Ngày 21-09-2010
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Tâm Sự Với Chúa Mỗi Ngày
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
05:50 21/09/2010
Trò chuyện với Chúa mỗi ngày như Người Bạn # 10

“TÂM SỰ VỚI CHÚA LUÔN NHƯ HƠI THỞ”

Thưa Thầy Giêsu, trong Thần Khí của Cha con đến gặp Thầy, Thầy muốn con cộng tác, trách nhiệm với Hội Thánh của Thầy và cùng với niềm hy vọng lớn lao của dân thánh Thầy.

1- Con không khoanh tay ngồi chờ để mong Thầy giúp, đừng thụ động, trốn trách nhiệm, chỉ biết nhìn để kêu cứu mà không nhìn tới để tiến lên, nhìn quanh để chia sẻ, gánh vác với anh em !

2- Niềm hy vọng đang ở giữa con mà con không hay. Con không trông đợi một cuộc sống khac. Con hoàn toàn sống trong hiện tại, vì Thầy đang ở bên muốn tâm sự với con mà con không để ý !

3- Con chăm lo đến tha nhân; nhưng con nên nhờ rằng luôn với Cha và vì Thầy. Con hết sức tiến tới về phía trước; nhưng luôn dưới sự dẫn dắt Thần Khí Cha, ánh sáng từ trời cao chiếu toả.

4- Con dấn thân giữa trần thế với tình yêu của Thần Linh Cha. Tất cả những điều ấy có ý nghiã gì, nếu không mang niềm hy vọng lớn lao vào lòng thương xót của Cha trong trái tim con.

5- Con luôn giúp người Tín hữu sống đạo trưởng thành là dẫn họ biết nghe Lời Cha để thi hành, họ không chán nản trước cuộc sống hiện tại, và luôn tràn trề hy vọng vào tình thương của Cha.

6- Với ơn của Thầy, con sẽ giúp người Tín hữu không chỉ giữ đạo bằng việc đi nhà thờ, đọc kinh, mà còn đem niềm hy vọng của họ vào môi trường của cuộc sống, nhờ các việc thiêng liêng.

7- Con quyết tâm giật cho được giải, dù con yếu đuối, ngã quị. Con tiếp tục làm lực sĩ trên võ đài, chạy cho tới đích trong vận động trường vĩnh cửu, vì có Thầy Giêsu cùng đồng hành với con.

* Dù con bị thương tích; nhưng con đứng dậy và hy vọng đoạt giải.

Phó tế: GB. Maria: Nguyễn Định
 
Giảng Lễ Trung Thu
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
05:51 21/09/2010
Chú Cuội

Ngày tết Trung thu người ta hay nói về Chú Cuội ngồi gốc cây đa và ôm cả một mối lo. Như bài hát đã từng được nhiều người ưa thích: “ ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già ôm một mối lo”. Vậy chú Cuội là ai?

Chú Cuội theo chuyện thần thoại của Trung Quốc tên là Ngô Cương. Xưa kia Ngô Cương đã tu và đắc đạo thành tiên, nhưng sau vì làm nhiều điều xằng bậy trên thiên đình đã bị Ngọc hoàng nổi giận, bắt đày xuống cung trăng, trao cho việc chặt và bóc vỏ cây quế đỏ. Thế nhưng cây quế đỏ này lại cứng như thép, nên ngô Cương chặt mãi, bóc hoài cho đến bây giờ cũng chẳng xong. Vì vậy mỗi đêm nhìn lên mặt trăng, chúng ta mới thấy bóng Ngô Cương đang lúi húi ở dưới gốc cây quế.

Còn ở Việt chúng ta thì Ngô Cương lại chính là chú Cuội. Và cái bóng mà người Trung quốc gọi là cây quế đỏ, thì lại chính là cây đa thần. Vì thế mới có câu:

- Thằng cuội ngồi gốc cây đa,

Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.

Cha còn cắt cỏ trên trời,

Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.

Chú Cuội theo truyền thuyết. Đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, chú phải coi nhà. Buồn tình, chú bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh:

- Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.

Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, chú bèn cười ngặt nghẹo đến vãi cả nước mắt. Lần khác, chú ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Chú cũng kêu la thất thanh:

- Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.

Thế nhưng, lần này chẳng một ma dại nào đến tiếp cứu cho chú cả. Vì thế, dân gian mới bảo:

- Bắc thang lên đến tận mây,

Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.

Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười,

Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.

Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà chú Cuội bỗng trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt: nói dối như cuội. Hay nói một đàng làm một nẻo: hứa cuội có nghĩa là hứa lèo, hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được đí gì sốt, đầu voi đuôi chuột, trăm voi không được một bát nước xáo.

Tại sao ngày tết Trung thu mà người ta lại kể chuyện về chú cuội, một đứa trẻ hư đốn trong ngày vui của các em? Có lẽ không phải tình cờ hay ngẫu nhiên, vì kho tàng văn học cổ tích là tiếng nói của khát vọng con người vươn tới sự hoàn thiện. Cha ông kể chuyện về chú cuội để răn đời, để dạy con cháu, đừng sống như chú cuội kẻo phải ôm gốc c ây đa cả đời. Vì ngày tết Trung thu được xem là ngày tết của thiếu nhi, của tuổi thần tiên, nên cha ông ta đã dùng rất nhiều những câu chuyện thần tiên để hướng các em tới sự hoàn hảo nhất của con người.

Theo Tin mừng, Chúa Giêsu luôn yêu thích tâm hồn trẻ thơ, Ngài luôn tìm dịp để gần gũi các em, Ngài không chỉ yêu mến, chúc lành và bênh vực mà hơn thế nữa còn lấy trẻ nhỏ làm khuôn vàng thước ngọc cho người l ớn phải noi theo:

- Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước trời đâu.

Nhìn vào trẻ nhỏ chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu nhân đức cao đẹp.Trước hết, nơi trẻ thơ không có sự gian dối chỉ có đơn sơ chân thành.

Thực vậy, trẻ thơ cần phải luôn đơn sơ chân thành, không ăn gian nói dối như Cuội. Kinh nghiệm cha ông ta vẫn nói:

- Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Thế nhưng ngày nay nhiều trẻ thơ đã nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật. Điều đó đã làm cho các em đánh mất tuổi thơ của mình. Nếu một em bé đã nhiễm thói ăn gian nói dối là tự mình đánh mất tuổi thơ, đánh mất vẻ hồn nhiên tươi vui sẽ làm cho con người ra già cỗi, và tự đầy đoạ mình như chú Cuội, suốt đời ôm một mối lo.

Thứ đến, nơi trẻ thơ không có hận thù, bạo lực mà chỉ có một tình yêu thương dạt dào và không biên giới.

Mẩu chuyện mang tựa đề “Đứa bé của hòa bình”, trong mục nghệ thuật sống của báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, đ ã k ể r ằng:

“…Hôm ấy, tôi được trao nhiệm vụ đi thám thính cho bộ lạc của mình. Sau ba ngày đêm ròng rã, tôi phát hiện một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ bằng bàn tay trên vách. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi bên bếp lửa và một thằng bé chưa đầy hai tuổi đang chơi cạnh đó. Với bước chân đi chập chững, nó đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc sâu vào nồi xúp, rồi nó bắt chước người lớn khuấy đi khuấy lại nhiều lần. Bất thần đứa bé quay sang nhìn đúng ngay cái lỗ mà tôi đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng lúc bố mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi, rồi múc lấy một ít xúp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết. Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại của kẻ thù…Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức thì dừng lại…Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một giây. Nó là ai? Tại sao nó lại can đảm múc xúp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó? Sức mạnh thiêng liêng nào đã thúc đẩy nó làm như vậy? Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng bé, nó phải được sống trong trận càn quét sắp tới. Tôi chợt nảy ra ý định phải quay trở lại tức khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc mình. Thế nhưng thú thật là tôi không thể làm như vậy vì thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng. Nghĩ như vậy, tôi quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào, ngồi bên bếp lửa. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ bưng xúp để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc của tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít xúp, phùng má thổi phù phù cho bớt nóng, rồi mới đưa vào tận miệng tôi. Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích của mình và bảo họ: trước tiên vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm gì hại đến gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau mau lánh nạn đi ở chỗ khác. Không sớm thì muộn, bộ lạc chúng tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra. Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi chính là hình ảnh thằng bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa may chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Mùi tử khí trong tôi đã được thay thế bằng mùi xúp thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi. Tôi đã từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một “đứa bé của hòa bình” như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta”.

Vâng, hôm nay trẻ thơ đang bị đánh cắp tuổi thơ. Bạo lực xảy ra khắp nơi. Ngay ở gia đình là nôi hạnh phúc cũng trở thành bãi chiến trường của cha, của mẹ. Trẻ thơ đã sớm thấy cảnh thượng cẳng chân, hạ cẳng tay của những người thân trong gia đình và nhất là trên truyền hình thì lại càng đầy dẫy những cảnh bạo động với máu đổ lênh láng trên đường. Một thế giới đổ nát như thế làm sao dạy cho các em sống yêu thương và khao khát hoà bình? Đó chính là trách nhiệm của những người làm cha làm me, và các nhà giáo dục phải trả lời trước lương tâm của mình.

Hôm nay ngày tết của tuổi thơ, chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các em thiếu nhi trong giáo xứ biết gìn giữ nét đẹp tuổi thơ của mình bằng việc luôn sống đơn sơ ngoan hiền, luôn vâng lời cha mẹ và sống chân thật để được Chúa luôn yêu thương, và chúc lành. Chúng ta cũng cầu xin cho mọi người trên thế giới biết sống hoà thuận với nhau, để cùng nhau kiến tạo nền hoà bình trên địa cầu này, nhất là các bậc cha mẹ luôn biết sống yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho nhau để tuổi thơ được an vui sống trong vòng tay yêu thương của cha, của mẹ. Amen

Jos Tạ duy Tuyền
 
Quy luật của sự sống
LM Inhaxiô Trần Ngà
10:26 21/09/2010
Chúa nhật 26 thường niên (Lc 16, 19-31)

Tội của lão phú hộ là tội gì? Xem ra, lão chẳng làm gì nên tội. Lão chẳng trộm cắp, cướp giật của ai; lão chẳng đánh đập hay chửi mắng La-da-rô… Vậy tại sao lão lại sa vào chốn cực hình? Hay là vì lão quá giàu? Giàu đâu phải là tội!

Thật ra, lão phú hộ phải sa hoả ngục không phải vì lão giàu có, không phải vì lão đánh đập hay chửi mắng La-da-rô, mà chỉ vì lão là người ích kỷ, chỉ chăm lo bản thân mình mà không quan tâm đến người khác, chỉ biết thu tích cho riêng mình mà không biết chia sẻ cho tha nhân. Tội của lão là tội ích kỷ và chính sự ích kỷ nầy là nguyên nhân khiến sau nầy lão phải đau thương khốn đốn.

Quy luật của sự sống là có nhận có trao. Quy luật sống là mình sống cho mọi người và mọi người sống cho mình. Nếu ai đi ra ngoài quy luật đó là tự hại mình và tự chuốc lấy cái chết.

Trước hết, ta thử xem quy luật nầy được áp dụng trong phạm vi nhỏ là cơ thể. Để duy trì sự sống cho thân thể, tất cả mọi thành phần trong thân mình đều phải vận hành theo quy luật nhận và trao.

Quả tim sau khi đã nhận máu thì liền bơm máu cho khắp châu thân, nhờ đó toàn thân được sống và lớn mạnh. Nếu có ngày nào quả tim tỏ ra ‘ích kỷ’, không chuyển máu nuôi toàn thân mà chỉ giữ lại cho riêng mình, thì đó là ngày tận cùng của nó và cũng là ngày hấp hối của toàn thân.

Hai lá phổi của chúng ta cũng thế. Phổi liên tục tiếp nhận dưỡng khí và liên tục trao ban. Ngày nào phổi ‘tham lam’ cứ giữ khư khư số lượng dưỡng khí đã nhận được mà không chịu phát ban, đó là ngày tận số.

Nói chung, các cơ quan trong cơ thể muốn sống còn và phát triển thì chúng phải tuân theo quy luật của sự sống là biết nhận và biết trao.

Trên bình diện rộng lớn hơn, mỗi người chúng ta cũng là một tế bào, một cơ quan (như phổi, như gan…) trong một thân thể lớn là cộng đoàn mình đang sống, là tập thể mà chúng ta là thành phần hay nói rộng hơn là một thành phần của cộng đồng nhân loại. Vì thế, nếu mỗi chúng ta không trao ban chia sẻ những gì mình nhận được cho cộng đồng xã hội, thì số phận chúng ta cũng thế thôi. Có nhận, có trao là sống. Ngừng nhận, ngừng trao là chết.

Biết thế, nên khi cộng đồng quốc tế muốn trừng phạt một quốc gia nào đó, để cho quốc gia đó kiệt quệ hoặc phá sản, thì cách hay nhất là cô lập hoàn toàn quốc gia đó với các lân bang và với thế giới, (không cho quốc gia đó xuất khẩu dầu thô ra ngoài để đổi lấy thực phẩm và thuốc men chẳng hạn) thế là quốc gia đó sẽ lâm nguy.

Lão phú hộ trong Tin Mừng hôm nay chưa hiểu được lẽ đời, chưa hiểu được quy luật của sự sống là nhận và trao, nên lão chỉ biết nhận, biết tận hưởng một cách ích kỷ mà không biết sớt chia cho chàng La-da-rô khốn khổ bần cùng, do đó sau nầy lão phải lâm vào cảnh đau thương khốn đốn.

Trong cuộc đời nầy, chúng ta đã nhận được rất nhiều thứ do người khác cống hiến cho mình từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe đi, và rất nhiều sản phẩm, dịch vụ khác… Ngoài ra lại còn được đón nhận vô vàn ân huệ Thiên Chúa tuôn ban trong suốt cuộc đời… thì đến lượt mình, chúng ta cũng phải cống hiến, phải biết trao ban cho người khác. Có vay phải có trả, có nhận thì phải có trao. Người khác đã phục vụ mình thì mình cũng phải biết phục vụ người khác.

Nếu chúng ta chỉ khư khư giữ lấy những ân huệ ấy cho riêng mình mà không biết cống hiến chia sẻ cho nhau, thì có khác gì quả tim không bơm máu, khác gì buồng phổi không chuyển trao dưỡng khí, hay dạ dày không cung cấp dinh dưỡng… thì chúng ta cũng đang đi vào vết xe của lão phú hộ, và chắc chắn mai sau sẽ cùng chịu chung số phận với lão mà thôi.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Hy vọng hòa bình cho vùng Trung Đông
Linh Tiến Khải
10:47 21/09/2010
Một vài nhận định của Linh Mục David Jaeger, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa và của linh mục Ibrahim Faltas, Tổng quản lý của dòng, về hy vọng hòa bình cho vùng Trung Đông

Sau 20 tháng bế tắc, sáng ngày mùng 2-9-2010 Israel và Palestine đã bắt đầu trở lại các cuộc thương thuyết hòa bình tại Washington. Phái đoàn Israel do thủ tướng Benjamin Netanyahu cầm đầu, và phái đoàn Palestine do tổng thống Abu Mazen hướng dẫn, đã họp nhau trước sự hiện diện của ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hillary Clinton. Chiều ngày mùng 1 tháng 9 trong bữa tiệc khoản đãi hai phái đoàn, tổng thống Barack Obama nói ông tin tưởng rằng các cuộc thương thuyết sẽ kết thúc tốt đẹp và đem lại hòa bình cho vùng Trung Đông trong vòng một năm tới đây. Ông tuyên bố: ”Mục đích là một thỏa hiệp thương thuyết giữa hai bên giúp chấm dứt việc chiếm đóng của năm 1967 và đưa tới việc thành lập một nước Palestine dân chủ và độc lập, sống bên cạnh nước Israel và các dân tộc láng giềng, trong hòa bình và an ninh”. Cùng tham dự bữa tiệc có các nhân vật nỗ lực dấn thân trong việc đem lại hòa bình cho vùng Trung Đông là nguyên thủ tướng Tony Blair của Anh quốc, tổng thống Mubarak của Ai Cập, và vua Abdallah II của Giordania.

Bầu khí cuộc thương thuyết căng thẳng, vì ngày 31-8-2010 đã có 4 người Israel bị sát hại gần Hebron. Ngày mùng 1 tháng 9 lực lượng Hamas lại thú nhận đã phục kích khiến cho hai người khác bị thương. Tổng thống Obama cũng như tổng thống Abu Mazen và thủ tướng Netanyahu đều than phiền về các hành động bạo lực giết người này và khẳng định rằng các lực lượng cực đoan sẽ không thành công trong việc phá hoại tiến trình hòa bình. Thủ tướng Netanyahu nói: ”Tôi không đến đây để tìm các lời xin lỗi. Tôi đến đây để tìm kiếm các giải pháp cho vấn đề hòa bình”. Ông định nghĩa tổng thống Abu Mazen của Palestine là một ”đối tác của hòa bình”. Trong khi tổng thống Mazen nhấn nạnh rằng: ”Thời giờ không ở phía chúng ta. Vì thế chúng ta không được phung phí nghị lực trong việc đương đầu với các vấn đề tế nhị hơn”.

Báo chí Israel cũng như báo chí Arập đã chào mừng các cuộc tái thương thuyết với thái độ dè dặt và nghi ngờ, vì bóng đen của vụ khủng bố sát hại 4 người Israel và vấn đề Israel tiếp tục các vụ chiếm đất của người Palestine và thành lập làng mạc trên đất của người Palestine đè nặng trên tâm tư mọi người. Trong khi đó thì phía Hamas coi các cuộc thương thuyết này là ”bất hợp pháp” và cho rằng chúng ”sẽ thất bại”.

Trong diễn văn khai mạc các cuộc tái thương thuyết, ngoại trưởng Hillary Clinton thừa nhận các khó khăn của qúa khứ cũng như hiện tại giữa hai dân tộc, nhưng bà tin tưởng nơi cố gắng của cả hai phía Israel và Palestine để đi tới một thỏa hiệp hòa bình, làm sao để hai dân tộc có thể sống trong hai quốc gia bên nhau trong an ninh và hòa bình.

Bà khẳng định rằng hai dân tộc đã phải đau khổ và đổ qúa nhiều máu và nước mắt rồi, đây là lúc phải chấm dứt thực tại thê thảm ấy. Hai dân tộc đáng được hưởng hòa bình, an ninh và thịnh vượng. Hoa Kỳ không thể và sẽ không áp đặt một giải pháp nào cho tiến trình hòa bình tại vùng Trung Đông. Giải pháp ấy phải do hai bên đối tác tìm ra và thỏa thuận với nhau thế nào để nó được thực hiện trong vòng một năm tới đây. Bà ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng kêu gọi những người của cả hai phía cho tới nay đã lựa chọn đứng ngoài lề hay chống đối tiến trình hòa bình, cùng hiệp lực với hai phái đoàn để tìm ra giải pháp công bằng và lâu bền cho hai dân tộc. Bà kêu gọi hai phái đoàn thương thuyết cũng như mọi thành phần của cả hai dân tộc Israel và Palestine ý thức rằng giải pháp hòa bình tùy thuộc nơi họ và nằm trong tay họ, chứ không tùy thuộc ai khác. Sau đó bà Hillary Clinton đã để cho thủ tướng Netanyahu và tổng thống Abu Mazen lần lượt đưa ra lời tuyên bố khai mạc các cuộc thương thuyết hòa đàm. Cả hai bên đều đồng ý là đã đến lúc chấm dứt chiến tranh xung khắc, thừa nhận các quyền lợi của nhau, loại bỏ các chướng ngại, và cùng nhau kiếm tìm giải pháp công bằng và lâu bền để cho hai dân tộc được sống trong an bình thịnh vượng trong hai quốc gia độc lập.

Trong khi đó tại Castel Gandolfo Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tiếp kiến tổng thống Israel ông Simon Perez. Cuộc hội kiến với Đức Thánh Cha đã kéo dài khoảng 40 phút. Hai bên đã nhắc lại kỷ niệm chuyến hành hương Thánh Địa của Đức Thánh Cha hồi tháng 5 năm ngoái và đề cập tới các cuộc thương thuyết hòa bình tái nhóm tại Washington. Đức Thánh Cha và tổng thống cầu mong cuộc tái thương thuyết này đạt đến một thỏa hiệp tôn trọng các khát vọng của hai dân tộc Israel và Palestine, và có khả năng đem lại một nền hòa bình ổn định và lâu bền cho Thánh Địa và toàn vùng Trung Đông. Đây là lần thứ tư tổng thống Perez gặp Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: hai lần đầu vào tháng 4 năm 2006 và tháng 9 năm 2007 và lần thứ ba trong dịp Đức Thánh Cha hành hương Thánh Địa hồi năm 2009.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một vài nhận định của Linh Mục David Jaeger, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa và của linh mục Ibrahim Faltas, Tổng quản lý của dòng, về hy vọng hòa bình cho vùng Trung Đông.

Hỏi: Thưa cha Jaeger, tổng thống Barck Obama đã khẳng định rằng có thể tiến tới hòa bình tại vùng Trung Đông nội trong vòng một năm. Có thể thực hiện được điều này hay không, trong khi còn có biết bao nhiêu khó khăn tại Thánh Địa?

Đáp: Chắc chắn là có thể thực hiện được nền hòa bình tại Thánh Địa, không phải chỉ vì các vấn đề đều được mọi người biết tới, mà nói chung cả các giải pháp cũng được mọi người biết tới nữa. Các bản thảo thỏa hiệp hòa bình đã nằm trong hộc bàn từ nhiều năm nay. Điều thiếu cho tới nay không phải là các bản thảo thỏa hiệp hòa bình, các văn bản, các giải pháp hay tư tưởng, nhưng là ý chí ký nhận các thỏa hiệp và các quyết định ấy.

Hỏi: Theo cha, đâu là các điểm mà cả hai bên có thể đồng ý với nhau dễ dàng nhất, và từ đó có thể đạt sự đồng thuận cuối cùng?

Đáp: Để chấm dứt cuộc xung đột lịch sử, dĩ nhiên có vấn đề người tị nạn Palestine của hai cuộc chiến hồi năm 1948 và 1967, nhưng nhất là người tị nạn của chiến tranh năm 1948. Về điểm này trên thực tế không thể có một giải pháp đơn thuần giữa hai phe, vì vấn đề cũng liên quan tới các quốc gia tiếp nhận phần đông các người tị nạn này nữa như Giordania, Siria và nhất là Libăng, nơi tình trạng sống của người tị nạn Palestine trong các trại tị nạn rất là thê thảm. Chỉ mới đây luật lệ Libăng đã quyết định cho người tị nạn thuộc thế hệ thứ ba thứ tư có thể tìm công ăn việc làm tại Libăng, với các quyền như quyền của các nhân công nước ngoài. Về điểm này cần phải có một nỗ lực đa quốc mới có thể giải quyết được.

Hỏi: Trong cuộc tái thương thuyết tại Washington có một phe vắng mặt: đó là lực lượng Hamas. Sự vắng mặt này, sự chống đối này gây ra các phiền toái nào thưa cha?

Đáp: Sự kiện lực lượng Hamas thống trị trong dải Gaza là triệu chứng của sự thiếu vắng hòa bình. Khi sẽ có một thỏa hiệp giữa Israel và Tổ chức giải phóng Palestine, thì nhóm Hamas sẽ mất mọi tính cách hợp pháp. Vì thế lực lượng Hamas chống đối Thỏa Hiệp hòa bình, và tìm mọi cách để làm cho các cuộc thương thuyết bị thất bại. Thực hiện và có được Thỏa hiệp hòa bình sẽ khiến cho các nhóm cực đoan, trong trường hợp ở đây là lực lượng Hamas, mất đi mọi sự hơp pháp trước người dân. Đây là cách thức duy nhất để làm điều ấy, bởi vì chính sự thiếu vắng hòa bình, việc kéo dài thảm cảnh sống của người dân Palestine trao ban sức mạnh cho tổ chức vũ trang.

Sau đây là vài nhận định của cha Ibrahim Faltas, Tổng quản lý tỉnh dòng Phanxicô Quản thủ Thánh Địa, về các cuộc thương thuyết hòa bình cho Thánh Địa.

Hỏi: Thưa cha, cha có nhận xét gì liên quan tới các cuộc tái thương thuyết giữa Israel và Palestine hay không?

Đáp: Cuộc đối thoại giữa hai bên đã tiến được một bước lớn. Theo tôi, đây là cơ may cuối cùng cho cả hai phía Israel và Palestine. Và chúng tôi hy vọng có được một nền hòa bình đích thật.

Hỏi: Đối với người Israel và Palestine có được một một nền hòa bình đích thật có nghĩa là gì thưa cha?

Đáp: Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người dân Israel cũng như Palestine đều hy vọng rằng cuộc gặp gỡ đối thoại lần này không giống các cuộc thương thuyết trong qúa khứ, vì chúng đều đã thất bại. Và vụ ám sát xảy ra những ngày vừa qua là điều chúng tôi đã chờ đợi, vì mỗi khi có bước tiến nào đó thì lại xảy ra bạo lực giết người nhằm quay trở lại đàng sau bao nhiêu năm. Điều chắc chắn đó là đa số dân của cả hai bên đều muốn có hòa bình. Tôi nhớ tới câu nói của một phụ nữ tên là Celine: ”Chiến tranh là một cuộc tàn sát giữa biết bao nhiêu người không hề quan biết nhau, cho lợi lộc của một ít người biết nhau nhưng không tàn sát nhau”.

Hỏi: Vùng Gaza vẫn là nút thắt khó tháo cởi: nó có sức nặng nào đối với việc tái đối thoại hòa đàm để đi tới một con đường hòa giải, nếu không phải là con đường hòa bình thưa cha?

Đáp: Trước hết sẽ có một thỏa hiệp giữa Israel và Palestine, lần này là ở Washington. Tôi nghĩ rằng sẽ có một thỏa hiệp giữa hai lực lượng Al Fatah và Hamas, giữa vùng Cisgiordania và Ramallah tại Gaza. Tôi nghĩ là sẽ có điều đó, bởi vì các nước A rập đã dấn thân góp phần vào việc xây dựng hòa bình cho hai phe Israel và Palestine. Điều mà họ đang làm hiện nay là một gương mù gương xấu.

Hỏi: Từ nhiều phía khi nói tới xung khắc nội bộ trong thế giới Palestine, người ta cho rằng có các phe phái khác cố ý gây ra sự xung khắc nội bộ này, đặc biệt là các nhóm gần gũi phong trào khủng bố Al Qaeda, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Rất tiếc là cũng có nguy cơ đó. Nhưng theo tôi, trước sau gì thì người Palestine cũng phải tìm ra một giải pháp giữa họ với nhau, nếu họ thực sự muốn có hòa bình.

Hỏi: Như thế, các cuộc tái thương thuyết này là bước đầu tiên khiến cho mọi người đều hy vọng?

Đáp: Vâng, đó là niềm hy vọng của tất cả mọi người, đặc biệt là dân chúng ở đây, bởi vì họ hết chịu đựng nổi rồi. Chúng ta cũng không nên quên rằng đây là cuộc gặp gỡ đích thực đầu tiên giữa tổng thống Abu Mazen và thủ tướng Netanyahu. Và chúng tôi hy vong rằng cả hai bên tìm ra một thỏa hiệp và giải quyết mọi vấn đề còn tồn đọng. Theo tôi, vấn đề phức tạp nhất và khó nhất là vấn đề của thành Giêrusalem. (RG 1.2-9-2010)
 
Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám Mục Anh quốc
LM Trần Đức Anh OP & Linh Tiến Khải
10:54 21/09/2010
OSCOTT -. Chiều ngày 19-9-2010, trước khi giã từ Anh quốc, ĐTC Biển Đức 16 đã gặp gỡ và gửi lại những lời nhắn nhủ cho 50 GM Anh quốc và Ecosse.

ĐTC đến Học viện cổ kính St. Mary ở Oscott ngày nay là chủng viện của tổng giáo phận Birmingham, đã góp phần rất nhiều vào việc đào tạo hàng giáo sĩ Công Giáo Anh. Các khu nhà của học viện Oscott hiện nay có từ năm 1838 được xây bằng gạch đỏ theo kiểu kiến trúc của Đại học Oxford, và được coi là trung tâm của Công Giáo Anh quốc hồi sinh. Học viện ngày nay, như vừa nói, là đại chủng viện của tổng giáo phận Birmingham và hiện có 28 sinh viên, trong đó đó 12 chủng sinh giáo phận và 7 tu sinh thuộc các dòng tu, trong đó có 10 sinh viên đến từ nước ngoài, trong đó có Việt Nam.

ĐTC mới dùng bữa trưa với các GM Anh quốc, và các vị thuộc đoàn tùy tùng, sau thánh lễ phong chân phước vào ban sáng cho ĐHY John Henry Newman.

Ngỏ lời trong buổi gặp gỡ tại Nhà nguyện của Học viện Oscott, ĐTC nói đến những thách đố đang được đề ra cho Giáo Hội, đặc biệt là nhu cầu cấp thiết rao giảng Tin Mừng trong một bối cảnh tục hóa cao độ. Trong những ngày trước đó, Ngài đã đích thân thấy có sự khao khát sâu xa nơi dân Anh đối với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. ĐTC nói: ”Anh em hãy làm tất cả những gì có thể để trình bày trọn vẹn sứ điệp mang lại sức sống của Tin Mừng, kể cả những yếu đố thách thức xác tín thịnh hành trong nền văn hóa hiện nay”

ĐTC cũng nhắc đến Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng mới được thành lập cho các nước vốn có truyền thống Kitô kỳ cựu và ngài cũng đề cao nhiều Phong trào mới của Giáo Hội với đoàn sủng đặc biệt là truyền giáo. Ngài khuyến khích các GM hãy tìm những con đường thích hợp và hữu hiệu để đưa các phong trào ấy can dự vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội.

ĐTC xin các GM Anh quốc hãy chú ý đến những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chánh, đã làm cho bao nhiêu người và gia đình lâm cảnh túng thiếu. Thất nghiệp, thiệt hại về lâu về dài của những thể thức đầu tư sai trái gần đây, ngày càng hiển nhiên. Cần có tình liên đới đối với những người túng thiếu. Tiếng nói ngôn sứ của các tín hữu Kitô có tầm quan trọng đặc biệt trong việc nêu bật những nhu cầu của người nghèo và những người kém may mắn, có thể dễ bị lơ là trong việc phân phối các tài nguyên bị giới hạn. ĐTC nhắc đến uy tín tinh thần của các vị lãnh đạo Giáo Hội bị đe dọa nghiêm trọng vì sự lạm dụng các trẻ em và người trẻ do các LM và tu sĩ. Ngài nói: ”Anh em đã đề ra những biện pháp rất nghiêm túc để chữa trị tình trạng này, để bảo đảm cho các trẻ em được bảo vệ hữu hiệu chống lại mọi thiệt hại, và để xử lý thích hợp và minh bạch đối với những lời tố cáo khi được nêu lên.. Sự hiểu biết ngày càng gia tăng của anh em đối với việc lạm dụng các trẻ em trong xã hội, với những hậu quả tàn hại, và sự cần thiết phải nâng đỡ các nạn nhân một cách tghích hợp, phải kích thích sự chia sẻ với xã hội rộng lớn hơn những bài học mà anh em đã được.

Để là những vị hướng đạo Kitô hữu hiệu, chúng ta phải sống trong sự thanh liêm cao độ hơn, khiêm tốn và th ánh thiện, trong sự tái quyết tâm thi hành ơn gọi ngôn sứ và trng sự tái quí chuộng của dân chúng đố ivới đại hồng ân là sứ vụ thánh chức. Cần cầu nguyện cho ơn gọi và chúng ta có thể tín thác Chúa sẽ đáp lại bằng cách gửi thêm các thợ gặt trong cánh đồng của Chúa ở toàn nước Anh.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến 2 nghĩa vụ đặc biệt đang chờ đợi các GM Anh quốc:

- Thứ I là việc sắp công bố bản dịch mới sách lễ Roma. Ngài nói: ”tôi khích lệ anh em lợi dụng cơ hội này để đào sâu việc huấn giáo về Thánh Lễ và tái sùng mộ qua cách thức cử hành thánh lễ”

- Thứ II, ngài xin các GM quảng đại thi hành Hiến Chế ”các nhóm Anh giáo” về việc thiết lập các Giáo hạt tòng nhân cho các tín hữu Anh giáo trở lại Công Giáo. ĐTC nói: ”Điều này phải được coi là một cử chỉ ngôn sứ góp phần tích cực vào việc phát triển quan hệ giữa các tín hữu Anh giáo và Công giáo. Nó giúp chúng ta nhìn đến mục tiêu tối hậu của mọi hoạt động đại kết, đó là tái lập sự hiệp thông trọn vẹn của Giáo Hội trong sự trao đổi cho nhau những hồng ân thuộc truyền thống tinh thần của nhau, làm cho mọi người được phong phú”.

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã chào từ biệt các GM hiện diện và ngài không quên chúc lành và chụp hình lưu niệm với 130 đại chủng sinh toàn Anh quốc tụ tập tại sân phía trước của trường.

Tiễn biệt

Liền đó ngài ra phi trường quốc tế của thành phố Birmingham. Thủ tướng David Cameron đã có mặt tại đây cùng với các quan chức chính quyền và giáo quyền để tiễn biệt ĐTC vào lúc quá 6 giờ 15 chiều.

Trong lời giã từ, ĐTC cám ơn các giới chức chính quyền vì sự tiếp đón nồng nhiệt đã dành cho ngài. Ngài cũng nhận định rằng ”Sự khác tại tại Anh quốc, nhiều cộng đoàn, văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo họp thành xã hội Anh hiện đại là một thách đố cho chính phủ và nhân dân nhưng cũng là là một cơ hội lớn cho sự đối thoại liên văn hóa và liên tôn giáo để cho toàn thể cộng đoàn được phong phú.

ĐTC đặc biệt đánh giá cao các cuộc gặp gỡ với Nữ Hoàng và các vị lãnh đạo chính trị. Ngài hy vọng những dịp này có thể góp phần củng cố các quan hệ rất tốt giữa Tòa Thánh và Anh quốc, đặc biệt là sự cộng tác cho việc phát triển quốc tế, chăm sóc môi sinh tự nhiên và xây dựng một xã hội dân sự với ý thức đổi với về các giá trị chung và một mục đích chung.

ĐTC đặc biệt ngỏ lời với các tín hữu Công Giáo ở Anh và nhắc đến các cuộc gặp gỡ với các GM, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, cũng như cuộc gặp gỡ với các giáo chức, học sinh, và người già, nhất là lễ phong chân phước cho ĐHY John Henry Newman. Ngài nói: ”Với gia sản phong phú các tác phẩm nghiên cứu và tu đức của ĐHY, tôi chắc chắn rằng ĐHY vẫn còn rất nhiều điều để dạy chúng ta về đời sống và chứng tá Kitô, giữa những thách đố của thế giới ngày nay, những thách đố mà ĐHY đã thấy trước một cách rất rõ ràng”.

Rời Anh quốc, sau gần 3 giờ bay, máy bay chở ĐTC và đoàn tùy tùng cùng với 70 ký giả đã về đến phi trường Ciampino của Roma lúc gần 10 giờ rưỡi tối ngày 19-9-2010. Đại diện chính phủ Italia, ông Gianni Letta, Thứ trưởng tại Phủ thủ tướng đã có mặt để đón ĐTC và liền đó ngài dùng xe đi về Castel Gandolfo chỉ cách đó 9 cây số.

Vài phản ứng

Cuộc viếng thăm của ĐTC được các giới chào mừng như một thành công lớn, trái ngược với những lời tiên báo trước đó của nhiều báo chí.

Thực vậy, các phương tiện truyền thông ở Anh quốc đã đặc biệt theo dõi và tường thuật về các hoạt động của ĐTC trong cuộc viếng thăm. Nhiếu báo chí định nghĩa Đức Thánh Cha là vị ”Giáo Hoàng của dân chúng” và vị ”Giáo Hoàng của văn bản”.

Buổi canh thức tại Hyde Park là một chiến thắng truyền thông lớn. Đã có 100.000 hiên diện tai công viên và 200.000 tiếp đón Đức Thánh Cha dọc các lộ trình di chuyển. Các bài giảng và diễn văn của Đức Thánh Cha đã được nhiều cơ quan truyền thông đăng nguyên văn hay lấy lại nhiều đoạn rất dài. Các bài tường thuật đều đưa ra nhiều ghi nhận như: nào là một ”giáo Hoàng khỏe mạnh”, ”sẵn sàng và hầu như hoảng sợ”, ”hay ít nhất là ngạc nhiên” vì sự tiếp đón nồng hậu của tín hữu; nào là ”một lòng đạo hạnh đích thật của những người tham dự”; rồi người ta cảm nhận được ”một ý thức gia đình và cộng đoàn rất mạnh mẽ”; ”một hành động tôn thờ Thánh Thể có khả năng là một biến cố truyền hình ngoạn mục nhưng không làm mất đi bản chất của nó”; ”chưa từng thấy như vậy bao giờm kể cả trong các buổi trình diễn của ban nhạc Beatles, trong các lần Fidel Castro đọc diễn văn hay trong dịp Kim Khánh của Nữ Hoàng; hay ”đây là lần đầu tiên chính quyền Anh cho phép cử hành một lễ nghi tôn giáo trong công viên này”.
 
Đức Giáo Hoàng: Người đến, đem niềm xác tín và người ra đi
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
11:01 21/09/2010
Trong tuần trước người viết ghi vội về cuộc viếng thăm quốc gia chính thức đầu tiên của một vị Giáo Hoàng tại Vương Quốc Anh đả cách đây từ 476 năm với tựa đề: Đức Giáo Hoàng: Người khách nơi xứ lạ.

Sự ngăn cách giáo hội đã gần 500 năm làm cho người đứng đầu Giáo Hội công giáo thật lạ lẫm khi đặt chân trên vùng đất đảo này, cộng thêm bao nhiêu tuyên truyền chống đối trên các trang mạng cho đến báo chí, truyền thanh, truyền hình. Cá cược cho chuyến đi của ĐGH Bênêđictô XVI, ai hiểu biết tình hình tôn giáo và xã hội tại Vương quốc Anh trước đây vài ngày có thể nhìn thấy thất bại là lẽ đương nhiên. Chính ngay từ Tòa Thánh cũng tò ra dè dặt và âu lo cho ĐGH về hiệu lực tích cực đạt đến cho chuyến đi. Theo cách nói của Anh là ĐGH Bênêđictô tự đi vào hang hùm ("Lion's den"): dữ nhiều lành ít trong một xã hội tục hóa mạnh nhất tại Âu Châu.

Nhà bình luận Tony Page đặt câu hỏi: Làm thế nào để người Anh xem chuyến thăm quốc gia của Giáo hoàng Bênêđictô XVI là một sự kiện? Tác giả này hiển nhiên phủ nhận. Ông ta nói rằng: „Không phải vì tôi chống Công giáo, tôi không chống đức tin của người theo đạo. Tôi nghĩ rằng lý do trong sự mâu thuẫn của tôi đã được minh định rõ ràng rằng Giáo hoàng này đã không gây ấn tượng cho tôi nhiều bằng Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có.“ Sự hoài nghi, thậm chí từ chối của đa số dân chúng Anh được dựa trên cơ sở của một xã hội tục hóa trầm trọng và qua nhiều vụ bê bối lạm tình dục tại Ái nhĩ Lan và Anh quốc mà giáo hội nơi đây đang phải gánh chịu nặng nề.

Người Anh thay đổi cách nhìn về ĐGH Bênêđictô XVI

Đối với ông Page, khi nghĩ đến Giáo hoàng Gioan Phaolô II liền xuất hiện hình ảnh không bao giờ được quên được khi ngài bước xuống máy bay và khiêm nhường cúi hôn đất tại phi trường Gatwick. Một tác dụng gây thiện cảm rất lớn và thu gọn các trái tim của người theo dõi. Còn Giáo hoàng Bênêđictô XVI là một sự phản diện đối ngược về cá tính: dụt dè, mỏng manh. Thêm vào đó báo chí Anh sẵn sàng khêu gợi lại quá khứ của một thanh niên Hitler lúc cậu bé Josef Ratzinger còn là một thiếu niên và bắt buộc phải tham gia từ lúc 14 tuổi, chỉ riêng việc này Giáo hoàng Bênêđictô XVI rất khó chiếm đoạt được tình cảm của người Anh. Nhà bình luận Tony Page lại nhắc đến điều ấy một lần nữa và từ tiềm thức ông Page muốn nhìn vào ĐGH từng cử chỉ, bước đi, câu nói để bắt lỗi ngài. Người công giáo Anh cũng lo ngại không kém cho những chống đối, biểu tình và tẩy chay cuộc viếng thăm quốc gia vì người Anh cho rằng chính phủ tiêu xài 12 triệu Anh kim tiền thuế của họ một cách vô lối. Như được đổ dầu vào lửa trước cuộc viếng thăm của ĐGH khi lời nhận định gây tranh cãi của ĐHY Walter Kasper về "chủ nghĩa vô thần mới hung hăng" tại Anh quốc như là trong một thế giới thứ ba: "Anh quốc bây giờ là một đất nước đa nguyên thế tục. Nếu bạn đặt chân xuống sân bay Heathrow, đôi khi bạn nghĩ rằng bạn đã hạ cánh đến một nước thế giới thứ ba." Nhật báo Daily Mail dựa vào đó cho chạy hàng tít lớn chào đón ĐGH Bênêđictô XVI: "Chào mừng đến nơi thế giới thứ ba". Điều này càng gây tác động tiêu cực nhanh chóng trên dân Anh, người ta ước tính đến 80% dân chúng phản đối cuộc viếng thăm lịch sử này.

Nhưng, chỉ trong 4 ngày một cuộc diện, não trạng và cách nhìn về Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã dần dần thay đổi nơi Vương quốc Anh: những lời xin lỗi chân thành đến với các nạn nhân bị lạm dụng tình dụng, người khách từ Vatican cho rằng đó là một tội phạm và rất là đau buồn. Những nụ hôn yêu thương trên trán cho các cháu bé đánh động người Anh. Vòng tay chào đón tình anh em với Tổng giám mục Rowan Williams, Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo đượm thắm tình đại kết. Tưởng nhớ đến các nạn nhân của các cuộc oanh tạc của Hitler trên phần đất Anh và tôn vinh sức đề kháng chống lại Đức quốc xã.

Về mục vụ, một điều quan trọng cho chuyến tông du đến Anh quốc của ĐGH luôn nhắc nhở người Anh về nền tảng tốt đẹp của tôn giáo luôn được xây dựng trên sự bình đẳng và tự do. Xã hội tục hóa tại đây đang cố tình quyên đi điều thiết yếu căn bản này.

Giới truyền thông Anh nhìn ĐGH Bênêđictô XVI bằng nhãn quang mới

Thật ngạc nhiên - cả cho Toà Thánh Vatican, cũng giống như nhà bình luận Page, xã hội tục hóa Anh lại chú tâm theo dõi - người tin cũng như không tin - lắng nghe những lời của vị khách bất đắc dĩ này. ĐGH mang đến đất đảo này một thông điệp mà chưa từng ai đủ can đảm dám nhắc đến. Rồi giới truyền thông báo chí truyền hình đều đưa tin trực tiếp liên tục trong 4 ngày. Một sự tương phản trái ngược, trước đây giới truyền thông tuyên truyền từ chối cuộc viếng thăm mạnh mẽ thì giờ đây họ cũng tuyên truyền những thông điệp của vị khách nơi xứ lạ cùng một cường độ giống nhau, không hơn không kém, cho dù nắng hoặc mưa, ngày cũng như đêm. Lúc ấy những gì tích cực đang diễn ra với ĐGH tại đất Anh thực sự không thể tốt hơn được.

Tiếp theo đó, những phản ứng xoay chiều nhanh chóng đến từ giới truyền thông, thay vì danh gọi nhục mạ vị khách "Rottweiler", một loại chó săn hung dữ do tờ báo "Sunday Times" đưa tin ngày trước, thì bây giờ cũng chính tờ báo ấy cung kính ("Rottweiler? No, he's a holy grandfather"): „Rottweiler ư? Không, Ngài là một vị Thánh (ông nội-ngoại)“. Báo "Sunday Telegraph" tiếp tục xua đuổi huyền thoại xấu về chó dữ Rottweiler, bằng cách miêu tả lòng tin tốt lành của giáo dân Anh: „Một biển người đầy cảm xúc và tưng bừng mừng lễ hội công giáo với ĐGH“. Báo ra ngày Chúa nhật "News of the World" - tờ báo luôn chơi chữ, dịp này tôn vinh ĐGH gần như hết mực: "Bene's from heaven" – Bênêđêttô đến từ trời“. Báo "Daily Mirror" dành trọn trang nhất chỉ để viết hai chữ „POPE IDOL“ tôn vinh thần tượng Giáo Hoàng khi ngài hôn trán một em bé.

Quá kinh ngạc cho mọi người, một cụ già 83 tuổi đã làm nên những việc kỳ diệu nơi Vương quốc Anh: trước đây vài ngày phải làm vị khách lạ, người khách đa số dân chúng không muốn tiếp rước vào nhà, giờ đã đây đã trở thành một người quen thân thiện như chưa từng bị phân ly 476 năm nơi vùng đất đảo này. Điều quan trọng vị khách ấy, ĐGH Bênêđictô XVI đang mang lại niềm tin cho người Công giáo và Anh giáo, đưa họ trở về cội nguồn Kitô giáo.

ĐGH Bênêđictô XVI đặt trụ hải đăng cho đất đảo Anh

Với Chân Phước Hồng Y John Henry Newman, vị đã được cân nhắc lên bậc Á Thánh ngày Chúa nhật, 19.9.2010 tại Birmingham, ĐGH đã để lại một mẫu gương sáng ngời cho Anh quốc: một người thày tuyệt vời của lòng tin, một nhà giảng thuyết, một tác giả thần học, một mục tử, một nhà thơ, một người trí thức uyên thâm bao giờ cũng rõ ràng giữa đức tin và lý trí, giữa sự mặc khải và kiến thức, và Chân Phước Hồng Y Newman lúc nào cũng đặt lương tâm vào trong vai trò trung tâm chủ yếu của cuộc đời.

„Nói từ trái tim đến trái tim“ (Heart speaks unto Heart), khẩu hiệu của Chân Phước Newman khi Ngài trở thành hồng y, cũng là phương châm cho chuyến đi lịch sử đến Vương quốc Anh của người kế vị Thánh Tông Đồ Phêrô, GH Bênêđictô XVI. Công việc của người kế vị của Tông Đồ Simon Phêrô là trở thành: một kẻ chài lưới người, cụ thể nhất Ngài cố gắng tung lưới ra khơi tại Vương quốc Anh vài ngày qua.

Trước khi trở về Tòa Thánh Vatican, ĐGH đã đặt nền tảng vững chắc một ngọn hải đăng Chân Phước Newman, tỏa sáng chiếu soi cho người dân cư trên đảo Anh quốc này để họ có thể tìm phương hướng cặp bến bờ bình an.

Thay lời kết, nhà bình luận Tony Page tự hỏi có phải ông ta đang thay đổi chính mình chăng, chỉ trong 4 ngày vừa qua lúc dõi theo cuộc hành trình của ĐGH Bênêđictô XVI trên nước Anh, ông ta tự nhủ: „Tôi có khoan dung hơn chăng? Trong tương lai, tôi sẽ không tin tưởng mù quáng vào những gì tôi đọc trên các phương tiện truyền thông cho là nổi bật mà tôi sẽ kiểm tra kỹ lưỡng các sự kiện trước khi tôi viết thành bình luận của tôi.“

Một thế giới sẽ đẹp hơn qua lời nhận định chân thành cuối cùng của ông Page: „Có lẽ xã hội chúng ta (Anh quốc) cần một nhân vật như ĐGH Bênêđictô XVI để chỉ chúng ta thấy rõ những gì đang thay đổi giá trị trong cuộc sống chúng ta!“

Nếu đúng như thế, sứ mạng mục vụ tại Vương quốc Anh của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đạt được một thành quả tốt đẹp không ngờ tới: Người đến, người chinh phục và người ra đi.
 
Phản ứng về chuyến thăm Anh của Đức Bênêđíctô XVI
Vũ Văn An
18:49 21/09/2010
Sức bật Bênêđíctô

Đúng như tiên đoán của Đức TGM Nichols, cuộc viếng Đại Anh 4 ngày của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã bác bỏ mọi tiên đoán gở và mọi phèng la tiêu cực trước đó. Theo ký giả Edward Pentin của hãng tin Zenit, 500,000 người Tô Cách Lan và Anh cũng như rất nhiều người khác đã lắng nghe các sứ điệp của ngài trên các phương tiện truyền thông đại chúng và trên liên mạng.

Cả chính phủ Anh lẫn Tòa Thánh đều hài lòng với thành quả của chuyến đi. Cha Lombardi, phát ngôn viên Vatican, cho rằng đây quả là “chuyến viếng thăm tuyệt diệu”, một thành công lớn về tâm linh. Con số những người hoan hô vượt xa những người chống đối. Có người cho rằng vào ngày Thứ Bẩy, đường phố Luân Đôn chứa tới 200,000 người ủng hộ Đức Giáo Hoàng, trong khi chỉ có khoảng 5,000 người biểu tình phản đối.

Tuy nhiên Tòa Thánh không phán đoán sự thành công bằng con số. Cha Lombardi nhấn mạnh: theo Đức Thánh Cha, sự thành công hệ ở sự kiện: có rất nhiều người chịu chăm chú lắng nghe điều ngài muốn nói.

Theo nhận định của Pentin, báo giới Đại Anh nhất loạt cho rằng chuyến viếng thăm này đã thành công không ngờ đối với Giáo Hội Công Giáo, mặc dầu nhiều người trong số họ trước đó cực lực chống đối chuyến viếng thăm này. Tờ Daily Mail cho rằng chuyến viếng thăm đã “chiến thắng” vì “cho đến đêm hôm qua, những người phản đối xem ra đã thất bại, những người khích bác danh tiếng nhất gần như đã im hơi và những cuộc biểu tình thưa thớt và im tiếng hẳn”.

Một yếu tố quan trọng đem lại sự thành công cho chuyến viếng thăm là cơ hội để người dân Đại Anh tận mắt nhìn ra con người thực của Đức Bênêđíctô XVI, không như những bức biếm họa do các phương tiện truyền thông vẽ vời. Họ bị chinh phục bởi nét khiêm nhường chân thành, bởi nét ngây thơ trong trắng như trẻ em của ngài. Nhưng trên hết, họ có ấn tượng mạnh về lòng can đảm và quyết tâm nói lên ý nghĩ của mình.

Nhà bình luận Stephen Glover cho rằng: “Chuyến viếng thăm này thành công hơn hàng giáo phẩm Công Giáo mong đợi. Đức Giáo Hoàng ngỏ lời với chính linh hồn của đất nước ta, nói lên các sự thật luân lý trường cửu mà các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo của ta thường thường lẩn tránh. Xét một cách chủ yếu, ngài muốn yêu cầu ta hãy xét xem ta muốn trở nên loại đất nước nào”.

Pentin cho hay: đây quả là chuyến viếng thăm lịch sử nhằm đem lại hòa giải giữa Giáo Hội và Nhà Nước, giữa người Công Giáo và người Anh Giáo. Một nửa số nghị viên quốc hội đã nghe bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng tại Đại Sảnh Westminster, nơi Thánh Thomas More, thánh quan thầy các chính trị gia, bị xử và kết án năm 1533. Tại đây, Đức Giáo Hoàng bày tỏ sự âu lo của ngài đối với hiện tượng đẩy tôn giáo ra bên lề xã hội. Ngài nhắc cử tọa nhớ rằng tôn giáo không phải là một vấn đề để các nhà lập pháp giải quyết, nhưng là người đóng góp sinh tử đối với cuộc bàn luận của cả quốc gia.

Về đại kết, cuộc trao đổi với Giáo Hội Anh Giáo đã diễn ra một cách hết sức thân thiện, dù mới đây, mối liên hệ giữa hai bên xuống rất thấp. Nhưng trước hết, chuyến viếng thăm này đã mở ra một giai đoạn mới cho Giáo Hội Công Giáo ở đây, ở giữa lòng một đất nước đại đa số theo Thệ Phản này, một đất nước, trong quá khứ, từng vẽ hẳn một đường ranh bè phái và đầy những tranh chấp đổ máu. Đức Hồng Y Keith Patrick O'Brien, Tổng giám mục St Andrews và Edinburgh, nói tới “sức bật Bênêđíctô” (Benedict bounce) và một mùa nở rộ ơn kêu gọi. Hy vọng rằng sức bật này sẽ là “mũi chích cánh tay” khiến người Công Giáo Anh và người Anh nói chung tỉnh mộng khỏi giấc ngủ duy tục đầy bất khoan dung tôn giáo.

Ước chi Tổng Giám Mục Canterbury…

Trên đây có nhắc tới nhà bình luận Stephen Glover. Trên tờ Daily Mail ngày 20 tháng 9 vừa qua, Glover cho đăng một bài báo với hàng tít lớn: Ước chi Tổng Giám Mục Canterbury dám nói với một phần nhỏ thẩm quyền của Đức Bênêđíctô (If only the Archbishop of Canterbury dared to speak with a fraction of Benedict's authority).

Glover cho hay: chỉ mấy ngày trước đây thôi, nhiều giọng nói trên BBC bảo đảm với ta rằng chuyến viếng thăm Đại Anh của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cuối cùng sẽ chẳng gây được ấn tượng gì như mong đợi và rằng sẽ có rất ít người chịu đi gặp ngài. Nhiều người còn dám quả quyết rằng những cuộc biểu tình chống đối tội ác ghê tởm trong Đạo Công Giáo liên quan tới việc lạm dụng trẻ em sẽ làm trệch hướng chuyến viếng thăm, đến độ Đức Giáo Hoàng không thể nói được điều gì khác khiến chúng ta phải lắng nghe.

Ấy thế nhưng, đám đông tham dự đông hơn dự đoán, có thua chăng chỉ là thua chuyến viếng thăm của vị giáo hoàng đầy hấp dẫn Gioan Phaolô II cách nay 28 năm mà thôi. Đáng lưu ý hơn cả là trong số 80,000 người dự buổi canh thức tại Hyde Park đêm Thứ Bẩy, rất nhiều người thuộc giới trẻ.

Các cuộc biểu tình chống việc lạm dụng trẻ em không làm trệch hướng chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng. Ngài thành thực nhìn nhận lỗi lầm của Giáo Hội Công Giáo. Trong Thánh Lễ tại Nhà Thờ Chính Tòa Westminster vào chiều Thứ Bẩy, ngài làm nhiều người trong cộng đoàn cảm động chẩy nước mắt khi ngài ví sự đau đớn của các nạn nhân như lễ hy sinh của Chúa Kitô trên thánh giá. Chuyến viếng thăm, vì thế, thành công hơn là mong đợi của hàng giáo phẩm Công Giáo.

Hơn thế nữa, theo Glover, không giống như các giáo sĩ “vườn nhà” của Anh Giáo, Đức Giáo Hoàng ngở lời với chính linh hồn của “đất nước ta”. Ngài khẳng định các sự thật luân lý trường cửu, những sự thật mà các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo Anh thường thích lẩn tránh. Ngài cảnh giác Đại Anh đừng quên di sản Kitô Giáo của mình trong một xã hội hiện đại đa văn hóa và “duy tục một cách hung hãn” này. Ngài cũng bảo các chính trị gia đừng bắt tôn giáo phải im lặng bằng cách ngăn cấm việc cử hành công cộng các ngày lễ quan trọng, như lễ Giáng Sinh chẳng hạn. Họ cũng không nên ban hành những đạo luật buộc người Kitô hữu phải hành động ngược với lương tâm của họ. Ngài nhắc người Đại Anh nhớ rằng họ đã từng lấy mạng sống mình chống lại ách bạo tàn của Quốc Xã, những người mưu toan loại bỏ Thiên Chúa. Những cái quá đáng của chủ nghĩa duy tục và những nguy cơ của chủ nghĩa cực đoan vô thần là những chủ đề được ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Những chủ đề này sẽ vang vọng mãi trong tâm trí người Công Giáo cũng như các Kitô hữu khác không phải là Công Giáo, kể cả những người thuộc các tôn giáo khác không phải là Kitô Giáo và những người vô tôn giáo.

Glover cho rằng chủ trương “Big Society” của Thủ Tướng David Cameron khó có thể so sánh với sứ điệp của Đức Giáo Hoàng. Sứ điệp này, theo ông, rất trổi vượt, có thể nói nó chưa có tiền lệ ở Đại Anh. Sứ điệp ấy được truyền đi một cách hết sức thanh thản, khiêm tốn, không một chút huênh hoang, ấy thế nhưng lại có thế giá lớn lao, một thế giá phần lớn phát sinh từ cảm thức thánh thiện và tốt lành người ta tìm thấy nơi ngài cũng như từ chính phẩm giá chức vụ của ngài. Và cũng chính vì thế, theo Glover, cả những người yếm thế và hoài nghi nhất cũng phải lắng nghe.

Phi thường hơn cả, ta thấy nơi ngài một nhà lãnh đạo tôn giáo sẵn sàng đối chất với thế giới duy tục hiện đại nói chung, và Đại Anh duy tục hiện đại nói riêng bằng các giá trị vượt thời gian của Kitô Giáo nói chung và của Đạo Công Giáo nói riêng. Trong bài diễn văn cuối cùng, Đức Bênêđíctô XVI cho hay các giá trị trên đã bị các linh mục lạm dụng trẻ em phản bội. Họ đã phá hoại tính khả tín của Giáo Hội Công Giáo trong phạm vi luân lý. Người ta hết sức ngạc nhiên khi nghe một nhà lãnh đạo tôn giáo dám lên tiếng một cách trung thực như vậy. Glover cho rằng điều ấy rất khác với các nhà lãnh đạo tôn giáo “của chúng ta, nhất là các giám mục Anh Giáo tại Anh”, những người quen thỏa hiệp với các giá trị thế tục. Lý do, theo ông, là “bất cứ vị giáo hoàng nào cũng có ưu thế cố hữu, do tín điều vô ngộ tạo ra”. Trong khi đó, Tổng Giám Mục Canterbury chỉ là người đứng đầu giữa những người ngang hàng, nên không thể có được thứ thẩm quyền như Đức Giáo Hoàng.

Tuy nhiên, điều đó đâu có ngăn cản Tiến Sĩ Rowan Williams, Tổng Giám Mục Canterbury, lên tiếng với một phần nhỏ thế giá của Đức Giáo Hoàng! Điều buồn là Tiến Sĩ Williams và các giám mục Anh Giáo rất có thể nhất trí với mọi điều Đức Giáo Hoàng nói về các nguy cơ của chủ nghĩa duy tục, ấy thế nhưng họ đã không đủ đảm lược để nói ra. Và trong khi Đức Giáo Hoàng nói rõ ràng bằng tiếnh Anh, vốn là sinh ngữ thứ ba hay thứ tư của ngài, thì Tiến Sĩ Williams thường chỉ nói một cách ú ớ và khó hiểu bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Trong bài diễn văn cuối cùng, Đức Giáo Hoàng cho biết ngài thấy “nhân dân Đại Anh khao khát biết bao được nghe tin mừng của Chúa Giêsu Kitô”. Glover bảo nhận định ấy rất đúng. Ấy thế nhưng “Giáo Hội quốc gia của chúng ta, tức Giáo Hội Anh Giáo, đã thất bại không công bố được tin mừng ấy”.

Trong đại bộ phận Giáo Hội Anh Giáo, người ta thấy có một cảm thức đào ngũ khi giáp mặt với làn sóng duy tục đang ào ạt kéo tới, lúc con số người trong các cộng đoàn giảm dần và nhiều giáo xứ phải đóng cửa. “Nhưng hãy nhìn những người trẻ tại Hyde Park hay những người xếp hàng dọc Đường Prices ở Edinburgh hoặc những người đứng bên ngoài Nhà Thờ Chính Tòa Westminster. Họ khát khao nghe tin mừng và họ chào mời các sự thật luân lý chắc chắn. Liệu có quá đáng chăng khi hy vọng rằng các giám mục Anh Giáo sẽ học được điều gì đó từ sự dấn thân không biết sợ của Đức Giáo Hoàng?”

Dĩ nhiên, theo Glover, vẫn có những giáo xứ cá biệt, phần lớn là các giáo xứ Tin Mừng thuộc Giáo Hội Anh Giáo, biểu lộ được cùng một lòng trung thành như thế đối với giáo huấn Kitô giáo cổ truyền. Và các giáo xứ này chính là các giáo xứ thu hút hàng loạt người trẻ.

Theo Glover, những người vô thần cực đoan như nhà sinh vật học Richard Dawkins, kịch sĩ Stephen Fry, luật sư Geoffrey Robinson và văn sĩ Philip Pullman, những kẻ chủ trương chủ nghĩa hư vô, chẳng có chi đem lại hy vọng cho giới trẻ hoặc bất cứ một ai khác. Chủ nghĩa vô thần có thể là một chủ trương đáng kính về phương diện tri thức, nhưng những người vừa kể chỉ là những kẻ hẹp hòi, điên loạn dám kêu gọi người ta ngăn cản không cho Đức Giáo Hoàng tới đây. Dawkins còn đòi bắt giam Đức Giáo Hoàng về “tội ác chống lại nhân loại”. Sự thật, họ bị thúc đẩy bởi lòng thù hận đối với Giáo Hội. Pullman còn mong cho “tổ chức xấu xa này biến mất”. Nó đâu có biến mất. Đúng hơn, những lời tố cáo xùi bọt mép và thiếu cân bằng của họ chỉ chứng tỏ là họ sợ Đức Giáo Hoàng. Họ sợ ngài vì ngài nắm vững giáo huấn Kitô giáo cổ truyền và cổ vũ các nguyên tắc họ vốn khiếp đảm. Họ sợ ngài vì các giá trị được ngài lặp đi lặp lại tự chúng lọt vào tai hàng triệu người, mà quan trọng hơn cả là lọt vào tai hàng triệu người trẻ.

Những người trên, theo Glover, không gặp khó khăn nào trong việc châm chọc chỉ trích nhằm vào Tổng Giám Mục Canterbury vì Tiến Sĩ Williams đã bị các lực lượng của chủ nghĩa duy tục làm cho nhát cáy đến độ không còn khả năng đưa ra bất cứ đe dọa nào đối với thế giới quan đen tối của họ.

Những tên vô thần cực đoan ấy nhỏ mọn và xa rời quần chúng biết bao so với ngữ cảnh hy vọng được Đức Giáo Hoàng gợi hứng. Glover kết luận rằng: khi mời gọi người ta trở về với di sản Kitô Giáo và gợi ý rằng chúng ta vẫn còn một tương lai có qui củ Kitô Giáo, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã thực hiện được nhiều hơn là Giáo Hội Anh Giáo trong nhiều năm qua. Bài học mấy ngày qua là Đại Anh không hẳn là một đất nước phản Kitô Giáo như BBC và nhiều thành phần trong giới truyền thông vốn cố gắng làm chúng ta tin.
 
Top Stories
De divers horizons: L’Eglise catholique de Taiwan et le gouvernement chinois sont d’accord pour favoriser la formation à Taiwan de prêtres du continent
Eglises d'Asie
09:55 21/09/2010
Eglises d'Asie, 21 septembre 2010 – En visite à Taiwan, Wang Zuo’an, directeur de l’Administration d’Etat des Affaires religieuses, a été reçu le 16 septembre dernier par le président de la Conférence épiscopale de Taiwan. Les deux personnalités sont tombées d’accord pour favoriser la venue de prêtres du continent à Taiwan où ils seront accueillis pour des études au sein des structures de l’Eglise catholique.

Wang Zuo’an, qui a pris la succession en septembre 2009 de Ye Xiaowen à la tête de l’Administration d’Etat des Affaires religieuses (plus connue sous l’ancienne appellation de Bureau des Affaires religieuses) (1), effectuait sa première visite à Taiwan. A la tête d’une délégation de quinze personnes, il a rendu visite aux principaux responsables religieux de l’île, bouddhistes, taoïstes, protestants, catholiques et musulmans (2).

Le 16 septembre, il a été reçu durant une heure par Mgr John Hung Shan-chuan, archevêque de Taipei et président de la Conférence épiscopale régionale chinoise de Taiwan, nom officiel de la Conférence des évêques de Taiwan. La rencontre a eu lieu dans les locaux de la Conférence épiscopale et c’est à son issue que les deux personnalités ont déclaré que la formation de prêtres du continent à Taiwan serait désormais facilitée. L’Eglise de Taiwan est très heureuse d’apporter son aide à ce projet, a précisé Mgr John Hung à la presse, qui a ajouté qu’il avait évoqué avec Wang Zuo’an le développement de l’Eglise catholique à Taiwan.

Selon Mgr Hung, Wang Zuo’an a dit apprécier le travail effectué par l’Eglise, que ce soit à Taiwan ou ailleurs, dans le domaine de la formation du clergé chinois.

Mgr Hung, qui n’est pas originaire du continent mais est né à Taiwan il y a soixante six ans, a exprimé à son interlocuteur son désir de se rendre en Chine populaire afin d’y rencontrer l’Eglise locale.

A ce jour, très rares sont les séminaristes et les prêtres du continent qui peuvent mener des études à Taiwan. L’accord entre Mgr Hung et Wang Zuo’an pourrait donc augurer d’un développement important du nombre de ces étudiants. A l’université catholique Fu Jen, dont la faculté de théologie est réputée, les structures sont en place pour accueillir de nombreux étudiants venus de l’Eglise de Chine, même si les modalités de la prise en charge financière de leurs études ne sont pas encore connues. Il est question de l’accueil de plusieurs dizaines de ces étudiants, voire à terme, de quelques centaines (3).

Le 19 septembre, Wang Zuo’an a également rencontré le cardinal Paul Shan Kuo-hsi, évêque émérite de Kaohsiung, et Mgr Peter Liu Cheng-chung, l’actuel évêque de Kaohsiung. Wang Zuo’an a invité le cardinal, âgé de 87 ans, à visiter le continent. Invitation à laquelle le prélat, qui est né, en 1923, à Puyang, dans le Hebei, a répondu positivement pourvu que « les dispositions nécessaires » puissent être prises. Souffrant d’un cancer depuis 2006, le cardinal parcourt Taiwan pour y donner des conférences où il parle de la vie, de la mort et de la maladie. Il a précisé que, si la Chine populaire l’autorisait à aller sur le continent, il serait heureux de pouvoir y parler du sens de la vie ainsi que du soin à apporter aux personnes malades.

(1) Voir EDA 527
(2) Aux côtés d’un confucianisme officiel, bouddhisme et taoïsme rassemblent 93 % de la population taïwanaise. Les chrétiens y représentent 4,5 % des habitants (dont 1,4 % de catholiques). Les musulmans sont au nombre de 55 000.
(3) Placée sous la tutelle de la Congrégation pontificale pour l’Education catholique, l’université catholique Fu Jen est l’une des grandes universités de Taiwan. Fondée en 1925 à Pékin par la branche américaine les bénédictins, elle fut accréditée auprès du ministère chinois de l’Education à la fin des années 1920. En 1952, du fait du changement de régime, elle fut incorporée à l’Ecole normale supérieure de Pékin. A Taiwan, en 1959, la Conférence épiscopale de Chine, la Société du Verbe divin et la Société de Jésus jetèrent les bases d’une nouvelle université Fu Jen, qui fut autorisé par le ministère taïwanais de l’Education en 1960. Après le département de philosophie, ouvert en 1961, l’université développa progressivement trois facultés et dix départements. L’association des anciens élèves de l’université Fu Jen compte près de 120 000 membres à travers le monde.

(Source: Eglises d'Asie, 21 septembre 2010)
 
Kerala, Inde: vague d’indignation après l’expulsion par une université catholique du professeur dont le bras avait été coupé par des islamistes
Eglises d'Asie
09:56 21/09/2010
Eglises d'Asie, 21 septembre 2010 – La controverse née du renvoi par son université catholique du professeur T. J. Joseph prend une ampleur nationale, amenant le gouvernement du Kerala lui-même à réagir.

Le 4 juillet dernier, T. J. Joseph, titulaire de la chaire universitaire de malayalam (langue officielle du Kerala) au Newman College de Thodupuzha, avait eu la main et une partie du bras droit coupés par des extrémistes musulmans, membres du Popular Front of India (PFI) (1). A cette date, l’enseignant avait déjà été suspendu de ses fonctions par la direction de son établissement, pourtant catholique (2), à la suite de violentes protestations et manifestations d’islamistes qui l’avaient accusé d’avoir blasphémé contre le prophète Mahomet dans l’un des sujets d’examens du second semestre.

Emprisonné en mars 2010, avant d’être remis en liberté en avril, il n’avait, selon ses termes, « jamais pu se justifier des accusations portées contre [lui] », ni obtenir « aucun secours » de la part de ses supérieurs ou collègues, dont aucun n’avait voulu témoigner en sa faveur. Le 18 septembre, l’universitaire souligne dans une interview du The Economic Times, que paradoxalement, c’est l’attaque du 4 juillet qui lui a permis « d’être enfin entendu ». « On m’avait condamné par avance », poursuit-il, réitérant qu’il pardonne à ses agresseurs mais ne peut en revanche « demander pardon pour une faute qu’il n’a pas commise ».

A l’origine du drame: un examen de malayalam dans lequel il était demandé de rétablir la ponctuation d’un texte – d’un auteur au programme de l’université – où un fou dénommé Mohammed dialogue avec Dieu. T. J. Joseph explique qu’il s’agit d’un malentendu: « Mohammed est un nom musulman très commun au Kerala (...). Je n’aurais jamais imaginé qu’il serait interprété comme désignant le Prophète. »

A l’annonce de l’attaque du 4 juillet, pour la première fois depuis la suspension du professeur en mars, des associations s’étaient mobilisées, ainsi que différentes organisations religieuses et partis politiques, du Bharatiya Janata Party (BJP) à la Ligue musulmane ou encore au Conseil épiscopal catholique du Kerala, afin de condamner l’agression. Le monde enseignant, sous l’égide du All Kerala Private College Teachers’Association (AKPCTA), avait également organisé des manifestations de soutien dans tout l’Etat.

Le 1er septembre cependant, le Newman College de Thodupuzha informait T. J. Joseph qu’il était démis de ses fonctions, afin de protéger l’institution à l’égard duquel l’enseignant avait commis une faute en « portant atteinte aux sentiments religieux ».

Les 4 et 5 septembre, une lettre pastorale de Mar George Punnakottil, évêque du diocèse catholique syro-malabar de Kothamangalam, dont dépend le Newman College, était lue dans les 120 paroisses de la circonscription ecclésiastique. Elle condamnait « l’action irresponsable » de l’enseignant et entérinait le renvoi du Pr Joseph par l’établissement catholique pour avoir « volontairement cherché à discréditer l’Eglise et ses institutions ».

La sanction du Newman College et, surtout, la lettre pastorale ont déclenché de fortes réactions d’indignation au Kerala, mais aussi dans d’autres Etats de l’Inde. « C’est une mesure totalement antichrétienne et inhumaine qui a été prise à l’encontre d’un enseignant, par l’Eglise elle-même ! », s’est indigné le P. Varghese Alengaden, coordinateur national du Universal Solidarity Movement Indore, au Madhya Pradesh, avant d’évoquer la possibilité que les responsables de la communauté chrétienne au Kerala « aient eu peur d’affronter les fondamentalistes ».

L’AKPCTA ainsi que des dirigeants d’instituts catholiques, comme le P. Ambrose Pinto, principal du Collège Saint-Joseph à Bangalore, au Karnataka, ont dénoncé une « attaque contre la liberté de pensée et d’expression, [qui sont] les véritables fondements de nos écoles et universités ». Des manifestations de soutien à J. T. Joseph ont été organisées au Kerala: le 6 septembre, des élèves du Pr Joseph ont observé un Black Day; le 11 septembre, le Joint Christian Council (JCC), une organisation œcuménique, a rassemblé quelque 300 manifestants devant l’évêché de Kothamangalam. Les responsables de l’Eglise au Kerala ont « adopté la justice des talibans », a déclaré à cette occasion, Felix J. Pullooden, secrétaire général du JCC. Quant au Forum des religions pour la justice et la paix, il a souligné, le 19 septembre, le « dangereux précédent » que représentait la décision du renvoi de l’enseignant en se « soumettant à la loi des fondamentalistes ».

Le Pr Joseph, après avoir présenté ses excuses auprès de son établissement, de la hiérarchie catholique, ainsi que des personnes « qu’il aurait offensées involontairement », a alors envoyé un courrier à sa direction demandant à être réintégré, au moins « par charité », rappelant qu’il était l’unique soutien de sa famille et n’avait jamais fait l’objet d’aucune plainte en vingt-cinq années d’enseignement. Mais le Newman College est resté sur ses positions, ainsi que le diocèse qui a renouvelé son appui à l’établissement, par l’intermédiaire du P. Paul Thelekat, porte-parole de l’Eglise catholique syro-malabare au Kerala: « En sanctionnant le professeur, l’Eglise a délivré un message clair à toute la population, [celui] qu’il n’était permis à aucun individu, même chrétien, de blesser les sentiments [religieux] d’aucune communauté » (3).
La Mahatma University à laquelle est rattaché le Newman College réagissait à son tour le 10 septembre, demandant à l’établissement catholique de réintégrer le Pr Joseph et accusant l’école de ne pas avoir respecté la procédure légale en expulsant un enseignant sans son autorisation.

Mais le soutien le plus inattendu au professeur de malayalam est sans aucun doute celui exprimé par le gouvernement, communiste, du Kerala. Le ministre de l’Education, M. A. Baby, qui avait condamné l’agression, a déclaré ainsi le 12 septembre dans les colonnes du Times of India que le Newman College devait rétablir l’enseignant dans ses fonctions. V. R. Krishna Iyer, ministre de la Justice, a pour sa part violemment fustigé la direction de l’école, déclarant que la nation entière avait indignée de l’offense faite au Pr Joseph par les radicaux, à laquelle s’était ajouté un « homicide moral » de la part d’un établissement chrétien.

L’« affaire T. J. Joseph » fait l’objet d’un suivi attentif des médias et dépasse aujourd’hui les frontières du Kerala. Elle déchaîne les passions, autour du débat, récurrent dans le sous-continent, de la tolérance religieuse et du fonctionnement des institutions (4).

(1) Voir EDA 533.
(2) Le très réputé Newman College de Thodupuzha (nommé ainsi en l’honneur du cardinal Newman) a été fondé en 1964 par le diocèse catholique syro-malabar de Kothamangalam.
(3) Press Trust of India, 7 septembre 2010.
(4) istreamkeralam TV, Press Trust of India, Ucanews, Times of India

(Source: Eglises d'Asie, 21 septembre 2010)
 
Shanxi, Chine: deux évêques nouvellement ordonnés affirment leur fidélité au pape et à l’Eglise
Eglises d'Asie
09:57 21/09/2010
Eglises d'Asie, 21 septembre 2010 – Agé de 48 ans, le P. Peter Wu Junwei a été ordonné ce 21 septembre évêque du diocèse de Xinjiang (Yuncheng) dans la province du Shanxi. Ordonné en communion avec Rome et en accord avec les autorités chinoises, le nouvel évêque a déclaré à l’issue de la cérémonie sa « détermination à être fidèle pour toujours au pape ».

La messe d’ordination a eu lieu dans la cathédrale du diocèse, en présence d’une foule de 2 000 fidèles, réunis autour d’environ 140 prêtres et une centaine de religieuses. L’évêque consécrateur était Mgr John Huo Cheng, de Fenyang; il était assisté du coadjuteur de Taiyuan, Mgr Paul Meng Ningyou, qui avait été ordonné évêque cinq jours plus auparavant (voir plus bas), de Mgr Joseph Li Shan, évêque de Pékin, et du coadjuteur de Yan’an (Yulin), Mgr John Baptist Yang Xiaoting, tous en communion avec le Saint Père. Un moment, il a été craint que Mgr Andrew Jin Daoyuan, évêque de Changzhi, participe à la cérémonie, mais cela n’a pas été le cas. Mgr Andrew Jin fait partie du groupe des cinq évêques ordonnés en 2000 sans la permission du pape (1).

Le nouvel évêque prend la tête d’un diocèse dont le siège était vacant depuis 2006. En l’espace de cinq mois, cette année-là, Xinjiang avait perdu Mgr Augustine Zheng Shouduo, décédé en juillet 2006 à l’âge de 90 ans, puis le successeur de celui-ci, Mgr Joseph Li Hongguang, décédé en décembre 2006 à l’âge de 80 ans. Pour Mgr Peter Wu Junwei, la priorité est aujourd’hui de recréer une unité, notamment au plan spirituel, au sein du presbyterium et, pour cela, il a annoncé que le mois prochain, les prêtres se retrouveraient pour une retraite commune – la première depuis 2006. Il a demandé à ses fidèles de se mettre à l’école de saint Matthieu, fêté ce 21 septembre, qui s’est levé pour suivre le Christ et annoncer la Bonne Nouvelle. Dans un diocèse où les baptêmes sont nombreux mais où le nombre des fidèles ne croît pas au même rythme, le nouvel évêque a également déclaré vouloir porter une attention particulière à la formation des laïcs, pour éviter qu’une fois baptisés, les fidèles cessent de pratiquer. Le diocèse de Xinjiang compte environ 15 000 fidèles, en majorité en milieu rural, 28 prêtres et une quarantaine de religieuses.

Aîné d’une famille de six enfants, Mgr Peter Wu a grandi dans une famille profondément catholique. L’un de ses frères est devenu prêtre, l’une de ses sœurs religieuse. Un arrière grand-oncle, Peter Wu Anbang, martyrisé durant la Révolte des Boxers en 1900, a été canonisé en 2000, en même temps que 119 autres martyrs de l’Eglise en Chine. Formé au grand séminaire de Taiyuan, ordonné prêtre en 1990 à l’âge de 28 ans, Peter Wu a servi en paroisse jusqu’en 2001, année où il fut nommé recteur du séminaire régional de Taiyuan, le grand séminaire Montecorvino du Shanxi. Sa nomination par le pape comme évêque de Xinjiang remonte au mois de mai 2009 et son élection par l’Eglise locale a eu lieu en septembre 2009.

Quelques jours plus tôt, dans la même province du Shanxi, avait eu lieu une autre ordination épiscopale, là aussi pour un évêque nommé par Rome et reconnu par les autorités chinoises. Le 16 septembre dernier, le P. Paul Meng Ningyou, 47 ans, a été ordonné évêque coadjuteur de Taiyuan, pour épauler Mgr Silvester Li Jiantang, dont le grand âge rend difficile l’exercice de sa mission. Dans la cathédrale de l’Immaculée-Conception, entièrement rénovée en 2005 (2), 5 000 fidèles et 116 prêtres avaient pris place, la cérémonie étant présidée par Mgr Silvester Li, assisté de Mgr John Huo Cheng, de Fenyang, John Baptist Wang Jin, de Yuci (ces deux diocèses sont voisins de celui de Taiyuan), de Mgr Joseph Li Jing, de Ningxia, et de Mgr Paul Meng Qinglu, de Hohhot. Tous sont des évêques reconnus par Rome. Dans son adresse à la communauté, le nouvel évêque a souligné son désir de travailler à l’unité du diocèse, à la communion entre les fidèles et à l’évangélisation.

Interrogé par l’agence Ucanews, un prêtre du diocèse a déclaré attendre beaucoup de son nouvel évêque: « L’unité au sein du clergé doit être renforcée car certains d’entre nous se montrent indifférents aux affaires du diocèse. Le besoin de formation est grand, la plupart d’entre nous n’ayant pas suivi de cursus complémentaire après le séminaire. » Il ajoute qu’il est important que le nouvel évêque s’attache à promouvoir les vocations, celles-ci se faisant de plus en plus rare à Taiyuan comme dans le reste du pays.

Né en 1963, ordonné prêtre à Taiyuan en 1991, Paul Meng Ningyou a enseigné au séminaire national, à Pékin, et, en 1999, il a étudié à l’université catholique de Louvain, en Belgique. Il était vicaire général de Taiyuan et curé de la cathédrale depuis 2006. En 2008, il avait été choisi pour figurer parmi les relayeurs de la torche portant la flamme olympique (3).

Avec ces deux récentes ordinations épiscopales, le nombre des évêques ordonnés en Chine continentale avec l’accord du Saint Père et celui des autorités chinoises depuis le début de cette année est porté à huit.

(1) Voir EDA 301
(2) Voir EDA 434
(3) Voir EDA 488

(Source: Eglises d'Asie, 21 septembre 2010)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh lễ phong chức Linh mục tại nhà thờ chính tòa Đà Lạt
Nguyễn Quang Ngọc
09:51 21/09/2010
Đà Lạt, nhờ hồng ân Thiên Chúa, trong năm Kim khánh Giáo phận, vào lúc 09h30 thứ ba ngày 21 tháng 09 năm 2010, tại Nhà thờ Chánh Tòa Đà Lạt, Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, đã truyền chức Linh mục cho 4 Thầy Phó tế sau đây:



2 Thầy Phó tế thuộc Giáo phận:
Thầy Phêrô Nguyễn Thăng Long, Giáo xứ Thánh Tâm, Lộc Phát, Bảo Lộc.
Thầy Vinh Sơn Nguyễn Thanh Minh, Giáo xứ Tân Hà, Lộc Tiến, Bảo Lộc.

Và 2 Thầy Phó tế thuộc Tu Hội Vinh Sơn:
Thầy Phaolô Phạm Quang Hoàng.
Thầy Phêrô Ngô Văn Thuyên.

Trong thánh lễ phong chức hôm nay, tháp tùng với Đức Cha Phaolô còn có sự hiện diện Cha Phaolô Lê Đức Huân, Giám quản Giáo phận Đà Lạt, quý Cha phó Nhà thờ Chánh Tòa, quý Cha Giám Đốc tại các Đại Chủng Viện Đà Lạt – Nha Trang, quý Cha bề trên, quý Cha Quản Hạt, quý Cha giáo, cùng khoảng 160 Linh mục trong và ngoài Giáo phận. Ngoài ra còn có sự tham dự quý tu sĩ nam nữ và toàn thể cộng đoàn dân Chúa trong Giáo phận.

Sau bài Phúc Âm là nghi thức phong chức Linh mục. Nghi thức gồm 3 phần:
Phần 1: Các nghi thức chuẩn bị.
Phần 2: Nghi thức chính yếu.
Phần 3: Các nghi thức dẫn giải.

Trong bài giảng lễ, Đức Cha Phaolô đã chia sẽ: Anh chị em rất thân mến, được Cha Giám quản Giáo phận Đà Lạt mời về phong chức Linh mục cho một số anh em chủng sinh triều và dòng, hôm nay, tôi có cơ hội gặp lại các cha và anh chị em Giáo dân Giáo phận Đà Lạt, xin kính chào tất cả mọi người. Để chúng ta có thể tham dự nghi lễ phong chức cách ý thức và sốt sắng hơn, hãy để cho ánh sáng Lời Chúa soi chiếu trên tâm hồn mỗi người.

Bài đọc 1 là đoạn sách Isaia khá quen thuộc, nhắc lại cho chúng ta lời tiên báo về Đấng Tiên tri được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần, tấn phong làm Đấng Messia Cứu Thế, và sai đi rao giảng Tin mừng Cứu độ cho những kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho những người tù tội. Chính Chúa Giêsu, trong hội đường Nazaret, đã công nhận lời tiên báo đó ứng dụng cho Người. Rồi khi sống lại và hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng ấy lại cho các ông: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

Mục đích của việc phong chức Linh mục, là để có người thông phần vào sứ mạng của các tông đồ mà các Giám mục là những người kế vị. Linh mục, và nhất là Linh mục Giáo phận, là cộng sự viên trực tiếp và gần gũi nhất của Giám mục, chia sẻ gánh nặng tông đồ của Giám mục, chính vì thế mà nhận lãnh chức thánh từ tay Giám mục. Ngày lễ của Thánh Matthêu Tông đồ làm cho việc phong chức Linh mục hôm nay càng thêm ý nghĩa.

Bài Tin mừng Matthêu tường thuật ơn gọi tông đồ của thánh nhân. Một hôm, Đức Giêsu đi ngang qua, thấy Matthêu ngồi ở bàn thu thuế, liền gọi ông: “Hãy theo Thầy”. Ông liền đứng dậy và đi theo người. Cử chỉ mau mắn và dứt khoát của ông là một lời đáp không lời. Matthêu không do dự, không thắc mắc, không hỏi lại. Tất cả đều bao hàm trong cử chỉ ông “đứng dậy và đi theo Chúa Giêsu”. Từ nay, ông chấm dứt cuộc sống đời thường. Ông chưa biết vị Thầy trẻ tuổi sẽ dẫn mình đi đâu, nhưng ông hoàn toàn tin tưởng và phó thác.

Matthêu hết sức vui mừng vì đã được Chúa Giêsu kêu gọi, nên lập tức mời Đức Giêsu và các môn đệ đến dùng bữa tại nhà mình, cùng với gia đình, họ hàng, bè bạn. Lời mời của Matthêu là dấu hiệu của niềm vui và tình bằng hữu huynh đệ. Matthêu không xấu hổ vì những “người chung quanh”, trái lại còn muốn cho họ được nghe lời của Chúa Giêsu. Ông đã làm công tác tông đồ môi trường ngay sau khi được Chúa gọi. Matthêu không còn bận tâm nào khác, ngoài việc theo Chúa. Ông đã nhìn tất cả, lắng nghe tất cả, ghi nhận tất cả, và sau này tường thuật lại khá chi tiết với tư cách một chứng tá sống động cho những người đồng hương của ông.

Chức Linh mục không phải là một địa vị xã hội, mà một số người trẻ Việt Nam mơ ước, nhưng theo tinh thần của thư Ephêsô, là một ơn gọi, một đặc sủng mà Đức Kitô ban cho. Người đã ban cho kẻ này làm tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ.

Theo Công đồng Vaticanô II, Linh mục trước hết là người được sai đi loan báo Tin mừng Nước Trời, giống như Đức Giêsu, do đó phải là người hiểu biết Tin mừng, thấm đẫm Tin mừng, sống và thực hành Tin mừng. Nếu có ai muốn điều tra xem trong trái tim của người Linh mục có gì, cầu mong họ chỉ thấy nơi đó “chất Tin mừng”, chứ không còn thứ gì khác. Ngày nay, chỉ có Tin mừng sống động nơi con người Linh mục mới có sức thuyết phục, có khả năng nuôi dưỡng đời sống tâm linh con người.

Giống như Thầy Giêsu, Linh mục là người thầy chăm sóc và dạy dỗ Giáo dân sống theo sự hướng dẫn của CTT, để không ngừng thực hiện thánh ý của Thiên Chúa. Giáo Hội đang sống trong một thời đại khó khăn, đầy dẫy những thử thách, nên Linh mục phải cố gắng rất nhiều, mới có thể chu toàn sứ mạng. Trước hết phải ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại như lời thánh Phaolô khuyên bảo trong thư Ephêsô. Hơn bao giờ hết, hãy tha thiết duy trì sự hiệp nhất trong CTT. Chỉ có một Thân Thể, một Thần Khí, và chúng ta đã được kêu gọi chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Đó là niềm hy vọng được cứu rỗi nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, các thừa tác viên của Giáo Hội ở bất cứ cấp bậc nào, dù là Giám mục, Linh mục, không được quên sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Giêsu. Người đã đến, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hy sinh mạng sống làm giá chuộc nhiều người.

Sau lời nguyện Hiệp Lễ, các Tân Linh mục đã bày tỏ tâm tình biết ơn đến Đức Cha, quý Cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ông bà cố và toàn thể cộng đoàn đã đến cùng hiệp dâng thánh lễ và cầu nguyện trong ngày trọng đại hôm nay.

Cuối thánh lễ, các Tân Linh mục cùng chụp hình lưu niệm với Đức Cha, quý Cha trước tiền sảnh Nhà Thờ Chánh Tòa.

Nguyện xin Chúa nâng đỡ và trợ lực các Tân Linh mục trong sứ vụ mục tử mà Chúa trao phó, luôn trung thành với ơn Chúa, và biết quảng đại phục vụ anh em như Đức Kitô.
 
Giáo xứ Đồng Đăng, GP Lạng Sơn, đang chuẩn bị cho ngày khánh thành tân thánh đường
Giuse Trần Ngọc Huấn
10:07 21/09/2010
LẠNG SƠN, 21-9-2010 – Những ngày này, tại giáo xứ Đồng Đăng thuộc giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng, không khí hết sức nhộn nhịp và tràn đầy niềm vui, mọi thành phần dân Chúa nơi đây đang nhiệt thành cộng tác trong công việc chung để chuẩn bị cho ngày hồng phúc – khánh thành và cung hiến ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.

Xem hình ảnh

Đại lễ khánh thành và cung hiến, nhà thờ giáo xứ Đồng Đăng, sẽ được cử hành trọng thể vào lúc 9h00 sáng ngày 1 tháng 10 năm 2010, nhằm ngày lễ kính thánh Têrêsa là bổn mạng của giáo xứ. Cho đến hôm nay, chỉ còn không đầy 10 ngày nhưng công việc còn bộn bề, đòi hỏi mọi người phải làm việc hăng say và không quản thời gian, nắng mưa. Dù vậy, trên nét mặt của từng người, vẫn ánh lên niềm hân hoan, không vui sao được, khi ngôi nhà thờ đã từ lâu là niềm mong mỏi chờ đợi của giáo xứ, nay sắp được hoàn thành.

Ông Aimoai Hứa Đức Minh (Hứa Slám Thẩy) – trưởng ban hành giáo Đồng Đăng – vui mừng cho chúng tôi biết: “Từ năm 1979, khi nhà thờ giáo xứ bị sụp đổ hoàn toàn trong chiến tranh, giáo xứ Đồng Đăng rơi vào cảnh hoang tàn, tường siêu vách đổ, có được một ngôi nhà để sớm hôm thờ phượng Chúa là một niềm mong mỏi canh cánh trong lòng mỗi người trong xứ... Hôm nay, nhà thờ của xứ chúng tôi sắp hoàn thành, chúng tôi hết sức vui mừng. Cảm tạ Chúa, cảm ơn các Đấng bậc và các ân nhân nhiều lắm. Hiện nay các công việc xây cất, trang trí nội ngoại thất,… đã cơ bản hoàn thiện, bà con trong xứ đang cộng tác lao động thu dọn khuôn viên và trang hoàng để chuẩn bị cho ngày lễ, công việc nhiều, nhưng mỗi người một chút công sức thì sẽ mau chóng hoàn thành”.

Nhà thờ mới của giáo xứ Đồng Đăng được xây dựng trên diện tích đất khoảng 5000m2, thuộc địa phận xã Phú xá, huyện Cao lộc tỉnh Lạng Sơn, cách trung tâm thị trấn Đồng Đăng khoảng 2km.

Trao đổi với chúng tôi, cha Phaolô Nguyễn Văn Thảo, quản xứ Đồng Đăng, gửi lời mời chân thành tới mọi thành phần dân Chúa xa gần, đến tham dự ngày Đại lễ để chia sẻ niềm vui, chung lời tạ ơn và cầu nguyện cho giáo xứ./.
 
Sinh Viên La San Phú Thọ cùng vui Trung Thu với Các Em Khiếm Thị Bừng Sáng và Như Nghĩa
Lê Nhựt
10:23 21/09/2010
SAIGÒN - Để hòa mình vào niềm vui của các em thiếu nhi trong ngày tết Trung Thu, các em sinh viên La San Phú Thọ đã đến thăm, cùng vui và tặng quà cho các em khiếm thị Bừng Sáng, trên đường Nguyễn Tri Phương, Quận 10 vào ngày 16/ 9/ 2010, và tiếp đến sinh hoạt với các em khiếm thị tại Mái Am Huynh Đệ Như Nghĩa vào ngày Chúa nhật 19 / 9 vừa qua.

Xem hình ảnh
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Gió Trên Đồi
Nguyễn Ngọc Liên
10:46 21/09/2010

GIÓ TRÊN ĐỒI



Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên

Anh lặng im về nghe gió cát

Đuổi tràn những cơn mê qua đồi

Cát mải miết chạy ùa theo gió lốc

Chuyển mình thành gò đống không tên..

(Trích Thơ Huyền Nguyên)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền