh Địa. Ngài nói rằng sẽ dành hai ngày để thăm viếng Sri Lanka và sau đó là Phi Luật Tân, đặc biệt vùng đất chịu sự tàn phá bởi thiên tai, tất cả đang được lên kế hoạch cho tháng Giêng năm tới mà chẳng đề cập gì về một ngày rõ ràng và chi tiết nào.
Henrietta de Villa, một cố vấn cho Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm (Cor Unum), cho biết Đức Thánh Cha đã nhận được một lời mời thăm viếng quốc gia này, “nhưng Tòa Thánh vẫn chưa có câu trả lời chính thức”. “ Tất cả chúng tôi đều hy vọng Ngài sẽ đi thăm vào năm tới, nhưng người có thể công bố điều đó là Sứ thần Tòa thánh hoặc là Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân hoặc Đức Hồng Y Tagle”. De Villa nói thêm.
Trước đây ĐHY Tagle đã nói rằng, Ngài rất tin tưởng Đức Thánh Cha sẽ thăm Phi Luật Tân vào năm 2015, đặc biệt trong những khu vực thuộc quần đảo Visayas, nơi bị ảnh hưởng nặng bởi những thiên tai gần đây. Năm ngoái, các giám mục Phi Luật Tân đã mời Đức Giáo Hoàng tham dự Đại Hội Thánh Thể Thế giới sẽ diễn ra ở Cebu vào năm 2016.
Cha Giovanni Re, Bề trên miền của Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo ( PIME) ở Phi Luật Tân trong cuộc phỏng vấn với AsiaNews cho biết: “ cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Phi Luật Tân sẽ trở nên một thời điểm quan trọng nữa cho quốc gia này, như những chuyến viếng thăm của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm.”
“Văn phòng Tổng Thư Ký chưa nhận được trao đổi chính thức nào từ Tòa thánh hoặc từ Sứ thần Tòa thánh”. Đức ông Marvin Mejia, tổng thư ký Hội đồng giám mục Phi Luật Tân nói. Ban truyền thông của Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, tổng giám mục Manila, cũng đưa ra một tuyên bố tương tự, dù bày tỏ khát khao cho một cuộc thăm viếng như thế. “Chưa có thông tin chính thức từ Tòa thánh.” Peachy Yamsuan, người đứng đầu ban truyền thông của tổng giáo phận Manila cho biết.
Các báo chí trên các phương tiện truyền thông hôm thứ ba đã trích dẫn Đức Giáo Hoàng trong cuộc họp báo các ký giả trên chuyến bay trở về Roma từ Thánh Địa. Ngài nói rằng sẽ dành hai ngày để thăm viếng Sri Lanka và sau đó là Phi Luật Tân, đặc biệt vùng đất chịu sự tàn phá bởi thiên tai, tất cả đang được lên kế hoạch cho tháng Giêng năm tới mà chẳng đề cập gì về một ngày rõ ràng và chi tiết nào.
Henrietta de Villa, một cố vấn cho Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm (Cor Unum), cho biết Đức Thánh Cha đã nhận được một lời mời thăm viếng quốc gia này, “nhưng Tòa Thánh vẫn chưa có câu trả lời chính thức”. “ Tất cả chúng tôi đều hy vọng Ngài sẽ đi thăm vào năm tới, nhưng người có thể công bố điều đó là Sứ thần Tòa thánh hoặc là Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân hoặc Đức Hồng Y Tagle”. De Villa nói thêm.
Trước đây ĐHY Tagle đã nói rằng, Ngài rất tin tưởng Đức Thánh Cha sẽ thăm Phi Luật Tân vào năm 2015, đặc biệt trong những khu vực thuộc quần đảo Visayas, nơi bị ảnh hưởng nặng bởi những thiên tai gần đây. Năm ngoái, các giám mục Phi Luật Tân đã mời Đức Giáo Hoàng tham dự Đại Hội Thánh Thể Thế giới sẽ diễn ra ở Cebu vào năm 2016.
Cha Giovanni Re, Bề trên miền của Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo ( PIME) ở Phi Luật Tân trong cuộc phỏng vấn với AsiaNews cho biết: “ cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Phi Luật Tân sẽ trở nên một thời điểm quan trọng nữa cho quốc gia này, như những chuyến viếng thăm của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm.”
Phần hai bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô trên chuyến bay về Roma
Linh Tiến Khải
19:54 29/05/2014
Chúng tôi xin gửi tới quý vị và các bạn phần hai bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tế trên chuyến bay từ Tel Aviv về Roma tối thứ hai 26-5-2014.
Trong phần đầu của cuộc phỏng vấn các phóng viên, đại diện cho các nhóm nói tiếng Ý, Anh, Tây Ban Nha, Pháp và Bồ Đào Nha, đã đưa ra các câu hỏi liên quan tới: các cử chỉ tự phát của Đức Thánh Cha khiến cho mọi người cảm động, các vụ giáo sĩ tu sĩ và nhân viên của Giáo Hội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, các gương mù gương xấu chi phí chống lại sứ điệp Giáo Hội nghèo và của người nghèo hay không trong sáng trong tiền bạc, phong trào chống âu châu đang lên, và quy chế của thành Giêrusalem.
Sau đây là nội dung phần hai cuộc phỏng vấn. Anh Jan-Christoph Kitzler, phóng viên đài phát thanh Đức, hỏi:
Hỏi: Trong chuyến công du vừa qua Đức Thánh Cha đã nhiều lần gặp gỡ và nói chuyện với Đức Thượng Phụ Bartolomaios. Chúng con tự hỏi không biết hai vị có đề cập tới các bước cụ thể xích lại gần nhau, hay có dịp đề cập tới vấn đề này không, ngoài việc ra Tuyên ngôn chung và cầu nguyện, chắc chắn cũng là một dấu chỉ mạnh mẽ. Con cũng tự hỏi không biết Giáo Hội Công Giáo có thể học vài điều từ Giáo Hội chính thống hay không, con muốn nói tới sự kiện các linh mục có gia đình. Đây là một câu hỏi mà nhiều tín hữu Công Giáo, đặc biệt tại Đức, đặt ra, cả dưới ánh sáng bức thư mà các phụ nữ yêu các linh mục gửi cho Đức Thánh Cha?
Đáp: Nhưng mà Giáo Hội Công Giáo cũng có các linh mục lập gia đình chứ: đó là các linh mục Công Giáo hy lạp, Công Giáo Copte. Trong lễ nghi đông phương có các linh mục lấy vợ. Bởi vì độc thân không phải là một tín lý: nó là một luật sống, mà tôi đánh giá rất cao và tôi tin rằng nó là một món qùa cho Giáo Hội. Vì không phải là một tín lý đức tin, nên có cánh cửa luôn luôn rộng mở. Trong lúc này chúng tôi không nói đến chuyện đó, như là chương trình, ít nhất trong lúc này. Chúng tôi có các điều quan trọng hơn cần làm. Với Đức Thượng Phụ Barlolomaios, đề tài này đã không được bàn tới, vì nó thực sự là đề tài phụ thuộc trong tương quan với anh em chính thống. Chúng tôi đã nói tới sự hiệp nhất: mà sự hiệp nhất thì được làm trên đường đi, sự hiệp nhất là một lộ trình. Chúng ta không bao giờ có thể làm ra sự hiệp nhất trong một hội nghị thần học. Và Đức Thượng Phụ đã nói với tôi rằng điều tôi đã biết là đúng, rằng Đức Thượng Phụ Athenagoras đã nói với Đức Phaolô VI: ”Chúng ta thanh thản cùng đi, tất cả các nhà thần học chúng ta để họ trên một hòn đảo, để họ thảo luận với nhau, và chúng ta tiến bước trên con đường cuộc sống”. Thật vậy, tôi đã nghĩ có lẽ... Nhưng không, nó đúng vậy! Trong những ngày này Đức Bartolomaios đã nói với tôi như thế. Cùng bước đi, cùng cầu nguyện, cùng làm việc trong biết bao nhiêu chuyện mà chúng ta có thể cùng làm với nhau, trợ giúp lẫn nhau. Chẳng hạn với các Giáo Hội, tại Roma và biết bao nhiêu nơi khác. Mà tại Roma biết bao nhiêu tín hữu chính thống sử dụng các nhà thờ Công Giáo vào giờ nọ giờ kia, như một sự trợ giúp để cùng đi, đúng không? Chúng tôi cũng đã đề cập tới một chuyện khác, mà có lẽ trong Hội Đồng liên chính thống người ta làm một cái gì đó: đó là ngày lễ Phục Sinh, bởi vì nó hơi nực cười: “Này bạn, hãy nói cho tôi biết Chúa Kitô của bạn sống lại khi nào vậy? - Tuần tới - Ồ, Chúa Kitô của tôi đã sống lại tuần vừa qua rồi!” Phải, ngày lễ Phục Sinh là một đầu chỉ của sự hiệp nhất, đúng không? Chúng tôi yêu thương nhau, chúng tôi kể cho nhau nghe các khó khăn trong việc cai quản của chúng tôi. Và có một điều mà chúng tôi nói với nhau khá nhiều đó là vấn đề môi sinh. Đức Thượng Phụ rất lo âu và cả tôi cũng thế, chúng tôi đã cùng nhau nói nhiều về một công việc chung liên quan tới vấn đề này.
Cha Lombardi nói: ”Vì chúng ta không phải chỉ là người âu châu hay Mỹ, nhưng cũng có các nhà báo Á châu nữa, nên xin nhường lời cho anh Shoko Ueda của hãng tin Tokyo Nhật Bản hỏi Đức Thánh Cha, vì Đức Thánh Cha cũng đang chuẩn bị cho các chuyến đi Á châu”.
Anh Shoko Ueda hỏi:
Hỏi: Con cám ơn Đức Thánh Cha. Rất tiếc con không nói đươc tiếng Ý, nên con xin hỏi bằng tiếng Anh. Chuyến tông du tới của Đức Thánh Cha là viếng thăm Nam Hàn, vì thế con muốn đặt câu hỏi liên quan tới các vùng Á châu. Trong các nước gần Nam Hàn có Bắc Hàn và Trung Quốc, là những nơi không có tự do tôn giáo và tự do ngôn luận. Đức Thánh Cha có nghĩ làm cái gì cho các anh chị em đang phải khổ đau vì các tình thế này hay không?
Đáp: Tôi quý trọng Á châu. Có hai chương trình viếng thăm: một tại Nam Hàn để gặp gỡ giới trẻ Á châu, rồi vào tháng giêng năm tới có một chuyến viếng thăm Sri Lanka và Philipines trong vùng đã bị tai nạn sóng thần. Vấn đề không được tự do hành đạo không phải chỉ có tại vài nước Á châu, mà cũng có tại các nước khác trên thế giới nữa. Tự do tôn giáo không phải là điều có trong tất cả mọi nước. Có vài nước kiểm soát tự do tôn giáo một cách nhẹ nhàng và an bình, các nước khác đưa ra các biện pháp kết cục trở thành một việc thực sự bách hại các kitô hữu. Có các vị tử đạo, ngày nay có các kitô hữu chết vì đạo. Tín hữu Công Giáo và không Công Giáo, nhưng là những người chết vì đạo. Và tại một vài nước không thể đeo Thánh Giá hay không thể có một cuốn Thánh Kinh. Không thể dậy giáo lý cho trẻ em ngày nay. Và tôi tin rằng mình không lầm, tin rằng trong thời đại này có nhiều người chết vì đạo hơn là trong các thời gian đầu của Giáo Hội. Tại vài nơi chúng ta phải tới gần một cách thận trọng để trợ giúp các anh chị em ấy. Chúng ta phải cầu nguyện nhiều cho các Giáo Hội dau khổ này: họ đau khổ nhiều lắm. Các Giám Mục và Tòa Thánh kín đáo hoạt động để trợ giúp các nước này, trợ giúp kitô hữu của các nước này. Nhưng đây không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn, tôi xin nói với anh một điều này. Trong một nước có lệnh cấm cầu nguyện chung với nhau. Nhưng các kitô hữu sống tại đó lại muốn cử hành Thánh Thể. Có một ông thợ là linh mục. Ngài đến và ngồi vào bàn giả bộ uống trả, nhưng họ cử hành Thánh thể. Nếu có cảnh sát đến, họ dấu ngay các sách lễ đi, và đang uống trà. Điều này xảy ra ngày nay đấy. Không dễ dàng đâu!
Cha Lombardi nói: Con hy vọng Đức Thánh Cha cũng sẽ mau đến thăm Nhật Bản nữa... Tốt lằm, hơn nửa giờ rồi. Con tin là chúng ta cũng có bổn phận phải săn sóc sức khỏe của mình và sự nghỉ ngơi của Đức Thánh Cha nữa. Vì thế... Đức Thánh Cha nói là ngài muốn tiếp tục, hay các nhà báo phải tiếp tục. Tiếp tục nữa? Tiếp tục. Vậy thì tốt. Anh chị em thấy chưa, tôi muốn bảo vệ Đức Thánh Cha, nhưng mà ngài không muốn.
Như thế chúng ta tiếp tục với nhóm tiếng Ý, với câu hỏi của anh Fausto Gasparoni, phóng viên của hãng tin ANSA.
Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, trong triều đại của ngài Đức Thánh Cha đương đầu với nhiều dấn thân, và ngài làm điều đó một cách rất sít sao đầy đặc, như chúng ta thấy trong các ngày này. Nếu mai kia, trong một ngày không xa, Đức Thánh Cha cảm thấy không còn sức để chu toàn sứ vụ của mình nữa, Đức Thánh Cha có nghĩ tới cùng lựa chọn từ bỏ sứ vụ như vị tiền nhiệm đã làm hay không?
Đáp: Tôi sẽ làm điều Chúa sẽ nói tôi làm: cầu nguyện, tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng tôi tin rằng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI không phải là một trường hợp duy nhất, nhưng đã xảy ra là ngài đã không có sức, và nói một cách liêm chính, ngài là một con người của lòng tin, rất mực khiêm nhường, ngài đã lấy quyết định này. Tôi tin rằng ngài là một sự mở ra: cách đây 70 năm hầu như đã không có các giám mục về hưu. Nhưng bây giờ có rất nhiều. Điều gì sẽ xảy ra đối với các giáo hoàng về hưu? Tôi tin rằng chúng ta phải nhìn vào ngài như là một mở ra. Ngài đã mở ra một cánh cửa, cánh cửa của các Giáo Hoàng về hưu. Sẽ có nhiều vị khác nữa, hay không có. Chỉ có Thiên Chúa biết. Nhưng cánh cửa này đã được mở ra: tôi tin rằng một Giám Mục Roma, một Giáo Hoàng cảm thấy sức lực của mình yếu kém đi, bởi vì bây giờ người ra sống lâu - thì phải tự đặt các câu hỏi như Đức Thánh Cha Biển Đức đã làm.
Bây giờ chúng ta nhường lời cho anh John Allen thuộc nhóm tiếng Anh.
Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, hôm nay Đức Thánh Cha đã gặp một nhóm những người sống sót của cuộc diệt chủng Do thái. Đức Thánh Cha biết có một gương mặt còn gợi lên nhiều bối rối đối với vai trò của ngài trong cuộc diệt chủng: đó là Đức Pio XII vị tiền nhiệm của Đức Thánh Cha. Chúng con muốn biết tại sao trước khi làm Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha đã viết và đã nói rằng mình ngưỡng mộ Đức Pio XII, nhưng cũng muốn thấy các văn khố được mở ra, trước khi đi đến một kết luận vĩnh viễn. Như thế chúng con muốn biết - vì Đức Thánh Cha mới tôn hai vị tiền nhiệm lên hàng hiển thánh - vậy Đức Thánh Cha có ý định tiếp tục tiến trình điều tra trước khi quyết định tôn phong chân phước cho Đức Pio XII hay không?
Đáp: Án liên quan tới Đức Pio XII đã được mở. Tôi đã hỏi tin tức, chưa có phép lạ nào, và nếu không có các phép lạ, thì không thể tiến tới được. Và nó dừng ở đó. Chúng tôi phải chờ đợi thực tại, xem thực tại của án phong tiến triển như thế nào, rồi mới nghĩ tới việc quyết định được. Nhưng sự thực là điều này: chưa có phép lạ nào, và cần phải có một phép lạ cho việc tuyên phong chân phước. Án phong của Đức Pio XII ngày nay là như thế. Và tôi không thể nghĩ là có phong chân phước cho ngài hay không, bởi vì tiến trình chậm.
Bây giờ thì đến lượt Argentina từ một nhân vật mà Đức Thánh Cha biết: đó là chị Elisabetta Piqué.
Hỏi: Đây là môt câu hỏi của nhóm nói tiếng Tây Ban Nha phối hợp với Mêhicô. Đức Thánh Cha đã trở thành một vị lãnh đạo tinh thần và cả chính trị nữa, và Đức Thánh Cha đang mở ra nhiều viễn tượng bên trong Giáo Hội cũng như bên ngoài cộng đồng quốc tế. Bên trong Giáo Hội chẳng hạn hhư điều gì sẽ xảy ra với việc cho các cặp ly dị tái hôn được rước Mình Thánh Chúa, và trong cộng đồng quốc tế như việc làm trung gian gây kinh ngạc cho thế giới, về cuộc gặp gỡ tại Vaticăng... Đức Thánh Cha không sợ bị thất bại hay sao? Và bây giờ con xin hỏi bằng kiểu nói Tây Ban Nha ”Đức Thánh Cha không đang bỏ qúa nhiều thịt vào lửa” hay sao, khi dấy lên nhiều chờ mong như vậy; Đức Thánh Cha không sợ gặp vài thất bại nào đó hay sao?
Đáp: Trước hết tôi xin giải thích rõ về cuộc gặp gỡ tại Vaticăng: đó sẽ là một cuộc gặp gỡ cầu nguyện, chứ không phải để làm trung gian hay tìm ra các giải pháp. Không. Chúng tôi sẽ họp nhau để cầu nguyện thôi. Rồi mỗi người trở về nhà mình. Nhưng tôi tin rằng lời cầu nguyện quan trọng và cùng nhau cầu nguyện mà không thảo luận, điều này trợ giúp. Đó sẽ là một cuộc gặp gỡ cầu nguyện: sẽ có một rabbi, một vị lãnh đạo hồi giáo và tôi. Tôi đã xin vị Quản thủ Thánh Địa tổ chức các điều này cho cụ thể một chút.
Thứ hai, xin cám ơn câu hỏi liên quan tới các người đã ly dị. Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ bàn về gia đình, về vấn đề của gia đình, các sự phong phú của gia đình, về tình trạng hiện nay của gia đình. Tài liệu trình bầy trước của Đức Hồng Y Kasper đã có 5 chương: 4 chương về gia đình, các hay đẹp của gia đình, nền tảng thần học, vài vấn đề gia đình; và chương 5 nói về mục vụ cho những người ly thân, việc tiêu hôn và các người ly dị. Trong vấn đề này cũng có việc rước lễ. Tôi không thích nghe nhiều người, kể cả các linh mục, nói: ”Ah, Thượng Hội Đồng Giám Mục cho các người ly dị rước lễ”. Và họ đi đến đó. Tôi đã nghe làm như thể là mọi chuyện được giản lược vào một trường hợp nghi nghĩa (Casistica). Nhưng mà không. Việc này tế nhị và rộng rãi hơn nhiều. Ngày nay chúng ta đều biết gia đình bị khủng hoảng, và nó là cuộc khủng hoảng toàn cầu. Người trẻ không muốn lập gia đình, hay không muốn lấy nhau, nhưng chung sống, hôn nhân bị khủng hoảng và gia đình bị khủng hoảng. Và tôi không muốn chúng ta rơi vào trường hợp nghi nghĩa này: ”có thể hay không có thể” . Vì thế tôi cám ơn chị đã đưa ra câu hỏi này, bởi vì nó cho tôi dịp giải thích vấn đề. Vấn đề mục vụ gia đình rất là rộng rãi. Và phải cứu xét từng trường hợp một. Có một điều đó là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ba lần đề cập tới những người ly dị, và người đã giúp tôi nhiều lắm. Một lần tại Alto Adige, một lần khác tại Milano, và lần thứ ba tôi không nhớ ở đâu, à, tại Hội nghị Hồng Y công khai để chỉ định các Tân Hồng Y, bởi vì hội nghị cuối cùng là hội nghị riêng nhằm duyệt xét các các tiến trình hủy bỏ hôn nhân, cho một ít người, xem xét niềm tin qua đó một người tiến tới hôn nhân và minh giải rằng các người ly dị không bị vạ tuyệt thông, nhưng biết bao lần họ bị đối xử như những người bị vạ tuyệt thông. Đây là vấn đề nghiêm trọng. Thượng Hội Đồng sẽ bàn về gia đình: các phong phú, các vấn đề của gia đình, các giải pháp, việc tiêu hôn. Cũng sẽ có vấn đề liên quan tới các người đã ly dị tái hôn. Trong tháng thứ hai triều đại của tôi Đức Cha Eterovic, thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục, đã tới gặp tôi với ba đề tài mà Hội đồng hậu thượng hội đồng giám mục đề nghị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục tới. Đề nghị thứ nhất rất mạnh mẽ và tốt liên quan tới ”điều Chúa Giêsu Kitô đem tới cho con người ngày nay”. Nó tiếp tục Thượng Hội Đồng Giám Mục về rao giảng Tin Mừng. Tôi đã chấp nhận và chúng tôi đã thảo luận một chút về việc cải tổ phương pháp, và sau cùng tôi nói: ”Chúng ta hãy thêm vào một cái gì đó: điều Chúa Giêsu Kitô đem tới cho con người và gia đình ngày nay”. Thế rồi tôi đi tham dự phiên họp thứ nhất của hội đồng, tôi thấy người ta nói tới toàn đề tài, rồi từ từ người ta nói tới ”điều Chúa Giêsu Kitô đem tới cho gia đình” và ”Thượng Hội đồng giám Mục về gia đình” mà không nhận ra. Tôi chắc chắn là Thần Khí Chúa đã hướng dẫn chúng tôi chọn tựa đề này, bởi vì ngày nay gia đình cần các trợ giúp mục vụ. Chị Elisabetta, tôi không biết đã có giải thích rõ ràng một chút không?
Chúng ta còn vài người trong danh sách nhưng xin mời chị Philipine de Saint Pierre, tân giám đốc đài truyền hình Công Giáo Pháp, và chúng tôi cũng chúc mừng chị.
Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, câu hỏi của con cũng là của nhóm các nhà báo tiếng Pháp. Đức Thánh Cha có thể cho chúng con biết đâu là các chướng ngại cho việc cải tổ các cơ quan Trung Ương Tòa Thánh Roma, và hôm nay chúng ta đang ở điểm nào rồi không?
Đáp: Mà chướng ngại đầu tiên là tôi đây chứ ai... Nhưng chúng ta ở điểm tốt, bởi vì tôi tin rằng tôi không nhớ ngày tháng nhưng ba tháng, phải ba tháng hay ít hơn, sau ngày tôi được bầu làm Giáo Hoàng đã có Hội đồng 8 Hồng Y được thành lập.
(Cha Lombardi nhắc ngài là một tháng).
À, một tháng sau khi được bầu. Rồi trong các ngày đầu tháng 7 chúng tôi đã họp nhau lần đầu tiên, và từ đó tới nay chúng tôi làm việc. Hội đồng làm việc gì? Hội đồng duyệt xét toàn Tông hiến ”Pastor Bonus” và các cơ quan Trung Ương Roma. Hội đồng đã tham khảo ý kiến với các Hội Đồng Giám Mục toàn thế giới, với tất cả các cơ quan trung ương Tòa Thánh và bắt đầu nghiên cứu vài điều. Điều này có thể làm như thế này điều kia làm như thế kia. Nhập vài cơ quan làm một để giảm nhẹ tổ chức ... Một trong những điểm chìa khóa đã là vấn đề kinh tế. Và cơ quan kinh tế sẽ trợ giúp rất nhiều. Nó phải làm việc với Phủ Quốc Vụ Khanh, bởi vì nó là một kết hợp. Mọi người làm việc với nhau. Vào tháng 7 tới chúng tôi có bốn ngày làm việc với Ủy ban này, rồi vào tháng 9, tôi tin vậy, sẽ có bốn ngày làm việc nữa. Người ta làm việc khá nhiều. Và người ta chưa trông thấy tất cả các kết qủa. Nhưng kết qủa kinh tế là kết qủa đầu tiên, bởi vì có vài vấn đề mà báo chí đã nói tới khá nhiều, và chúng tôi phải xem xét thấy chúng. Các chướng ngại là các chướng ngại bình thường của toàn tiến trình. Nghiên cứu con đường... Sự tin chắc rất là quan trọng. Đây là một công việc của sự tin chắc, của việc trợ giúp. Có vài người không trông thấy rõ vấn đề, nhưng mọi cải tổ đều tạo ra các điều này. Nhưng tôi hài lòng, thật sự hài lòng. Chúng tôi đã làm việc khá nhiều, và Ủy ban này trợ giúp chúng tôi biết bao.
Cha Lombardi đã chân thành cám ơn Đức Thánh Cha quá quảng đại, vì sau chuyến viếng thăm ngoại thường khiến mọi ngươi cản động như vậy, đã dành cho các nhà báo gần một giờ phỏng vấn. Cha cầu chúc cuộc gặp gỡ cầu nguyện do Đức Thánh Cha đề ra đem lại nhiều kết qủa và hòa bình trên thế giới mà mọi người mong ước. Đức Thánh Cha cám ơn các nhà báo về sự đồng hành và sự khoan dung. Và ngài xin họ cầu nguyện cho ngài, vì ngài cần nhiều lời cầu nguyện.
Nhà Tiệc Ly bị phóng hỏa chỉ vài giờ sau khi Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ
Đặng Tự Do
21:58 29/05/2014
![]() |
| Sách kinh và thánh giá bị đốt |
Thầy Nikodemus Schnabel trong đoàn Hiệp Sĩ Quản Thủ Thánh Mộ cho phóng viên AFP biết là một kẻ lạ mặt hành động đơn độc đã lẻn vào Nhà Tiệc Ly ở khu vực “Nơi Đức Mẹ ngủ” vào đêm thứ Hai 26 tháng 5. Kẻ phóng hỏa đã lẻn xuống nhà nguyện bên dưới kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, lấy một số sách những người hành hương dùng để hát và những thánh giá nhỏ bằng gỗ chụm lại đốt bên cạnh một đàn phong cầm.
Cây đàn bị hư hại nặng nhưng đám cháy đã được nhanh chóng dập tắt.
Nhà Tiệc Ly là một điạ điểm thánh thiêng với người Công Giáo vì nơi đây đã diễn ra những biến cố quan trọng đã được tường thuật trong Tân Ước: đó là nơi Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, là nơi Chúa Giêsu đã dùng bữa cuối cùng với các môn đệ trước cuộc thương khó của Ngài, là nơi Chúa hiện ra với các tông đồ sau khi từ kẻ chết sống lại, là nơi các tông đồ tụ họp sau khi Chúa lên trời, là nơi Thánh Matthias đã được chọn làm tông đồ thay cho Giuđa Itcariốt, và là nơi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các thánh tông đồ.
Vì gắn bó với nhiều biến cố quan trọng như thế, điạ điểm này được coi là nơi khai sinh ra Giáo Hội Công Giáo, và đã là nơi hành hương của các tín hữu Kitô từ những thế kỷ đầu tiên. Ngày nay người ta còn giữ lại được những tác phẩm của nhà văn nữ là Egeria hay có khi còn gọi là Aetheria là một phụ nữ miền Gallaeci của Tây Ban Nha đã ghi lại những chuyến hành hương của bà đến vùng này trong khoảng thời gian từ năm 381 đến năm 384.
Nhà thờ được ghi lại trong những tác phẩm của nhà văn nữ Egeria đã bị quân Hồi Giáo phá hủy vào năm 614 khi người Hồi Giáo xâm lăng Thánh Địa. Nó được tái thiết rồi lại bị người Hồi phá hủy. Khi Đạo Binh Thập Tự tới Thánh Địa, nhà thờ ở trong tình trạng đổ nát, chỉ trừ nhà nguyện nguyện hai tầng của Phòng Tiệc Ly. Đạo Binh Thập Tự Kitô đã xây một vương cung thánh đường ba gian dọc gồm Phòng bên trên, tức Nhà nguyện Tiệc Ly, nơi Đức Maria ngủ, và một nhà nguyện bên dưới kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ.
Nhà nguyện như chúng ta thấy hiện nay được tái thiết vào thế kỷ thứ 14 sau những thương thuyết khó khăn và tốn kém giữa vua thành Napoli và quốc vương Ai Cập. Nhà nguyện Tiệc Ly bên trên dài 15,3 mét rộng 9,4 mét được xây theo kiểu Gôtích hồi thế kỷ XIV, có một cầu thang nối liền tầng dưới với tầng trên gồm 8 bậc dẫn lên nhà nguyện kỷ niệm biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Người Hồi Giáo cho rằng địa điểm này năm trên khu hầm mộ của Vua Đavít nên trong thời kỳ đế quốc Ottoman cai trị Giêrusalem, thỏa ước Nguyên Trạng do Hoàng Đế Thổ Nhĩ Kỳ Osamn Đệ Tam đưa ra vào năm 1853 đã ngăn cản người Công Giáo cử hành thánh lễ tại đây.
Hôm thứ Năm 22 tháng 5, hàng ngàn người Do Thái cực đoan đã biểu tình tại khu vực này vì lo ngại trong chuyến viếng thăm Thánh Địa, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ vận động với chính quyền Do Thái nhường lại khu vực này cho người Công Giáo.
Tuy nhiên, cha David Neuhaus, là người Do Thái và là linh mục Dòng Phanxicô cho biết Giáo Hội Công Giáo chỉ muốn được thường xuyên cử hành thánh lễ tại đây.
Tháng 5 năm 2013, những người Do Thái cực đoan đã vẽ bậy lên những bức tường tại nhà nguyện với những khẩu hiệu bài Kitô Giáo. Trước khi Đức Thánh Cha sang thăm Giêrusalem, ít nhất 10 người Do Thái Giáo cực đoan đã nhận được lệnh của cảnh sát không được bén mãng tới khu vực này.
Đức Thánh Cha và hai vị Tổng Thống Israel và Palestine sẽ cùng cầu nguyện cho hòa bình vào ngày 8 tháng Sáu
Đặng Tự Do
23:12 29/05/2014
![]() |
Trong buổi hát Kinh Lậy Nữ Vương Thiên đàng trưa Chúa Nhật 25/5 tại Bethlehem, trước khi ban phép lành cuối lễ Đức Thánh Cha đã đưa ra một sáng kiến bất ngờ chưa từng có. Ngài nói:
Ở nơi Hoàng Tử Hòa Bình đã sinh ra này, tôi ước mong mời tổng thống Mahmoud Abbas và tổng thống Simon Perez cùng tôi dâng một lời cầu nguyện mạnh mẽ khẩn nài Thiên Chúa ban cho ơn hóa bình. Tôi cống hiến nhà tôi ở Vatican để tiếp đón cuộc gặp gỡ cầu nguyện này. Mọi người đều ước mong hòa bình và biết bao nhiêu người xây dựng nó mỗi ngày với các cử chỉ bé nhỏ. Nhiều người đau khổ và kiên nhẫn chịu đựng sự vất vả của biết bao nhiêu nỗ lực để xây dựng hòa bình. Và tất cả đặc biệt những người được đặt để phục vụ các dân tộc của nình - chúng ta có bổn phận trở thành dụng cụ của hòa bình, trước hết bằng lời cầu nguyện. Xây dựng hòa bình khó, nhưng sống không có hòa bình là một đau đớn. Tất cả mọi người nam nữ của vùng Đất này và toàn thế giới xin chúng ta đem tới trước Thiên Chúa khát vọng hòa bình nồng cháy của họ.
Một phụ nữ Sudan đã bị kết án tử hình vì cho là đã cải đạo từ Hồi Giáo sang Công Giáo vừa hạ sinh một bé gái trong tù.
Đặng Tự Do
23:49 29/05/2014
![]() |
Cô Meriam Yehya Ibrahim, 27 tuổi, có cha là một người Hồi Giáo và mẹ là một tín hữu Kitô. Trước tòa, Meriam luôn kiên quyết cho rằng mình theo đạo mẹ và đã là một Kitô hữu từ nhỏ.
Cô nói: "Tôi là một Kitô hữu, và tôi chưa bao giờ phạm tội bội giáo"
Tuy nhiên, luật lệ Hồi Giáo buộc con cái của người Hồi Giáo phải theo Hồi Giáo.
Những thân nhân họ nội của cô đã tố cáo cô ra trước tòa vì cô đã kết hôn với một Kitô hữu. Vì luật lệ Hồi Giáo không cho phép một người phụ nữ kết hôn với một Kitô hữu nên tòa không công nhận hôn nhân của chị và đã truyền đánh Meriam 100 hèo vì tội ngoại tình và truyền cho cô trong ba ngày, tức là đến ngày 15 tháng 5, phải tuyên bố trở lại đạo Hồi nếu không sẽ bị tử hình.
Hết hạn định này, Meriam đã bị đưa ra trước tòa. Cô khảng khái cự tuyệt không theo đạo Hồi.
Trong phán quyết sau cùng, thẩm phán nói:
"Chúng tôi đã cho cô ba ngày để suy nghĩ, nhưng vì cô kiên quyết không trở về Hồi giáo, tôi kết án cô bị treo cổ."
Meriam Yehya Ibrahim, mới 27 tuổi mỉm cười đón nhận phúc tử đạo.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra thông cáo nói chính phủ Mỹ "quan ngại sâu sắc" trước phán quyết này.
Trong khi đó Ahmed Bilal Osman, Bộ trưởng Bộ văn hóa thông tin của Sudan, nói với Agence France-Presse rằng "không chỉ Sudan. Ở Saudi Arabia, và tất cả các quốc gia Hồi giáo khác, không một người Hồi giáo nào được phép cải đạo"
Vì cô Meriam sắp sinh nên tước những can thiệp quốc tế, Sudan chấp nhận hoãn việc thi hành án cho cô sinh cháu.
Trong tuần tới cô Meriam sẽ bị đánh 100 hèo và sau đó khi cháu bé đã được cai sữa thì cô phải bị treo cổ.
Sudan trước đây đã từng là một quốc gia lớn nhất Phi Châu và đã từng có thời là quốc gia Kitô Giáo khi các Vua miền Nubia theo đạo Công Giáo vào thế kỷ thứ Tư. Sau đó quốc gia này bị quân Hồi Giáo chiếm được. Tuy bị cai trị, các tín hữu Kitô Sudan vẫn tiếp tục là nhóm đa số trong xã hội cho đến khi người Ả rập di dân sang vùng này.
Cuộc chiến tranh diệt chủng nhằm tiêu diệt người Kitô Giáo do nhà cầm quyền Khartoum tiến hành với sự trợ lực của các sư đoàn quân Trung quốc đánh thuê đã dẫn đến can thiệp quốc tế buộc chia quốc gia này thành hai quốc gia là Sudan và Nam Sudan. 97% dân trong tổng số 35.5 triệu dân Sudan theo Hồi Giáo trong đó 70% dân số là người Ả rập di dân sang.
Miền Nam Sudan chỉ có 11.5 triệu dân trong đó tuyệt đại đa số là các Kitô hữu và là người châu Phi.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Hòa hiếu với kẻ thù là trao thân cho giặc
Phạm Trần
15:12 29/05/2014
HÒA HIẾU VỚI KẺ THÙ LÀ TRAO THÂN CHO GIẶC
Máu dân đã đổ cho Tổ quốc được tòan vẹn ở Biển Đông mà Đảng và Quốc hội thì lại co ro đến mức đã làm hèn đi “tính anh hùng của dân tộc” trước các hành động mỗi ngày một hung hãn, dã man của Trung Cộng.
Theo báo cáo của ngư dân, từ ngày 7/5 (2014) lực lượng của Trung Cộng đã liên tục bao vậy, trấn áp và tấn công các tầu đánh cá và tầu cảnh sát biển Việt Nam hoạt động chống giàn khoan dầu HD-981 của Trung Cộng
Phát ngôn viên Bộ Ngọai giao Việt Nam Lê Hải Bình nói phía Trung Cộng đã : “ Dùng vòi rồng phun nước; dùng búa, chai lọ, bu lông ném sang tàu; dùng câu liêm cắt đứt dây và hệ thống liên lạc, định vị….đâm thẳng vào tàu gây vỡ mạn phải và toàn bộ kính ca bin, hỏng nhiều thiết bị và tài sản trên tàu….lực lượng chức năng của Trung Quốc đã lên tàu cá đập phá hầu hết tài sản trên tàu, đánh và gây thương tích nặng đối với hai ngư dân Việt Nam tên là Nguyễn Huyền Lê Anh và Nguyễn Tấn Hải ...”
Nghiêm trọng hơn, theo ông Bình : “ 26/5/2014, tại khu vực có tọa độ 15o16’42”N-111o01’30”E, ngư trường truyền thống thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tàu cá Đà Nẵng mang số hiệu ĐNa 90152 TS cùng 10 ngư dân trên tàu đã bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 11209 đã đâm chìm. Hiện 10 ngư dân đã được lực lượng kiểm ngư, Cảnh sát biển cứu vớt và đưa lên tàu an toàn.”
Ông Lê Hải Bình gọi hành động của phía Trung Cộng là “vô nhân đạo, xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam…”
Sau 3 tuần mang giàn khoan dầu HD-981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, phiá Trung Cộng vẫn duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ gìan khoan nhưng chỉ để cho các tầu “dân sự có võ trang” như Hải Cảnh, Hải Giám, Ngư Chính và tàu cá vỏ sắt để tấn công các thuyền và tầu của Việt Nam.
Có ngót 100 tầu chiến, tầu đổ bộ, tầu có gắn hỏa tiễn, đại liên và súng cối đang bao quanh giàn khoan HD-981, sau khi di chuyễn khỏang 40 cây số vào ngày 27/5 (2014) nhưng vẫn nằm trong vùng biển của Việt Nam. Một số máy bay phản lực của quân Trung Cộng có gắn hỏa tiễn và bom đã bay lượn đe dọa ở độ cao chỉ cách tầu Việt Nam từ 500 đến 100 thước.
Trong khi đó thì không có bất cứ một tầu quân sự nào của Việt Nam hành quân ở khu có gìan khoan HD-981, mặc dù phiá quân đội Việt Nam cho biết họ không chủ trương sử dụng võ lực để giải quyết tranh chấp với Trung Cộng.
Sự dè dặt của Bộ Quốc phòng Việt Nam chứng tỏ đường giây nóng giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng Việt-Trung không họat động được vì phiá Trung Cộng không muốn đối thọai với Việt Nam.
Ngay cả hai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam và Tập Cận Bình của Trung Cộng cũng không nói chuyện với nhau từ khi có cuộc xung đột mới từ ngày 02/05/2014.
Chỉ có Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngọai giao Việt Nam Phạm Bình Minh nói chuyện lần thứ nhất bằng điện thọai với Ủy viên Quốc vụ Trung Cộng Dương Khiết Trì, người phụ trách về tranh chấp lãnh thổ và biển đảo và lần thứ hai với Bộ trưởng Ngọai giao Vương Nghị.
Theo tin phiá Việt Nam, ông Minh đã khẳng định chủ quyền biển của Việt Nam đã bị Trung Cộng vi phạm khi đem giàn khoan HD-981 vào đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và yêu cầu ông Dương Khiết trì rút giàn khoan. Phía họ Dương không những đã thằng tay bác bỏ yêu cầu của ông Minh mà còn bảo rằng Trung Cộng đang làm việc này trên vùng biển của Trung Cộng !
Phía Quốc hội của Trung Cộng cũng không thèm liên lạc với Quốc hội Việt Nam, mặc dù một số Ủy ban then chốt của Quốc hội Việt Nam như Quốc phòng và Ngọai giao đã chủ động liên lạc nhưng không ai bên phiá Trung Cộng nhắc máy nói.
Với thái độ trịch thượng của các viên chức Bắc Kinh và hành động xâm lăng ngang ngược của phiá Trung Cộng như đang diễn ra trên Biển Đông, tưởng đâu phiá đảng và Quốc hội Việt Nam đã biết “sáng mắt sáng lòng” trước cạm bẫy 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”), nào ngờ lại tỏ ra yếu kém hơn bao giờ hết cả trong lời nói và hành động như thể “tình nghĩa đôi ta không bao giờ ngăn cách đâu anh” !
HỮU NGHỊ VỚI KẺ THÙ ?
Tiêu biểu cho lối suy nghĩ “lội nước ngược dòng” này đã xuất hiện trên một số bài viết trong báo Quân đội Nhân Dân.
Chẳng hạn như bài của tác gỉa Bắc Hà trên số báo ngày 12/05/2014 đã viết: “Trong quan hệ với Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc, quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo vệ và phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng và hai dân tộc. Đối với những vấn đề tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông, hai Đảng, hai Nhà nước cũng đã thống nhất giải quyết theo “Thỏa thuận những nguyên tắc chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”, do hai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào ký trong dịp đồng chí Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc vào tháng 10-2011.
Trong đó, Văn kiện ghi: “Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền giữa hai quốc gia. Đồng thời, trên tinh thần “tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử… với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982" để tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.
Trong khi khẳng định quan điểm của Việt Nam: Bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng đối với mỗi quốc gia, dân tộc, Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam vẫn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, thể hiện thiện chí kiên trì giải quyết bất đồng thông qua đàm phán, đối thoại và các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và "Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển" giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Rõ ràng là thái độ “lấy nhu chống cương”. “phân trần phải trái bằng văn kiện, chữ nghỉa” với kẻ cướp đã vào nhà có ích gì không hay chỉ chứng tỏ cho nhân dân thấy sự yếu kém tòan diện từ tinh thần đến thể chất của đảng và quân đội ?
Chẳng lẽ một quân đội từng tự hào “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” mà nay lại có luận điệu ru ngủ, hòa hoãn đến yếu mềm đến thế ?
Nhưng không chỉ “nhũn như con chi chi” như thế mà báo Quân đội Nhân dân còn xỉa xói những ai có lòng ngay chính muốn khuyên đảng hãy nhân cơ hội “an nguy của tổ quốc” đang ở vào thời kỳ “sợi chỉ treo mành” mà từ bỏ độc quyền, độc tôn lãnh đạo để đòan kết được tòan dân trong-ngòai chống kẻ thù phương Bắc.
Trong số báo ngày 25/05/2014, tờ Quân đội Nhân dân đăng bài của Tác gỉa Nguyễn Tấn Tuân viết: “ Trên một số trang mạng xã hội trong nước, có người cho rằng, muốn bảo vệ được chủ quyền, lãnh thổ, Việt Nam phải phát huy sức mạnh của toàn dân. Muốn vậy phải đi theo “con đường dân chủ”, thoát khỏi sự phụ thuộc về “hệ tư tưởng” và từ bỏ quan hệ hữu nghị với Trung Quốc… đồng thời dựa vào các quốc gia phát triển phương Tây, như một số quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực đã làm.
Không phủ nhận rằng, hầu hết các ý kiến nói trên đều xuất phát từ sự bức xúc, bất bình trước việc Trung Quốc vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam. Nhiều ý kiến mong muốn tìm ra một giải pháp cơ bản, lâu dài, hữu hiệu ngăn chặn, đẩy lùi tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Thế nhưng, phải chăng muốn bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, Việt Nam phải “chuyển hóa” chế độ xã hội hiện nay, phải thiết lập chế độ chính trị “dân chủ đa nguyên, đa đảng đối lập”, phải từ bỏ tình hữu nghị giữa hai dân tộc, hai Đảng mà các vị cách mạng tiền bối và nhân dân hai nước đã dày công vun đắp?”
Vậy ra “tình hữu nghị giữa hai dân tộc, hai Đảng mà các vị cách mạng tiền bối và nhân dân hai nước đã dày công vun đắp” nhưng đã bị giàn khoan HD-981 làm cho tan nát bằng cái tát “nổ đom đóm mắt” ra mà vẫn chưa biết mở mắt thì nhân dân sẽ còn bị nô lệ cho đến bao giờ ?
Để bảo vệ cho đảng khỏi tan trước sự căm phẫn của nhân dân, báo Quân đội Nhân dân còn hù họa rằng : “ Khi có thù trong, giặc ngoài thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính quyền là phải ổn định được bên trong, mới tập trung sức mạnh, toàn tâm, toàn ý đánh giặc ngoài. Nếu không ổn định được xã hội trong nước, không tạo sự đoàn kết thống nhất một lòng thì tất yếu đất nước sẽ bị ngoại bang xâm chiếm. Hơn nữa, trong thời điểm hiện tại, chúng ta không chỉ lo đấu tranh với hành động xâm chiếm, vi phạm nghiêm trọng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam của phía Trung Quốc, mà còn đề phòng, ngăn chặn các hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Lịch sử của Đảng và dân tộc cho thấy, với hệ tư tưởng đối lập với lợi ích của nhân dân Việt Nam, nhất là thái độ cay cú trước sự phát triển lớn mạnh về mọi mặt của đất nước ta những thập niên qua, các thế lực và lực lượng thù địch luôn tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, lợi dụng các mâu thuẫn xã hội, kích động và châm lên từ bên trong các "ngòi nổ" gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiến đến các vụ bạo loạn chính trị... Đó là những bài học xương máu mà mỗi công dân Việt Nam cần sáng suốt nhận thức rõ để hành động đúng.”
Với thứ lập luận “ngoan ngõan” với quân thù nhưng phải đàn áp nhân dân để tồn tại thì liệu đảng CSVN có được nhân dân “đồng tình ủng hộ” trong cuộc chiến với Trung Cộng không, hay đã có kẻ “đi theo giặc từ lâu rồi” ?
Phạm Trần
(05/014)
Máu dân đã đổ cho Tổ quốc được tòan vẹn ở Biển Đông mà Đảng và Quốc hội thì lại co ro đến mức đã làm hèn đi “tính anh hùng của dân tộc” trước các hành động mỗi ngày một hung hãn, dã man của Trung Cộng.
Theo báo cáo của ngư dân, từ ngày 7/5 (2014) lực lượng của Trung Cộng đã liên tục bao vậy, trấn áp và tấn công các tầu đánh cá và tầu cảnh sát biển Việt Nam hoạt động chống giàn khoan dầu HD-981 của Trung Cộng
Phát ngôn viên Bộ Ngọai giao Việt Nam Lê Hải Bình nói phía Trung Cộng đã : “ Dùng vòi rồng phun nước; dùng búa, chai lọ, bu lông ném sang tàu; dùng câu liêm cắt đứt dây và hệ thống liên lạc, định vị….đâm thẳng vào tàu gây vỡ mạn phải và toàn bộ kính ca bin, hỏng nhiều thiết bị và tài sản trên tàu….lực lượng chức năng của Trung Quốc đã lên tàu cá đập phá hầu hết tài sản trên tàu, đánh và gây thương tích nặng đối với hai ngư dân Việt Nam tên là Nguyễn Huyền Lê Anh và Nguyễn Tấn Hải ...”
Nghiêm trọng hơn, theo ông Bình : “ 26/5/2014, tại khu vực có tọa độ 15o16’42”N-111o01’30”E, ngư trường truyền thống thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tàu cá Đà Nẵng mang số hiệu ĐNa 90152 TS cùng 10 ngư dân trên tàu đã bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 11209 đã đâm chìm. Hiện 10 ngư dân đã được lực lượng kiểm ngư, Cảnh sát biển cứu vớt và đưa lên tàu an toàn.”
Ông Lê Hải Bình gọi hành động của phía Trung Cộng là “vô nhân đạo, xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam…”
Sau 3 tuần mang giàn khoan dầu HD-981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, phiá Trung Cộng vẫn duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ gìan khoan nhưng chỉ để cho các tầu “dân sự có võ trang” như Hải Cảnh, Hải Giám, Ngư Chính và tàu cá vỏ sắt để tấn công các thuyền và tầu của Việt Nam.
Có ngót 100 tầu chiến, tầu đổ bộ, tầu có gắn hỏa tiễn, đại liên và súng cối đang bao quanh giàn khoan HD-981, sau khi di chuyễn khỏang 40 cây số vào ngày 27/5 (2014) nhưng vẫn nằm trong vùng biển của Việt Nam. Một số máy bay phản lực của quân Trung Cộng có gắn hỏa tiễn và bom đã bay lượn đe dọa ở độ cao chỉ cách tầu Việt Nam từ 500 đến 100 thước.
Trong khi đó thì không có bất cứ một tầu quân sự nào của Việt Nam hành quân ở khu có gìan khoan HD-981, mặc dù phiá quân đội Việt Nam cho biết họ không chủ trương sử dụng võ lực để giải quyết tranh chấp với Trung Cộng.
Sự dè dặt của Bộ Quốc phòng Việt Nam chứng tỏ đường giây nóng giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng Việt-Trung không họat động được vì phiá Trung Cộng không muốn đối thọai với Việt Nam.
Ngay cả hai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam và Tập Cận Bình của Trung Cộng cũng không nói chuyện với nhau từ khi có cuộc xung đột mới từ ngày 02/05/2014.
Chỉ có Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngọai giao Việt Nam Phạm Bình Minh nói chuyện lần thứ nhất bằng điện thọai với Ủy viên Quốc vụ Trung Cộng Dương Khiết Trì, người phụ trách về tranh chấp lãnh thổ và biển đảo và lần thứ hai với Bộ trưởng Ngọai giao Vương Nghị.
Theo tin phiá Việt Nam, ông Minh đã khẳng định chủ quyền biển của Việt Nam đã bị Trung Cộng vi phạm khi đem giàn khoan HD-981 vào đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và yêu cầu ông Dương Khiết trì rút giàn khoan. Phía họ Dương không những đã thằng tay bác bỏ yêu cầu của ông Minh mà còn bảo rằng Trung Cộng đang làm việc này trên vùng biển của Trung Cộng !
Phía Quốc hội của Trung Cộng cũng không thèm liên lạc với Quốc hội Việt Nam, mặc dù một số Ủy ban then chốt của Quốc hội Việt Nam như Quốc phòng và Ngọai giao đã chủ động liên lạc nhưng không ai bên phiá Trung Cộng nhắc máy nói.
Với thái độ trịch thượng của các viên chức Bắc Kinh và hành động xâm lăng ngang ngược của phiá Trung Cộng như đang diễn ra trên Biển Đông, tưởng đâu phiá đảng và Quốc hội Việt Nam đã biết “sáng mắt sáng lòng” trước cạm bẫy 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”), nào ngờ lại tỏ ra yếu kém hơn bao giờ hết cả trong lời nói và hành động như thể “tình nghĩa đôi ta không bao giờ ngăn cách đâu anh” !
HỮU NGHỊ VỚI KẺ THÙ ?
Tiêu biểu cho lối suy nghĩ “lội nước ngược dòng” này đã xuất hiện trên một số bài viết trong báo Quân đội Nhân Dân.
Chẳng hạn như bài của tác gỉa Bắc Hà trên số báo ngày 12/05/2014 đã viết: “Trong quan hệ với Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc, quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo vệ và phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng và hai dân tộc. Đối với những vấn đề tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông, hai Đảng, hai Nhà nước cũng đã thống nhất giải quyết theo “Thỏa thuận những nguyên tắc chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”, do hai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào ký trong dịp đồng chí Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc vào tháng 10-2011.
Trong đó, Văn kiện ghi: “Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền giữa hai quốc gia. Đồng thời, trên tinh thần “tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử… với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982" để tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.
Trong khi khẳng định quan điểm của Việt Nam: Bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng đối với mỗi quốc gia, dân tộc, Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam vẫn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, thể hiện thiện chí kiên trì giải quyết bất đồng thông qua đàm phán, đối thoại và các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và "Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển" giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Rõ ràng là thái độ “lấy nhu chống cương”. “phân trần phải trái bằng văn kiện, chữ nghỉa” với kẻ cướp đã vào nhà có ích gì không hay chỉ chứng tỏ cho nhân dân thấy sự yếu kém tòan diện từ tinh thần đến thể chất của đảng và quân đội ?
Chẳng lẽ một quân đội từng tự hào “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” mà nay lại có luận điệu ru ngủ, hòa hoãn đến yếu mềm đến thế ?
Nhưng không chỉ “nhũn như con chi chi” như thế mà báo Quân đội Nhân dân còn xỉa xói những ai có lòng ngay chính muốn khuyên đảng hãy nhân cơ hội “an nguy của tổ quốc” đang ở vào thời kỳ “sợi chỉ treo mành” mà từ bỏ độc quyền, độc tôn lãnh đạo để đòan kết được tòan dân trong-ngòai chống kẻ thù phương Bắc.
Trong số báo ngày 25/05/2014, tờ Quân đội Nhân dân đăng bài của Tác gỉa Nguyễn Tấn Tuân viết: “ Trên một số trang mạng xã hội trong nước, có người cho rằng, muốn bảo vệ được chủ quyền, lãnh thổ, Việt Nam phải phát huy sức mạnh của toàn dân. Muốn vậy phải đi theo “con đường dân chủ”, thoát khỏi sự phụ thuộc về “hệ tư tưởng” và từ bỏ quan hệ hữu nghị với Trung Quốc… đồng thời dựa vào các quốc gia phát triển phương Tây, như một số quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực đã làm.
Không phủ nhận rằng, hầu hết các ý kiến nói trên đều xuất phát từ sự bức xúc, bất bình trước việc Trung Quốc vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam. Nhiều ý kiến mong muốn tìm ra một giải pháp cơ bản, lâu dài, hữu hiệu ngăn chặn, đẩy lùi tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Thế nhưng, phải chăng muốn bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, Việt Nam phải “chuyển hóa” chế độ xã hội hiện nay, phải thiết lập chế độ chính trị “dân chủ đa nguyên, đa đảng đối lập”, phải từ bỏ tình hữu nghị giữa hai dân tộc, hai Đảng mà các vị cách mạng tiền bối và nhân dân hai nước đã dày công vun đắp?”
Vậy ra “tình hữu nghị giữa hai dân tộc, hai Đảng mà các vị cách mạng tiền bối và nhân dân hai nước đã dày công vun đắp” nhưng đã bị giàn khoan HD-981 làm cho tan nát bằng cái tát “nổ đom đóm mắt” ra mà vẫn chưa biết mở mắt thì nhân dân sẽ còn bị nô lệ cho đến bao giờ ?
Để bảo vệ cho đảng khỏi tan trước sự căm phẫn của nhân dân, báo Quân đội Nhân dân còn hù họa rằng : “ Khi có thù trong, giặc ngoài thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính quyền là phải ổn định được bên trong, mới tập trung sức mạnh, toàn tâm, toàn ý đánh giặc ngoài. Nếu không ổn định được xã hội trong nước, không tạo sự đoàn kết thống nhất một lòng thì tất yếu đất nước sẽ bị ngoại bang xâm chiếm. Hơn nữa, trong thời điểm hiện tại, chúng ta không chỉ lo đấu tranh với hành động xâm chiếm, vi phạm nghiêm trọng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam của phía Trung Quốc, mà còn đề phòng, ngăn chặn các hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Lịch sử của Đảng và dân tộc cho thấy, với hệ tư tưởng đối lập với lợi ích của nhân dân Việt Nam, nhất là thái độ cay cú trước sự phát triển lớn mạnh về mọi mặt của đất nước ta những thập niên qua, các thế lực và lực lượng thù địch luôn tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, lợi dụng các mâu thuẫn xã hội, kích động và châm lên từ bên trong các "ngòi nổ" gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiến đến các vụ bạo loạn chính trị... Đó là những bài học xương máu mà mỗi công dân Việt Nam cần sáng suốt nhận thức rõ để hành động đúng.”
Với thứ lập luận “ngoan ngõan” với quân thù nhưng phải đàn áp nhân dân để tồn tại thì liệu đảng CSVN có được nhân dân “đồng tình ủng hộ” trong cuộc chiến với Trung Cộng không, hay đã có kẻ “đi theo giặc từ lâu rồi” ?
Phạm Trần
(05/014)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ơn Cứu Chuộc và Các Truyền Thống Trong Đạo
Mai Tá
17:55 29/05/2014
Ơn Cứu-Chuộc và các truyền-thống trong Đạo
(bài 17)
Phần 3: Ơn Cứu Chuộc và động-thái quá sợ tội
Jean Delumeau, Sin and Fear: the emergence of a Western Guilt Culture, 13th – 18th centuries, E. Nicholson, New York, St Martin’s Press, 1990.
Nhiều năm qua, có rất nhiều bài viết về hầu hết các thời-kỳ lịch-sử trong đó dân con Đạo Chúa am-hiểu cũng nhiều về Ơn Cứu-Chuộc. Hôm nay, nhằm giúp đỡ công-tác thừa-sai/mục vụ của Dòng, tôi sẽ tập-trung bài nói chuyện này về những tháng ngày qua, tức: thế-kỷ thứ 13 và 18, nhấn mạnh nhiều phần tổng-luận của sử-gia nổi tiếng lâu nay là Jean Delumeau, ở Pháp.
Đây là một trong những đóng góp mà, với tôi, xem ra thích-hợp hơn những gì ta đang thực-hiện giảng-giải. Với tôi, sử-gia nhà mình muốn diễn-tả một cách chính-xác quá-trình mục-vụ vào thời-gian gần cận đây nhất, và cả vào thời bây giờ nữa. Chính vì thế, việc này sẽ giúp ta đặt vấn nạn về cung-cách qua đó “Ơn Cứu-Chuộc” được dân con Đạo mình sống đích-thực cuộc sống có “cứu-chuộc” như thế nào? Ở đây, tôi cũng xin nói thêm, là: Lm Francesco Chiovaro, CSsR lâu nay phụ đỡ cho sử-gia Jean Delumeau tại Trường Cao Đẳng Nhân Văn Paris, nước Pháp rất nhiều năm.
Thế nên, ở đây, tôi chỉ đề-cập đến một số chủ-đề trọng-yếu rút từ công-trình luận-giải của sử-gia Jean Delumeau, này mà thôi.
1. Châu Âu cuối thế kỷ thứ 14, thấy dấy lên niềm lo ngại thật khó chịu.
Suốt chung quanh và vào cuối thế kỷ 14, lại thấy một số sự việc khá ư tồi-tệ xảy đến với chúng-dân ở châu Âu, như nạn dịch-tễ, rẽ-chia và chinh-chiến đến hơn 100 năm và còn kéo dài mãi. Tệ-trạng thê-thảm hơn, lại là điều mà một số sử-gia gọi đó là “Cái Chết Rất Đen Ngòm”, tức “Cơn Dịch hoành-hành” suốt hai năm trời, từ 1348 đến 1350.
Lịch-sử đạo ta gọi đó là “Cái Chết Rất Đen Ngòm”, dù vậy cụm-từ này cũng không diễn-tả đủ tầm-mức tai-hại vào thời đó. Bởi, thời đó, rất nhiều nạn dịch xảy ra cũng tạo mức tệ-hại tương-tự và có khi còn hơn thế nữa. Trên thực tế, riêng với số người Công-giáo thôi cũng thấy thưa thớt dần. Và, số các thừa-tác-viên trong Đạo hoạt-động cho công-cuộc thừa-sai/mục-vụ cũng giảm đi gần phân nửa. Một phần vì cái chết đột-ngột và việc này đánh động mạnh lên việc tình-trạng sinh-sản ở chúng-dân.
Tất cả như muốn hỏi:
“Bọn tôi có làm gì nên chuyện, để phải chịu cảnh-tượng thê-thảm đến thế? Tội lỗi của ta, chắc cũng tệ-hại hơn ta tưởng, nên mới thế?
Và, ta không thể đền bù chuộc lỗi cách tương-xứng được ư?
Có lẽ ta đã làm những việc khủng-khiếp lắm khiến Chúa phải nổi giận và ta chẳng biết việc ta làm là những việc gì, chứ?”
Có người lại nghĩ: “Chắc ta đã phạm nhiều lỗi/tội tồi-tệ thế nào đó mà không biết?”
Và, ta cũng chẳng thể hiểu được: điều tệ-hại từ những lỗi và tội ta mắc phạm, có thể còn lớn hơn cả những gì ta từng nghĩ. Nếu không thì ác-thần/sự dữ chắc cũng không xảy đến. Thế nên, các hành-xử riêng lẻ, đều được xếp vào hàng lỗi tội, và việc ăn năn/xét mình lại cứ thế kể ra không hết. “Điệu Nhảy của Thần Chết” hoặc Tetentanz, hoặc còn gọi là Tử Thần cầm Lưỡi Hái tên Grim Reaper đều lên án các loại-hình như thế, vẫn như đang dồn đến và bay đi từ thế-gian, lan tràn sang toàn thế-giới.
Cũng nên suy-tư về cái-gọi-là “Nghệ-thuật đi vào cõi chết”, và về “Lòng sùng-kính khoa-học”, tức: việc học-hỏi và thực-hiện Lời dạy của Chúa, là hoa trái của sự việc này. Đó là cung-cách của lòng đạo khá bối-rối đưa đến chủ-thuyết đặt nặng vào chuyện nghi-thức, rất lễ mễ.
2. Nhân cách “siêu-kỷ”
hỗ-trợ cho việc luận-phạt thời sau hết
tạo nhận-thức có tính văn-hoá Đạo, vào thời ấy.
Kết quả là, ta có thể gọi đó là “thần-học hợp-đồng” có kỷ-cương. Điều này mang ý-nghĩa, bảo rằng: quan-hệ ta có với Chúa, vẫn bị chi-phối như hợp-đồng hai chiều. Tức: một bộ sưu-tập gồm các bổn-phận ta phải có, đối với Chúa. Và, ta sẽ bị “phán-xét” qua tiêu-chuẩn lũy-tiến của bộ-luật hình-sự, như thể hỏi: ta có thực-thi công-việc ấy một cách đúng qui-tắc không? Và khi đó, Thiên-Chúa được hình-dung như Công-tố-viện hoặc Vị Quan Án hoặc Kế-toán-viên, cùng một lúc? Và, Thiên-Chúa cứ thế “luận phạt” chúng-dân do việc họ không tuân-giữ các điều-lệ có ở bản hợp-đồng đặt ra cho bên “bị”, tức bị-can.
Và khi ấy, mọi người có cảm-giác là: nếu tôi được phép nói lên điều này, thì đây là sự việc cứ thế diễn-tiến trong toàn-bộ thiên-niên-kỷ thứ hai vừa qua, tức: phần đông dân đi Đạo, cuối cùng rồi cũng bị luận-phạt cả thôi. Trong khoảnh-khắc rất nhanh, tôi vẫn không tin những gì xảy đến với Đạo Chúa lại tệ-lậu đến thế.
Thế nhưng, sự thể vẫn quanh quẩn như thế và Ơn Cứu-Chuộc là sự thể để vớt-vát và duy-trì chỉ một số người tiêu-biểu không bị rơi vào hậu-quả tồi-tệ như vậy. Và khi đó, mọi người đều nghĩ: chỉ một số rất nhỏ mới đạt chốn thiên-đường, cũng là chuyện dễ hiểu.
3. Toàn cõi châu Âu cũng như Giáo Hội
đã nảy sinh thứ tâm-bệnh tập-thể nhiều ám-ảnh.
Điều này, có thể đặt tên cho nó bằng cụm-từ “Tâm-bệnh tập-thể” khá ức-chế có đính kèm đòi-hỏi phải thực- thi động-thái rất sợ tội, nên phải công-nhận thứ tội và lỗi thuộc loại “to đùng”, khủng-khiếp trong khi bản thân đương-sự lại chẳng nắm rõ là hợp-đồng ấy diễn tiến ra sao, đại loại như thế nào?
Mẹ thánh Giáo Hội lại đã sử-dụng động-lực này để “giữ rịt” con dân ở lại đường hầm nhỏ hẹp, tuỳ thuộc vào mình như thuộc-hạ rất thấp bé. Giả như ta khởi sự đưa tất cả những thứ ấy vào toàn-bộ dân-số và chúng-dân trong Đạo, thì chắc-chắn một điều, là: ta sẽ đưa họ vào nỗi hãi-sợ khổng-lồ; và buộc họ phải xưng-thú thứ lỗi tội khủng-khiếp ấy, mà họ chẳng hề biết tội đó là gì. Rồi còn đòi buộc phải ăn-năn/đền bù những lỗi cùng tội “to đùng”/khủng khiếp ấy, mà chẳng hề biết là họ đã làm việc gì khiến ra nông nỗi ấy.
Và, Mẹ thánh Giáo Hội rày vẫn sử-dụng tất cả những thứ và những sự như thế, cốt để giữ chân mọi người trong khuôn-khổ chật hẹp và để họ cứ tuỳ-thuộc vào tổ-chức của mình. Thành thử, từ lúc đó, dân con mọi người đã bắt đầu gọi các hành-xử như thế bằng một danh-xưng, mà anh em cũng như tôi, ta từng nghe/biết rất nhiều.
Quả là, thời Giáo-hội tiên-khởi, các vị lại đã nói về các thứ “tội trọng” đến chết người, là bởi các ngài đã loại-trừ dân con mọi người khỏi cuộc sống sinh-động trong cộng-đồng Hội-thánh. Và nay thì, các ngài lại dùng hình-dung-từ “trọng” và “nặng” để nói về các tội và các lỗi tựa hồ thế, để loại-trừ con dân mình khỏi sự sống vĩnh-cửu thuộc cộng-đồng dân Chúa, chốn thiên-đường. Và, đây là nhận-thức mới về tự-vựng “tội trọng” hoặc “tội nặng” đưa đến nỗi chết.
Thế nên, từ đó các ngài đã khởi-sự tự xét lương-tâm và đã hỏi: Thế này là thế nào? Điều đó có thật sự xảy ra như thế không? Và thủ-tục diễn-tiến làm sao? Phải chăng tội và lỗi sẽ động đến Chúa và kéo theo một hủy-hoại như thế chăng? Và như thế là, các ngài đã bắt đầu lo-âu về tất cả các điều đó. Thế nên, kết-quả là: với một số rất ít người, các ngài thiết-dựng loại-hình sân-khấu để kể cho công-chúng biết về sự việc này trong thị-trấn hoặc quảng trường của làng xã.
Ở Pháp, người ta gọi đó là “Điệu Nhảy Tử Thần”. Trong khi đó, ở Đức, người người gọi đó bằng danh-từ “Totentanz”, tức điệu nhảy của người chết và những gì phải đến lại là Thần Chết cầm Lưỡi Hái Grim Reaper sẽ có mặt ở đó, trên sân khấu, để đại-diện cho sự chết, hoặc Thiên-Chúa. Trên sân-khấu này, các ngài đem ra trước mặt Tử Thần Grim Reaper, gồm người đại-diện cho mỗi ngành, nghề mậu dịch trong thị-trấn và dĩ nhiên, tất cả đều có sự hỗ-trợ của cử-toạ ngồi thưởng-lãm.
Điều này được dựng ra với dụng-đích khuyến-khích chúng-dân trốn chạy khỏi thế-giới này, mà ăn-năn sám hối và đền tội cho tất cả mọi thứ. Và rồi, còn chuẩn-bị để chết trong khi mình chưa chuẩn-bị kỹ --tựa như ta chưa sẵn-sàng để giáp mặt Chúa-- thế nên, “Hãy nghĩ về điều đó cho kỹ”. Đó chính là cung-cách mà các ngài vận-động, rất khuynh-loát chúng dân.
Có thể, chúng ta cũng từng nghe biết đôi điều về những thứ có tên gọi mà giòng sử Đạo gọi là “Lòng sùng-kính khoa-học”. Câu này không có nghĩa “hiện-đại”, thế nên ta cũng đừng nên dịch sát chữ theo nghĩa cận-đại hay hiện-đại, gì hết. Ví-dụ cụ thể được trích-dẫn trong sách tu-đức gọn nhỏ gọi là “Bắt Chước Đức Kitô”, tức: một loại những sự và những thứ xuất-xứ từ tâm-tính này mà ra.
Nếu hỏi rằng: điều gì nổi lên từ các sự việc trên như thế? Thì, câu trả lời sẽ phải nói: đó, là sự bối rối khó có thể tưởng-tượng được. Là, thứ tâm-bệnh hoặc chứng loạn thần-kinh còn hơn âu-lo và hãi sợ nữa. Nếu ta không biết những gì ta làm, có xúc-phạm đến Chúa không, thì chắc chắn là ta sẽ còn bối rối hơn lúc trước rất nhiều. Và đó, là chủ-thuyết được gọi là “duy-lễ-lạy”, tức: chuyên đặt nặng chuyện nghi-thức rất lễ mễ, mà thôi. Và, như thế cũng tựa như câu hỏi đầy lo sợ như: tôi phải làm sao theo đúng “luật chữ đỏ” ở phụng-vụ, để nắm chắc rằng Chúa không giận-dữ đối với tôi?
4. Thời Cải-cách, quan-tâm thảm-thiết về con trẻ,
lại cứ cúi gầm vào sự dữ để được cứu bằng thanh-tẩy
cần giáo-dục thành người đi Đạo đúng cách.
Hình-ảnh về Giáo-hội tự-kỷ, là ảnh-hình một nạn-nhân đồng thời cũng là phạm-nhân. Thành ra, ảnh-hình này không chỉ mang tính tiêu-cực, tức: nạn-nhân kiểu rủi may, còn gọi là những kẻ, lẽ đáng ra, không hẳn thế nhưng cuối cùng, cũng vẫn bị người khác coi mình như thế. Có điều lạ, là: tư-tưởng này là của sử-gia Jean Delumeau, bởi anh em cũng như tôi, ta đã không dính dự vào các vấn-nạn như thế.
Như thế, tức bảo rằng: đám trẻ đã trở-thành thứ “dê tế thần” cho những điều vừa nói đến. Và, tất cả sẽ nhìn về đám trẻ sinh ra trên thế-giới theo quan-niệm như thể chúng được sinh hạ một cách xấu xa, tồi-tệ vậy.
Thành thử, cần “rửa” tội cho trẻ càng sớm càng tốt. Và, sau khi đã “tẩy” và “rửa” mọi tội và lỗi (nếu có) cho trẻ rồi, còn phải dạy chúng về đạo nữa, để nắm chắc chắn rằng sau này chúng sẽ tham gia đúng đường-lối của các kẻ từng được tẩy rửa. Và, giả như ta khám-phá ra tiền-sử của trẻ nào khi trước bị xách-nhiễu về tình-dục, thì ta sẽ còn phải ở đó để làm theo cung-cách khá buồn rầu, sầu-não như đã bàn.
Thế đó, là nguồn gốc não-trạng mà toàn dân con đi đạo chẳng làm cách nào dám nổi lên mặt mà ra khỏi chốn tàn-tạ đó. Và phương-án linh-đạo mà ta có thể thực-hiện được, là: trở-thành điều mà người thường ở đời có thói quen gọi đó là sự “trút sạch/tự hạ”, hoặc tự biến mình thành hư-không/trống rỗng. Xem thế thì, có lẽ ta không còn là người tốt tự bản-chất, nữa. Và cứ thế, ta lại sẽ về với lập-trường tư-tưởng của William Campbell khi xưa từng diễn-tả bảo rằng:
“Toàn-thể loài người chúng ta đều ra hèn-hạ, nhưng Thiên-Chúa vẫn thương-yêu ta; hoặc ít là một số người trong ta, ra như thế!”
Thế đó, là nguồn tư-tưởng bộc-phát từ đó ra. Là con trẻ, đương nhiên chúng sẽ trở-thành thứ “dê tế-thần” cần tẩy rửa và dạy đạo. Như thế, có là sự trút sạch/tự hạ không? Như thế, có là linh-hồn trẻ nhỏ trở-thành nạn-nhân không? Và khi đó, lại có khuynh-hướng nâng-cấp trẻ nhỏ lên làm kẻ lãnh-nhận “cơn giận lành” cứ chĩa thẳng vào người chúng thời sau hết, hiểu theo lập-trường ý-thức tập-thể của Kitô-hữu vốn thấm-nhuần văn-hoá Tây-phương vào cuối thời Trung-cổ, mỗi khi nói về Thiên-Chúa theo kiểu ấy.
5. Thế-kỷ 19 và 20 dạy-dỗ tính anh-hùng rất khắc-kỷ
để duy-trì tiêu-chuẩn đạo-đức so với đường-lối thế-tục
đang vào với thế-giới tân-kỳ, hiện-hành.
Thế-kỷ thứ 19, 20 ta lại có thêm đôi điều về những chuyện vừa đề-cập. Thoạt đầu lúc xuất-hiện cái-gọi-là tính hiện-đại -từ-vựng này, sử-dụng để nói toàn-bộ đường-lối sống của người phương Tây, cũng là hậu-quả của nhiều cuộc cách-mạng nổi lên, trong đó có: cách mạng công-nghiệp và trên hết là: Cách-mạng Pháp, rồi cách-mạng kỹ-thuật, cách-mạng triết-học Kant và Hegel, rồi đến Thời-đại Khai-sáng và nhiều nữa, nói chung là toàn-bộ nền văn-hoá khi trước nay đã đổi-thay, ngay đó.
Đầu thế-kỷ thứ 19, quan-chức Vatican lại đã có tầm-nhìn khá tiêu-cực về tính hiện-đại của thế-giới, nên quyết bảo-vệ Giáo-hội tách rời khỏi tính hiện-đại. Nói một cách cụ thể, thì: Giáo-hội ta lại chọn động-thái “kính nhi viễn chi”, tức: chỉ đứng xa xa chứ không muốn gần-gũi quan-hệ với thế-giới, như thế. Nói cách khác, lối sống đạo kiểu “đền-bù tội lỗi” đã trở-thành thứ thuốc “trừ tà” khác thường đối-chọi lại tính hiện-đại của thế-giới-với-thế-gian khi ấy còn được gọi là Hội-thánh rất “Pháo-đài”. Từ đó, các quan-chức ở Vatican bèn cứ bảo: “Naỳ, đừng nhé! Chớ mà đụng đến nó! Đừng mua bán gì với nó hết!” Và như thế, là ta lại có một thứ “Khu Ổ chuột kiểu Công Giáo”. Và, để bù lại những đòi hỏi như thế, các Giáo Hoàng thời đó cũng tự đề ra nhiều kiểu sốt mến/sùng đạo chống lại tính “hiện đại”, bằng mọi cách. Và lối thờ phượng đầy tôn sùng lúc đó gồm:
· Tôn sùng Thánh-Tâm Chúa;
· Sùng kính Đức Nữ Trinh Maria;
· Tôn-sùng bản thân Đức Giáo Hoàng.
Ở đây, tôi chắc nhiều anh em còn nhớ rõ: khi ấy anh em trong Dòng cũng đã tổ chức cái-gọi-là “Tuần cửu-nhật 9 Thứ Sáu Đầu Tháng”, một phong-trào xuất từ đề-nghị của Bà Margaret Mary Alacoque. Tiện đây, cũng nên nói thêm về sự-kiện là: khi nghiên-cứu các lời tuyên-bố của bà, người ta mới khám-phá ra đôi điều rất lạ, cho thấy bà có viết hồi-ký trong đó bà những tưởng rằng: Đức Chúa đích-thị hiện ra với bà và bảo bà: nếu dân con trong Đạo mà làm Tuần Cửu-nhật 9 Thứ Sáu Đầu Tháng, thì khi chết sẽ yên-tâm, bằng không thì sẽ bị “triệu hồi”... Và theo tôi nghĩ, bà cũng đã bị triệu hồi, hoặc rất nhiều người đã triệu hồi bà để tra khảo về chuyện này rồi!
Còn, khi anh em nại đến Đức Trinh Nữ Maria, thì anh em thấy kể về một loạt các lần Đức Mẹ hiện ra đây đó vào thế kỷ thứ 19. Và, hầu hết đều quanh quẩn bên trong hoặc gần nước Pháp, thôi. Và hầu hết các lần Đức Mẹ hiện ra, là hiện với đám “trẻ người non dạ”. Và các em được Đức Mẹ hiện đến, hầu hết đều không biết đọc biết viết. Và, khi anh em giảng về tín-điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”, đều phải biết là: hầu hết các tín-điều này đều trồi lên từ nề-nếp suy-nghĩ giống thế thôi.
Và rồi, các Đức Giáo Hoàng lại cũng tự coi các ngài như bức tường thành chống lại tính hiện-đại và trở thành đấng bậc “vô-ngộ”, nếu làm như thế. Và, Công Đồng Vatican thứ nhất, đã định-nghĩa tính “vô-ngộ” của các Giáo Hoàng nên đòi mọi người phải sùng-kính tính “vô ngộ” của ngài theo ý-nghĩa: ngài không nói và làm gì sai quấy hay sai lầm và tất cả những thứ đi kèm theo tín-điều ấy, cũng đều thế.
Đây là nền-tảng của lòng tôn-sùng đạo-đức của Giáo-hội, mà tôi nghĩ dân con trong Đạo đã kế-thừa được và vẫn áp-dụng ở đây đó tựa hồ như thời hậu-Trung-cổ, nay cập-nhật. Nhưng, ở đây có đôi điều cần làm sáng-tỏ, do các nhà xã-hội-học nêu ra.
Thông thường thì, sự phát-triển lòng đạo trong Giáo-hội là như rễ cây, cứ hồn-nhiên bộc-phát. Nói thế có nghĩa là: những gì dân chúng thực thi lúc đầu đều hồn-nhiên, nhưng sau đó nhìn lại/nghĩ lại mới thấy nó kỳ quái. Nhưng ở đây, KHÔNG như thế. Đây, là thứ “chổng đầu ngược xuống dưới”, một lối diễn-tả có sắp-xếp về lòng sốt-sắng/đạo đức. Nói khác đi, thì: Vatican lúc đầu có ý-kiến hiểu rằng lối sùng đạo như thế đó cũng tốt cho dân thường thường bậc trung, nên vẫn cứ thúc ép chúng dân làm thế. Và đương nhiên, là chúng dân phải vâng lời mới làm thế, do bởi nếp suy-tư nghĩ ngợi về “đền bù tội lỗi” bảo mình phải làm thế, mới được.
Đoạn này, nên xem thêm W.McSweeney, Catholic piety in the 19th Century, Social Compass, 1987, p.203-210.
Lúc ấy, Giáo Hội mình lại cũng mưu-tính lẫn rắp-ranh, nếu gọi được là như thế, trở về lại với thời Trung Cổ, tức thời-kỳ đầy những tâm-tình và dáng-vẻ hào-nhoáng rực-rỡ của một thời chủ-trương chống lại tính hiện-đại, đang nổi lên.
Vâng. Dĩ nhiên là thời Trung Cổ cũng có rất nhiều điều hay ho, đặc sắc. Nhưng, tôi không nghĩ rằng: anh em mình lại có thể sống như thế, vào thời hôm nay. Hoặc ít ra, không sống trong thế-giới thực-tiễn, giống như thế. Tuy nhiên, đó là toàn-bộ giàn-ống xây cất/cột-buộc vào với nhau; hoặc cơ-cấu hỗ-trợ đang diễn-tiến đi vào việc đóng gói não-trạng “đoái công chuộc tội” để rồi sẽ thực-thi trong mai ngày. Thật rủi thay, đó không là trở lại với tư-tưởng xác-thực của thánh Ansêmô, chút nào hết.
Mai Tá
(còn tiếp)
(bài 17)
Phần 3: Ơn Cứu Chuộc và động-thái quá sợ tội
Jean Delumeau, Sin and Fear: the emergence of a Western Guilt Culture, 13th – 18th centuries, E. Nicholson, New York, St Martin’s Press, 1990.
Nhiều năm qua, có rất nhiều bài viết về hầu hết các thời-kỳ lịch-sử trong đó dân con Đạo Chúa am-hiểu cũng nhiều về Ơn Cứu-Chuộc. Hôm nay, nhằm giúp đỡ công-tác thừa-sai/mục vụ của Dòng, tôi sẽ tập-trung bài nói chuyện này về những tháng ngày qua, tức: thế-kỷ thứ 13 và 18, nhấn mạnh nhiều phần tổng-luận của sử-gia nổi tiếng lâu nay là Jean Delumeau, ở Pháp.
Đây là một trong những đóng góp mà, với tôi, xem ra thích-hợp hơn những gì ta đang thực-hiện giảng-giải. Với tôi, sử-gia nhà mình muốn diễn-tả một cách chính-xác quá-trình mục-vụ vào thời-gian gần cận đây nhất, và cả vào thời bây giờ nữa. Chính vì thế, việc này sẽ giúp ta đặt vấn nạn về cung-cách qua đó “Ơn Cứu-Chuộc” được dân con Đạo mình sống đích-thực cuộc sống có “cứu-chuộc” như thế nào? Ở đây, tôi cũng xin nói thêm, là: Lm Francesco Chiovaro, CSsR lâu nay phụ đỡ cho sử-gia Jean Delumeau tại Trường Cao Đẳng Nhân Văn Paris, nước Pháp rất nhiều năm.
Thế nên, ở đây, tôi chỉ đề-cập đến một số chủ-đề trọng-yếu rút từ công-trình luận-giải của sử-gia Jean Delumeau, này mà thôi.
1. Châu Âu cuối thế kỷ thứ 14, thấy dấy lên niềm lo ngại thật khó chịu.
Suốt chung quanh và vào cuối thế kỷ 14, lại thấy một số sự việc khá ư tồi-tệ xảy đến với chúng-dân ở châu Âu, như nạn dịch-tễ, rẽ-chia và chinh-chiến đến hơn 100 năm và còn kéo dài mãi. Tệ-trạng thê-thảm hơn, lại là điều mà một số sử-gia gọi đó là “Cái Chết Rất Đen Ngòm”, tức “Cơn Dịch hoành-hành” suốt hai năm trời, từ 1348 đến 1350.
Lịch-sử đạo ta gọi đó là “Cái Chết Rất Đen Ngòm”, dù vậy cụm-từ này cũng không diễn-tả đủ tầm-mức tai-hại vào thời đó. Bởi, thời đó, rất nhiều nạn dịch xảy ra cũng tạo mức tệ-hại tương-tự và có khi còn hơn thế nữa. Trên thực tế, riêng với số người Công-giáo thôi cũng thấy thưa thớt dần. Và, số các thừa-tác-viên trong Đạo hoạt-động cho công-cuộc thừa-sai/mục-vụ cũng giảm đi gần phân nửa. Một phần vì cái chết đột-ngột và việc này đánh động mạnh lên việc tình-trạng sinh-sản ở chúng-dân.
Tất cả như muốn hỏi:
“Bọn tôi có làm gì nên chuyện, để phải chịu cảnh-tượng thê-thảm đến thế? Tội lỗi của ta, chắc cũng tệ-hại hơn ta tưởng, nên mới thế?
Và, ta không thể đền bù chuộc lỗi cách tương-xứng được ư?
Có lẽ ta đã làm những việc khủng-khiếp lắm khiến Chúa phải nổi giận và ta chẳng biết việc ta làm là những việc gì, chứ?”
Có người lại nghĩ: “Chắc ta đã phạm nhiều lỗi/tội tồi-tệ thế nào đó mà không biết?”
Và, ta cũng chẳng thể hiểu được: điều tệ-hại từ những lỗi và tội ta mắc phạm, có thể còn lớn hơn cả những gì ta từng nghĩ. Nếu không thì ác-thần/sự dữ chắc cũng không xảy đến. Thế nên, các hành-xử riêng lẻ, đều được xếp vào hàng lỗi tội, và việc ăn năn/xét mình lại cứ thế kể ra không hết. “Điệu Nhảy của Thần Chết” hoặc Tetentanz, hoặc còn gọi là Tử Thần cầm Lưỡi Hái tên Grim Reaper đều lên án các loại-hình như thế, vẫn như đang dồn đến và bay đi từ thế-gian, lan tràn sang toàn thế-giới.
Cũng nên suy-tư về cái-gọi-là “Nghệ-thuật đi vào cõi chết”, và về “Lòng sùng-kính khoa-học”, tức: việc học-hỏi và thực-hiện Lời dạy của Chúa, là hoa trái của sự việc này. Đó là cung-cách của lòng đạo khá bối-rối đưa đến chủ-thuyết đặt nặng vào chuyện nghi-thức, rất lễ mễ.
2. Nhân cách “siêu-kỷ”
hỗ-trợ cho việc luận-phạt thời sau hết
tạo nhận-thức có tính văn-hoá Đạo, vào thời ấy.
Kết quả là, ta có thể gọi đó là “thần-học hợp-đồng” có kỷ-cương. Điều này mang ý-nghĩa, bảo rằng: quan-hệ ta có với Chúa, vẫn bị chi-phối như hợp-đồng hai chiều. Tức: một bộ sưu-tập gồm các bổn-phận ta phải có, đối với Chúa. Và, ta sẽ bị “phán-xét” qua tiêu-chuẩn lũy-tiến của bộ-luật hình-sự, như thể hỏi: ta có thực-thi công-việc ấy một cách đúng qui-tắc không? Và khi đó, Thiên-Chúa được hình-dung như Công-tố-viện hoặc Vị Quan Án hoặc Kế-toán-viên, cùng một lúc? Và, Thiên-Chúa cứ thế “luận phạt” chúng-dân do việc họ không tuân-giữ các điều-lệ có ở bản hợp-đồng đặt ra cho bên “bị”, tức bị-can.
Và khi ấy, mọi người có cảm-giác là: nếu tôi được phép nói lên điều này, thì đây là sự việc cứ thế diễn-tiến trong toàn-bộ thiên-niên-kỷ thứ hai vừa qua, tức: phần đông dân đi Đạo, cuối cùng rồi cũng bị luận-phạt cả thôi. Trong khoảnh-khắc rất nhanh, tôi vẫn không tin những gì xảy đến với Đạo Chúa lại tệ-lậu đến thế.
Thế nhưng, sự thể vẫn quanh quẩn như thế và Ơn Cứu-Chuộc là sự thể để vớt-vát và duy-trì chỉ một số người tiêu-biểu không bị rơi vào hậu-quả tồi-tệ như vậy. Và khi đó, mọi người đều nghĩ: chỉ một số rất nhỏ mới đạt chốn thiên-đường, cũng là chuyện dễ hiểu.
3. Toàn cõi châu Âu cũng như Giáo Hội
đã nảy sinh thứ tâm-bệnh tập-thể nhiều ám-ảnh.
Điều này, có thể đặt tên cho nó bằng cụm-từ “Tâm-bệnh tập-thể” khá ức-chế có đính kèm đòi-hỏi phải thực- thi động-thái rất sợ tội, nên phải công-nhận thứ tội và lỗi thuộc loại “to đùng”, khủng-khiếp trong khi bản thân đương-sự lại chẳng nắm rõ là hợp-đồng ấy diễn tiến ra sao, đại loại như thế nào?
Mẹ thánh Giáo Hội lại đã sử-dụng động-lực này để “giữ rịt” con dân ở lại đường hầm nhỏ hẹp, tuỳ thuộc vào mình như thuộc-hạ rất thấp bé. Giả như ta khởi sự đưa tất cả những thứ ấy vào toàn-bộ dân-số và chúng-dân trong Đạo, thì chắc-chắn một điều, là: ta sẽ đưa họ vào nỗi hãi-sợ khổng-lồ; và buộc họ phải xưng-thú thứ lỗi tội khủng-khiếp ấy, mà họ chẳng hề biết tội đó là gì. Rồi còn đòi buộc phải ăn-năn/đền bù những lỗi cùng tội “to đùng”/khủng khiếp ấy, mà chẳng hề biết là họ đã làm việc gì khiến ra nông nỗi ấy.
Và, Mẹ thánh Giáo Hội rày vẫn sử-dụng tất cả những thứ và những sự như thế, cốt để giữ chân mọi người trong khuôn-khổ chật hẹp và để họ cứ tuỳ-thuộc vào tổ-chức của mình. Thành thử, từ lúc đó, dân con mọi người đã bắt đầu gọi các hành-xử như thế bằng một danh-xưng, mà anh em cũng như tôi, ta từng nghe/biết rất nhiều.
Quả là, thời Giáo-hội tiên-khởi, các vị lại đã nói về các thứ “tội trọng” đến chết người, là bởi các ngài đã loại-trừ dân con mọi người khỏi cuộc sống sinh-động trong cộng-đồng Hội-thánh. Và nay thì, các ngài lại dùng hình-dung-từ “trọng” và “nặng” để nói về các tội và các lỗi tựa hồ thế, để loại-trừ con dân mình khỏi sự sống vĩnh-cửu thuộc cộng-đồng dân Chúa, chốn thiên-đường. Và, đây là nhận-thức mới về tự-vựng “tội trọng” hoặc “tội nặng” đưa đến nỗi chết.
Thế nên, từ đó các ngài đã khởi-sự tự xét lương-tâm và đã hỏi: Thế này là thế nào? Điều đó có thật sự xảy ra như thế không? Và thủ-tục diễn-tiến làm sao? Phải chăng tội và lỗi sẽ động đến Chúa và kéo theo một hủy-hoại như thế chăng? Và như thế là, các ngài đã bắt đầu lo-âu về tất cả các điều đó. Thế nên, kết-quả là: với một số rất ít người, các ngài thiết-dựng loại-hình sân-khấu để kể cho công-chúng biết về sự việc này trong thị-trấn hoặc quảng trường của làng xã.
Ở Pháp, người ta gọi đó là “Điệu Nhảy Tử Thần”. Trong khi đó, ở Đức, người người gọi đó bằng danh-từ “Totentanz”, tức điệu nhảy của người chết và những gì phải đến lại là Thần Chết cầm Lưỡi Hái Grim Reaper sẽ có mặt ở đó, trên sân khấu, để đại-diện cho sự chết, hoặc Thiên-Chúa. Trên sân-khấu này, các ngài đem ra trước mặt Tử Thần Grim Reaper, gồm người đại-diện cho mỗi ngành, nghề mậu dịch trong thị-trấn và dĩ nhiên, tất cả đều có sự hỗ-trợ của cử-toạ ngồi thưởng-lãm.
Điều này được dựng ra với dụng-đích khuyến-khích chúng-dân trốn chạy khỏi thế-giới này, mà ăn-năn sám hối và đền tội cho tất cả mọi thứ. Và rồi, còn chuẩn-bị để chết trong khi mình chưa chuẩn-bị kỹ --tựa như ta chưa sẵn-sàng để giáp mặt Chúa-- thế nên, “Hãy nghĩ về điều đó cho kỹ”. Đó chính là cung-cách mà các ngài vận-động, rất khuynh-loát chúng dân.
Có thể, chúng ta cũng từng nghe biết đôi điều về những thứ có tên gọi mà giòng sử Đạo gọi là “Lòng sùng-kính khoa-học”. Câu này không có nghĩa “hiện-đại”, thế nên ta cũng đừng nên dịch sát chữ theo nghĩa cận-đại hay hiện-đại, gì hết. Ví-dụ cụ thể được trích-dẫn trong sách tu-đức gọn nhỏ gọi là “Bắt Chước Đức Kitô”, tức: một loại những sự và những thứ xuất-xứ từ tâm-tính này mà ra.
Nếu hỏi rằng: điều gì nổi lên từ các sự việc trên như thế? Thì, câu trả lời sẽ phải nói: đó, là sự bối rối khó có thể tưởng-tượng được. Là, thứ tâm-bệnh hoặc chứng loạn thần-kinh còn hơn âu-lo và hãi sợ nữa. Nếu ta không biết những gì ta làm, có xúc-phạm đến Chúa không, thì chắc chắn là ta sẽ còn bối rối hơn lúc trước rất nhiều. Và đó, là chủ-thuyết được gọi là “duy-lễ-lạy”, tức: chuyên đặt nặng chuyện nghi-thức rất lễ mễ, mà thôi. Và, như thế cũng tựa như câu hỏi đầy lo sợ như: tôi phải làm sao theo đúng “luật chữ đỏ” ở phụng-vụ, để nắm chắc rằng Chúa không giận-dữ đối với tôi?
4. Thời Cải-cách, quan-tâm thảm-thiết về con trẻ,
lại cứ cúi gầm vào sự dữ để được cứu bằng thanh-tẩy
cần giáo-dục thành người đi Đạo đúng cách.
Hình-ảnh về Giáo-hội tự-kỷ, là ảnh-hình một nạn-nhân đồng thời cũng là phạm-nhân. Thành ra, ảnh-hình này không chỉ mang tính tiêu-cực, tức: nạn-nhân kiểu rủi may, còn gọi là những kẻ, lẽ đáng ra, không hẳn thế nhưng cuối cùng, cũng vẫn bị người khác coi mình như thế. Có điều lạ, là: tư-tưởng này là của sử-gia Jean Delumeau, bởi anh em cũng như tôi, ta đã không dính dự vào các vấn-nạn như thế.
Như thế, tức bảo rằng: đám trẻ đã trở-thành thứ “dê tế thần” cho những điều vừa nói đến. Và, tất cả sẽ nhìn về đám trẻ sinh ra trên thế-giới theo quan-niệm như thể chúng được sinh hạ một cách xấu xa, tồi-tệ vậy.
Thành thử, cần “rửa” tội cho trẻ càng sớm càng tốt. Và, sau khi đã “tẩy” và “rửa” mọi tội và lỗi (nếu có) cho trẻ rồi, còn phải dạy chúng về đạo nữa, để nắm chắc chắn rằng sau này chúng sẽ tham gia đúng đường-lối của các kẻ từng được tẩy rửa. Và, giả như ta khám-phá ra tiền-sử của trẻ nào khi trước bị xách-nhiễu về tình-dục, thì ta sẽ còn phải ở đó để làm theo cung-cách khá buồn rầu, sầu-não như đã bàn.
Thế đó, là nguồn gốc não-trạng mà toàn dân con đi đạo chẳng làm cách nào dám nổi lên mặt mà ra khỏi chốn tàn-tạ đó. Và phương-án linh-đạo mà ta có thể thực-hiện được, là: trở-thành điều mà người thường ở đời có thói quen gọi đó là sự “trút sạch/tự hạ”, hoặc tự biến mình thành hư-không/trống rỗng. Xem thế thì, có lẽ ta không còn là người tốt tự bản-chất, nữa. Và cứ thế, ta lại sẽ về với lập-trường tư-tưởng của William Campbell khi xưa từng diễn-tả bảo rằng:
“Toàn-thể loài người chúng ta đều ra hèn-hạ, nhưng Thiên-Chúa vẫn thương-yêu ta; hoặc ít là một số người trong ta, ra như thế!”
Thế đó, là nguồn tư-tưởng bộc-phát từ đó ra. Là con trẻ, đương nhiên chúng sẽ trở-thành thứ “dê tế-thần” cần tẩy rửa và dạy đạo. Như thế, có là sự trút sạch/tự hạ không? Như thế, có là linh-hồn trẻ nhỏ trở-thành nạn-nhân không? Và khi đó, lại có khuynh-hướng nâng-cấp trẻ nhỏ lên làm kẻ lãnh-nhận “cơn giận lành” cứ chĩa thẳng vào người chúng thời sau hết, hiểu theo lập-trường ý-thức tập-thể của Kitô-hữu vốn thấm-nhuần văn-hoá Tây-phương vào cuối thời Trung-cổ, mỗi khi nói về Thiên-Chúa theo kiểu ấy.
5. Thế-kỷ 19 và 20 dạy-dỗ tính anh-hùng rất khắc-kỷ
để duy-trì tiêu-chuẩn đạo-đức so với đường-lối thế-tục
đang vào với thế-giới tân-kỳ, hiện-hành.
Thế-kỷ thứ 19, 20 ta lại có thêm đôi điều về những chuyện vừa đề-cập. Thoạt đầu lúc xuất-hiện cái-gọi-là tính hiện-đại -từ-vựng này, sử-dụng để nói toàn-bộ đường-lối sống của người phương Tây, cũng là hậu-quả của nhiều cuộc cách-mạng nổi lên, trong đó có: cách mạng công-nghiệp và trên hết là: Cách-mạng Pháp, rồi cách-mạng kỹ-thuật, cách-mạng triết-học Kant và Hegel, rồi đến Thời-đại Khai-sáng và nhiều nữa, nói chung là toàn-bộ nền văn-hoá khi trước nay đã đổi-thay, ngay đó.
Đầu thế-kỷ thứ 19, quan-chức Vatican lại đã có tầm-nhìn khá tiêu-cực về tính hiện-đại của thế-giới, nên quyết bảo-vệ Giáo-hội tách rời khỏi tính hiện-đại. Nói một cách cụ thể, thì: Giáo-hội ta lại chọn động-thái “kính nhi viễn chi”, tức: chỉ đứng xa xa chứ không muốn gần-gũi quan-hệ với thế-giới, như thế. Nói cách khác, lối sống đạo kiểu “đền-bù tội lỗi” đã trở-thành thứ thuốc “trừ tà” khác thường đối-chọi lại tính hiện-đại của thế-giới-với-thế-gian khi ấy còn được gọi là Hội-thánh rất “Pháo-đài”. Từ đó, các quan-chức ở Vatican bèn cứ bảo: “Naỳ, đừng nhé! Chớ mà đụng đến nó! Đừng mua bán gì với nó hết!” Và như thế, là ta lại có một thứ “Khu Ổ chuột kiểu Công Giáo”. Và, để bù lại những đòi hỏi như thế, các Giáo Hoàng thời đó cũng tự đề ra nhiều kiểu sốt mến/sùng đạo chống lại tính “hiện đại”, bằng mọi cách. Và lối thờ phượng đầy tôn sùng lúc đó gồm:
· Tôn sùng Thánh-Tâm Chúa;
· Sùng kính Đức Nữ Trinh Maria;
· Tôn-sùng bản thân Đức Giáo Hoàng.
Ở đây, tôi chắc nhiều anh em còn nhớ rõ: khi ấy anh em trong Dòng cũng đã tổ chức cái-gọi-là “Tuần cửu-nhật 9 Thứ Sáu Đầu Tháng”, một phong-trào xuất từ đề-nghị của Bà Margaret Mary Alacoque. Tiện đây, cũng nên nói thêm về sự-kiện là: khi nghiên-cứu các lời tuyên-bố của bà, người ta mới khám-phá ra đôi điều rất lạ, cho thấy bà có viết hồi-ký trong đó bà những tưởng rằng: Đức Chúa đích-thị hiện ra với bà và bảo bà: nếu dân con trong Đạo mà làm Tuần Cửu-nhật 9 Thứ Sáu Đầu Tháng, thì khi chết sẽ yên-tâm, bằng không thì sẽ bị “triệu hồi”... Và theo tôi nghĩ, bà cũng đã bị triệu hồi, hoặc rất nhiều người đã triệu hồi bà để tra khảo về chuyện này rồi!
Còn, khi anh em nại đến Đức Trinh Nữ Maria, thì anh em thấy kể về một loạt các lần Đức Mẹ hiện ra đây đó vào thế kỷ thứ 19. Và, hầu hết đều quanh quẩn bên trong hoặc gần nước Pháp, thôi. Và hầu hết các lần Đức Mẹ hiện ra, là hiện với đám “trẻ người non dạ”. Và các em được Đức Mẹ hiện đến, hầu hết đều không biết đọc biết viết. Và, khi anh em giảng về tín-điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”, đều phải biết là: hầu hết các tín-điều này đều trồi lên từ nề-nếp suy-nghĩ giống thế thôi.
Và rồi, các Đức Giáo Hoàng lại cũng tự coi các ngài như bức tường thành chống lại tính hiện-đại và trở thành đấng bậc “vô-ngộ”, nếu làm như thế. Và, Công Đồng Vatican thứ nhất, đã định-nghĩa tính “vô-ngộ” của các Giáo Hoàng nên đòi mọi người phải sùng-kính tính “vô ngộ” của ngài theo ý-nghĩa: ngài không nói và làm gì sai quấy hay sai lầm và tất cả những thứ đi kèm theo tín-điều ấy, cũng đều thế.
Đây là nền-tảng của lòng tôn-sùng đạo-đức của Giáo-hội, mà tôi nghĩ dân con trong Đạo đã kế-thừa được và vẫn áp-dụng ở đây đó tựa hồ như thời hậu-Trung-cổ, nay cập-nhật. Nhưng, ở đây có đôi điều cần làm sáng-tỏ, do các nhà xã-hội-học nêu ra.
Thông thường thì, sự phát-triển lòng đạo trong Giáo-hội là như rễ cây, cứ hồn-nhiên bộc-phát. Nói thế có nghĩa là: những gì dân chúng thực thi lúc đầu đều hồn-nhiên, nhưng sau đó nhìn lại/nghĩ lại mới thấy nó kỳ quái. Nhưng ở đây, KHÔNG như thế. Đây, là thứ “chổng đầu ngược xuống dưới”, một lối diễn-tả có sắp-xếp về lòng sốt-sắng/đạo đức. Nói khác đi, thì: Vatican lúc đầu có ý-kiến hiểu rằng lối sùng đạo như thế đó cũng tốt cho dân thường thường bậc trung, nên vẫn cứ thúc ép chúng dân làm thế. Và đương nhiên, là chúng dân phải vâng lời mới làm thế, do bởi nếp suy-tư nghĩ ngợi về “đền bù tội lỗi” bảo mình phải làm thế, mới được.
Đoạn này, nên xem thêm W.McSweeney, Catholic piety in the 19th Century, Social Compass, 1987, p.203-210.
Lúc ấy, Giáo Hội mình lại cũng mưu-tính lẫn rắp-ranh, nếu gọi được là như thế, trở về lại với thời Trung Cổ, tức thời-kỳ đầy những tâm-tình và dáng-vẻ hào-nhoáng rực-rỡ của một thời chủ-trương chống lại tính hiện-đại, đang nổi lên.
Vâng. Dĩ nhiên là thời Trung Cổ cũng có rất nhiều điều hay ho, đặc sắc. Nhưng, tôi không nghĩ rằng: anh em mình lại có thể sống như thế, vào thời hôm nay. Hoặc ít ra, không sống trong thế-giới thực-tiễn, giống như thế. Tuy nhiên, đó là toàn-bộ giàn-ống xây cất/cột-buộc vào với nhau; hoặc cơ-cấu hỗ-trợ đang diễn-tiến đi vào việc đóng gói não-trạng “đoái công chuộc tội” để rồi sẽ thực-thi trong mai ngày. Thật rủi thay, đó không là trở lại với tư-tưởng xác-thực của thánh Ansêmô, chút nào hết.
Mai Tá
(còn tiếp)
Thông Báo
Phân ưu cùng chị vân Anh, cộng tác viên VietCatholic
Ban Giám Đốc VietCatholic Network
23:15 29/05/2014
| PHÂN ƯU Trong niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh, VietCatholic xin phân ưu cùng chị Vân Anh, cộng tác viên của VietCatholic, trước sự qua đi của thân mẫu là cụ bà Maria Antoinette Trần thị Khoa Xin Chúa thương đón nhận bà vào hưởng phúc Thiên Đàng |
Cáo phó : Thày Phaolô Vũ Ngọc Đức, Đan Viện Biển Đức Thiên Tâm, qua đời
Đan Viện Biển Đức Thiên Tâm
05:33 29/05/2014
CÁO PHÓ
Trong niềm tin nơi Chúa Ktiô Phục Sinh
Đan Viện Biển Đức Thiên Tâm và Gia Đình trân trọng báo tin:
Thày Phaolô Vũ Ngọc Đức
sinh ngày 14 tháng 3 năm 1959, tại Sài Gòn, Việt Nam
đã được Chúa gọi về lúc 12:33 trưa ngày 23 tháng 5 năm 2014 tại Bệnh Viện Parkland, Dallas.
Hưởng Dương 55 tuổi.
Viếng Xác
ngày 29 và 30 tháng 5 năm 2014
và
Đọc Kinh vào lúc 7 giờ tối
tại
Moore Funeral Home
1219 N. Davis Drive
Arlington, TX 76012
Tel: 817-275-2711
Thánh Lễ An Táng
sẽ được cử hành lúc 11 giờ sáng thứ Bảy ngày 31 tháng 5 năm 2014
tại
Đan Viện Biển Đức Thiên Tâm
13055 SE County Road 4271
Kerens, TX 75144
Điện thoại: 903-396-3201
Nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ Maria, nguyện xin Thiên Chúa nhân từ thương xót ban cho linh hồn Thày Phaolô được hưởng đời sống vĩnh cửu trên Thiên Quốc
Lm. Dominic Nguyễn Đức Hạnh, OSB
và Các Đan Sĩ
Cùng Toàn Thể Gia Đình
(Đại Diện: Anh Chị Nguyễn Đức Tiên, số điện thoại: 214-668-3899)
Thông báo của Liên Đoàn Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
Lm Peter Võ Sơn
08:51 29/05/2014
![]() |
THÔNG BÁO:
Kính gửi:
Quý Đức Cha, Quý Đức Ông và quý Cha
Quý Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Cộng Đoàn Dân Chúa tại Hoa Kỳ
1. Đại Hội Đức Mẹ La Vang với chủ đề "Đức Mẹ La Vang: Nhân Chứng Tin Mừng" do Liên Đoàn Công Giáo tổ chức vào ngày 30 và 31 tháng 5 năm 2014 tại Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Tổng Giáo Phận Seattle.
![]() |
2. Xin quý Đức Ông, quý Cha và quý chức giúp đọc Văn Thư của Liên Đoàn Công Giáo:Văn Thư Lên Án Hành Động Xâm Lược Của Trung Quốc và Văn Thư Về Tình Hình Biển Đông của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong Thánh Lễ Chúa Nhật.
3. Từ ngày 23/4 đến ngày 14/5, 2014, Đức Ông Giuse Trịnh Minh Trí, Chủ Tịch Liên Đoàn, và Lm Peter Võ Sơn, Tổng Thư Ký Liên Đoàn có chuyến thăm mục vụ tại Việt Nam.
4. Đại Hội Cộng Đồng Phó Tế Vĩnh Viễn: từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Seattle, Washington State.
5. Đại Hội Giới Trẻ Việt Nam (Vietnamese Youth Convention (VYC5) tháng 7, năm 2015 tại Seattle, Washington State.
6. Đại Hội Gia Đình Thế Giới: tại Philadelphia, Pennsylvania từ ngày 22-27 tháng 9 năm 2015.
7. Đại Hội Linh Mục Việt Nam (Emmaus VI) vào ngày 26-29 tháng 10 năm 2015 tại Atlanta, Georgia.
8. Đại Hội Giáo Dân Việt Nam: tháng 7, năm 2016 tại Orange County, California.
Ngày 26 tháng 5 năm 2014
Trân trọng,
Tổng Thư Ký Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
Văn Hóa
Đường về Trời
Trầm Thiên Thu
08:27 29/05/2014
Không vui mắt để thưởng ngoạn thiên nhiên
Đường về trời thăm thẳm ngỡ vô biên
Lúc hạn hán, lúc mưa dầm, khổ thật!
Đường về trời gập ghềnh và chật hẹp
Thế nhưng luật luôn phải được tuân hành
Đường về trời không hề hợp ý mình
Đầy khúc khuỷu, quanh co, hình Thập Giá
Đường về trời luôn có nhiều gian khó
Khi giông tố, khi động đất, sóng thần
Đường về trời mệt nhoài những bước chân
Nhưng vẫn phải coi chừng đèn xanh, đỏ
Đường về trời có khi trời sáng tỏ
Nghe niềm vui rộn rã khúc hoan ca
Đường về trời có lúc tối âm u
Sai một ly có thể sai muôn dặm
Đường về trời biết bao lần lận đận
S.O.S. tín hiệu chẳng ai hay
Đường về trời gieo neo, buồn quắt quay
Ai bền đỗ tới cùng mới được cứu
Lạy Thiên Chúa, Đấng hằng sinh hằng hữu
Xin giúp con suốt chặng đường về trời
Dẫu Tabor hay Vườn Dầu ngậm ngùi
Hoặc Can-vê phủ nỗi đau tím ngát
Đường về trời sẽ bị đời ghen ghét
Đố kỵ nhiều chứ ít được cảm thông
Đường về trời, xin giúp con vững lòng
Chỉ mong sao con sẽ về tới đích
Đường về trời thăm thẳm và heo hút
Nhưng cuối đường con sẽ gặp Giêsu
Ngài ở đó ngày đêm vẫn đợi chờ
Con vững tin bước tiếp nhờ Linh Khí
Lễ Thăng Thiên – 2014
Từ Đâu Tới?
Nguyễn Trung Tây, SVD
20:00 29/05/2014
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
Từ Đâu Tới?
□ Bạn nói đúng… Mà trách sao được. Tôi đã lạc ngay khi vừa sinh từ trong bụng mẹ (có ai muốn được sinh ra trong cõi đời này, chẳng trách chi hài nhi nào cũng thế, phải bật tiếng khóc chào đời); lạc đường như hai môn đệ trên đường Emmau. Họ cũng một thời…lạc! Nhưng hai linh hồn lạc đường Emmau, may mắn thay, đã gặp gỡ Niềm HY VỌNG mới của nhân loại. Và bởi Niềm HY VỌNG này, họ đã thôi không còn lạc. Và Niềm HY VỌNG mới này đã quay về thiên đàng, giờ ở trên thiên đàng, nhà của Ngài. “Tôi tới”, Ngài đã từng nói, “từ Thiên Đàng…”
Như là một hiện tượng, trong khi đang lang thang đâu đó tại những vùng đất lạ, cứ giống như tôi là cục nam châm hay đang mặc áo thung in to hàng chữ, “Hãy hỏi, ‘Từ đâu tới’,” thiên hạ vẫn thường tới và đặt câu hỏi (hay hỏi người bạn nếu tôi không nói ngôn ngữ của vùng đất),
“Ông bạn từ đâu tới vậy?”
“Thật hả? Bạn hỏi tôi… Từ đâu tới?”
Bạn cộ mắt nhìn tôi,
“Ủa! Bộ có gì sai hay sao?”
Và rồi bạn gật đầu, “Đúng! Bạn từ đâu tới vậy?”
Một câu hỏi đơn giản như thế thông thường được trả lời với một câu bắt đầu với chủ từ “Tôi”, theo sau là động từ “là” (trong trường hợp này động từ “là” nằm ở thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít, đọc là “từ”), cuối câu là túc từ (tên của một quốc gia nào đó). Dựa vào những nét Đông phương trên khuôn mặt, thiên hạ thông thường vẫn chờ đợi tôi sẽ điền vào chỗ trống của túc từ với một danh từ, hoặc “Thái Lan” hoặc “Cambuchia” hoặc “Trung Hoa”. Nhưng nếu tôi thành thật và ngây thơ nói,
“Hiệp Chủng Quốc…”
Thiên hạ, tin hay không tin, đã rất nhiều lần, phản ứng ngay lập tức với giọng điệu mỉa mai,
“Ông thần? Ông đâu phải là Mỹ!...”
Có một lần ở Melbourne, vị giáo sự đồng nghiệp cùng khối phê bình thẳng thắn,
“Bạn đúng là người (tâm thần) lẫn lộn...”
“Thật thế à! Có đúng tôi là người lẫn lộn?”
Nếu đời sống là một chuỗi dài học hỏi, qua những sự cố vừa rồi, tôi học được một bài học quý và vô giá; bởi thế tôi chế sẵn một cụm từ mới, thật sự ra cũng chỉ là một cách để tự vệ bản thân. Bất cứ nơi nào nếu bị hỏi, “Bạn từ đâu tới?”, tôi cẩn thận trả lời với một công thức ngắn gọn,
“Nguyên gốc Việt Nam hai mươi năm; và rồi hai mươi hai năm tại Mỹ.”
Câu chuyện “Bạn từ đâu tới?” không chấm dứt ở đây… Bởi đã có những lần quay về Việt Nam công tác, tôi đã từng được dõi nhìn hoặc đối xử hoặc coi như một người ngoại quốc ngay trên vùng đất chôn nhau cắt rốn. Có lần trong khi đang đọc thực đơn trong tiệm Phở, người chạy bàn bước tới, nói với tôi trong tiếng Anh,
“Chào ông! Ông đã sẵn sàng để gọi món ăn chưa?”
“Sẵn sàng chưa? Đương nhiên, tôi luôn luôn sẵn sàng. Phở là món Việt Nam tôi thích nhất”. Tôi đã trả lời trong tiếng Việt.
Và… (Tôi yêu biết bao chữ “và” trong trường hợp này) bạn có thể nhận ra quai hàm của người chạy bàn rớt xuống (một cái cụp), bởi anh ta nói với tôi cái ông người Phi Luật Tân này, sao nói tiếng Việt giỏi quá xá!
Ui chu choa!
Câu chuyện về nơi chôn nhau cắt rốn tiếp tục những vòng xoay, bởi hiện giờ tôi đang làm việc tại Úc Châu, từ những ngày của năm 2006. Và bây giờ 2014… Làm việc ở phố Melbourne được ba năm. Và bởi ngạt thở với đời sống chật chội phố phường, nhưng lại ước mơ được hít thở bầu trời mới, giữa tháng 12 năm 2009, tôi dọn nhà về Central Australia, sa mạc bao la, đất của người thổ dân Arrernte. Tôi đã dần dần biến thành thổ dân sa mạc: trời nóng, bật quạt và mặc quần đùi; trời lạnh, mặc vào áo khoác dầy cộm và đội mũ len lên đầu. Chào mừng bạn tới sa mạc Úc Châu! Bàn về kỹ năng sinh tồn, tôi giờ hay ne né đi dưới bóng râm để tránh những tia cực tuyến! Tôi đã biết chào cung cách Úc Châu những khi cần thiết (Bạn, tôi đang muốn nói cách người Úc dùng tay xua đuổi ruồi nhằng hằng hà sa số ở sa mạc). Tôi đã dùng chữ băng (mob) thay cho chữ nhóm (group). Nắng chói chang sa mạc đã đổi màu da từ trắng ngà ngà sang nâu nâu đen, và tóc từ màu đen lay láy sang màu trắng kim tuyến!
Vâng! 20 năm hít thở không khí Việt Nam! 2 năm làm người vô tổ quốc lang thang trại cấm Mã Lai và trại tỵ nạn Phi! 21 năm lang thang ở Mỹ! 8 năm làm việc tại Úc Châu! Và bây giờ bạn hỏi tôi, “Anh từ đâu tới?”. Và bạn chờ đợi một câu trả lời đơn giản. Nghiêm chỉnh đi ông bạn! Đừng nói chuyện bỡn!
Khỏi nói bạn cũng có thể đoán… Tôi lạc… LẠC là tên đệm của tôi! Nhà của tôi ở đâu? Bạn nói cho tôi biết.
Đó là lý do tại sao tôi thấy mình hay lẩm bẩm trong miệng, “Mi… chính hiệu con cháu Cain, sư tổ lang thang, không có một nơi gọi là nhà”. Bởi thế đã có lần vị Linh Hướng khuyên bảo (hay sửa đổi, cũng được),
“Đừng có nói như vậy, bởi con cuối cùng sẽ tin là như vậy! Không đúng! Nhà là bất cứ nơi nào con đặt bước chân tới…”
“Nhà là bất cứ nơi nào con đặt bước chân tới”. Thật là đáng tiếc, tôi chưa ngộ!... Và cơ hội để tôi ngộ mỏng manh như tơ trời (Tôi biết mình, một người khá là cà chua trứng thối! Nói thẳng và nói thật, tôi tin tôi sẽ bao giờ đạt tới trình độ gọi là Ngộ). Tiếng Anh hay nói, “Make yourself at home,” cứ tự nhiên coi (mọi nơi) là nhà! Nhưng (vấn đề rắc rối thông thường sẽ lộ bộ mặt thật ngay sau chữ “nhưng”), ở rất nhiều nơi, tôi không cảm thấy là nhà. Và đương nhiên tôi chỉ có thể lừa dối mọi người ngoại trừ chính mình về cái sự thật này.
Bạn từ đâu tới? Một câu hỏi đơn giản thông thường chờ đợi một câu trả lời đơn giản. Nhưng không phải trong trường hợp của tôi… Bạn có thể cự nự,
“Khéo là vẽ chuyện! Đời sống chẳng bao giờ trở nên tốt hơn! Hãy tận hưởng giây phút trời cao ban tặng”.
Bất cứ bạn nói gì… Tôi tiếp tục lang thang kiếm tìm một nơi được gọi là nhà.
Đó là lý do tôi thấy mình cứ hay nhìn lên trời, đặc biệt vào những đêm tối khi bầu trời mênh mông triệu triệu vị sao, để tìm kiếm Ông Trời cho một câu trả lời.
Đó là lý do tôi thấy mình cứ hay lang thang trên đường phố đêm đêm, tự hỏi hồn mình, “Mi từ đâu tới?”.
Đó là lý do thiên hạ cứ hay phán, “Ông thần! Sao nhìn lạc đường (mùa Chay) quá!”.
Bạn nói đúng… Mà trách sao được. Tôi đã lạc ngay khi vừa sinh từ trong bụng mẹ (có ai muốn được sinh ra trong cõi đời này, chẳng trách chi hài nhi nào cũng thế, phải bật tiếng khóc chào đời); lạc đường như hai môn đệ trên đường Emmau. Họ cũng một thời…lạc! Nhưng hai linh hồn lạc đường Emmau, may mắn thay, đã gặp gỡ Niềm HY VỌNG mới của nhân loại. Và bởi Niềm HY VỌNG này, họ đã thôi không còn lạc. Và Niềm HY VỌNG mới này đã quay về thiên đàng, giờ ở trên thiên đàng, nhà của Ngài. “Tôi tới”, Ngài đã từng nói, “từ Thiên Đàng…”
Thật thế à! Thiên Đàng! Nhà!
Linh hồn lạc loài của tôi lần đầu tiên rộn ràng những nốt nhạc tươi vui của bài nhạc mới tinh khôi: “Thiên Đàng! Nhà!”.
Chữ Kitô hữu, nếu phân tích, là tổng hợp của hai chữ, “Kitô” và “hữu,” một người tin vào Đấng Thiên Sai; Kitô hữu cũng chỉ về những người đang lần theo những vết chân của Con Trời. Đừng có nói với tôi Đức Giêsu chưa bao giờ một lần lạc trong cuộc đời. Nơi Vườn Cây Dầu, Ngài đã từng muốn từ chối uống ly rượu đắng (nhưng cuối cùng lại xin được vâng theo ý Cha); trên cây thập tự, Ngài đã từng hét lớn, “Ơi Lạy Chúa! Lạy Chúa con! Sao Ngài lại bỏ rơi con?”.
Vâng! Thật đúng là một phép lạ (Hãy cho tôi gọi đó là một phép lạ!). Giống y như người mù trong Kinh Thánh (Gioan 9), tôi bắt đầu nhìn cuộc đời với cặp mắt mới… Tôi muốn hét to, “Tôi đã thấy!”.
Đức Giêsu và tôi (một Kitô hữu, một đệ tử), tại một vài thời điểm trong đời, cả hai đều đã từng lạc. Và, Đức Giêsu và tôi, cả hai đều từ thiên đàng mà tới, thiên đàng nhà của Ngài và cũng là nhà của tôi, bởi tôi là một Kitô hữu.
“Bạn từ đâu tới?”
“Tôi? Bạn hỏi tôi? Tôi từ đâu tới?”
Tôi chỉ ngón tay lên trời, bầu trời xanh xanh màu ngọc bích, khẳng đinh, “Tôi từ thiên đàng mà tới”.
Thiên hạ (trăm người là cả trăm) ngạc nhiên, “Thật hả ông bạn?”.
Vâng, thiên đàng là nhà của tôi, nhà thân thương!
Tôi tiếp tục hát bài ca mới tinh khôi tôi mới soạn: THIÊN ĐÀNG! NHÀ MẾN YÊU!
Where Are You From?
Still a phenomenon, as if I wear a T-Shirt marked, “Ask me where I am from,” when being in foreign lands, just like a magnet, very often people come to me asking me (or my friend if I don’t speak the language of the land),
“Where are you from?”
“Really? You ask me… Where am I from?”
You stare at me,
“What’s wrong with that?”;
Then you nod your head, “Yes! Where’re you from?”
Such a simple question normally expects a simple answer, which commences with the subject, I, followed with a verb, to be (in this case “to be” in the present tense, first person, singular: “am”), finally concluded with the object (the name of a country). Based on the Oriental features on my face, people normally expect me to fill the objective blank with the phrase: “Thailand,” or “Cambodia,” or “China.” But, if I honestly and innocently say,
“The US…”
People, believe it or not, many times, react at once with a sardonic voice,
“You? You are not American!…”
Once in Melbourne a professor in the same field sternly criticized me,
“You’re really confused.”
"Really! Am I confused?"
If life is an on-going process of learning, through these incidents, I have undoubtedly learned a precious and priceless lesson; subsequently, I formulate a new phrase, actually a defense mechanism to protect myself. Whenever approached with the question, “Where are you from?”, I carefully recite this succinct formula,
“Vietnam originally for seventeen years, twenty two years in the US.”
The story of “where I am from” does not end here… For a few times I return to Vietnam for mission assignments, I have been viewed, treated, considered, approached, etc… as a foreigner in the land where my umbilical cord was buried.. While reading the menu in a Phở Restaurant, the waiter comes to me, speaking English,
“Sir, are you ready to order?”
“Am I ready? Of course, I am always. Phở is my most favorite dish among the Vietnamese cuisine,” said I in the Vietnamese language…
And… (I love the conjunction “and” in this case), you can see the waiter drop his lower jaw, for he told me later that he was really surprised and impressed that this Filipino guy spoke Vietnamese very well.
Mama Mia!
The story concerning my home is unfolding, for I am currently stationed in Australia since the beginning of 2006. And now 2013… I worked in Melbourne for 3 years. And because I felt suffocated with the urban life and wanted to breathe a new air, since the middle of December 2009, I have moved to Central Australia, a vast desert, the land of the Arrernte people. I am gradually becoming a bush man: if it is hot, I turn on the fan and wear a short; cold, I put on a thick jacket and a beanie on my head. Welcome to Central Australia! Survival skills, as a bush man, I walk under the shade to avoid the extreme ultraviolet! I know to perform the Aussie salute when I have to (I’m talking about using one’s hands to chase away the countless fruit flies in the desert). I use the word “mob” for “group”. The scorching heat in the desert has changed the color of my skin from white to brown, and hair from black to white!
Well! Well! Well! 20 years breathing the air in Vietnam! 2 years living in detention and refugee camps in Malaysia and the Philippines as a displaced person! 21 years wandering in the US! 8 years working in Australia! And now you ask me, “Where am I from?”. And you expect a simple, plain response. Be real! Be serious!
You can tell… Eventually I am lost… LOST is my nick-name! Where is my home now? You tell me.
That’s why sometimes I find myself cogitating on this phrase, “You… the descendant of Cain, the wanderer, the one who has no place called home.” Once my spiritual director advised me (or corrected me with affection),
“Don’t say that, for you will believe it. It is not true! Home is wherever you are.”
“Home is wherever you are.” Nevertheless, I am not enlightened yet… And the chance that I will be enlightened is slim (I know myself, a peccant being. Frankly I believe I will never reach that awakened stage). Make yourself at home! But (the problem is disclosed after “but”), in some places, I don’t feel at home. And I can deceive anyone but myself about this reality.
Where are you from? A simple question expects a simple answer. But, not in my case… You might criticize me,
“Stop being captious… Life is not getting any better. Relax! Enjoy the moment you are granted.”
Whatever you say… I keep searching for the place to call home.
That’s why I see myself looking up to heaven very often, particularly at night when the sky is filled with a million bright stars, asking God for an answer.
That’s why I like spending the night strolling on Todd Mall of Alice Springs, asking my soul, “Where are you from?”.
That’s why people occasionally complain, “You look lost.”
You’re right… What do you expect? I am lost, lost at the first moment of my conception in my mother's womb (no one really wants to be born into this world, no wonder the newborn always burst into tears); lost like the two disciples on Emmaus road… They were lost too. But how fortunately these two lost souls were, for they eventually encountered a new HOPE for human salvation. And this HOPE has returned to heaven. This HOPE is now in heaven, His home. Heaven, he says, is "where I originally come from."
I see! Heaven! Home!
My lost soul for the first time mulls over the first blissful sound of the new hymn: Heaven! Home!
The word Christian, if dissected, is a combination of the words, “Christ” and “ian,” a person who believes in Christ; Christian denotes the implication of someone who follows in the footsteps of Christ. Don’t tell me that Jesus never felt lost in his life. In the Garden of Olives, he at first rejected drinking the cup (but eventually surrendered his will to God’s); on the crucifix, while he was screaming out loud, “My God! My God! Why have you forsaken me?”
Well! What a miracle (Let me call it: a miracle!). Just like a blind man in the Gospel (John 9), I begin to see life with new eyes… I'd like to shout, "I can see now!"
Jesus and I (a Christian, a disciple), at some stages in our lives, we’re both lost. Jesus and I, we both originally come from heaven, his home and my home.
“Where are you from?”
“Me? You ask me? I?”
I point my finger at the heaven above, the azure blue sky, declaring, “I am from heaven.”
You are surprised, “Serious?”
Yes, heaven is my home, a home sweet home!
I continue to sing the new hymn I have just composed: HEAVEN! HOME!
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com
Từ Đâu Tới?
□ Bạn nói đúng… Mà trách sao được. Tôi đã lạc ngay khi vừa sinh từ trong bụng mẹ (có ai muốn được sinh ra trong cõi đời này, chẳng trách chi hài nhi nào cũng thế, phải bật tiếng khóc chào đời); lạc đường như hai môn đệ trên đường Emmau. Họ cũng một thời…lạc! Nhưng hai linh hồn lạc đường Emmau, may mắn thay, đã gặp gỡ Niềm HY VỌNG mới của nhân loại. Và bởi Niềm HY VỌNG này, họ đã thôi không còn lạc. Và Niềm HY VỌNG mới này đã quay về thiên đàng, giờ ở trên thiên đàng, nhà của Ngài. “Tôi tới”, Ngài đã từng nói, “từ Thiên Đàng…”
Như là một hiện tượng, trong khi đang lang thang đâu đó tại những vùng đất lạ, cứ giống như tôi là cục nam châm hay đang mặc áo thung in to hàng chữ, “Hãy hỏi, ‘Từ đâu tới’,” thiên hạ vẫn thường tới và đặt câu hỏi (hay hỏi người bạn nếu tôi không nói ngôn ngữ của vùng đất),
“Ông bạn từ đâu tới vậy?”
“Thật hả? Bạn hỏi tôi… Từ đâu tới?”
Bạn cộ mắt nhìn tôi,
“Ủa! Bộ có gì sai hay sao?”
Và rồi bạn gật đầu, “Đúng! Bạn từ đâu tới vậy?”
Một câu hỏi đơn giản như thế thông thường được trả lời với một câu bắt đầu với chủ từ “Tôi”, theo sau là động từ “là” (trong trường hợp này động từ “là” nằm ở thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít, đọc là “từ”), cuối câu là túc từ (tên của một quốc gia nào đó). Dựa vào những nét Đông phương trên khuôn mặt, thiên hạ thông thường vẫn chờ đợi tôi sẽ điền vào chỗ trống của túc từ với một danh từ, hoặc “Thái Lan” hoặc “Cambuchia” hoặc “Trung Hoa”. Nhưng nếu tôi thành thật và ngây thơ nói,
“Hiệp Chủng Quốc…”
Thiên hạ, tin hay không tin, đã rất nhiều lần, phản ứng ngay lập tức với giọng điệu mỉa mai,
“Ông thần? Ông đâu phải là Mỹ!...”
Có một lần ở Melbourne, vị giáo sự đồng nghiệp cùng khối phê bình thẳng thắn,
“Bạn đúng là người (tâm thần) lẫn lộn...”
“Thật thế à! Có đúng tôi là người lẫn lộn?”
Nếu đời sống là một chuỗi dài học hỏi, qua những sự cố vừa rồi, tôi học được một bài học quý và vô giá; bởi thế tôi chế sẵn một cụm từ mới, thật sự ra cũng chỉ là một cách để tự vệ bản thân. Bất cứ nơi nào nếu bị hỏi, “Bạn từ đâu tới?”, tôi cẩn thận trả lời với một công thức ngắn gọn,
“Nguyên gốc Việt Nam hai mươi năm; và rồi hai mươi hai năm tại Mỹ.”
Câu chuyện “Bạn từ đâu tới?” không chấm dứt ở đây… Bởi đã có những lần quay về Việt Nam công tác, tôi đã từng được dõi nhìn hoặc đối xử hoặc coi như một người ngoại quốc ngay trên vùng đất chôn nhau cắt rốn. Có lần trong khi đang đọc thực đơn trong tiệm Phở, người chạy bàn bước tới, nói với tôi trong tiếng Anh,
“Chào ông! Ông đã sẵn sàng để gọi món ăn chưa?”
“Sẵn sàng chưa? Đương nhiên, tôi luôn luôn sẵn sàng. Phở là món Việt Nam tôi thích nhất”. Tôi đã trả lời trong tiếng Việt.
Và… (Tôi yêu biết bao chữ “và” trong trường hợp này) bạn có thể nhận ra quai hàm của người chạy bàn rớt xuống (một cái cụp), bởi anh ta nói với tôi cái ông người Phi Luật Tân này, sao nói tiếng Việt giỏi quá xá!
Ui chu choa!
Câu chuyện về nơi chôn nhau cắt rốn tiếp tục những vòng xoay, bởi hiện giờ tôi đang làm việc tại Úc Châu, từ những ngày của năm 2006. Và bây giờ 2014… Làm việc ở phố Melbourne được ba năm. Và bởi ngạt thở với đời sống chật chội phố phường, nhưng lại ước mơ được hít thở bầu trời mới, giữa tháng 12 năm 2009, tôi dọn nhà về Central Australia, sa mạc bao la, đất của người thổ dân Arrernte. Tôi đã dần dần biến thành thổ dân sa mạc: trời nóng, bật quạt và mặc quần đùi; trời lạnh, mặc vào áo khoác dầy cộm và đội mũ len lên đầu. Chào mừng bạn tới sa mạc Úc Châu! Bàn về kỹ năng sinh tồn, tôi giờ hay ne né đi dưới bóng râm để tránh những tia cực tuyến! Tôi đã biết chào cung cách Úc Châu những khi cần thiết (Bạn, tôi đang muốn nói cách người Úc dùng tay xua đuổi ruồi nhằng hằng hà sa số ở sa mạc). Tôi đã dùng chữ băng (mob) thay cho chữ nhóm (group). Nắng chói chang sa mạc đã đổi màu da từ trắng ngà ngà sang nâu nâu đen, và tóc từ màu đen lay láy sang màu trắng kim tuyến!
Vâng! 20 năm hít thở không khí Việt Nam! 2 năm làm người vô tổ quốc lang thang trại cấm Mã Lai và trại tỵ nạn Phi! 21 năm lang thang ở Mỹ! 8 năm làm việc tại Úc Châu! Và bây giờ bạn hỏi tôi, “Anh từ đâu tới?”. Và bạn chờ đợi một câu trả lời đơn giản. Nghiêm chỉnh đi ông bạn! Đừng nói chuyện bỡn!
Khỏi nói bạn cũng có thể đoán… Tôi lạc… LẠC là tên đệm của tôi! Nhà của tôi ở đâu? Bạn nói cho tôi biết.
Đó là lý do tại sao tôi thấy mình hay lẩm bẩm trong miệng, “Mi… chính hiệu con cháu Cain, sư tổ lang thang, không có một nơi gọi là nhà”. Bởi thế đã có lần vị Linh Hướng khuyên bảo (hay sửa đổi, cũng được),
“Đừng có nói như vậy, bởi con cuối cùng sẽ tin là như vậy! Không đúng! Nhà là bất cứ nơi nào con đặt bước chân tới…”
“Nhà là bất cứ nơi nào con đặt bước chân tới”. Thật là đáng tiếc, tôi chưa ngộ!... Và cơ hội để tôi ngộ mỏng manh như tơ trời (Tôi biết mình, một người khá là cà chua trứng thối! Nói thẳng và nói thật, tôi tin tôi sẽ bao giờ đạt tới trình độ gọi là Ngộ). Tiếng Anh hay nói, “Make yourself at home,” cứ tự nhiên coi (mọi nơi) là nhà! Nhưng (vấn đề rắc rối thông thường sẽ lộ bộ mặt thật ngay sau chữ “nhưng”), ở rất nhiều nơi, tôi không cảm thấy là nhà. Và đương nhiên tôi chỉ có thể lừa dối mọi người ngoại trừ chính mình về cái sự thật này.
Bạn từ đâu tới? Một câu hỏi đơn giản thông thường chờ đợi một câu trả lời đơn giản. Nhưng không phải trong trường hợp của tôi… Bạn có thể cự nự,
“Khéo là vẽ chuyện! Đời sống chẳng bao giờ trở nên tốt hơn! Hãy tận hưởng giây phút trời cao ban tặng”.
Bất cứ bạn nói gì… Tôi tiếp tục lang thang kiếm tìm một nơi được gọi là nhà.
Đó là lý do tôi thấy mình cứ hay nhìn lên trời, đặc biệt vào những đêm tối khi bầu trời mênh mông triệu triệu vị sao, để tìm kiếm Ông Trời cho một câu trả lời.
Đó là lý do tôi thấy mình cứ hay lang thang trên đường phố đêm đêm, tự hỏi hồn mình, “Mi từ đâu tới?”.
Đó là lý do thiên hạ cứ hay phán, “Ông thần! Sao nhìn lạc đường (mùa Chay) quá!”.
Bạn nói đúng… Mà trách sao được. Tôi đã lạc ngay khi vừa sinh từ trong bụng mẹ (có ai muốn được sinh ra trong cõi đời này, chẳng trách chi hài nhi nào cũng thế, phải bật tiếng khóc chào đời); lạc đường như hai môn đệ trên đường Emmau. Họ cũng một thời…lạc! Nhưng hai linh hồn lạc đường Emmau, may mắn thay, đã gặp gỡ Niềm HY VỌNG mới của nhân loại. Và bởi Niềm HY VỌNG này, họ đã thôi không còn lạc. Và Niềm HY VỌNG mới này đã quay về thiên đàng, giờ ở trên thiên đàng, nhà của Ngài. “Tôi tới”, Ngài đã từng nói, “từ Thiên Đàng…”
Thật thế à! Thiên Đàng! Nhà!
Linh hồn lạc loài của tôi lần đầu tiên rộn ràng những nốt nhạc tươi vui của bài nhạc mới tinh khôi: “Thiên Đàng! Nhà!”.
Chữ Kitô hữu, nếu phân tích, là tổng hợp của hai chữ, “Kitô” và “hữu,” một người tin vào Đấng Thiên Sai; Kitô hữu cũng chỉ về những người đang lần theo những vết chân của Con Trời. Đừng có nói với tôi Đức Giêsu chưa bao giờ một lần lạc trong cuộc đời. Nơi Vườn Cây Dầu, Ngài đã từng muốn từ chối uống ly rượu đắng (nhưng cuối cùng lại xin được vâng theo ý Cha); trên cây thập tự, Ngài đã từng hét lớn, “Ơi Lạy Chúa! Lạy Chúa con! Sao Ngài lại bỏ rơi con?”.
Vâng! Thật đúng là một phép lạ (Hãy cho tôi gọi đó là một phép lạ!). Giống y như người mù trong Kinh Thánh (Gioan 9), tôi bắt đầu nhìn cuộc đời với cặp mắt mới… Tôi muốn hét to, “Tôi đã thấy!”.
Đức Giêsu và tôi (một Kitô hữu, một đệ tử), tại một vài thời điểm trong đời, cả hai đều đã từng lạc. Và, Đức Giêsu và tôi, cả hai đều từ thiên đàng mà tới, thiên đàng nhà của Ngài và cũng là nhà của tôi, bởi tôi là một Kitô hữu.
“Bạn từ đâu tới?”
“Tôi? Bạn hỏi tôi? Tôi từ đâu tới?”
Tôi chỉ ngón tay lên trời, bầu trời xanh xanh màu ngọc bích, khẳng đinh, “Tôi từ thiên đàng mà tới”.
Thiên hạ (trăm người là cả trăm) ngạc nhiên, “Thật hả ông bạn?”.
Vâng, thiên đàng là nhà của tôi, nhà thân thương!
Tôi tiếp tục hát bài ca mới tinh khôi tôi mới soạn: THIÊN ĐÀNG! NHÀ MẾN YÊU!
Where Are You From?
Still a phenomenon, as if I wear a T-Shirt marked, “Ask me where I am from,” when being in foreign lands, just like a magnet, very often people come to me asking me (or my friend if I don’t speak the language of the land),
“Where are you from?”
“Really? You ask me… Where am I from?”
You stare at me,
“What’s wrong with that?”;
Then you nod your head, “Yes! Where’re you from?”
Such a simple question normally expects a simple answer, which commences with the subject, I, followed with a verb, to be (in this case “to be” in the present tense, first person, singular: “am”), finally concluded with the object (the name of a country). Based on the Oriental features on my face, people normally expect me to fill the objective blank with the phrase: “Thailand,” or “Cambodia,” or “China.” But, if I honestly and innocently say,
“The US…”
People, believe it or not, many times, react at once with a sardonic voice,
“You? You are not American!…”
Once in Melbourne a professor in the same field sternly criticized me,
“You’re really confused.”
"Really! Am I confused?"
If life is an on-going process of learning, through these incidents, I have undoubtedly learned a precious and priceless lesson; subsequently, I formulate a new phrase, actually a defense mechanism to protect myself. Whenever approached with the question, “Where are you from?”, I carefully recite this succinct formula,
“Vietnam originally for seventeen years, twenty two years in the US.”
The story of “where I am from” does not end here… For a few times I return to Vietnam for mission assignments, I have been viewed, treated, considered, approached, etc… as a foreigner in the land where my umbilical cord was buried.. While reading the menu in a Phở Restaurant, the waiter comes to me, speaking English,
“Sir, are you ready to order?”
“Am I ready? Of course, I am always. Phở is my most favorite dish among the Vietnamese cuisine,” said I in the Vietnamese language…
And… (I love the conjunction “and” in this case), you can see the waiter drop his lower jaw, for he told me later that he was really surprised and impressed that this Filipino guy spoke Vietnamese very well.
Mama Mia!
The story concerning my home is unfolding, for I am currently stationed in Australia since the beginning of 2006. And now 2013… I worked in Melbourne for 3 years. And because I felt suffocated with the urban life and wanted to breathe a new air, since the middle of December 2009, I have moved to Central Australia, a vast desert, the land of the Arrernte people. I am gradually becoming a bush man: if it is hot, I turn on the fan and wear a short; cold, I put on a thick jacket and a beanie on my head. Welcome to Central Australia! Survival skills, as a bush man, I walk under the shade to avoid the extreme ultraviolet! I know to perform the Aussie salute when I have to (I’m talking about using one’s hands to chase away the countless fruit flies in the desert). I use the word “mob” for “group”. The scorching heat in the desert has changed the color of my skin from white to brown, and hair from black to white!
Well! Well! Well! 20 years breathing the air in Vietnam! 2 years living in detention and refugee camps in Malaysia and the Philippines as a displaced person! 21 years wandering in the US! 8 years working in Australia! And now you ask me, “Where am I from?”. And you expect a simple, plain response. Be real! Be serious!
You can tell… Eventually I am lost… LOST is my nick-name! Where is my home now? You tell me.
That’s why sometimes I find myself cogitating on this phrase, “You… the descendant of Cain, the wanderer, the one who has no place called home.” Once my spiritual director advised me (or corrected me with affection),
“Don’t say that, for you will believe it. It is not true! Home is wherever you are.”
“Home is wherever you are.” Nevertheless, I am not enlightened yet… And the chance that I will be enlightened is slim (I know myself, a peccant being. Frankly I believe I will never reach that awakened stage). Make yourself at home! But (the problem is disclosed after “but”), in some places, I don’t feel at home. And I can deceive anyone but myself about this reality.
Where are you from? A simple question expects a simple answer. But, not in my case… You might criticize me,
“Stop being captious… Life is not getting any better. Relax! Enjoy the moment you are granted.”
Whatever you say… I keep searching for the place to call home.
That’s why I see myself looking up to heaven very often, particularly at night when the sky is filled with a million bright stars, asking God for an answer.
That’s why I like spending the night strolling on Todd Mall of Alice Springs, asking my soul, “Where are you from?”.
That’s why people occasionally complain, “You look lost.”
You’re right… What do you expect? I am lost, lost at the first moment of my conception in my mother's womb (no one really wants to be born into this world, no wonder the newborn always burst into tears); lost like the two disciples on Emmaus road… They were lost too. But how fortunately these two lost souls were, for they eventually encountered a new HOPE for human salvation. And this HOPE has returned to heaven. This HOPE is now in heaven, His home. Heaven, he says, is "where I originally come from."
I see! Heaven! Home!
My lost soul for the first time mulls over the first blissful sound of the new hymn: Heaven! Home!
The word Christian, if dissected, is a combination of the words, “Christ” and “ian,” a person who believes in Christ; Christian denotes the implication of someone who follows in the footsteps of Christ. Don’t tell me that Jesus never felt lost in his life. In the Garden of Olives, he at first rejected drinking the cup (but eventually surrendered his will to God’s); on the crucifix, while he was screaming out loud, “My God! My God! Why have you forsaken me?”
Well! What a miracle (Let me call it: a miracle!). Just like a blind man in the Gospel (John 9), I begin to see life with new eyes… I'd like to shout, "I can see now!"
Jesus and I (a Christian, a disciple), at some stages in our lives, we’re both lost. Jesus and I, we both originally come from heaven, his home and my home.
“Where are you from?”
“Me? You ask me? I?”
I point my finger at the heaven above, the azure blue sky, declaring, “I am from heaven.”
You are surprised, “Serious?”
Yes, heaven is my home, a home sweet home!
I continue to sing the new hymn I have just composed: HEAVEN! HOME!
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Nhẩn Nha
Joseph Ngọc Phạm
21:27 29/05/2014
![]() |
Ảnh của Joseph Ngọc Phạm
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá mà quàng phải dây.
Thủng thỉnh như chúng tôi đây
Thì đá chẳng vấp, thì dây chẳng quàng.
(Ca dao)
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 24/05 – 29/05/2014 - Phần I: Đức Thánh Cha thăm Amman và Bethlehem
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
15:50 29/05/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Một ngày trước chuyến đi đến Thánh Địa, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bất ngờ đến thăm Đền Thờ Đức Bà Cả hôm thứ Sáu 23 tháng 5 để cầu nguyện trước bức ảnh Đức Bà Là Phần Rỗi của Dân Rôma.
Ngài cầu nguyện âm thầm trong khoảng 15 phút, để đặt chuyến đi của ngài dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ. Sau đó, Đức Thánh Cha đã đặt một bó hoa dưới chân của bức ảnh.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã giữ thói quen cầu nguyện tại Đền Thờ Đức Bà Cả trước những thời điểm quan trọng trong triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài đã dừng lại tại nhà thờ vào ngày sau khi đắc cử Giáo Hoàng, và trước khi khởi hành đến Brazil trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới, và một lần nữa khi ngài trở về từ Rio De Janeiro. Đức Giáo Hoàng cũng đã dừng lại ở Đền Thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện một vài phút hồi tháng Giêng năm nay.
Trong những trường hợp như thế, chuyến đi của Đức Giáo Hoàng đều không được thông báo trước trong lịch trình chính thức của ngài. Cuộc viếng thăm Thánh Địa được giới báo chí quốc tế mô tả là rất khó khăn, xét vì tình hình địa phương, nên Đức Thánh Cha đã đặt biến cố này dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria.
2. Đức Thánh Cha khởi hành sang thăm Thánh Địa
Lúc 8:20 sáng thứ Bẩy, Đức Thánh Cha đã ra phi trường Fiumicino của Rôma để lên đường sang Amman. Chào đón Đức Thánh Cha tại phi trường có Đức Hồng Y Pietro Parolin là Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, và Đức Tổng Giám Mục Angelo Becciu, là Phụ Tá của ngài. Cả hai vị cùng đi với Đức Thánh Cha sang Thánh Địa.
Chuyến tông du hải ngoại lần thứ hai của Đức Thánh Cha cũng diễn ra tương tự như chuyến đi thứ nhất sang Brazil: trời nắng đẹp và Đức Thánh Cha tự mình xách chiếc cặp lên máy bay.
Cùng đi với Đức Thánh Cha trên chuyến bay dài 4 tiếng từ Roma có 30 vị thuộc đoàn tùy tùng và 70 ký giả quốc tế. Phát biểu với các phóng viên trên máy bay, Đức Thánh Cha nói ngài cảm thấy như tiên tri Daniel trong Kinh Thánh đang hướng đến hang sư tử, ý muốn ám chỉ chuyến thăm của ngài đang đưa ngài đến một khu vực luôn luôn bất ổn bởi những hố sâu chia cách chính trị và tôn giáo.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha nói thêm rằng:
"Tôi cảm thấy như Daniel, nhưng bây giờ tôi biết rằng những con sư tử này sẽ không cắn",
Mặc dù có những khuyến cáo của các lực lượng an ninh Jordan, Tòa Thánh giải thích rằng chuyến đi đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Trung Đông là một "cuộc hành hương cầu nguyện", vì thế ngài không dùng các xe chống đạn, và cũng không cần đoàn hộ tống với xe cảnh sát mở đầu.
Sau 3 giờ và 45 phút bay, Đức Thánh Cha đã đến sân bay Hoàng Hậu Alia ở Amman. Từ trên máy bay đi xuống, Đức Giáo Hoàng đã được hai trẻ em chào đón ngài với những bó hoa phong lan là quốc hoa của Jordan.
Đón Đức Thánh Cha tại chân thang máy bay là Hoàng tử Ghazi bin Muhammad, phụ trách Ủy Ban Đối Thoại với Kitô Giáo.
Đức Thánh Cha và Hoàng Tử đã nói chuyện với nhau trong mười phút trước khi Đức Giáo Hoàng rời phi trường để đến Cung điện Hoàng gia cách đó 38 km.
Đông đảo dân chúng vẫy cờ Jordan và Vatican và các biểu ngữ chào đón ngài khi chiếc xe hơi chở ngài từ phi trường đến cung điện hoàng gia.
Tại đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã được chào đón bởi vua Abdullah Đệ Nhị và hoàng hậu Rania, cùng với bốn đứa con của họ. Vua Abdullah 2 là cháu đích tôn 43 đời của Muhammad là người sáng lập Hồi giáo. Còn hoàng hậu Rania năm nay 44 tuổi là người Palestine sinh trưởng tại Kuwait.
Trong khi đó, đông đảo các Kitô hữu đã đứng chật trên những chiếc xe buýt để di chuyển đến sân vận động Amman, nơi Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ vào lúc 4h chiều.
Mặc dù chỉ có 250,000 người Jordan tự nhận mình là Kitô hữu - trong một quốc gia có đến 7 triệu người Hồi giáo - Thủ tướng Abdullah Nsur cho biết chuyến thăm sẽ cho thế giới thấy rằng Jordan là một ốc đảo của hòa bình trong một khu vực hỗn loạn của "máu, chiến tranh và đàn áp".
Vương quốc Giordani chỉ rộng gần 89 ngàn cây số vuông, bằng 1 phần 4 Việt Nam, nhưng lại rộng gấp quá 4 lần lãnh thổ của Israel và Palestine cộng lại, vì hai nước này chỉ có 20.700 cây số vuông, tuy rằng họ có dân số đông hơn, gần 8 triệu người, so với 6 triệu 400 ngàn dân cư của Giordani. Cũng vậy về con số tín hữu Công Giáo: tại Giordani chỉ có 107 ngàn tín Công Giáo, trong khi tại Israel và Palestine có 266 ngàn tín hữu Công Giáo, tức là gần gấp 3.
Tại Giordani có 3 giáo phận với 4 Giám Mục và 69 giáo xứ và 143 linh mục triều và dòng, 210 nữ tu. Các tín hữu Công Giáo la tinh ở Giordani thuộc quyền Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem với Đức Thượng Phụ hiện nay là Fouad Twal, người Giordani.
3. Diễn văn đầu tiên của Đức Thánh Cha
Sau nghi thức đón tiếp tại sân bay Hoàng Hậu Alia ở Amman, Đức Thánh Cha cùng với đoàn tùy tùng đi xe về hoàng cung Al-Husseini ở trung tâm thủ đô Amman cách đó 38 cây số nơi diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức. Quốc vương và hoàng hậu Rania đón tiếp Đức Thánh Cha ngay tại cổng vào hoàng cung và tiến qua đoàn quân danh dự.
Đáp lại lời chào mừng của Vua Abdullah, Đức Thánh Cha nói bằng tiếng Ý:
“Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì được viếng thăm Vương quốc Giordani, theo vết các vị tiền nhiệm của tôi là các Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, Gioan Phaolô Đệ Nhị và Bênêđíctô thứ 16, và tôi cám ơn Quốc Vương Abdullah II vì những lời chào đón nồng nhiệt, nhớ lại cuộc viếng thăm mới đây của Quốc vương tại Vatican. Tôi cũng chào thăm Hoàng gia, chính phủ và nhân dân Giordani, đất nước có lịch sử phong phú và ý nghĩa lớn về mặt tôn giáo đối với Do thái, Kitô và Hồi giáo.
“Đất nước này quảng đại đón tiếp đông đảo người tị nạn Palestine, Irak và những người đến từ các vùng khác bị khủng hoảng, đặc biệt là từ Siria láng giềng, bị đảo lộn vì cuộc xung đột kéo dài đã quá lâu. Sự đón tiếp đó đáng được cộng đồng quốc tế ngưỡng mộ và hỗ trợ. Giáo Hội Công Giáo theo khả năng của mình, muốn dấn thân trong việc trợ giúp người tị nạn và những người sống trong cảnh túng thiếu, đặc biệt là qua trung gian của Caritas Giordani. ”Trong khi tôi đau lòng nhận thấy những căng thẳng cao độ vẫn kéo dài ở vùng Trung Đông, tôi cám ơn chính quyền của Vương quốc Giordani vì những gì đang thực hiện và tôi khích lệ tiếp tục dấn thân trong việc tìm kiếm hòa bình lâu bền mong ước cho toàn vùng; để đạt mục đích ấy, người ta thấy hơn bao giờ hết cần có một giải pháp hòa bình cho cuộc khủng hoảng ở Siria, và giải pháp công chính cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine.
“Nhân cơ hội này, tôi tái bày tỏ lòng kính trọng sâu xa và sự quí chuộng của tôi đối với Cộng đoàn Hồi giáo, đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Quốc vương trong việc thăng tiến một sự hiểu biết thích hợp hơn về các nhân đức mà Hồi giáo tuyên dạy, cũng như sự sống chung thanh thản giữa tín đồ các tôn giáo khác nhau. Tôi biết ơn đối Giordani vì đã khích lệ các sáng kiến quan trọng cổ võ cuộc đối thoại liên tôn để thăng tiến sự cảm thông giữa người Do thái, Kitô và Hồi giáo, trong đó có sáng kiến ”Sứ điệp liên tôn từ Amman” và vì đã cổ võ giữa lòng Liên Hiệp Quốc việc cử hành hàng năm ‘tuần lễ hòa hợp giữa các tôn giáo’”.
“Giờ đây tôi muốn thân ái gửi lời chào thăm các cộng đoàn Kitô hiện diện tại đất nước này từ thời các thánh Tông Đồ, và đang góp phần xây dựng công ích của xã hội trong đó họ hoàn toàn hội nhập. Tuy ngày nay con số của họ bị giảm bớt, nhưng họ vẫn có cách thi hành một hoạt động có chất lượng cao và được quí chuộng trong lãnh vực giáo dục và y tế, qua các trường học và nhà thương, và họ có thể yên hàn tuyên xưng đức tin, trong niềm tôn trọng tự do tôn giáo là một quyền cơ bản của con người, và tôi nồng nhiệt cầu mong quyền này được đặc biệt tôn trọng ở mọi nơi tại Trung Đông cũng như trên toàn thế giới. Quyền này bao gồm tự do cá nhân và tập thể được chọn lựa tôn giáo mà mình tin là thật và công khai bày tỏ tín ngưỡng của mình” (Bênêđíctô thứ 16, Tông huấn ‘Giáo Hội tại Trung Đông”,26). Các tín hữu Kitộ cảm thấy và là những công dân đúng nghĩa và muốn góp phần vào việc xây dựng xã hội cùng với các đồng bào Hồi giáo của họ, đóng góp phần đặc thù của mình.
Sau cùng tôi đặc biệt cầu chúc hòa bình và thịnh vượng cho Vương quốc Giordani, cho nhân dân nước này, và tôi cầu mong cuộc viếng thăm này góp phần gia tăng và thăng tiến những quan hệ tốt đẹp và nồng nhiệt giữa các tín hữu Kitô và Hồi giáo”.
Ngài cũng ứng khẩu cám ơn Vua Abdullah đã bảo vệ cộng đồng Kitô tại Giordani và là một người hòa bình, người xây dựng hòa bình.
4. Cử hành thánh lễ đầu tiên
Giã từ hoàng gia Giordani, Đức Thánh Cha đã tới sân vận động quốc tế Al-Hussein cách đó 11 cây số để cử hành thánh lễ cho các tín hữu.
Hiện diện tại Sân Vận động có 30 ngàn tín hữu, không kể hàng ngàn người khác tham dự thánh lễ từ bên ngoài qua các màn hình khổng lồ. Trong số các tín hữu có nhiều người tị nạn Công Giáo đến từ Palestine, Siria và Irak, đặc biệt có 1.400 em được rước lễ lần đầu trong thánh lễ này.
Đồng tế với Đức Thánh Cha có 5 Hồng Y thuộc đoàn tùy tùng của ngài, 6 Hồng Y khác đến từ các Giáo Hội địa phương, đứng đầu là Đức Hồng Y Becharai Rai, Giáo chủ Công Giáo Maronite từ Liban, ngoài ra có 6 vị Thượng Phụ, 115 linh mục, 60 phó tế và đan sĩ đến từ các nước Arập.
Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha khai triển 3 hoạt động chính của Chúa Thánh Linh là chuẩn bị, thúc giục và sai đi. Ngài nói:
Trong Tin Mừng chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: ”Thầy sẽ xin Chúa và Người sẽ ban cho các con Đấng An ủi khác để Ngài ở lại với các con mãi mãi” (Ga 14,16). Đấng An ủi thứ I là chính Chúa Giêsu; Đấng thứ 2 là Chúa Thánh Linh.
Ở đây chúng ta không xa nơi Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trong quyền năng trên Đức Giêsu thành Nazareth, sau khi Gioan đã làm phép rửa cho Đức Giêsu trong sông Giordan (Xc Mt 3,16). Vì thế Tin Mừng Chúa Nhật này, và cả nơi mà nhờ ơn Chúa tôi ở đây như người hành hương, mời gọi chúng ta hãy suy tư về Chúa Thánh Linh, về điều mà Chúa thực hiện trong Chúa Kitô và nơi chúng ta, và chúng ta có thể tóm tắt thế này: Chúa Thánh Linh thực hiện 3 hành động: chuẩn bị, thúc đẩy và sai đi.
Trong lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Linh ngự xuống trên Đức Giêsu để chuẩn bị Người thi hành sứ mạng cứu độ; sứ mạng này có đặc tính như của một Đầy tớ khiêm hạ và hiền lành, sẵn sàng chia sẻ lịch sử cứu độ và tận hiến toàn toàn. Nhưng Chúa Thánh Linh, hiện diện ngay từ đầu lịch sử cứu độ, đã hoạt động trong Đức Giêsu khi Người được chịu thai trong lòng đồng trinh của Đức Maria thành Nazareth, thực hiện biến cố lạ lùng là sự nhập thể. Thiên Thần nói với Đức Maria: ”Chúa Thánh Linh đã bao phủ Trinh Nữ, sẽ che bóng cho Trinh Nữ và Trinh Nữ sẽ sinh Con và được đặt tên là Giêsu” (Xc Lc 1,35). Tiếp đến Chúa Thánh Linh đã hành động trong ông Simeon và bà Anna, trong ngày dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ (Xc Lc 2,22). Cả hai vị chờ đợi Đức Thiên Sai, được Chúa Thánh Linh soi sáng và đến thăm Hài Nhi Giêsu, cả hai trực giác thấy rằng đó chính là Đấng toàn dân mong đợi...
Thứ hai, Thánh Linh thúc đẩy. Ngài đã xức dầu trong nội tâm cho Đức Giêsu và xức dầu cho các môn đệ, để họ có cùng tâm tình của Đức Giêsu và nhờ đó có thể đảm nhận trong đời sống của họ những thái độ tạo điều kiện dễ dàng cho hòa bình và hiệp thông. Với sự xức dầu của Thánh Linh, nhân tính của chúng ta được ghi đậm sự thánh thiện của Đức Giêsu Kitô và làm cho chúng ta có thể yêu thương anh chị em với cùng tình thương mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Vì thế, cần có những cử chỉ khiêm tốn, huynh đệ và tha thứ, hòa giải. Những cử chỉ này là tiền đề và điều kiện để có hòa bình chân thực, vững chắc và lâu bền. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha xức dầu chúng ta để chúng ta hoàn toàn trở thành những người con của Ngài, luôn phù hợp với Đức Kitô, để chúng ta cảm thấy tất cả là anh chị em và như thế xua đuổi khỏi chúng ta những oán hận và chia rẽ, đồng thời yêu thương nhau như anh chị em. Và đó là điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta trong Phúc Âm: ”Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ giới răn của Thầy, và Thầy sẽ xin Chúa và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An ủi khác, để Người ở lại với các con mãi mãi” (Ga 14,15-16).
Và sau cùng Chúa Thánh Linh sai đi. Đức Giêsu là Đấng Được Sai Đi, đầy Thánh Linh của Cha. Được xức dầu với cùng Thánh Linh, cả chúng ta cũng được sai đi như sứ giả và chứng nhân hòa bình.
Hòa bình không thể mua được: đó là một hồng ân cần kiên nhẫn tìm kiếm và xây dựng một cách khéo léo nhờ những cử chỉ lớn nhỏ bao gồm đời sống hằng ngày của chúng ta. Con đường hòa bình được củng cố nếu chúng ta nhìn nhận rằng tất cả chúng ta có cùng máu mủ và là thành phần của nhân loại; nếu chúng ta không quên mình có một người Cha duy nhất trên trời và tất cả đều là con cảu Ngài được dựng nên theo hình ảnh giống Ngài.
Đức Thánh Cha thân ái chào thăm Đức Thượng Phụ, các anh em Giám Mục và linh mục, tu sĩ giáo dân, các em Rước lễ lần đầu.. và ngài kết luận rằng:
Các bạn thân mến, Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên Đức Giêsu cạnh sông Giordan, và khởi sự công trình cứu chuộc hầu giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và sự chết. Chúng ta hãy xin Chúa chuẩn bị con tim chúng ta để gặp gỡ anh chị em vượt lên trên những khác biệt về tư tưởng,ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo; xin Chúa xức dầu toàn thể con người chúng ta bằng dầu từ bi của Ngài, chữa lành các vết thương sai lầm, thiếu cảm thông, tranh biện, và sai chúng ta đi với lòng khiêm tốn và từ bi trên những nẻo đường khó khăn nhưng phong phú trong công trình tìm kiếm hòa bình.
Đức Thánh Cha giảng hoàn toàn bằng tiếng Ý, và sau bài giảng, có một Đức Cha dịch sang tiếng Arập.
Trong phần hiệp lễ, 118 linh mục và Phó tế đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.
Cuối thánh lễ, Đức Thượng Phụ Fouad Twal đã đại diện mọi người chào mừng Đức Thánh Cha và nói đến những thách đố mà Giáo Hội địa phương đang phải đương đầu. Ngài nói: Thánh Địa bị quá nhiều chia rẽ, và Giáo Hội Công Giáo địa phương, đặc biệt là Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem hết sức cố gắng hiệp nhất nội bộ, hiệp nhất giữa các Giáo Hội và toàn dân. Chúng con là một Giáo Hội nhỏ bé, nhưng cũng là một Giáo Hội lắng nghe, tháp tùng và cộng tác theo khả năng khiêm hạ của mình, vào hành trình hoán cải, vì chúng ta luôn ở trong tình trạng hoán cải trường kỳ (Evan. gaudium 25).
5. Giã từ Jordan sang thăm Palestine
Lúc 7 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật 25 tháng 5, Đức Thánh Cha đã rời Tòa sứ thần Tòa Thánh để đến phi trường quốc tế Amman đáp trực thăng đi Giêrusalem. Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra tại phi trường Hoàng hậu Alia.
Lúc 8 giờ ba chiếc trực thăng “Superpuma” của không quân Jordan đã cất cánh chở Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đến Bethlehem cách đó 75 cây số. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại bãi đậu trực thăng ở Bếtlehem có Đức Tổng Giám Mục Giuseppe Lazzarotto, Sứ thần Tòa Thánh cạnh Israel kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestine, Đức Thượng Phụ Fouad Twal Thượng phụ Latinh Giêrusalem, và đông đảo các vị trong Tòa Thượng Phụ nghi lễ La Tinh tại Giêrusalem.
Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đã đi xe về dinh tổng thống Palestine ở Bếtlehem cách đó 2 cây số rưỡi. Tín hữu và dân chúng đã đem theo cờ Tòa Thánh và cờ Palestine cũng như bong bóng và ca hát chào mừng Đức Thánh Cha trong bầu khí lễ hội rất tươi vui.
Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas đã tiếp đón Đức Thánh Cha trước dinh theo nghi lễ quốc khách. Sau cuộc hội kiến ngắn giữa hai vị, Đức Thánh Cha đã gặp hàng lãnh đạo Palestine và tổng thống Abbas đã đọc diễn văn chào mừng ngài.
Đáp lời tổng thống Mahmoud Abbas Đức Thánh Cha đã cám ơn Chúa cho ngài đến viếng thăm nơi Chúa Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình đã giáng sinh và cám ơn tổng thống và nhân dân Palestine vì sự tiếp đón nồng hậu dành cho ngài.
Đức Thánh Cha nói:
Từ cùng thẳm con tim tôi muốn nói rằng: đã đến giờ chấm dứt tình trạng này ngày càng trở nên không thể chấp nhận được.Vì thiện ích của tất cả mọi người cần gia tăng các cố gắng và sáng kiến nhằm tạo dựng ra các điều kiện của một nền hòa bình ổn định, dựa trên công lý, việc thừa nhân các quyền của từng người và trên sự an ninh của nhau.
Tôi cầu chúc cho dân tộc Palestine và Israel cũng như các giới lãnh đạo liên hệ dấn thân trên con đường xuất hành hạnh phúc này tiến về hòa bình với lòng can đảm và cương quyết cần thiết cho mọi cuộc xuất hành. Hòa bình trong an ninh và tin tưởng lẫn nhau sẽ trở thành khung cảnh quy chiếu ổn định giúp đương đầu và giải quyết các vấn đề khác và như thế cống hiến một cơ hội phát triển quân bình, để trở thành mô thức cho các vùng khủng hoảng khác.
Đức Thánh Cha cũng nhắc tới sinh hoạt của cộng đoàn kitô cống hiến phần đóng góp ý nghĩa cho công ích của xã hội và chia sẻ các vui buồn khổ đau của toàn dân. Các kitô hữu muốn tiếp tục nắm giữ vai trò của mình như công dân có đầy đủ quyền lợi cùng với các công dân khác được coi như anh chị em của nhau.
Đức Thánh Cha ca ngợi tổng thống Abbas như là người của hòa bình và tạo dựng hòa bình. Cuộc gặp gỡ mới đây tại Vatican và sự hiện diện của ngài tại Palestine minh chứng cho các tương quan tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Nước Palestine, mà ngài cầu mong gia tăng cho thiện ích của tất cả mọi người. Đức Thánh Cha đánh giá cao dấn thân chuẩn bị một Thỏa hiệp giữa các Phe liên quan tới các khía cạnh khác nhau của cuộc sống của Cộng đoàn Công Giáo của quốc gia, với sự chú ý đặc biệt tới tự do tôn giáo. Thật thế, việc tôn trọng quyền nền tảng này của con người, một trong những điều kiện không thể khước từ được của hòa bình, tình huynh đệ, và hòa hợp. Nó nói với thế giới rằng phải và có thể tìm ra một thỏa hiệp tốt đẹp giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Nó làm chứng rằng chúng ta có chung với nhau biết bao điều và quan trọng có thể nhận ra một con đường chung sống thanh thản, trật tự và hòa bình, trong việc tiếp nhận các khác biệt và trong niềm vui là anh chị em với nhau vì là con cái của một Thiên Chúa duy nhất.
6. Một cử chỉ đầy biểu tượng
Sau cuộc gặp gỡ tổng thống và giới chức chính quyền Palestine, lúc 10 giờ rưỡi Đức Thánh Cha đã đi xe díp trắng đến quảng trường trước vương cung thánh đường Giáng Sinh, cách đó 2 cây số rưỡi, để cử hành thánh lễ cho tín hữu, có sự tham dự của tổng thống Mahmoud Abbas và các giới chức chính quyền và đông đảo tín hữu, đến từ Galilea và Gaza, cũng như ba trăm công nhân Á châu làm việc tại Israel.
Trên đường đến Bethlehem, xe Đức Thánh Cha đã đột ngột dừng lại chỗ có bức tường cao 10 mét ngăn cách biên giới của Israel với vùng đất Palestine để cầu nguyện. Hình ảnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô cúi đầu cầu nguyện, ép lòng bàn tay của mình chống lại bức tường bê tông, và cụng đầu như muốn xô đổ "bức tường ngăn cách" của Israel được nhanh chóng truyền đi khắp thế giới như một cử chỉ phản kháng mạnh mẽ của nhà lãnh đạo Công Giáo trước một biểu tượng của sự chia rẽ và xung đột trong một thế giới với quá nhiều những dàn xếp lắt léo mà cuối cùng phần thiệt đè nặng trên vai những người dân nghèo vô tội.
Được xây dựng bởi Israel như một hàng rào an ninh để bảo vệ công dân của mình khỏi bị tấn công sau phong trào intifada lần thứ hai. Bức Tường được gọi là “bức tường ô nhục” này cao 8-9 thước, dài 438km cây số trên tổng số 708km dự trù, thường xây lấn trên đất của người Palestine, chia cắt đất đai, ruộng vườn của người Palestine và tạo ra biết bao nhiều bất công, khó nhọc vất vả, mất thời giờ cho người Palestine, mỗi khi phải di chuyển, kể cả các trẻ em khi đi học phải đi vòng xa qua các trạm kiểm soát của lính do thái gác biên giới.
Cử chỉ mạnh mẽ đã được thực hiện ít phút sau khi Đức Thánh Cha thỉnh cầu cả hai bên Palestine và Israel hãy kết thúc một cuộc xung đột mà ngài nói là "càng ngày càng gia tăng đến mức không thể chấp nhận được".
7. Thánh lễ tại quảng trường Máng Cỏ Bethlehem
Bà Vera Baboun thị trường thành phố đã chào đón Đức Thánh Cha tại Bethlehem.
Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh và A rập. Các bài sách thánh đã được tuyên đọc bằng tiếng A rập và thánh ca là thánh ca Giáng Sinh quốc tế nhưng bằng tiếng A Rập.
Giảng trong Thánh lễ Đức Thánh Cha nói: “Đây là dấu chỉ: các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ cuốn tã nằm trong máng có” (Lc 2,12). Trẻ thơ Giêsu sinh ra tại Bếlehem là dấu chỉ Thiên Chúa ban cho người chờ đợi ơn cứu rỗi và luôn mãi là dấu chỉ sự hiền dịu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Từ hình ảnh của Chúa Hài Nhi Đức Thánh Cha nghĩ tới các trẻ em trên toàn thế giới và nói:
Cả ngày nay nữa các trẻ em cũng là một dấu chỉ, dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ của sự sống, nhưng cũng là dấu chỉ “bắt mạch” giúp hiểu sức khỏe của một gia đình, một xã hội, sức khỏe của toàn thế giới. Khi các trẻ em được tiếp nhận, yêu thương, giữ gìn và che chở, thì gia đình lành mạnh, xã hội tốt đẹp hơn, thế giới nhân bản hơn. Chúng ta hãy nghĩ tới công trình của Học viện Effetà Phaolo VI đối với các trẻ em câm điếc: đó là một dấu chỉ cụ thể lòng lành của Thiên Chúa. Ngày hôm nay Thiên Chúa cũng lập lại với chúng ta các người nam nữ của thế kỷ XXI: “Đây là dấu chỉ, các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ...”. Trẻ thơ Bethlehem giòn mỏng như tất cả các trẻ sơ sinh. Không biết nói tuy Ngôi Lời đã nhập thể, đã đến để thay đổi trái tim và sự sống con người. Trẻ Thơ đó cũng như mọi trẻ thơ, yếu đuối và cần được trợ giúp và che chở. Cả ngày nay nữa các trẻ em cần được tiếp nhận và bảo vệ từ khi còn ở trong lòng mẹ.
Rất tiếc trong thế giới ngày nay là thế giới đã phát triển các kỹ thuật tinh vi nhất, vẫn còn có biết bao nhiêu trẻ em sống trong các điều kiện vô nhân, ngoài lề xã hội, trong các vùng ngoại ô các thành phố lớn hay trong các vùng quê. Biết bao nhiêu trẻ em ngày nay còn bị khai thác đối xử tàn tệ, bị làm nô lệ, là đối tượng của bạo lực và các vụ buôn bán bất hợp pháp. Ngày nay có quá nhiều trẻ em tỵ nạn, di cư đôi khi bị chết chìm trên biển, đặc biệt trong biển vùng Địa Trung Hải. Hôm nay chúng ta xấu hổ vì tất cả những điều đó trước mặt Thiên Chúa, trước Thiên Chùa trở thành Hài Nhi.
Cả ngày nay nữa các trẻ em khóc, khóc rất nhiều và tiếng khóc của các em gọi mời chúng ta. Trong thế giới này mỗi ngày vứt bỏ hàng tấn thực phẩm và thuốc men, có các trẻ em khóc vô ích vì đói vì bệnh có thể chữa được một cách đễ dàng. Trong một thời đại tuyên bố bảo vệ các trẻ em vị thành niên, người ta buôn bán vũ khí rốt cuộc rơi vào tay các trẻ em chiến binh; người ta buôn bán các sản phẩm do các trẻ em nhân công nô lệ làm. Tiếng khóc của các em bị bóp nghẹt: các em phải chiến đấu, phải làm việc, các em không thể khóc! Nhưng mẹ của các em, những bà Rachel ngày nay khóc: họ khóc các con họ và không muốn được an ủi (x. Mt 2,18).
“Đây là dầu chỉ”. Hài Nhi Giêsu đã sinh ra tai Bethlehem, mọi trẻ em sinh ra và lớn lên tại mọi phần của thế giới là dấu chỉ bắt mạch cho phép kiểm thực tình trạng sức khỏe của gia đình, cộng đoàn và quốc gia của chúng ta. Từ việc bắt mạch thẳng thắn và liêm chính đó có thể nảy sinh ra một kiểu sống mới, trong đó các tương quan không còn là xung khắc đàn áp, duy tiêu thụ nữa, mà là các tương quan của tình huynh đệ, tha thứ, hòa giải, chia sẻ và yêu thương.
Ôi lậy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu là Đấng đã tiếp đón xin đậy chúng con tiếp đón, là Đấng đã thờ lậy xin dạy chúng con thờ lậy, là Đấng đã đi theo xin dạy chúng con đi theo. Amen.
Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Ả rập, Ý, Anh, Tagalog. Mấy chục linh mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa
Trước khi Đức Thánh Cha đọc lời nguyện kết lễ Đức Tổng Giám Mục Fouad Twal, Thượng Phụ latinh Giêrusalem đã đại diện mọi người cám ơn Đức Thánh Cha và nói: Chúng con mong ước chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha làm sống dậy trong con tim của mọi người sứ điệp Giáng Sinh, hòa bình và hơi ấm của Hang Đá Bethlehem. Chúng con cầu mong rằng chuyến hành hương của Đức Thánh Cha giúp mọi người sống sự cao cả của sự khiêm nhường của Bethlehem, thừa nhận sự vô ích của xấc xược, vẻ đẹp của tuổi thơ và sự vô tội. Có biết bao trẻ thơ bị các người lớn lãnh đạo thế giới này bắt buộc sống lang thang, thường bị bỏ rơi: trẻ em không nhà cửa, không cha mẹ chạy trên các con dường bụi bặm của các trại tỵ nạn, vì không còn nhà ở và nơi nương tựa. Có biết bao trẻ em phải nghe lại những lời “không còn chỗ trong quán trọ” đã được nói với Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse xưa kia. Không có chỗ cho chúng cả trong các chính sách gia đình, trong luật lệ và trong các cuộc đàm phán cho một nền hòa bình không tìm ra đường đến với chúng con, một nền hòa bình không chọc thủng được các bức tường sợ hãi không tin tưởng bao quanh thành phố này. Các người trẻ của chúng con đã theo gót Chúa Giêsu, sống kinh nghiệm di cư, đói khát, lạnh lẽo và thường khi trông thấy nhà cửa của chúng bị phá hủy.
Nhân danh các Giám Mục Công Giáo, nhân dân Palestine và biết bao nhiêu khách hành hương đến Bethlehem như nhà của họ, chúng con cám ơn sự hiện diện của Đức Thánh Cha với chúng con hôm nay cùng với tất cả các trẻ em lành mạnh và tàn tật của nhiều trung tâm ở Bethlehem chúng con cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và gắn bó vời Đức Thánh Cha.
Cộng đoàn đã cùng Đức Thánh Cha hát Kinh Lậy Nữ Vương Thiên đàng. Trước khi ban phép lành cuối lễ Đức Thánh Cha đã đưa ra một sáng kiến bất ngờ chưa từng có. Ngài nói: “Ở nơi Hoàng Tử Hòa Bình đã sinh ra này, tôi ước mong mời tổng thống Mahmoud Abbas và tổng thống Simon Perez cùng tôi dâng một lời cầu nguyện mạnh mẽ khẩn nài Thiên Chúa ban cho ơn hóa bình. Tôi cống hiến nhà tôi ở Vatican để tiếp đón cuộc gặp gỡ cầu nguyện này”. Mọi người đều ước mong hòa bình và biết bao nhiêu người xây dựng nó mỗi ngày với các cử chỉ bé nhỏ. Nhiều người đau khổ và kiên nhẫn chịu đựng sự vất vả của biết bao nhiêu nỗ lực để xây dựng hòa bình. Và tất cả đặc biệt những người được đặt để phục vụ các dân tộc của nình - chúng ta có bổn phận trở thành dụng cụ của hòa bình, trước hết bằng lời cầu nguyện. Xây dựng hòa bình khó, nhưng sống không có hòa bình là một đau đớn. Tất cả mọi người nam nữ của vùng Đất này và toàn thế giới xin chúng ta đem tới trước Thiên Chúa khát vọng hòa bình nồng cháy của họ”.
Mọi người đã vỗ tay tán đồng sáng kiến của Đức Thánh Cha.
Sau cùng Đức Thánh Cha ban phép lành cuối lễ cho tín hữu.
Thăm các cha Dòng Phanxicô Quản thủ Thánh Địa và trại tị nạn
Từ giã mọi người Đức Thánh Cha đã đến nhà khách Casa Nova của các cha Dòng Phanxicô Quản thủ Thánh Địa để dùng bữa trưa với 5 gia đình người tỵ nạn và nghỉ ngơi chốc lát trước khi viếng thăm Vương cung thánh đường và Hang Đá Giáng Sinh.
Sau khi viếng thăm và cầu nguyện tại Hang Đá, Đức Thánh Cha đã trở lại nhà Casa Nova để chụp hình lưu niệm với các tu sĩ Phanxicô. Tiếp đến ngài đi xe đến Trung tâm Phoenix cách đố 5 cây số để gặp gỡ các trẻ em thuộc các trại tỵ nạn. Đây là trung tâm phục hồi cho người tỵ nạn của trại Dheisheh đã được Thánh Gioan Phaolô II tài trợ xây cất và viếng thăm năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm ngài làm Giáo Hoàng. Trong đại thính đường của trung tâm có mấy trăm trẻ em đến từ các trại Sheisheh, Aida và Beit Jibrin. Một bé trai và một bé gái tặng Đức Thánh Cha vài hình vẽ, các thư và đồ thủ công do các em làm. Các em cầm nhiều mảnh giấy có viết các hàng chữ: “Chúng con muốn tự do thờ phượng”, ”Người hồi và người Kitô sống dưới sự chiếm đóng” vv.. Một bé trai đại diện các em chào mừng Đức Thánh Cha và nói lên ước mong của các em được sống trong hòa bình tự do an bình và tình huynh đệ. Em nói:” Thưa Đức Thánh Cha chúng con đã mở mắt chào đời và trông thấy sự chiếm đóng. Chúng con muốn chết trong tự do”.
Các em cũng hát mừng Đức Thánh Cha và bầy tỏ các ước vọng đó. Tiếp đến hai em bé mặc sắc phục Ả rập tặng qùa cho Đức Thánh Cha một bức tranh và một cánh tay bị cột bởi dây xích. Đức Thánh Cha đã chào em bé đại diện và ngài cám ơn các em đã hát rất hay và tặng ngài kỷ niệm rất ý nghĩa.
Ngỏ lời với các em Đức Thánh Cha nói ngài hiểu các ước vọng sâu xa của các em. Nhưng ngài chỉ xin nói với các em một điều: không được dùng bạo lực để đáp trả lại bạo lực. Trái lại cần dùng sự thiện, hòa bình và việc làm kiên trì để trả lời bạo lực. Tiếp đến Đức Thánh đã ban phép lành cho các em.
Lúc 15 giờ 40 Đức Thánh Cha đã đi xe đến bãi đậu trực thăng. Tại đây đã diễn ra lễ nghi từ biệt với sự hiện diện của tổng thống Mahmoud Abbas và các giới chức chính quyền Palestine. Trực thăng chở Đức Thánh Cha tới Tel Aviv để bắt đầu chặng thứ ba của chuyến viếng thăm trên đất Israel.
7. Buổi cầu nguyện đại kết tại Đền Thờ Mộ Thánh
Lần đầu tiên trong lịch sử, ĐTC Phanxicô và các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô khác đã cầu nguyện chung tại Đền Thờ Mộ Thánh ở Jerusalem chiều Chúa Nhật 25-5-2014.
Trong cuộc viếng thăm 3 ngày tại Thánh Địa, chiều ngày 25-5-2014 ĐTC đã từ Bethlehem bay đến Tel Aviv.
Tại đây sau nghi thức tiếp đón với sự hiện diện của tổng thống Shimon Peres và thủ tướng Netanyahu, Đức Thánh Cha đã đáp trực thăng về Jerusalem. Nơi đây, ngài đã gặp và hội kiến riêng với Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, tại tòa Khâm Sứ Tòa Thánh, giống như vị tiền nhiệm của ngài là Đức Phaolô 6 đã gặp Đức Thượng Phụ Athenagoras 50 năm về trước. Trong cuộc gặp gỡ này, hai vị đã ký vào một tuyên ngôn chung bày tỏ quyết tâm tiếp tục hành trình tiến về sự hiệp nhất trọn vẹn, tiếp tục công việc của Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công Giáo và Chính Thống.
Tiếp đến, vào lúc 7 giờ tối, hai vị đến Đền Thờ Mộ Thánh để cử hành buổi cử hành đại kết với sự tham dự của các đại diện Công Giáo, Chính Thống, Amérni, Tin Lành và Anh giáo, các vị Tổng lãnh sự của 5 nước bảo đảm qui luật statu quo của Thánh Địa là Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia và Hy Lạp, cùng với đông đảo khách mời. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một buổi cầu nguyện đại kết được cử hành tại nơi an táng Chúa Cứu Thế.
Sau khi tiến vào Đền thờ Mộ Thánh từ hai cửa khác nhau, ĐTC và Đức Thượng Phụ ôm chào nhau rồi hai vị cùng tiến vào nơi cử hành buổi cầu nguyện giữa tiếng hát của ca đoàn Hy Lạp.
Sau lời chào mừng của Đức Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp của thành Jerusalem, mọi người đã nghe đọc hai đoạn Tin Mừng phục sinh bằng tiếng Hy Lạp (Ga 20,1-9) và La Tinh (Mt 28,1-10), và bài ngỏ lời của Đức Thượng Phụ Bartolomaios, đến lượt ĐTC lên tiếng.
Diễn văn của ĐTC
Ngài nhắc đến cuộc gặp gỡ lịch sử cách đây 50 năm giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Athenagoras, đồng thời chào thăm và cám ơn các vị lãnh đạo Kitô hiện diện. ĐTC nói đến điểm nòng cốt chung của tất cả các tín hữu Kitô, và khích lệ mọi cố gắng tìm về hiệp nhất:
”Thật là một ân phúc đặc biệt được họp nhau cầu nguyện nơi đây. Ngôi mộ trống, ngôi mộ mới ở trong vườn nơi mà Ông Giuse d'Arimatea đã kính cẩn an táng xác Chúa Giêsu, là nơi từ đó đã xuất phát lời loan báo Phục Sinh: ”Các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu chịu đóng đanh. Ngài không ở đây. Ngài đã sống lại như đã nói trước. Vậy các bà hãy đến, hãy nhìn nơi Ngài đã được an táng. Mau lên hãy đi nói với các môn đệ: ”Ngài đã sống lại từ cõi chết” (Mt 28,5-7).
”Lời loan báo này, được củng cố nhờ chứng tá của những người được Chúa Phục Sinh hiện ra, chính là trọng tâm sứ điệp Kitô, được trung thành truyền lại từ đời này sang đời khác, như ngay từ đầu thánh Phaolô Tông Đồ làm chứng (..1 Cr 15,3-4)... Đó là nền tảng đức tin liên kết chúng ta, nhờ đó chúng ta cùng nhau tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô, Con duy nhất của Chúa Cha và là Chúa duy nhất của chúng ta, ”đã chịu khổ nạn dưới thời Quan Phongxiô Philato, chịu đóng đanh, chịu chết và mai táng; xuống ngục tổ tông; ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết” (Kinh Tin Kính). Mỗi người chúng ta, mỗi tín hữu đã chịu phép rửa trong Chúa Kitô, đều sống lại một cách thiêng liêng từ ngôi mộ này, vì trong phép rửa, tất cả chúng ta thực sự được tháp nhập vào Vị Trưởng Tử của toàn thể công trình sáng tạo, được mai táng với Ngài, để cùng Ngài được sống lại và có thể bước đi trong một đời sống mới (Xc Rm 6,4).
”Chúng ta hãy đón nhận ân phúc đặc biệt trong lúc này. Chúng ta hãy sốt sắng mặc niệm cạnh ngôi mộ trống, để tái khám phá ơn gọi Kitô cao cả của chúng ta: chúng ta là những người của sự phục sinh, chứ không phải của sự chết. Từ nơi này, chúng ta hãy học sống cuộc sống của chúng ta, những cơ cực của các Giáo Hội chúng ta và toàn thế giới dưới ánh sáng buổi sáng Phục Sinh. Mỗi vết thương, mỗi đau khổ, mỗi đớn đau, đều được chất trên vai của vị Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã hiến mạng sống mình và qua hy sinh của Ngài, Ngài đã mở đường dẫn đến đời sống vĩnh cửu. Những vết thương mở rộng là những cánh cửa qua đó dòng từ bi của Chúa đổ tràn trên thế giới. Chúng ta đừng để nền tảng niềm hy vọng của chúng ta bị cướp mất! Chúng ta đừng để thế giới bị thiếu Tin Mừng Phục Sinh! Và chúng ta đừng điếc trước tiếng gọi mạnh mẽ hiệp nhất vang dội chính từ nơi này, qua những lời của Đấng Phục Sinh đã gọi tất cả chúng ta là anh em của Ngài” (Xc Mt 28,10; Ga 20,17).
ĐTC nhận xét rằng ”Chắc chắn là chúng ta không thể phủ nhận những chia rẽ vẫn còn giữa chúng ta, là những môn đệ của Chúa Giêsu: nơi thánh này càng làm cho chúng ta đau đớn cảm thấy thảm trạng đó. Tuy nhiên, 50 năm sau vòng tay ôm của hai Người Cha đáng kính của chúng ta, với lòng biết ơn và kinh ngạc, chúng ta hãy nhìn nhận rằng do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể thực hiện những bước tiến thật quan trọng tiến về hiệp nhất. Chúng ta ý thức rằng còn phải tiến trên những con đường khác để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn, sự hiệp thông có thể được biểu lộ qua sự chia sẻ cùng bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta nồng nhiệt ao ước; nhưng những khác biệt không được làm cho chúng ta khiếp sợ hoặc làm tê liệt hành trình của chúng ta. Chúng ta phải tin rằng cũng như có thể lật ngược tảng đá chắn mộ, thì cũng có thể loại bỏ mọi chướng ngại vẫn còn ngăn cản sự hiệp nhất trọn vẹn giữa chúng ta. Thật là một ân thánh phục sinh mà chúng ta có thể nếm hưởng trước. Mỗi lần chúng ta xin lỗi nhau vì những tội đã phạm đối với các tín hữu Kitô khác và mỗi lần chúng ta có can đảm trao ban và nhận sự tha thứ ấy, chúng ta cảm nghiệm sự phục sinh! Mỗi lần chúng ta khắc phục những thành kiến cũ, và có can đảm thăng tiến những quan hệ huynh đệ mới, chúng ta tuyên xưng rằng Chúa Kitô thực sự sống lại! Mỗi lần chúng ta suy nghĩ tương lai của Giáo Hội từ ơn gọi hiệp nhất của Hội Thánh, thì ánh sáng của ban mai Phục Sinh bừng sáng! Về điểm này tôi muốn lập lại mong ước đã được các vị tiền nhiệm của tôi bày tỏ, đó là duy trì một cuộc đối thoại với tất cả mọi anh em trong Chúa Kitô để tìm ra một hình thức thực thi sứ vụ của Giám Mục Roma, phù hợp với sứ mạng của mình, mở ra một tình trạng mới và có thể trong bối cảnh hiện nay làmột sự phục vụ yêu thương và hiệp thông được tất cả mọi người công nhận (Xc Gioan Phaolô 2, Thông điệp Ut unum sint, 95-96).
Tiếp tục bài diễn văn tại buổi cầu nguyện đại kết ở Đền Thờ Mộ Thánh, ĐTC Phanxicô nói:
”Trong khi chúng ta dừng lại tại nơi thánh này như những người hành hương, chúng ta cũng nhớ đến trong kinh nguyện đến toàn vùng Trung Đông, vẫn còn bị bạo lực và xung đột. Và trong kinh nguyện, chúng ta không quên bao nhiêu người nam nữ, tại các nơi khác trên thế giới, đang chịu đau khổ vì chiến tranh, nghèo đói; cũng như nhiều tín hữu Kitô bị bách hại vì đức tin nơi Chúa Phục Sinh. Khi các tín hữu Kitô thuộc các hệ phái khác nhau cùng chịu đau khổ, cạnh nhau, và trợ giúp nhau trong tình bác ái huynh đệ, thì một phong trào đại kết đau khổ, đại kết bằng máu được thực hiện và có hiệu năng đặc biệt không những trong bối cảnh các cuộc bách hại ấy xảy ra, nhưng do sức mạnh của sự thông công giữa các thánh, cho toàn thể Giáo Hội nữa.
”Kính thưa Đức Thượng Phụ, người anh em yêu quí, toàn thể anh chị em quí mến, chúng ta hãy bỏ qua một bên những do dự mà chúng ta thừa hưởng từ quá khứ, và cởi mở tâm hồn cho Thánh Linh tác động, Thánh Thần Tình Thương (Xc Rm 5,5) và Chân Lý (Xc Ga 16,13) để cùng nhau mau lẹ tiến bước hướng về ngày hồng phúc là sự hiệp thông trọn vẹn được tái lập. Trong hành trình đó chúng ta được nâng đỡ bằng lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu, tại thành này, hôm áp ngày chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại, dâng lên Chúa Cha cho các môn đệ và chúng ta không ngừng khiêm tốn nhắc lại như kinh nguyện của chúng ta: ”Xin cho chúng được nên một.. để thế gian tin” (Ga 17,21).
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 24/05 – 29/05/2014 - Phần II: Đức Thánh Cha thăm Jerusalem
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
20:19 29/05/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Đức Thánh Cha Phanxicô đã dành sáng thứ Hai 26 tháng 5, ngày cuối trong 3 ngày viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Thánh Địa, để gặp gỡ các chức sắc Hồi giáo và Do thái giáo, viếng viện Yad Vashem tưởng niệm cuộc diệt chủng và gặp gỡ chính quyền Israel.
Gặp gỡ thủ lãnh Hồi Giáo
Lúc 8 giờ sáng, Đức Thánh Cha giã từ tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Jerusalem nơi ngài qua đêm, để đến viếng thăm vị Đại Giáo Trưởng Hồi giáo tại thành này, cạnh Đền thờ Hồi giáo cách đó 4 cây số. Đền thờ tọa lạc trên một sân hình thang dài gần 500 mét và rộng khoảng 300 mét, chiếm 1 phần 6 diện tích của Cổ Thành Jerusalem. Đây là nơi thánh đối với cả 3 tôn giáo độc thần: người Do thái coi đây là nơi Abraham sát tế con là Isaac và là địa điểm Đền thờ vua Salomon đã xây cất; người Hồi giáo coi đây là nơi thánh thứ 3 của đạo này, sau La Mecca và Medina bên Arập Sauđi, còn đối với các Kitô hữu, đây là nơi Chúa Giêsu đã tiên báo về sự phá hủy Đền thờ Jerusalem.
Trên sân rộng này có 2 Đền Thờ lớn của Hồi giáo được kiến thiết: Thứ I là Đền thờ Mái Vòm đá tảng là đền Hồi giáo cổ kính nhất tại Thánh Địa, lần đầu tiên được xây hồi năm 640 và 47 năm sau đó được thay thế bằng Đền thờ như hiện nay, có hình bát giác, 8 phía đều được trang điểm bằng ngọc quí, và phần dưới bằng cẩm thạch đa sắc. Vật liệu xây cất Đền thờ này lấy từ các thánh đường và đền đài trước đó thời Bizantine và Roma. Thứ II là Đền thờ Al-Aqsa được kiến thiết hồi thế kỷ thứ 8 và đã trải qua nhiều lần tái thiết.
Đến nơi, Đức Thánh Cha đã viếng thăm Đại Giáo Trưởng thành Jerusalem và toàn Palestine là Sheik Muhamad Agmad Hussein, và vị Tổng giáo đốc Hội đồng bảo trì các gia sản Hồi giáo, đón tiếp và hướng dẫn viếng thăm.
Vị Đại Giáo Trưởng nói với Đức Thánh Cha rằng: “Hòa bình chỉ có thể khi chấm dứt mọi cuộc chiếm đóng của Israel và khi dân tộc Palestine được tự do và mọi quyền của mình”.
Trong lời chào vị Đại Giáo Trưởng Hồi giáo, Đức Thánh Cha cho biết ngài đến viếng thăm các nơi đã ghi dấu vết sự hiện diện trần thế của Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cuộc hành hương sẽ không trọn vẹn nếu không gặp gỡ những người và cộng đoàn sống tại phần đất này.
Nhắc đến tổ phụ Abraham vốn được cả người Hồi giáo, Kitô và Do thái nhìn nhận, tổ phụ đã sống tại đất này như người lữ hành, bỏ dân chúng, nhà cửa để thực hiện cuộc phiêu lưu tinh thần mà Chúa gọi Người thực hiện. Đức Thánh Cha nói:
“Lối sống của Abraham cũng phải là thái độ tinh thần của chúng ta. Không bao giờ chúng ta có thể tự mãn, coi mình là chủ tể cuộc sống của chúng ta; chúng ta không thể giới hạn vào mình, khép kín, chắc chắn trong những xác tín của chúng ta. Đứng trước mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy mình phải luôn sẵn sàng ra khỏi chính mình, ngoan ngoãn đối với tiếng gọi mà Thiên Chúa gửi đến chúng ta, cởi mở đối với tương lai mà Chúa muốn xây dựng cho chúng ta”.
Sau cùng Đức Thánh Cha tha thiết kêu gọi những con người và cộng đoàn nhìn nhận mình là con cháu Abraham: “Chúng ta hãy tôn trọng và yêu thương nhau như anh chị em! Chúng ta hãy học hiểu đau khổ của người khác! Ước gì không người nào lạm dụng danh Thiên Chúa để thi hành bạo lực! Chúng ta hãy cùng nhau làm việc cho công lý và hòa bình!”.
Viếng Bức Tường Than Khóc
Giã từ các vị lãnh đạo Hồi giáo vào lúc 9 giờ sáng, Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng tiến sang bức tường Phía Tây quen gọi là Bức tường than khóc, chỉ cách đó 1 cây số. Đây là di tích còn lại của bức tường phía tây của Sân Đền thờ Jerusalem. Khi vua Hêrôđê cho tu bổ Đền thờ này, ông cho nới rộng khu vực chung quanh và trong dịp đó ông canh tân bức tường nâng đỡ Sân. Tường cao 15 mét và được tu bổ trong những thời kỳ kế tiếp. Về mặt tinh thần, Bức tường phía tây này là nơi thờ phượng trung tâm của Do thái giáo, vì những lý do lịch sử và tôn giáo, với nhiều phong tục, như thói quen nhét những mảnh giấy trên đó có viết những ước vọng và kinh nguyện vào các kẽ hở giữa các viên đá của tường.
Đến khu vực Bức tường phía tây, Đức Thánh Cha đã được vị Rabbi Trưởng và ông Chủ tịch của Hội đồng quản trị nơi thánh, đón tiếp và tháp tùng đến gần Bức tường. Tại đây ngài dừng lại cầu nguyện nồng nhiệt trong thinh lặng, tay phải ngài đặt trên tường. Rồi ngài đọc kinh Lạy Cha ngài tự tay viết bằng tiếng Tây Ban Nha, trước khi nhét vào khe trong tường.
Hai người bạn tháp tùng Đức Thánh Cha từ Argentina là Rabbi Do thái Abraham Skorka và giáo sư Hồi giáo Omar Abboud, cũng đi gần ngài tại bức tường. Họ tiến đến ôm Đức Thánh Cha thật là cảm động.
Trước khi rời khu vực Bức Tường Than Khóc, Đức Thánh Cha đã ghi vào sổ vàng lưu niệm câu ”Tôi đến để cầu nguyện và tôi xin Chúa ban ơn hòa bình”.
Đặt vòng hoa tại Mộ Theodore Herzl
Liền đó, ngài dùng xe lên núi Herzl cách đó 4 cây số để đặt vòng hoa tưởng niệm, theo nghi thức ngoại giao của Nhà Nước Israel, theo đó mỗi vị Quốc trưởng nước khác đến viếng thăm, đều được mời đặt vòng hoa tại mộ của ông Theodor Herzl, người sáng lập Phong trào Sion tại Hội nghị ở Basel Thụy Sĩ năm 1897, cổ võ dân Do thái hồi cư lập quốc.
Đến nghĩa trang, Đức Thánh Cha đã được tổng thống và thủ tướng đón tiếp và tháp tùng lên tới lăng của Ông Herzl. Tại đây, hai thiếu niên đã giúp Đức Thánh Cha đặt vòng hoa tại mộ.
Khi thấy Đức Thánh Cha đặt tay cầu nguyện tại bức tường ngăn cách mà Israel dựng lên tại Bethlehem, thủ tướng Netanyahu đã xin ngài cũng viếng bia tưởng niệm các nạn nhân của nạn khủng bố gần đó mộ ông Herl và ngài đã nhận lời thực hiện cử chỉ này.
Viếng viện Yad Vashem
Đức Thánh Cha đến Viện bảo tàng Yad Vashem tưởng niệm cuộc diệt chủng Do thái, chỉ cách mộ ông Herzl khoẳng 800 mét.
Đến nơi Đức Thánh Cha đã được vị giám đốc trung tâm tiếp đón và hướng dẫn vào phòng tưởng niệm, trên nền có ghi tên 21 trại tập trung thời Đức quốc xã. Tại đây cũng có tổng thống, thủ tướng Israel và Rabbi chủ tịch Hội đồng viện Yad Vashem.
Đức Thánh Cha đã thắp lên ngọn lửa và được hai thiếu niên Công Giáo giúp đặt vòng hoa tưởng niệm, trước khi nghe một đoạn sách Cựu Ước.
Lên tiếng trong dịp này, Đức Thánh Cha đã trình bày một suy tư thật cảm động, vì ngài rất nhạy cảm đối với sức mạnh của sự ác vô nhân đạo, trách nhiệm của con người và những cơ chế tội lỗi - như Đức Gioan Phaolô 2 đã nói - chúng chống lại phẩm giá con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của ngài. Chúng dựa trên sự tôn thờ con người, từ chối Thiên Chúa. Theo nghĩa đó, Viện tưởng niệm này là ký ức về hành trình mà con người thực hiện.
Và Đức Thánh Cha kết luận với lời nguyện: ”Công lý thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự ô nhục ở trên khuôn mặt chúng con (Xc Bar 1,15). Xin Chúa cứu chúng con khỏi tội ác kinh khủng này. Xin nhớ đến chúng con trong lượng từ bi Chúa. Xin ban cho chúng con ơn xấu hổ về những gì chúng con có thể làm như là con người, ơn xấu hổ vì sự tôn thờ thần tượng kinh khủng này, vì đã coi rẻ và tàn phá thân xác chúng con, thân xác mà Chúa đã dựng nên từ bùn, và ban cho hơi thở sinh động. Lạy Chúa, không bao giờ nữa!”
Đức Thánh Cha đã chào thăm một số người sống sót và ký vào sổ lưu niệm.
Viếng thăm hai vị Đại Rabbi Do thái
Tiếp tục các cuộc gặp gỡ và viếng thăm sáng ngày 26-5-2014, Đức Thánh Cha đã đến Trung Tâm Heichal Schlomo cách viện Yad Vashem 7 cây số để chào thăm 2 vị Đại Rabbi của Do thái giáo. Trung tâm này tọa lạc cạnh Đại Hội đồng Do thái Jerusalem.
Đại Rabbi Askenazi Yona Metzger năm nay 61 tuổi và Đại Rabbi Sefardita là Shlom Amar năm nay 66 tuổi. Trong dịp gặp gỡ, Đức Thánh Cha cho biết ”Giáo Hội Công Giáo hoàn toàn nhìn nhận các căn cội Do thái trong đức tin của mình và tôi tin tưởng rằng với sự trợ giúp của quí vị, từ phía Do thái, không những có sự duy trì nhưng còn gia tăng ước muốn, đặc biệt nơi các thế hệ trẻ, tìm hiểu thêm về Kitô giáo, ngay cả tại phần đất được chúc phúc này, trong đó Kitô giáo nhìn nhận căn cội của mình. Sự hiểu biết gia sản tinh thần của mình, quí chuộng những gì chúng ta có chung với nhau và tôn trọng những gì khác biệt giữa chúng ta, có thể là yếu tố hướng dẫn để phát triển thêm các quan hệ giữa chúng ta”.
Thăm Tổng Thống Shimon Peres
Kế đến Đức Thánh Cha đến dinh Tổng thống Israel để viếng thăm Tổng thống Shimon Peres. Khi vào dinh, ngài được tổng thống giới thiệu một số trẻ em bị ung thư ở giai đoạn cuối đời vì các em ước muốn được gặp ĐGH trước khi qua đời.
Hai vị đã hội kiến riêng trước khi tiến ra vườn bên ngoài. Tại đây ngài đã trồng một cây ôliu kỷ niệm, rồi viếng thăm vườn và ra trước ra lễ đài đơn sơ, với phần trao đổi diễn văn, trước sự hiện diện của một ca đoàn nữ sinh và nhiều quan khách khác.
Trong diễn văn nồng nhiệt trước tổng thống Israel, Đức Thánh Cha bày tỏ lòng quí chuộng đối với thái độ và những nỗ lực của ông trong việc bệnh vực hòa bình. Ngài cũng nhắc đến tầm quan trọng của thành Jerusalem đối với 3 tôn giáo độc thần. Ngài cũng nói rằng: ”Các nơi thánh không phải là những viện bảo tàng hoặc dinh thự cho các du khách, nhưng là nơi mà các cộng đồng tín hữu sống đức tin, sống văn hóa của mình và thực thi những sáng kiến bác ái. Cần phải bảo tồn tính chất thánh thiêng của các nơi ấy, không phải chỉ bảo vệ gia sản quá khứ, nhưng cả những con người viếng thăm các nơi ấy nữa.
Và Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định rằng: ”Về vấn đề này tôi lập lại mong ước làm sao để mọi người tránh những sáng kiến và những hành vi trái ngược với ý chí đã được bày tỏ để đạt tới một hiệp định thực sự và không ngừng quyết tâm theo đuổi hòa bình phù hợp với những điều tuyên bố. Cần quyết liệt loại bỏ tất cả những gì đi ngược sự theo đuổi hòa bình và sự sống chung trong niềm tôn trọng nhau giữa các tín hữu Do thái, Kitô, và Hồi giáo; việc sử dụng bạo lực và khủng bố, bất kỳ loại kỳ thị nào vì lý do chủng tộc hoặc tôn giáo, chủ trương áp đặt quan điểm của mình gây thiệt hại cho các quyền của người khác, chủ trương bài do thái dưới tất cả mọi hình thức, cũng như bạo lực hoặc những biểu thị bất bao dung chống lại con người và các nơi thờ phượng của Do thái, Kitô và Hồi giáo”.
Sau cùng, Đức Thánh Cha nhắc đến sự kiện tại quốc gia Israel có nhiều cộng đoàn Kitô sinh sống. Họ là thành phần trọn vẹn của xã hội và tham gia với đầy đủ danh nghĩa vào các sinh hoạt xã hội, chính trị và văn hóa. ”Các tín hữu Kitô mong muốn đóng góp cho công ích từ căn tính của mình, và xây dựng hòa bình, như những công dân với đầy đủ danh nghĩa, họ loại bỏ mọi thái độ cực đoan, và họ dấn thân thực thi hòa giải và hòa hợp. Sự hiện diện của họ và sự tôn trọng các quyền của họ là bảo đảm một sự đa nguyên lành mạnh và là bằng chứng về sức sinh động của các giá trị dân chủ, sự ăn rễ sâu của các giá trị nạn trong đời sống cụ thể của quốc gia”.
Giã từ tổng thống Shimon Peres của Israel, Đức Thánh Cha Đến Trung Tâm Đức Bà của Tòa Thánh. Nhà này nguyên thủy do các cha Dòng Đức Bà lên trời người Pháp thành lập hồi năm 1884 trên khu đất rộng 4 ngàn mét vuông để làm nơi tiếp đón các tín hữu hành hương người Pháp đến Thánh Địa. Tại đây đó 144 phòng và 2 phòng hội lớn, một thính đường 500 chỗ.
Năm 1973, vì các cha dòng Đức Bà Lên Trời bán trung tâm này, nên Tòa Thánh đã thủ đắc và biến thành một trung tâm quốc tế. Đức Gioan Phaolô 2 đổi tên thành Trung Tâm Đức Bà ở Jerusalem. Và năm 2004, Ngài ủy thác cho các cha dòng Đạo Binh Chúa Kitô đảm trách.
Tại Trung Tâm, vào lúc gần 1 giờ rưa, Đức Thánh Cha đã tiếp kiến riêng và hội kiến với thủ tướng Israel, Ông Netanyahu, trước khi dùng bữa trưa với đoàn tùy tùng.
Đức Thánh Cha trở lại Rôma
Lúc 8 giờ tối thứ Hai 26 tháng 5, Tổng thống Israel Shimon Peres và Thủ tướng Benjamin Netanyahu đã tiễn Đức Thánh Cha ra tận chân thang máy bay trong một lễ nghi từ biệt dành cho quốc khách.
Trên đường đến đường băng, hai đoàn đại biểu Vatican và Israel đã trao đổi những lời cám ơn và tạm biệt.
Thủ tướng Netanyahu đã nói một vài lời cuối cùng trước khi Đức Giáo Hoàng lên máy bay.
“Thưa Đức Thánh Cha, cảm ơn ngài đã nói về cuốn sách của cha tôi. Tôi thực sự rất biết ơn”.
Đức Thánh Cha đáp:
“Đó là một cuốn sách rất hay”
“Xin chúc Đức Thánh Cha đi bằng an. Chúng tôi cầu nguyện cho ngài và xin ngài cũng cầu nguyện cho chúng tôi.”
Sau 20 phút bịn rịn, lúc 20:20 giờ địa phương chiếc máy bay của hãng hàng không El Al đã cất cánh kết thúc cuộc hành hương của Đức Giáo Hoàng đến Đất Thánh.
Cuộc phỏng vấn trên chuyến bay từ Giêrusalem về Rôma
Bất chấp những mệt mỏi sau một lịch trình dày đặc của cuộc hành hương kéo dài ba ngày tại Thánh Địa, trên chuyến bay trở về từ Giêrusalem vào tối thứ Hai 26 tháng 5, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cuộc họp báo với các ký giả theo thể thức hỏi đáp với những câu hỏi tự phát.
Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết sẽ gặp lần đầu tiên với tám nạn nhân của lạm dụng tình dục tại tại nhà nguyện Santa Marta. Đức Hồng Y Sean O'Malley sẽ cùng tham gia với ngài trong cuộc họp riêng sẽ diễn ra trong những ngày đầu tiên của tháng Sáu. Trong quá khứ, từ năm 2008, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã có nhiều cuộc gặp gỡ với các nạn nhân bị xâm phạm tính dục và cũng có sự hiện diện của Đức Hồng Y Sean O'Malley.
Tối thứ Hai theo giờ miền Đông Hoa Kỳ, Terrence Donilon, phát ngôn viên của Tổng Giáo Phận Boston cho biết:
"Giáo Hội hoàn vũ và cộng đồng quốc tế tiếp tục được chúc phúc bởi vai trò lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong việc ứng phó với những sự kiện bi thảm liên quan đến lạm dụng tình dục trẻ em bởi các giáo sĩ. Đức Hồng Y Sean O'Malley mong muốn hỗ trợ nỗ lực này bởi Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong bất cứ cách nào hữu ích nhất.''
Đức Thánh Cha mô tả tội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên như “một tội ác nghiêm trọng” và đã nhắc lại chính sách “zero tolerance” của Giáo Hội, nghĩa là hoàn toàn không khoan dung với những ai lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Ngài phủ nhận cáo buộc nói rằng có một số giáo sĩ được hưởng những biệt lệ nhất định. Ngài tiết lộ rằng ba vị giám mục hiện đang bị điều tra vì những cáo buộc bao che cho sự lạm dụng.
Đức Thánh Cha nói:
"Một linh mục phạm vào điều này là phản bội là nhiệm thể của Chúa, bởi vì các linh mục cần phải dẫn cậu bé này, cô gái này , người thanh niên này, người phụ nữ trẻ này nên thánh. Và cậu bé này, cô gái này tin tưởng nơi vị linh mục. Thế mà, thay vì đưa họ đến sự thánh thiện, lại lạm dụng họ.”
Đức Thánh Cha so sánh tội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên giống như việc một linh mục lại dâng lễ đen để thờ phượng Satan.
Liên quan đến việc giải quyết những bê bối tài chính tại Vatican, Đức Thánh Cha nói rằng sẽ luôn có những vụ bê bối, bởi vì con người trước hết là những kẻ có tội. Nhưng ngài nói thêm rằng sự trung thực và minh bạch là chìa khóa để quản lý kinh tế tốt. 1600 trương mục đã bị loại vì theo Đức Thánh Cha chủ các trương mục này “không phải là các viên chức hay các tổ chức của Giáo Hội”.
Khi được hỏi về luật độc thân linh mục, Đức Thánh Cha giải thích rằng đời sống độc thân trong chức linh mục không phải là một "tín lý", mà là một "quy tắc của cuộc sống" mà ngài đánh giá cao và coi đây là "một hồng ân cho Giáo Hội." Nhưng có những ưu tiên khác mà Giáo Hội phải quan tâm nhiều hơn.
Khi được hỏi nếu ngài có thoái vị như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết ngài sẽ lắng nghe ý Chúa.
Đức Thánh Cha nói:
"Bảy mươi năm trước đây giám mục hiệu tòa không tồn tại. Hôm nay chúng ta có rất nhiều. Tại sao lại không có những Giáo Hoàng danh dự? Tôi nghĩ rằng chúng ta nên nhìn vào nó như là một cơ chế mà Đức Giáo Hoàng danh dự đã mở ngỏ. Sẽ có thêm một vị Giáo Hoàng danh dự nữa chăng? Chỉ có Chúa mới biết. Nhưng cánh cửa đã được mở ra."
Về vấn đề của người Công Giáo đã ly dị và tái hôn, Đức Giáo Hoàng nói rằng những người này không nên bị xem như "khách lạ." Ngài cũng nói thêm rằng những vấn đề như thế sẽ được giải quyết trong Thượng Hội Đồng về gia đình, khi xem xét những khía cạnh như sự hiệp thông và quá trình cứu xét việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu của các tòa án hôn phối.
Nói về những thách đố khác mà Giáo Hội phải đối mặt ngày hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên án một lần nữa cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, và thứ văn hóa "vứt bỏ" do nó tạo ra . Tuy nhiên, bên cạnh những người già và những người vô phương tự vệ, ngài cũng đã nói về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay trên con số đông đảo các thanh thiếu niên trên toàn thế giới .
Đức Thánh Cha nói:
"Điều này có nghĩa rằng có một thế hệ thanh niên không được học tập và làm việc, và điều này là rất nghiêm trọng. Cả một thế hệ những người trẻ tuổi bị vứt bỏ. Cái thứ văn hóa vứt bỏ này là rất nghiêm trọng."
Trong cuộc họp báo, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhấn mạnh rằng đối thoại là cách duy nhất để đạt được hòa bình tại Thánh Địa . Ngài nói thêm rằng cuộc đối thoại này cũng quyết định về tình trạng của Giêrusalem, là thủ đô của ba tôn giáo độc thần lớn trên thế giới là Công Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo.
Cuối cùng , Đức Giáo Hoàng cũng khẳng định rằng ngài sẽ tông du đến châu Á không chỉ trong tháng Tám, nhưng còn vào đầu năm tới nữa. Ngài sẽ thăm Hàn Quốc trong một vài tháng tới, sau đó, vào tháng Giêng, ngài sẽ đến Sri Lanka và Phi Luật Tân, nơi Đức Thánh Cha sẽ thăm những khu vực bị tàn phá bởi cơn bão năm ngoái.
Đức Thánh Cha đã về tới Rôma lúc quá 11 đêm thứ Hai 26 tháng 5.
Đức Thánh Cha Phanxico đến viếng Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả để tạ ơn
Đức Thánh Cha Phanxico đã đến viếng Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả vào buổi sáng thứ ba để Tạ ơn Đức Mẹ về những thành quả từ chuyến tông du của Ngài đến Đất Thánh.
Đức Thánh Cha trở về Vatican vào tối thứ hai sau chuyến viếng thăm ba ngày vất vả tại Jordan, Palestine và Israel.
Đức Hồng Y Abril y Castello, giám quản Vương Cung Thánh Đường cho biết Đức Thánh Cha đến nhà Thờ Đức Bà Cả lúc khoảng 11 giờ sáng với một bó hoa dâng Đức Mẹ để tạ ơn về kết quả tốt đẹp của chuyến đi vừa qua và trao phó cho Mẹ hoa trái của chuyến hành hương của Ngài. Sau khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng nói đôi lời chào mừng những người hiện diện tại Đền thờ trước khi Ngài rời khỏi đó lúc 11.30 sáng.
Đức Thánh Cha cũng đã đến thăm viếng Đền thờ mà chẳng báo trước vào sáng thứ sáu trước khi Ngài khởi hành cuộc hành hương Đất thánh. Ngài cũng đã làm điều tương tự như vậy trước cuộc hành trình đến Brazil vào tháng 7 năm 2013. Cuộc viếng thăm hôm nay ở Đền Thờ Đức Bà Cả của Đức Giáo Hoàng là lần thứ chín kể từ khi Ngài làm Giáo Hoàng.
Buổi triều yết chung sáng thứ Tư 28 tháng Năm
Trong buổi triều yết chung sáng thứ Tư 28 tháng Năm trước hàng mấy chục ngàn tín hữu và khách hành hương, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về chuyến thăm gần đây của ngài đến Thánh Địa. Ngài nhấn mạnh rằng cuộc hành trình trong mấy ngày qua là sự canh tân cam kết hoạt động cho sự hiệp nhất Kitô giáo và khuyến khích các nỗ lực hòa bình và hòa giải ở Trung Đông .
Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến
Cuộc tông du của tôi đến Thánh Địa trong những ngày này là một hồng ân lớn lao Chúa đã ban cho tôi và cho toàn thể Giáo Hội. Chuyến đi này là để kỷ niệm lần thứ năm mươi cuộc họp giữa Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục và Đức Thượng phụ Đại kết Athenagoras. Biến cố ấy là một mốc quan trọng trên con đường hiệp nhất Kitô giáo. Đức Thượng Phụ Barthôlômêô và tôi đã cầu nguyện với nhau như anh em trước ngôi mộ của Chúa Phục Sinh và chúng tôi nhắc lại cam kết của chúng tôi dấn thân cho sự hiệp thông trọn vẹn giữa hai Giáo Hội. Cuộc hành trình của tôi cũng nhằm để khuyến khích những nỗ lực của những người thiện chí đang dấn thân cho hòa bình ở Trung Đông và những người đang chăm sóc cho những người tị nạn và trẻ em, và những ai chịu ảnh hưởng của chiến tranh và bạo lực. Như anh chị em đã biết , tôi đã mời Tổng Thống Israel và Palestine cùng tôi cầu nguyện cho hòa bình.
Cuối cùng, tôi muốn củng cố đức tin của các cộng đoàn Kitô hữu ở Thánh Địa, ghi nhận những khó khăn của họ và hỗ trợ họ trong các công việc từ thiện và giáo dục. Cầu xin cho những lời cầu nguyện và sự liên đới của toàn thể Giáo Hội có thể giúp duy trì chứng tá của họ cho sứ điệp vui mừng và hoà giải của Tin Mừng, và giúp đem hồng ân hòa bình của Thiên Chúa trong những vùng đất đã được Chúa chúc phúc .
Tôi rất vui mừng chào đón các thành viên của Ủy ban Di dân Công Giáo quốc tế đang nhóm phiên khoáng đại tại đây với những lời chúc tốt đẹp cho những hoạt động liên đới của họ trong việc cung cấp những trợ giúp cần thiết cho rất nhiều anh chị em của chúng ta đang lúc quẫn bách. Tôi cũng chào đón hiệp hội Cảnh sát Công Giáo của Anh và xứ Wales đã được thành lập trên một trăm năm nay, và các thành viên của Tổ chức Các nhà lập pháp toàn cầu . Xin niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh tuôn đổ trên toàn thể anh chị em.






