Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kêu gọi chống chia rẽ, ghen tương
LM. Trần Đức Anh OP
08:59 23/10/2014
VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 22-10-2014, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các tín hữu tránh chia rẽ, ghen tương trong cộng đoàn Giáo Hội.
Trong số các đoàn tín hữu hành hương, đông nhất vẫn là các đoàn nói tiếng Ý rồi đến tiếng Đức, đặc biệt là 3.500 tín hữu thuộc các giáo phận miền Romana bắc Italia; phái đoàn 1 ngàn người từ giáo xứ Đức Mẹ Núi Cát Minh ở Gela, dưới sự hướng dẫn của Đức GM giáo phận Piazza Amerina. Từ Việt Nam có một nhóm hành hương gồm 16 người thuộc Tổng giáo phận Sàigòn. Từ Nhật Bản có 160 tín hữu thuộc tổng giáo phận Tokyo về đây hành hương dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Takeo Okada.
Sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ thư thứ I của Thánh Phaolô nói về Giáo Hội như thân mình của Chúa Kitô. Đó cũng là đề tài được ĐTC khai triển trong loạt bài về Giáo Hội.
Bài huấn giáo của ĐTC
Anh chị em thân mến, chào anh chị em,
Khi muốn cho thấy rõ các yếu tố họp thành một thực tại liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào và họp thành một thực thể duy nhất, người ta thường dùng hình ảnh một thân thể. Từ thánh Phaolô Tông đồ, thành ngữ này đã được áp dụng cho Giáo Hội và được coi là nét đặc trưng sâu xa nhất và đẹp nhất của Giáo Hội. Vì vậy hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: theo nghĩa nào Giáo Hội họp thành một thân thể? Và tại sao Giáo Hội được định nghĩa là ”thân mình Chúa Kitô?”
Trong sách ngôn sứ Ezechiel có mô tả một thị kiến khá đặc biệt, gây rùng mình, nhưng có khả năng mang lại niềm tín thác và hy vọng cho tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa tỏ cho ngôn sứ thấy một bãi xương, tách biệt nhau và khô cằn. Một cảnh tượng tiêu điều.. Rồi Thiên Chúa bảo ngôn sứ hãy khẩn cầu Thần Khí trên chúng. Thế là các xương ấy bắt đầu xích lại gần nhau và liên kết với nhau, trên các xương đó trước tiên các dây thần kinh tăng trưởng rồi đến các lớp thịt và họp thành một thân mình trọn vẹn và đầy sức sống (Xc Ez 37,1-14). Đó chính là Giáo Hội! là một kiệt tác của Thần Khí, Người phú vào mỗi người sự sống mới của Đấng Phục Sinh và đặt chúng ta cạnh nhau, phần tử này phục vụ và nâng đỡ nhau, và qua đó Chúa biến tất cả chúng ta thành một thân mình duy nhất, được kiến tạo trong tình hiệp thông và tình yêu.
Nhưng Giáo Hội không phải chỉ là một thân mình được kiến tạo trong Thần Khí: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô! Đây không phải chỉ là một kiểu nói: chúng ta thực sự là như vậy! đó là một hồng ân lớn chúng ta nhận lãnh trong ngày chúng ta chịu phép rửa! Thực vậy, trong bí tích rửa tội, Chúa Kitô đã làm cho chúng ta thuộc về Chúa, đón nhận chúng ta trong trọng tâm mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm tột đỉnh tình thương của Ngài đối với chúng ta, để cho chúng ta được sống lại với Ngài, như những thụ tạo mới. Giáo Hội được khai sinh như thế, và Giáo Hội được nhìn nhận là Thân Mình Chúa Kitô! Phép rửa tội tạo nên một sự tái sinh đích thực, tái sinh chúng ta trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên chi thể của Chúa, liên kết chúng ta với nhau chặt chẽ, như những chi thể của cùng một thân mình, có Chúa là đầu (Xc Rm 12,5; 1 Cr 12,12-13).
ĐTC nhận xét rằng:
”Điều nảy sinh từ đó chính là một sự hiệp thông sâu xa trong tình thương. Theo nghĩa này, lời khuyên nhủ của thánh Phaolô soi sáng, khi Thánh Nhân nhắn nhủ những người chồng ”hãy yêu thương vợ như chính thân thể của mình như Chúa Kitô vẫn yêu thương Giáo Hội, vì chúng ta là chi thể của Chúa” (Ep 5,28-30). Thật là đẹp nếu chúng ta năng nhớ lại mình là gì, Chúa Giêsu đã biến chúng ta thành gì: chúng ta là thân mình của Chúa, thân thể mà không gì và không ai có thể tách rời khỏi Chúa và Ngài bảo bọc thân mình ấy với tất cả lòng say mê và yêu thương của Ngài, như người cHồng Yêu thương vợ mình. Nhưng tư tưởng này phải làm nổi lên trong chúng ta ước muốn đáp lại tình yêu của Chúa Kitô, chia sẻ tình thương của Ngài giữa chúng ta, như các chi thể sinh động của cùng một thân thể. Thời thánh Phaolô, cộng đoàn Corinto gặp nhiều khó khăn theo chiều hướng này, như thường xảy ra giữa chúng ta, họ sống kinh nghiệm chia rẽ, ghen tương, thiếu thông cảm và gạt ra ngoài lề. Tất cả những điều đó không tốt, vì thay vì xây dựng và làm cho Giáo Hội được tăng trưởng như thân mình của Chúa Kitô, thì lại phân tán Giáo Hội thành bao nhiêu mảnh, cắt chặt Giáo Hội. Điều này cũng xảy ra ngày nay. Chúng ta hãy nghĩ đến các cộng đoàn Kitô, trong một vài giáo xứ, chúng ta hãy nghĩ đến những khu phố với bao nhiêu chia rẽ, ghen tương, bao nhiêu hiểu lầm và tình trạng bị gạt ra ngoài. Sự kiện đó làm cho chúng ta tách biệt nhau. Đó là khởi đầu của chiến tranh. Chiến tranh không bắt đầu nơi chiến trường: chiến tranh bắt đầu trong tâm hồn, với những sự thiếu cảm thông, chia rẽ, ghen tương, tranh giành nhau.
Cộng đoàn Corinto xưa kia cũng như thế, họ vô địch trong lãnh vực này. Vì vậy, thánh Tông Đồ đã gửi đến người dân thành Corinto vài lời khuyên cụ thể, và những lời này cũng có giá trị đối với chúng ta: đừng ghen tương, nhưng trong cộng đoàn chúng ta, hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của các anh chị em chúng ta... Tất cả những gì gây phân rẽ thì cần phải tránh, chẳng vậy sự ghen tương sẽ lớn mạnh và làm đầy tâm hồn. Một con tim ghen tương là một con tim át-xít, một con tim thay vì có máu thì dường như chỉ có dấm; đó là một con tim không bao giờ hạnh phúc, một con tim phân hóa cộng đoàn. Vậy ta phải làm gì đây? Thưa hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của những người khác trong cộng đoàn, của các anh chị em chúng ta. Khi ý tưởng ghen tương lẻn vào tâm trí chúng ta - vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi - thì ta phải thưa với Chúa: ”Cám ơn Chúa, vì Chúa đã ban năng khiếu đó cho người ấy”. Hãy quí chuộng đức tính của họ, gần gũi và chia sẻ những đau khổ của những ngừơi rốt cùng và túng thiếu; biểu lộ lòng biết ơn đối với tất cả mọi người và đặc biệt đối với những người thi hành những công tác phục vụ khiêm tốn và âm thầm nhất, và sau cùng là lời khuyên của thánh Phaolô cho dân Corinto: đừng nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Bao nhiêu người nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Cả chúng ta nữa, bao nhiêu lần chúng ta nói như người Biệt Phái trong dụ ngôn: ”Lạy Chúa con cảm tạ Chúa vì con không như người kia, con cao trọng hơn họ”. Nhưng như thế là xấu, không bao giờ được làm như vây. Khi định làm như thế, thì hãy nhớ đến các tội lỗi của mình, những tội mà chẳng ai biết, và xấu hổ trước mặt Chúa, và nói: ”Lạy Chúa, Chúa biết ai cao trọng hơn. Con im miệng bây giờ”. Và làm như thế là tốt. Trong tình bác ái hãy coi nhau như chi thể của nay, sống và hiến thân mưu ích cho tất cả mọi người (Xc 1 Cr 12,14).
Và ĐTC kết luận rằng: Anh chị em thân mến, như ngôn sứ Ezechiele và như thánh Phaolô Tông đồ, chúng ta cũng hãy khẩn cầu Chúa Thánh Linh, cho ân thánh và những hồng ân dồi dào của Ngài giúp chúng ta thực sự sống như thân mình của Chúa Kitô và như dấu chỉ hữu hình và đẹp đẽ nói lên tình thương của Chúa.
Chào thăm và nhắn nhủ
Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và các giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.
Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt chào thăm các bạn trẻ thuộc giáo phận Bayeux-Lisieux mới chịu phép thêm sức, cũng như những người thuộc giáo phận Lyon đang ở trong tình trạng bấp bênh. Ngài cho biết sẽ đặc biệt cầu nguyện cho họ.
Khi chào thăm các tín hữu Ba Lan, ĐTC nói:
”Hôm nay, chúng ta cử hành lễ kính nhớ Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng theo phụng vụ, Thánh nhân đã mời tất cả chúng ta hãy rộng cửa cho Chúa Kitô; trong cuộc viếng thăm đầu tiên tại quê hương anh chị em, Người đã khẩn cầu Chúa Thánh Linh ngự xuống, canh tân đất nước Ba Lan; Người cũng nhắc nhớ cho mọi người mầu nhiệm lòng từ bi của Chúa. Ước gì gia sản tinh thần của Người không bị lãng quên, nhưng thúc đẩy chúng ta suy tư và hành động cụ thể để mưu ích cho Giáo Hội, cho gia đình và xã hội.
Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào các tín hữu thuộc các giáo phận ở miền Romagna, bắc Italia, cùng với các GM của mình, Ngài khuyến khích họ hãy tìm trong Phúc Âm những tiêu chuẩn soi sáng cho cuộc sống bản thân và cộng đoàn.
Hiện diện tại Quảng trường có đông đảo các nhân viên hãng hàng không Meridiana ở Italia đang bị đe dọa mất việc vì họ thuộc vào số nhân viên thặng dư. ĐTC nói: ”Tôi muốn hiệp với Cộng đoàn giáo phận Tempio-Ampurias bày tỏ sự gần gũi và liên đới sâu xa với các nhân viên hãng hàng không Meridiana, đang sống những giờ lo âu cho tương lai công ăn việc làm của mình. Tôi nồng nhiệt cầu mong các vị hữu trách có thể tìm được một giải pháp công bình, để ý trước tiên tới phẩm giá con ngừời và nhu cầu không thể loại bỏ của bao nhiêu gia đình.”
Hãng này xác nhận sẽ thải 1.366 nhân viên. Chính phủ Italia đang cố gắng làm trung gian giải quyết vụ này.
Với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn, ĐTC nhắc nhớ rằng ”tháng 10 mời gọi chúng ta hãy canh tân sự cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Với năng lực tươi mát của tuổi trẻ, với sức mạnh của lời cầu nguyện và hy sinh, và với tiềm năng của đời sống vợ chồng, anh chị em hãy biết trở thành những nhà thừa sai của Tin Mừng, nâng đỡ cụ thể cho những người đang vất vả mang Tin Mừng đến cho những người chưa được nghe biết.
ĐTC cũng ứng khẩu nhắc nhở các tín hữu ngày hôm nay hãy lấy sách ngôn sứ Ezechiel và đọc đoạn thứ 37 kể lại thị kiến Thần Khí Chúa biến những xương khô thành một thành một thân mình sống động.
Trong số các đoàn tín hữu hành hương, đông nhất vẫn là các đoàn nói tiếng Ý rồi đến tiếng Đức, đặc biệt là 3.500 tín hữu thuộc các giáo phận miền Romana bắc Italia; phái đoàn 1 ngàn người từ giáo xứ Đức Mẹ Núi Cát Minh ở Gela, dưới sự hướng dẫn của Đức GM giáo phận Piazza Amerina. Từ Việt Nam có một nhóm hành hương gồm 16 người thuộc Tổng giáo phận Sàigòn. Từ Nhật Bản có 160 tín hữu thuộc tổng giáo phận Tokyo về đây hành hương dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Takeo Okada.
Sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ thư thứ I của Thánh Phaolô nói về Giáo Hội như thân mình của Chúa Kitô. Đó cũng là đề tài được ĐTC khai triển trong loạt bài về Giáo Hội.
Bài huấn giáo của ĐTC
Anh chị em thân mến, chào anh chị em,
Khi muốn cho thấy rõ các yếu tố họp thành một thực tại liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào và họp thành một thực thể duy nhất, người ta thường dùng hình ảnh một thân thể. Từ thánh Phaolô Tông đồ, thành ngữ này đã được áp dụng cho Giáo Hội và được coi là nét đặc trưng sâu xa nhất và đẹp nhất của Giáo Hội. Vì vậy hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: theo nghĩa nào Giáo Hội họp thành một thân thể? Và tại sao Giáo Hội được định nghĩa là ”thân mình Chúa Kitô?”
Trong sách ngôn sứ Ezechiel có mô tả một thị kiến khá đặc biệt, gây rùng mình, nhưng có khả năng mang lại niềm tín thác và hy vọng cho tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa tỏ cho ngôn sứ thấy một bãi xương, tách biệt nhau và khô cằn. Một cảnh tượng tiêu điều.. Rồi Thiên Chúa bảo ngôn sứ hãy khẩn cầu Thần Khí trên chúng. Thế là các xương ấy bắt đầu xích lại gần nhau và liên kết với nhau, trên các xương đó trước tiên các dây thần kinh tăng trưởng rồi đến các lớp thịt và họp thành một thân mình trọn vẹn và đầy sức sống (Xc Ez 37,1-14). Đó chính là Giáo Hội! là một kiệt tác của Thần Khí, Người phú vào mỗi người sự sống mới của Đấng Phục Sinh và đặt chúng ta cạnh nhau, phần tử này phục vụ và nâng đỡ nhau, và qua đó Chúa biến tất cả chúng ta thành một thân mình duy nhất, được kiến tạo trong tình hiệp thông và tình yêu.
Nhưng Giáo Hội không phải chỉ là một thân mình được kiến tạo trong Thần Khí: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô! Đây không phải chỉ là một kiểu nói: chúng ta thực sự là như vậy! đó là một hồng ân lớn chúng ta nhận lãnh trong ngày chúng ta chịu phép rửa! Thực vậy, trong bí tích rửa tội, Chúa Kitô đã làm cho chúng ta thuộc về Chúa, đón nhận chúng ta trong trọng tâm mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm tột đỉnh tình thương của Ngài đối với chúng ta, để cho chúng ta được sống lại với Ngài, như những thụ tạo mới. Giáo Hội được khai sinh như thế, và Giáo Hội được nhìn nhận là Thân Mình Chúa Kitô! Phép rửa tội tạo nên một sự tái sinh đích thực, tái sinh chúng ta trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên chi thể của Chúa, liên kết chúng ta với nhau chặt chẽ, như những chi thể của cùng một thân mình, có Chúa là đầu (Xc Rm 12,5; 1 Cr 12,12-13).
ĐTC nhận xét rằng:
”Điều nảy sinh từ đó chính là một sự hiệp thông sâu xa trong tình thương. Theo nghĩa này, lời khuyên nhủ của thánh Phaolô soi sáng, khi Thánh Nhân nhắn nhủ những người chồng ”hãy yêu thương vợ như chính thân thể của mình như Chúa Kitô vẫn yêu thương Giáo Hội, vì chúng ta là chi thể của Chúa” (Ep 5,28-30). Thật là đẹp nếu chúng ta năng nhớ lại mình là gì, Chúa Giêsu đã biến chúng ta thành gì: chúng ta là thân mình của Chúa, thân thể mà không gì và không ai có thể tách rời khỏi Chúa và Ngài bảo bọc thân mình ấy với tất cả lòng say mê và yêu thương của Ngài, như người cHồng Yêu thương vợ mình. Nhưng tư tưởng này phải làm nổi lên trong chúng ta ước muốn đáp lại tình yêu của Chúa Kitô, chia sẻ tình thương của Ngài giữa chúng ta, như các chi thể sinh động của cùng một thân thể. Thời thánh Phaolô, cộng đoàn Corinto gặp nhiều khó khăn theo chiều hướng này, như thường xảy ra giữa chúng ta, họ sống kinh nghiệm chia rẽ, ghen tương, thiếu thông cảm và gạt ra ngoài lề. Tất cả những điều đó không tốt, vì thay vì xây dựng và làm cho Giáo Hội được tăng trưởng như thân mình của Chúa Kitô, thì lại phân tán Giáo Hội thành bao nhiêu mảnh, cắt chặt Giáo Hội. Điều này cũng xảy ra ngày nay. Chúng ta hãy nghĩ đến các cộng đoàn Kitô, trong một vài giáo xứ, chúng ta hãy nghĩ đến những khu phố với bao nhiêu chia rẽ, ghen tương, bao nhiêu hiểu lầm và tình trạng bị gạt ra ngoài. Sự kiện đó làm cho chúng ta tách biệt nhau. Đó là khởi đầu của chiến tranh. Chiến tranh không bắt đầu nơi chiến trường: chiến tranh bắt đầu trong tâm hồn, với những sự thiếu cảm thông, chia rẽ, ghen tương, tranh giành nhau.
Cộng đoàn Corinto xưa kia cũng như thế, họ vô địch trong lãnh vực này. Vì vậy, thánh Tông Đồ đã gửi đến người dân thành Corinto vài lời khuyên cụ thể, và những lời này cũng có giá trị đối với chúng ta: đừng ghen tương, nhưng trong cộng đoàn chúng ta, hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của các anh chị em chúng ta... Tất cả những gì gây phân rẽ thì cần phải tránh, chẳng vậy sự ghen tương sẽ lớn mạnh và làm đầy tâm hồn. Một con tim ghen tương là một con tim át-xít, một con tim thay vì có máu thì dường như chỉ có dấm; đó là một con tim không bao giờ hạnh phúc, một con tim phân hóa cộng đoàn. Vậy ta phải làm gì đây? Thưa hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của những người khác trong cộng đoàn, của các anh chị em chúng ta. Khi ý tưởng ghen tương lẻn vào tâm trí chúng ta - vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi - thì ta phải thưa với Chúa: ”Cám ơn Chúa, vì Chúa đã ban năng khiếu đó cho người ấy”. Hãy quí chuộng đức tính của họ, gần gũi và chia sẻ những đau khổ của những ngừơi rốt cùng và túng thiếu; biểu lộ lòng biết ơn đối với tất cả mọi người và đặc biệt đối với những người thi hành những công tác phục vụ khiêm tốn và âm thầm nhất, và sau cùng là lời khuyên của thánh Phaolô cho dân Corinto: đừng nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Bao nhiêu người nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Cả chúng ta nữa, bao nhiêu lần chúng ta nói như người Biệt Phái trong dụ ngôn: ”Lạy Chúa con cảm tạ Chúa vì con không như người kia, con cao trọng hơn họ”. Nhưng như thế là xấu, không bao giờ được làm như vây. Khi định làm như thế, thì hãy nhớ đến các tội lỗi của mình, những tội mà chẳng ai biết, và xấu hổ trước mặt Chúa, và nói: ”Lạy Chúa, Chúa biết ai cao trọng hơn. Con im miệng bây giờ”. Và làm như thế là tốt. Trong tình bác ái hãy coi nhau như chi thể của nay, sống và hiến thân mưu ích cho tất cả mọi người (Xc 1 Cr 12,14).
Và ĐTC kết luận rằng: Anh chị em thân mến, như ngôn sứ Ezechiele và như thánh Phaolô Tông đồ, chúng ta cũng hãy khẩn cầu Chúa Thánh Linh, cho ân thánh và những hồng ân dồi dào của Ngài giúp chúng ta thực sự sống như thân mình của Chúa Kitô và như dấu chỉ hữu hình và đẹp đẽ nói lên tình thương của Chúa.
Chào thăm và nhắn nhủ
Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và các giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.
Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt chào thăm các bạn trẻ thuộc giáo phận Bayeux-Lisieux mới chịu phép thêm sức, cũng như những người thuộc giáo phận Lyon đang ở trong tình trạng bấp bênh. Ngài cho biết sẽ đặc biệt cầu nguyện cho họ.
Khi chào thăm các tín hữu Ba Lan, ĐTC nói:
”Hôm nay, chúng ta cử hành lễ kính nhớ Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng theo phụng vụ, Thánh nhân đã mời tất cả chúng ta hãy rộng cửa cho Chúa Kitô; trong cuộc viếng thăm đầu tiên tại quê hương anh chị em, Người đã khẩn cầu Chúa Thánh Linh ngự xuống, canh tân đất nước Ba Lan; Người cũng nhắc nhớ cho mọi người mầu nhiệm lòng từ bi của Chúa. Ước gì gia sản tinh thần của Người không bị lãng quên, nhưng thúc đẩy chúng ta suy tư và hành động cụ thể để mưu ích cho Giáo Hội, cho gia đình và xã hội.
Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào các tín hữu thuộc các giáo phận ở miền Romagna, bắc Italia, cùng với các GM của mình, Ngài khuyến khích họ hãy tìm trong Phúc Âm những tiêu chuẩn soi sáng cho cuộc sống bản thân và cộng đoàn.
Hiện diện tại Quảng trường có đông đảo các nhân viên hãng hàng không Meridiana ở Italia đang bị đe dọa mất việc vì họ thuộc vào số nhân viên thặng dư. ĐTC nói: ”Tôi muốn hiệp với Cộng đoàn giáo phận Tempio-Ampurias bày tỏ sự gần gũi và liên đới sâu xa với các nhân viên hãng hàng không Meridiana, đang sống những giờ lo âu cho tương lai công ăn việc làm của mình. Tôi nồng nhiệt cầu mong các vị hữu trách có thể tìm được một giải pháp công bình, để ý trước tiên tới phẩm giá con ngừời và nhu cầu không thể loại bỏ của bao nhiêu gia đình.”
Hãng này xác nhận sẽ thải 1.366 nhân viên. Chính phủ Italia đang cố gắng làm trung gian giải quyết vụ này.
Với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn, ĐTC nhắc nhớ rằng ”tháng 10 mời gọi chúng ta hãy canh tân sự cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Với năng lực tươi mát của tuổi trẻ, với sức mạnh của lời cầu nguyện và hy sinh, và với tiềm năng của đời sống vợ chồng, anh chị em hãy biết trở thành những nhà thừa sai của Tin Mừng, nâng đỡ cụ thể cho những người đang vất vả mang Tin Mừng đến cho những người chưa được nghe biết.
ĐTC cũng ứng khẩu nhắc nhở các tín hữu ngày hôm nay hãy lấy sách ngôn sứ Ezechiel và đọc đoạn thứ 37 kể lại thị kiến Thần Khí Chúa biến những xương khô thành một thành một thân mình sống động.
Đức Bênêđíctô XVI lên tiếng: không được hy sinh sự thật cho ước nguyện hòa bình chung chung
Vũ Văn An
21:30 23/10/2014
Theo tin Zenit ngày 23 tháng Mười, Giáo Hoàng Đại Học Urbana đã dành Đại Giảng Đường cho Đức Giáo Hoàng Hưu Trí Bênêđíctô XVI như một “cử chỉ biết ơn đối với những gì ngài đã làm cho Giáo Hội trong tư cách chuyên viên công đồng, giáo sư đại học, tổng trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin và, cuối cùng, Huấn Quyền”.
Buổi lễ đã diễn ra ngày thứ Ba, 21 tháng Mười, nhân dịp khai giảng niên học đại học, với sự tham dự của Đức TGM Georg Ganswein, đứng đầu Phủ Giáo Hoàng. Đức TGM Ganswein, trong tư cách thư ký của Đức GH Hưu Trí, đã đọc sứ điệp của Đức Bênêđíctô XVI nhân dịp này, một sứ điệp cũng đã được tờ L’Osservatore Romano đăng tải.
Sứ điệp của ngài nhấn mạnh tới tính “phổ quát” từng điều hướng sinh hoạt của Giáo Hoàng Đại Học Urbana. Sứ điệp nhắc nhở cộng đồng học thuật rằng Giáo Hội “không bao giờ là một dân tộc hay một nền văn hóa”, trái lại, ngay từ đầu, Giáo Hội đã “được tiền định cho nhân loại”. Trong sự nối kết này, Đức GH Hưu Trí nhấn mạnh, Giáo Hội tự biến mình thành một dụng cụ hữu hình cho nền hòa bình mà Chúa Kitô từng hứa ban cho các môn đệ của người và là nền hòa bình mà ngày nay “trong một thế giới tan nát và đầy bạo lực, ta khẩn thiết hơn bao giờ hết phải bồi đắp và xây dựng”.
Đức Bênêđíctô XVI tự hỏi liệu trong khi cố gắng đạt cho được mục tiêu này, “sứ mệnh của Giáo Hội có còn hợp thời nữa chăng?” Hay đúng hơn “điều đáng được thích hơn là nhằm đối thoại giữa các tôn giáo, đoàn kết với nhau để cùng phục vụ chính nghĩa hòa bình?”. Câu trả lời của Đức GH Hưu Trí là khẳng định nhưng không lãng quên “vấn đề sự thật”, vốn là một điều không được hy sinh nhân danh ước nguyện “hòa bình chung chung giữa các tôn giáo thế giới”.
Trong sứ điệp của ngài, Đức Bênêđíctô XVI nói rằng ngài coi các tôn giáo như những “đa dạng tính của cùng một thực tại mang nhiều hình thức khác nhau” nhưng là một thực tại “đang chuyển dịch trên bình diện lịch sử, giống hệt như các dân tộc và các nền văn hóa cũng đang chuyển dịch vậy”. Theo tầm nhìn của Kitô Giáo, điều này có nghĩa: cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu “có thể dẫn chuyển dịch này hoàn toàn về hướng chân lý của Người”.
Ngài cũng nói rằng Chúa Kitô không diệt trừ các văn hóa và lịch sử mà Người từng tiếp xúc, nhưng đúng hơn đã dẫn khởi chúng “vào một điều lớn hơn, điều mà chúng đang hướng tới”, dẫn chúng tới “thanh tẩy và trưởng thành”. Thực vậy, từ cuộc gặp gỡ này, “sự sống mới đã xuất hiện” và “những chiều kích mới của đức tin đã được biểu lộ và đem lại nhiều niềm vui mới”.
Ngài cho rằng: lẽ dĩ nhiên, tôn giáo không phải chỉ là một “hiện tượng đơn nhất”. Trong nó, “chắc chắn ta có thể tìm thấy nhiều điều đáng yêu và cao thượng, nhưng cũng thấp hèn và phá phách”.
Hơn nữa, trong thông điệp của ngài, Đức Bênêđíctô XVI còn bác bỏ lý thuyết duy nghiệm cho rằng ngày nay, tôn giáo có thể bị coi là “đã được vượt qua”. Ngài nói: con người “trở nên bé nhỏ hơn, chứ không lớn hơn khi họ không dành chỗ cho một triết lý sống (ethos) biết vượt quá chủ nghĩa thực dụng, dựa trên chính bản nhiên chân thực của mình” và hướng tầm nhìn lên Thiên Chúa.
Kết luận, Đức GH Hưu Trí quả quyết rằng: “trong một thế giới đã thay đổi sâu xa, nhiệm vụ vẫn còn hữu lý là thông truyền cho người khác Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”. Ngài nói: “Niềm vui là điều cần được thông truyền. Không nhằm mục đích để 'có được tối đa con số thành viên cho cộng đồng của ta' hay để có 'quyền lực', nhưng vì tình yêu khi được sống trong hân hoan 'là một chứng minh đích thực cho sự thật của Kitô Giáo'”.
Lắng nghe Đức Bênêđíctô XVI không bao giờ là quá trễ
Nhận định về sứ điệp trên, linh mục de Souza, chủ bút tờ Convivium ở Gia Nã Đại (www.conviviummagazine.ca.), cho rằng: Một trong những giọng nói khôn ngoan nhất thế giới đã không lên tiếng trong thời gian 2 tuần lễ của THĐ ở Rôma. Thời gian để ngài lên tiếng đã qua rồi, nhưng hiện nay Giáo Hội có nhiệm vụ phải lắng nghe những gì ngài đã nói.
Đức GH Hưu Trí Bênêđíctô XVI xuất hiện trong Thánh Lễ kết thúc THĐ để chứng kiến lễ phong chân phúc cho vị tiền nhiệm của mình là Đức GH Phaolô VI, người đã gọi ngài bỏ ghế giáo sư đại học để ngồi trên tòa Munich vào tháng Năm 1977, nâng ngài lên hàng Hồng Y một tháng sau đó. Đây là một trong những quyết định tạo nhiều hậu quả nhất của vị giáo hoàng này.
Nhiệm vụ lớn lao của Chân Phúc GH Phaolô VI là hoàn tất công trình của Công Đồng Vatican II và khởi sự thực thi nó. Cũng Công Đồng này là một biến cố vĩ đại đã làm cho nhà thần học trẻ tuổi Ratzinger thành một nhân vật sẽ đóng vai trò chủ chốt trong đời sống Giáo Hội suốt năm thập niên qua. Trong tư cách giáo hoàng, Đức Bênêđíctô XVI đã thiết lập Năm Thánh để tưởng niệm 50 năm Công Đồng rồi sau đó, đã thoái vị ngay trong năm đó một cách gây xúc động. Ba ngày sau khi công bố việc mình ra đi, Đức Bênêđíctô XVI đã nói chuyện với hàng giáo sĩ Rôma nhân dịp họ họp nhau hàng năm vào dịp đầu Mùa Chay. Nói không giấy tờ một cách sáng suốt hơn bất cứ ai khác dù có chuẩn bị lâu dài, ngài trình bày “một ít suy nghĩ về Công Đồng Vatican II theo nhận định của tôi”.
Ngài bảo: “Có Công Đồng của các Nghị Phụ, Công Đồng đích thực, nhưng cũng có Công Đồng của truyền thông. Nó gần như một công đồng biệt lập, và thế giới cảm thức Công Đồng qua thứ công đồng sau, tức qua truyền thông. Bởi thế, cái công đồng thấu tai người ta với một hiệu quả tức khắc chính là thứ công đồng của truyền thông, chứ không phải công đồng của các nghị phụ. Và trong khi Công Đồng của Các Nghị Phụ được diễn tiến trong đức tin, vì nó vốn là một công đồng của đức tin đi tìm hiểu biết, nghĩa là tìm cách tự hiểu chính mình và tìm cách hiểu các dấu chỉ của Thiên Chúa thời ấy, tìm cách đáp ứng thách đố của Thiên Chúa lúc ấy và tìm trong Lời Chúa một lời cho ngày nay và ngày mai… thì công đồng của các nhà báo, dĩ nhiên, không được diễn tiến trong đức tin, nhưng là trong các phạm trù của truyền thông ngày nay, tức tách biệt khỏi đức tin, với một khoa giải thích khác hẳn. Đó là khoa giải thích có tính chính trị: vì đối với các phương tiện truyền thông, công đồng chỉ là một cuộc đấu tranh chính trị, một cuộc đấu tranh quyền lực giữa các khuynh hướng khác nhau trong Giáo Hội. Điều hiển nhiên là truyền thông đứng về phía những người xem ra, đối với họ, được coi như đồng minh gần gũi với thế giới của họ”.
Ngài nói tiếp để nhắc nhở những người có mặt rằng các hy vọng lớn lao của Công Đồng đã gặp phải các phản ứng đắng cay ra sao ngay thời gian liền sau đó: “Ta biết rằng thứ công đồng của truyền thông này ai cũng tới lui được. Bởi thế, nó là thứ trổi vượt, thứ hữu hiệu hơn, và nó tạo ra quá nhiều tai họa, quá nhiều vấn đề, quá nhiều đau khổ: các chủng viện đóng cửa, các tu viện đóng cửa, một nền phụng vụ tầm phào.
“Công Đồng đích thực gặp khó khăn trong việc tự thiết lập và lên khuôn mình; còn thứ công đồng ảo kia thì mạnh hơn Công Đồng đích thực.Tuy nhiên, sức mạnh chân thực của Công Đồng vẫn tồn tại, và một cách từ từ nhưng chắc chắn, càng ngày càng tự thiết lập được mình nhiều hơn và trở thành sức mạnh đích thực, cũng là sự cải cách đích thực, sự canh tân đích thực của Giáo Hội. Đối với tôi, 50 năm sau Công Đồng, ta thấy rõ: thứ công đồng ảo kia đã tan vỡ, đã mất dạng, và nay đã xuất hiện Công Đồng đích thực với mọi sức mạnh thiêng liêng của nó”.
Nói vào tháng Hai năm 2013, có lẽ Đức Bênêđíctô XVI không biết rằng trong vòng hai năm tới, sức năng động của những năm tháng đó lại được xổ lồng một lần nữa trên Giáo Hội. Điều diễn ra trong “THĐ của các nghị phụ” trong hai tuần qua không quan trọng bằng điều diễn ra trong “THĐ của truyền thông”; thượng hội đồng sau đã khôn khéo thao túng, đưa ra các hàng tít lớn tràn ngập đầu óc người ta trước khi họ được nghe thực ra các nghị phụ đã nói những gì. Sự thao túng này đã bị lên án bằng những hạn từ mạnh mẽ nhất của các giám mục cao cấp từ Úc, Mỹ, Phi Châu và Đông Âu, và cả giám mục đoàn đều đứng lên chống lại nó như một toàn thể; tuy nhiên, một lần nữa, thứ thượng hội đồng ảo của những điều được trình bày cho truyền thông kia vẫn mạnh hơn là thượng hội đồng đích thực.
Chân phúc GH Phaolô VI chịu rất nhiều đau đớn vì rất “nhiều tai họa” mà thứ “Công Đồng tách biệt” kia đã gây ra cho Giáo Hội. Hiển nhiên ngài nhận chân rõ ràng THĐ năm 2014.
Đức HY Luis Antonio Tagle của Manila nổi tiếng vì đã nhận xét rằng “tinh thần Vatican II” đã sống lại. Vị Hồng Y này viết luận án tiến sĩ về Đức Phaolô VI, nên biết quá rõ tinh thần Vatican II là tinh thần có hai mặt: Thần Trí Thiên Chúa hành động trong Giáo Hội và tinh thần thế gian luôn tìm cách làm nản lòng Tin Mừng. Cả hai xem ra đều đã có mặt trong THĐ lần này.
Ngước nhìn bức chân dung vừa được kéo màn của vị tân chân phúc trên mặt tiền Nhà Thờ Thánh Phêrô, có lẽ Đức Bênêđíctô đã xin người từng chịu đau khổ lâu dài là Đức Phaolô VI cầu bầu cho Giáo Hội sau một THĐ đầy sóng gió về gia đình. Ngài quả là một ông già hưu trí suy tư về những năm tháng sóng gió thời xuân xanh.
Buổi lễ đã diễn ra ngày thứ Ba, 21 tháng Mười, nhân dịp khai giảng niên học đại học, với sự tham dự của Đức TGM Georg Ganswein, đứng đầu Phủ Giáo Hoàng. Đức TGM Ganswein, trong tư cách thư ký của Đức GH Hưu Trí, đã đọc sứ điệp của Đức Bênêđíctô XVI nhân dịp này, một sứ điệp cũng đã được tờ L’Osservatore Romano đăng tải.
Sứ điệp của ngài nhấn mạnh tới tính “phổ quát” từng điều hướng sinh hoạt của Giáo Hoàng Đại Học Urbana. Sứ điệp nhắc nhở cộng đồng học thuật rằng Giáo Hội “không bao giờ là một dân tộc hay một nền văn hóa”, trái lại, ngay từ đầu, Giáo Hội đã “được tiền định cho nhân loại”. Trong sự nối kết này, Đức GH Hưu Trí nhấn mạnh, Giáo Hội tự biến mình thành một dụng cụ hữu hình cho nền hòa bình mà Chúa Kitô từng hứa ban cho các môn đệ của người và là nền hòa bình mà ngày nay “trong một thế giới tan nát và đầy bạo lực, ta khẩn thiết hơn bao giờ hết phải bồi đắp và xây dựng”.
Đức Bênêđíctô XVI tự hỏi liệu trong khi cố gắng đạt cho được mục tiêu này, “sứ mệnh của Giáo Hội có còn hợp thời nữa chăng?” Hay đúng hơn “điều đáng được thích hơn là nhằm đối thoại giữa các tôn giáo, đoàn kết với nhau để cùng phục vụ chính nghĩa hòa bình?”. Câu trả lời của Đức GH Hưu Trí là khẳng định nhưng không lãng quên “vấn đề sự thật”, vốn là một điều không được hy sinh nhân danh ước nguyện “hòa bình chung chung giữa các tôn giáo thế giới”.
Trong sứ điệp của ngài, Đức Bênêđíctô XVI nói rằng ngài coi các tôn giáo như những “đa dạng tính của cùng một thực tại mang nhiều hình thức khác nhau” nhưng là một thực tại “đang chuyển dịch trên bình diện lịch sử, giống hệt như các dân tộc và các nền văn hóa cũng đang chuyển dịch vậy”. Theo tầm nhìn của Kitô Giáo, điều này có nghĩa: cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu “có thể dẫn chuyển dịch này hoàn toàn về hướng chân lý của Người”.
Ngài cũng nói rằng Chúa Kitô không diệt trừ các văn hóa và lịch sử mà Người từng tiếp xúc, nhưng đúng hơn đã dẫn khởi chúng “vào một điều lớn hơn, điều mà chúng đang hướng tới”, dẫn chúng tới “thanh tẩy và trưởng thành”. Thực vậy, từ cuộc gặp gỡ này, “sự sống mới đã xuất hiện” và “những chiều kích mới của đức tin đã được biểu lộ và đem lại nhiều niềm vui mới”.
Ngài cho rằng: lẽ dĩ nhiên, tôn giáo không phải chỉ là một “hiện tượng đơn nhất”. Trong nó, “chắc chắn ta có thể tìm thấy nhiều điều đáng yêu và cao thượng, nhưng cũng thấp hèn và phá phách”.
Hơn nữa, trong thông điệp của ngài, Đức Bênêđíctô XVI còn bác bỏ lý thuyết duy nghiệm cho rằng ngày nay, tôn giáo có thể bị coi là “đã được vượt qua”. Ngài nói: con người “trở nên bé nhỏ hơn, chứ không lớn hơn khi họ không dành chỗ cho một triết lý sống (ethos) biết vượt quá chủ nghĩa thực dụng, dựa trên chính bản nhiên chân thực của mình” và hướng tầm nhìn lên Thiên Chúa.
Kết luận, Đức GH Hưu Trí quả quyết rằng: “trong một thế giới đã thay đổi sâu xa, nhiệm vụ vẫn còn hữu lý là thông truyền cho người khác Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”. Ngài nói: “Niềm vui là điều cần được thông truyền. Không nhằm mục đích để 'có được tối đa con số thành viên cho cộng đồng của ta' hay để có 'quyền lực', nhưng vì tình yêu khi được sống trong hân hoan 'là một chứng minh đích thực cho sự thật của Kitô Giáo'”.
Lắng nghe Đức Bênêđíctô XVI không bao giờ là quá trễ
Nhận định về sứ điệp trên, linh mục de Souza, chủ bút tờ Convivium ở Gia Nã Đại (www.conviviummagazine.ca.), cho rằng: Một trong những giọng nói khôn ngoan nhất thế giới đã không lên tiếng trong thời gian 2 tuần lễ của THĐ ở Rôma. Thời gian để ngài lên tiếng đã qua rồi, nhưng hiện nay Giáo Hội có nhiệm vụ phải lắng nghe những gì ngài đã nói.
Đức GH Hưu Trí Bênêđíctô XVI xuất hiện trong Thánh Lễ kết thúc THĐ để chứng kiến lễ phong chân phúc cho vị tiền nhiệm của mình là Đức GH Phaolô VI, người đã gọi ngài bỏ ghế giáo sư đại học để ngồi trên tòa Munich vào tháng Năm 1977, nâng ngài lên hàng Hồng Y một tháng sau đó. Đây là một trong những quyết định tạo nhiều hậu quả nhất của vị giáo hoàng này.
Nhiệm vụ lớn lao của Chân Phúc GH Phaolô VI là hoàn tất công trình của Công Đồng Vatican II và khởi sự thực thi nó. Cũng Công Đồng này là một biến cố vĩ đại đã làm cho nhà thần học trẻ tuổi Ratzinger thành một nhân vật sẽ đóng vai trò chủ chốt trong đời sống Giáo Hội suốt năm thập niên qua. Trong tư cách giáo hoàng, Đức Bênêđíctô XVI đã thiết lập Năm Thánh để tưởng niệm 50 năm Công Đồng rồi sau đó, đã thoái vị ngay trong năm đó một cách gây xúc động. Ba ngày sau khi công bố việc mình ra đi, Đức Bênêđíctô XVI đã nói chuyện với hàng giáo sĩ Rôma nhân dịp họ họp nhau hàng năm vào dịp đầu Mùa Chay. Nói không giấy tờ một cách sáng suốt hơn bất cứ ai khác dù có chuẩn bị lâu dài, ngài trình bày “một ít suy nghĩ về Công Đồng Vatican II theo nhận định của tôi”.
Ngài bảo: “Có Công Đồng của các Nghị Phụ, Công Đồng đích thực, nhưng cũng có Công Đồng của truyền thông. Nó gần như một công đồng biệt lập, và thế giới cảm thức Công Đồng qua thứ công đồng sau, tức qua truyền thông. Bởi thế, cái công đồng thấu tai người ta với một hiệu quả tức khắc chính là thứ công đồng của truyền thông, chứ không phải công đồng của các nghị phụ. Và trong khi Công Đồng của Các Nghị Phụ được diễn tiến trong đức tin, vì nó vốn là một công đồng của đức tin đi tìm hiểu biết, nghĩa là tìm cách tự hiểu chính mình và tìm cách hiểu các dấu chỉ của Thiên Chúa thời ấy, tìm cách đáp ứng thách đố của Thiên Chúa lúc ấy và tìm trong Lời Chúa một lời cho ngày nay và ngày mai… thì công đồng của các nhà báo, dĩ nhiên, không được diễn tiến trong đức tin, nhưng là trong các phạm trù của truyền thông ngày nay, tức tách biệt khỏi đức tin, với một khoa giải thích khác hẳn. Đó là khoa giải thích có tính chính trị: vì đối với các phương tiện truyền thông, công đồng chỉ là một cuộc đấu tranh chính trị, một cuộc đấu tranh quyền lực giữa các khuynh hướng khác nhau trong Giáo Hội. Điều hiển nhiên là truyền thông đứng về phía những người xem ra, đối với họ, được coi như đồng minh gần gũi với thế giới của họ”.
Ngài nói tiếp để nhắc nhở những người có mặt rằng các hy vọng lớn lao của Công Đồng đã gặp phải các phản ứng đắng cay ra sao ngay thời gian liền sau đó: “Ta biết rằng thứ công đồng của truyền thông này ai cũng tới lui được. Bởi thế, nó là thứ trổi vượt, thứ hữu hiệu hơn, và nó tạo ra quá nhiều tai họa, quá nhiều vấn đề, quá nhiều đau khổ: các chủng viện đóng cửa, các tu viện đóng cửa, một nền phụng vụ tầm phào.
“Công Đồng đích thực gặp khó khăn trong việc tự thiết lập và lên khuôn mình; còn thứ công đồng ảo kia thì mạnh hơn Công Đồng đích thực.Tuy nhiên, sức mạnh chân thực của Công Đồng vẫn tồn tại, và một cách từ từ nhưng chắc chắn, càng ngày càng tự thiết lập được mình nhiều hơn và trở thành sức mạnh đích thực, cũng là sự cải cách đích thực, sự canh tân đích thực của Giáo Hội. Đối với tôi, 50 năm sau Công Đồng, ta thấy rõ: thứ công đồng ảo kia đã tan vỡ, đã mất dạng, và nay đã xuất hiện Công Đồng đích thực với mọi sức mạnh thiêng liêng của nó”.
Nói vào tháng Hai năm 2013, có lẽ Đức Bênêđíctô XVI không biết rằng trong vòng hai năm tới, sức năng động của những năm tháng đó lại được xổ lồng một lần nữa trên Giáo Hội. Điều diễn ra trong “THĐ của các nghị phụ” trong hai tuần qua không quan trọng bằng điều diễn ra trong “THĐ của truyền thông”; thượng hội đồng sau đã khôn khéo thao túng, đưa ra các hàng tít lớn tràn ngập đầu óc người ta trước khi họ được nghe thực ra các nghị phụ đã nói những gì. Sự thao túng này đã bị lên án bằng những hạn từ mạnh mẽ nhất của các giám mục cao cấp từ Úc, Mỹ, Phi Châu và Đông Âu, và cả giám mục đoàn đều đứng lên chống lại nó như một toàn thể; tuy nhiên, một lần nữa, thứ thượng hội đồng ảo của những điều được trình bày cho truyền thông kia vẫn mạnh hơn là thượng hội đồng đích thực.
Chân phúc GH Phaolô VI chịu rất nhiều đau đớn vì rất “nhiều tai họa” mà thứ “Công Đồng tách biệt” kia đã gây ra cho Giáo Hội. Hiển nhiên ngài nhận chân rõ ràng THĐ năm 2014.
Đức HY Luis Antonio Tagle của Manila nổi tiếng vì đã nhận xét rằng “tinh thần Vatican II” đã sống lại. Vị Hồng Y này viết luận án tiến sĩ về Đức Phaolô VI, nên biết quá rõ tinh thần Vatican II là tinh thần có hai mặt: Thần Trí Thiên Chúa hành động trong Giáo Hội và tinh thần thế gian luôn tìm cách làm nản lòng Tin Mừng. Cả hai xem ra đều đã có mặt trong THĐ lần này.
Ngước nhìn bức chân dung vừa được kéo màn của vị tân chân phúc trên mặt tiền Nhà Thờ Thánh Phêrô, có lẽ Đức Bênêđíctô đã xin người từng chịu đau khổ lâu dài là Đức Phaolô VI cầu bầu cho Giáo Hội sau một THĐ đầy sóng gió về gia đình. Ngài quả là một ông già hưu trí suy tư về những năm tháng sóng gió thời xuân xanh.
Hãy cầu nguyện trong giây phút tối tăm của cuộc đời .
Pt Huỳnh Mai Trác
22:34 23/10/2014
Lời “cầu nguyện của Giáo Hội” luôn luôn mang theo hình ảnh “sự đau khổ của Chúa Giêsu” ở “khắp mọi nơi” cũng như trong thế giới ngày hôm nay . Và nhất là cho những người anh chị em của chúng ta, bởi vì họ là những Kitô hữu, đang bị hành hạ và bị xua đuổi ra khỏi nhà của mình , mình trần thân trụi, những kẻ già yếu , bệnh họan tứ cố vô thân, tóm lại tất cả những kẻ đang sống trong những giây phút tối tăm của cuộc đời .
Nhiều người cảm thấy như bị lạc lỏng, cô đơn và bị ruồng bỏ nên than vãn và tự hỏi : Tại sao có thể như vậy được? Và họ muốn chống đối lại Thiên Chúa”.
Hãy tiếp tục cầu nguyện như vậy, Đức Giáo Hòang nói, đó cũng là một lời cầu nguyện . Cũng như Chúa Giêsu, khi Ngài thưa cùng Đức Chúa Cha :”Tại sao, Cha lại bỏ con ? và cũng như ông Job . Bởi vì “ cầu nguyện là tỏ ra chân thành trước nhan thánh Chúa . Cầu nguyện với thực tại. Lời cầu chân thành phát xuất từ con tim, trong giây phút hòan cảnh chúng ta đang sống “.
Đúng như vậy, cầu nguyện trong những lúc tăm tối, trong những lúc mà cuộc đời của chúng ta không còn một chút hy vọng nào cả “ và không còn nhìn thấy một chân trời nào cả, thậm chí có lúc như mất luôn cả trí nhớ và không còn chổ nào để hy vọng”.
Không còn biết tới Lời Chúa ở đâu, bởi vì ngày nay có nhiều người đang ở trong hòan cảnh của ông Job. Nhiều người đức hạnh như ông Job không biết tại sao họ lại gặp phải tai họa như thế . Biết bao người anh chị em của chúng ta mất đi mọi niềm hy vọng, họ sống trong tai họa tột độ, bị xua đuổi ra khỏi nhà và bị tước đọat tất cả mọi thứ và họ than vãn : Lạy Chúa , con tin Chúa .Tại sao lại như vậy ? Phải chăng tin Chúa là một sự chúc dữ ?”
Cũng như những người già cả bị bỏ rơi, những người đau ốm, lẽ loi cô đơn trong các bệnh viện. Đúng như vậy, họ là anh chị em của chúng ta, họ cũng như chúng ta, chúng ta cũng đang bước đi trên con đường tối tăm” và Giáo Hội đang cầu nguyện và đang cưu mang nổi niềm đau khổ đó” .
“ Giáo Hội cầu nguyện cho tất cả những ai đang chịu thử thách của tối tăm; như nữ thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trong những ngày cuối đời, tìm kiếm suy tư về Thiên Đàng thì Bà cảm thấy có một tiếng nói vang vọng : đừng dại dột khờ khạo và ảo tưởng . Ngươi có biết cái gì đang chờ đợi ngươi : Sự hư vô !”
Tất cả chúng ta sẽ trải qua những giây phút như vậy . Và có nhiều người tin là tất cả đều kết thúc trong hư vô “ . Nhưng thánh Têrêxa đã chống lại sự đe dọa đó và Bà đã cầu nguyện xin có sức mạnh để tiến tới dù là bị tối tăm vây phủ . Đó là sự kiên nhẫn “ .
Chính Chúa Giêsu cũng phải đi trên con đường đó : buổi chiều tối trên đồi Cây Dầu cho đến giây phút cuối cùng trên thánh giá : “ Cha ơi! Sao Cha lại bỏ con ? Đức Giáo Hòang kết luận với hai ý tưởng giúp ích cho chúng ta . Ý tưởng đầu tiên là nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẳn sàng khi giờ đen tối xẩy đến”: có thể không lớn lao chua xót bằng của ông Job, nhưng chúng ta cũng phải trải một thời gian tăm tối” . Bởi vậy chúng ta cần sửa sọan con tim trong những giây phút này “.
Ý tưởng thứ hai là khuyến khích chúng ta cầu ngyện, như Giáo Hội cầu nguyện, và cùng cầu nguyện với Giáo Hội cho nhiều anh chị em của chúng ta đang chịu đau khổ khi bị đày đọa trong hòan cảnh tối tăm , không còn chút hy vọng nào, mọi sự đều vượt ra khỏi tầm tay của họ “. (Nguồn Tin: News.va)
Thông Báo
Phân Ưu: Linh mục Peter Bùi Xuân Lưỡng, SDB, đã tạ thế tại Los Angeles, CA
Đức ông Trịnh Minh Trí
16:12 23/10/2014
PHÂN ƯU
Trong niềm xác tín vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh,
Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, Dòng Salêdiêng Don Bosco
xin phân ưu với gia đình Tang Quyến:
Linh mục Peter Bùi Xuân Lưỡng, SDB
Sinh ngày 18, tháng 06 năm 1949 tại Bùi Chu, Việt Nam.
Khấn dòng ngày 25 tháng 08 năm 1984, tại Newton, Hoa Kỳ.
Chịu chức Linh mục ngày 19 tháng 06 năm 1990 tại Hoa Kỳ.
Được Chúa gọi về lúc 7:30 giờ sáng, ngày 22 tháng 10 năm 2014
tại Cedar Sinai Hospital, Los Angeles, Hoa Kỳ. sau khi lãnh nhận các phép bí tích.
Hưởng thọ 66 tuổi, 30 năm Khấn Dòng, và 24 năm Linh Mục.
Lễ Phát Tang Thứ Sáu, ngày 24 tháng 10, 2014
tại Don Bosco Technical Institute Chapel, 1151 San Gabriel Blvd, Rosemead, California, 91770, Phone: (626) 940-2001
4-5 giờ trưa: Gia đình phát tang
5-7 giờ chiều: Khách thăm viếng, Canh thức, cầu nguyện
7:00 giờ tối: Thánh lễ
8:00 giờ tối: Phân ưu, điếu văn (Eulogy)
9:00 giờ tối: Kết thúc
Thánh Lễ An Táng: 08:30 giờ sáng, Thứ Bảy, ngày 25 tháng 10, 2014
Địa Điểm: St Dominic Savio Church 13400 Bellflower Blvd. Bellflower, California, 90706
Sau thánh lễ an táng tại Nghĩa Trang Chúa Chiên Lành (The Good Sheppherd Cemetery)
8301 Talbert Ave. Huntington Beach, California, 92646.
Sau cùng xin mời Ăn trưa 12:30 giờ trưa. Thứ Bảy, ngày 25 tháng 10, 2014
Địa Điểm: Diamond Seafood Palace, 8058 Lampson Ave.
Garden Grove, California, 92841, Phone: 714-891-5347
Xin sứ thần của Thiên Chúa đón linh hồn Phêrô về Quê Trời.
Liên Đoàn Công Giáo VNHK
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Lá Thu Rơi
Joseph Nguyễn Tro Bụi
21:07 23/10/2014
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi
Cội nguồn ơi chiếc lá lại rơi về.
(Trích thơ của TP)
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 10 - 16/10/2014: Thảo Luận tại Thượng Hội Đồng ngoại thường về Gia Đình
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
06:03 23/10/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sau một tuần lắng nghe các chứng từ và thảo luận, tất cả các Giám Mục và các chuyên gia tham gia vào Thượng Hội Đồng đã nghỉ ngơi vào cuối tuần trước khi tái nhóm vào ngày thứ Hai 13 tháng 10.
Chỉ có vị Tổng phúc trình viên vẫn phải làm việc theo một lịch trình dày đặc. Sáng thứ Hai ngày 13 tháng 10, Đức Hồng Y Peter Erdö Hungary đã báo cáo về các cuộc thảo luận qua tài liệu "Relatio post disceptationem" - báo cáo sau các cuộc thảo luận
Ngài tóm tắt các chủ đề thảo luận và các kết luận đã đạt được trong tuần đầu tiên của cuộc họp. Các tài liệu này thường được dùng để phác thảo lộ trình của Thượng Hội Đồng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không thay đổi lịch trình của mình. Sáng Chúa Nhật lúc 10:00 ngài chủ sự Thánh lễ tạ ơn tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, nhân dịp phong thánh cho các Thánh: Phanxicô Laval và Maria dell'Incarnazione Guyart Martin.
Sau đó, lúc 12 giờ, ngài đọc kinh Truyền Tin với hàng ngàn khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô.
2. Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ tạ ơn việc phong thánh tương đương cho hai vị thánh Canada
Đức Thánh Cha Phanxicô khích lệ Giáo Hội tại Canada tưởng niệm hai vị thánh mới được tôn phong theo thể thức tương đương và cầu nguyện để Giáo Hội này được tái phong phú ơn gọi các thừa sai.
Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong thánh lễ tạ ơn được cử hành lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật 12 tháng 10 tại Đền thờ Thánh Phêrô về việc tôn phong hiển thánh theo thể thức tương đương cho hai vị người Canada, là Đức Cha François de Laval, Giám Mục tiên khởi của giáo phận Québec, và Nữ Tu Marie Nhập Thể Guyart Martin, sáng lập dòng Ursuline Liên hiệp Canada.
Hai vị đã cùng với chân phước Linh Mục Giuse de Anchieta, dòng Tên, người Tây Ban Nha, tông đồ tại Brazil, được Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong hiển thánh ngày 3 tháng 4 năm 2014 theo thể thức tương đương, nghĩa là không theo thủ tục bình thường và không cần nghi lễ phong thánh.
Thông cáo của Bộ Phong thánh hôm đó nói rằng: ngày 3 tháng 4, Đức Thánh Cha Phanxcô đã tiếp kiến Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh. Ngài đón nhận các tường trình của Đức Hồng Y Tổng trưởng, ghi tên vào sổ bộ các thánh và nới rộng việc tôn kính phụng vụ trong Giáo Hội hoàn vũ đối với 3 vị chân phước:
- Đức Cha François de Laval, Giám Mục tiên khởi Québec, Canada, sinh tại Montigny-sur-Avre bên Pháp ngày 20-4-1623 và qua đời ngày 6-5-1708, thọ 85 tuổi.
- linh mục Giuse de Anchieta, dòng Tên, sinh tại San Cristobal de la Laguna, Tenerife, thuộc quần đảo Canarie, Tây Ban Nha, ngày 19-3-1543 và qua đời tại Reritiba, Brazil ngày 9-6-1597.
- và Nữ tu Marie de l'Incarnation, tục danh là Marie Guyart sinh ngày 28-10 năm 1599 tại thành Tours bên Pháp, sáng lập Đan viện dòng nữ tu Urseline ở Québec, và qua đời ngày 30-4-1672, thọ 73 tuổi.
3. Bài giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ tạ ơn
Đồng tế với Đức Thánh Cha trong thánh lễ tạ ơn có 9 vị Giám Mục người Canada Québec, đứng đầu là Đức Hồng Y Gérard Lacroix, đương kim Tổng Giám Mục giáo phận Québec, Đức Hồng Y Marc Ouellet, nguyên Tổng Giám Mục Québec, và hiện là Tổng trưởng Bộ Giám Mục, 7 Giám Mục khác và khoảng 100 linh mục Canada, trước sự hiện diện của 8 ngàn tín hữu, trong đó có một số phái đoàn đến từ Canada.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha khích lệ các tín hữu hãy tưởng niệm và noi gương đức tin kiên trì của các thừa sai đã mang Lời Chúa và Tin Mừng cho đất nước Canada.
Ngài nói:
“Chúng ta đã nghe lời ngôn sứ Isaia: ‘Chúa là Thiên Chúa sẽ lau nước mắt trên mỗi khuôn mặt..” (Is 25,8). Những lời đầy hy vọng này chỉ cho thấy mục tiêu, chứng tỏ tương lai mà chúng ta đang hành trình hướng về. Trên con đường này các thánh đã đi trước và chỉ dẫn cho chúng ta. Những lời này cũng vạch rõ ơn gọi của các thừa sai.
Các thừa sai là những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, đã có can đảm sống Tin Mừng. Cả bài Tin Mừng mà chúng ta đã nghe: Nhà Vua nói với các đầy tớ: “Các ngươi hãy ra các ngã tư đường” (Mt 22,9). Và các đầy tớ ra đi, tụ tập tất cả những người mà họ gặp, ‘xấu cũng như tốt”, để dẫn họ vào tiệc cưới của nhà vua (Xc v.10)
Các thừa sai đã đón nhận lời mời gọi ấy: các vị đã ra đi kêu gọi tất cả mọi người, ở các ngã tư của thế giới, vì nếu Giáo Hội dừng lại và khép kín, thì Giáo Hội sẽ trở nên bệnh hoạn, có thể làm hư hỏng, hoặc bằng tội lỗi hoặc bằng khoa học giả tạo tách rời khỏi Thiên Chúa, là trào lưu tục hóa phàm trần.
Các thừa sai đã hướng nhìn Chúa Kitô chịu đóng đanh, đã đón nhận ơn phúc của Chúa và đã không giữ riêng cho mình. Như thánh Phaolô, các vị trở nên mọi sự cho mọi người; các vị đã biết sống trong thanh bần và sung túc, trong sự no đầy và đói khát; họ có thể làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho họ (Xc Phil 4,12-13). Với sức mạnh ấy của Thiên Chúa, các vị đã có can đảm ”đi ra” trên các nẻo đường của thế giới với lòng tín thác nơi Chúa là Đấng kêu gọi họ. Cuộc sống của một thừa sai là như thế, kết thúc cuộc sống xa nhà, xa quê hương; bao nhiêu lần các thừa sai bị sát hại, như đang xảy ra ngày nay cho bao nhiêu anh chị em chúng ta.
Đức Thánh Cha nói thêm rằng: “Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội chủ yếu là loan báo tình thương, lòng bừ bi và sự tha thứ của Thiên Chúa, được mạc khải cho loài người qua cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Các thừa sai đã phục vụ Sứ Mạng của Giáo Hội, bẻ bánh Lời Chúa cho người bé mọn và những người xa xăm nhất, và mang đến cho mọi người hồng ân tình yêu vô tận tuôn chảy từ trái tim của Chúa Cứu Thế.
Thánh François de Laval và thánh nữ Marie Nhập Thể là những người như thế. Anh chị em tín hữu hành hương người Canada thân mến, trong ngày này, tôi muốn để lại cho anh chị em hai lời khuyên, rút từ thư gửi tín hữu Do thái, hai lời khuyên sẽ giúp ích rất nhiều cho các cộng đoàn của anh chị em.
- Lời khuyên thứ I là: “Hãy nhớ đến các thủ lãnh của anh chị em, những người đã loan báo Lời Chúa cho anh chị em. Khi cứu xét kỹ lưỡng kết quả chung kết cuộc sống của các vị, hãy noi gương đức tin của các vị” (13,7). Ký ức về các thừa sai nâng đỡ chúng ta trong lúc chúng ta cảm thấy sự khan hiếm các thợ của Tin Mừng. Tấm gương của các vị lôi kéo, thúc đẩy chúng ta noi gương đức tin của các ngài. Đó là những chứng tá phong phú sinh ra sự sống!
- Lời khuyên thứ hai là: “Anh chị em hãy nhớ lại những ngày đầu tiên: sau khi lãnh nhận ánh sáng của Chúa Kitô, anh chị em đã phải chịu đựng một cuộc chiến đấu lớn và cơ cực... Đừng từ bỏ sự ngay thẳng của anh chị em, có một phần thưởng lớn dành cho cho sự ngay thẳng này. Anh chị em chỉ cần kiên trì bền đỗ...” (10,32.35-36). Tôn kính những người đã chịu đau khổ để mang Tin Mừng cho chúng ta, có nghĩa là cả chúng ta cũng tham gia cuộc chiến tốt lành cho đức tin, trong sự khiêm tốn, hiền từ, từ bi, trong cuộc sống hằng ngày. Và điều này mang lại thành quả.
Tưởng niệm những vị đã đi trước chúng ta, những vị đã thành lập Giáo Hội chúng ta, Giáo Hội phong phú tại Québec, phong phú với bao nhiêu thừa sai, các vị ra đi khắp nơi. Thế giới đã đầy các thừa sai Canada như hai vị thánh này. Giờ đây tôi có lời khuyên này: việc tưởng niệm các vị không làm cho chúng ta từ bỏ sự thẳng thắn, không từ bỏ can đảm. Ma quỷ ghen tương, và không chấp nhận một phần đất phong phú các thừa sai. Xin Chúa ”ban cho miền Québec trở lại trên con đường phong phú, cung cấp cho thế giới bao nhiêu thừa sai, và xin hai vị thánh đã thành lập Giáo Hội tại Québec, giúp chúng ta như những người chuyển cầu: ước gì hạt giống mà các vị đã gieo vãi, tăng trưởng và mang lại hoa trái là những người nam nữ can đảm, sáng suốt, có tâm hồn mở rộng đối với tiếng gọi của Chúa. Hôm nay anh chị em phải cầu xin điều ấy cho quê hương của anh chị em, và các thánh trên trời sẽ là những vị chuyển cầu cho chúng ta, để Québec tái trở thành nguồn các vị thánh thừa sai can đảm”.
Niềm vui và thách đố trong cuộc hành hương này của anh chị em là: tưởng niệm các chứng nhân, các thừa sai đức tin của đất nước anh chị em. Ký ức này luôn nâng đỡ anh chị em trong hành trình tiến về tương lai, hướng về mục tiêu, khi ”Chúa là Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi gương mặt..”
“Chúng ta hãy vui mừng, hân hoan vì ơn cứu độ của Người” (Is 25,9).
Cuối thánh lễ, Đức Hồng Y Gérard Cyprien Lacroix, Tổng Giám Mục giáo phận Québec và là giáo chủ Canada, đã đại diện các tín hữu Québec và Canada cám ơn ĐTC vì hồng ân lớn lao là phong hai vị thánh François de Laval và Marie Nhập Thể.
Đức Hồng Y Lacroix cho biết ngài đã hướng dẫn một nhóm các tín hữu hành hương sang Pháp, theo vết của hai vị thánh và cuộc lữ hành của phái đoàn đến Roma này để cùng với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô một lần nữa nói lên sự hiệp thông sâu xa và ước muốn đáp lại tiếng gọi thừa sai để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay.
Đức Hồng Y cho biết cuộc lữ hàng của các tín hữu Canada không kết thúc ở Roma này, nhưng “với ơn Chúa, chúng con sẽ tiếp tục tại đất nước chúng con, tại Québec và bất kỳ nơi nào Chúa cần chúng con. Chúng con mong ước ngày càng trở thành những môn đệ - thừa sai giữa lòng thế giới”.
Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ 15 và sau đó, lúc đúng 12 giờ, Đức Thánh Cha đã xuất hiện tại cửa sổ ở phòng làm việc của các vị Giáo Hoàng ở dinh Tông Tòa để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin chung với các tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô Ngài quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng về nhà vua mời gọi mọi người tham dự tiệc cưới. Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, Đức Thánh Cha bày tỏ tình liên đới với các nạn nhân bị lụt ở Genova, bắc Italia, cũng như chào thăm nhiều nhóm các tín hữu hành hương, đặc biệt là các nữ tu dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (dòng Salésiennes) đang nhóm tổng tu nghị ở Roma.
4. Bài Phúc Trình Sau Thảo Luận của Đức Hồng Y Peter Erdo
Sáng thứ Hai 13/10, Tòa Thánh đã công bố rằng Thượng Hội Đồng về Gia Đình sắp tới sẽ diễn ra từ 4 đến 25 tháng 10 năm 2015. Bên cạnh đó Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cũng cho biết rằng kết thúc tuần thứ nhất trong Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình, Đức Thánh Cha và các nghị phụ cũng như các dự thính viên đã nghe bài Phúc Trình Sau Thảo Luận của Đức Hồng Y Peter Erdo của tổng giáo phận Esztergom-Budapest, nước Hung Gia Lợi, là tổng tường trình viên của Thượng Hội Đồng Giám Mục.
Đức Hồng Y Erdő bắt đầu bằng cách nhấn mạnh rằng các nghị phụ Thượng Hội Đồng nói tới việc Chúa Giêsu đã nhìn những con người nam nữ bằng một cái nhìn yêu thương như thế nào, đồng hành với họ một cách kiên nhẫn và xót thương ra sao. Ngài nói tới việc Chúa Giêsu Kitô, “sự thật, đã nhập thể trong sự mỏng dòn nhân bản không phải để kết án nó, mà để chữa lành nó”. Ngài nói: Chúa Giêsu dạy rằng hôn nhân là bất khả phân ly nhưng nhìn đến những người nam nữ Ngài đã gặp với tình yêu và sự dịu dàng, đồng hành với họ trong sự kiên nhẫn và lòng thương xót khi công bố những đòi buộc của Nước Trời.
“Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không phải thế đâu.” (Mt 19,8). Bằng cách này, Ngài cho thấy cách hạ mình của Thiên Chúa để đồng hành cùng con đường của nhân loại, hướng nhân loại tới sự khởi đầu mới của họ trên con đường thánh giá.
Trong phúc trình này, các nghị phụ Thượng Hội Đồng nói tới việc Giáo Hội có trách vụ ra sao trong việc thừa nhận các hạt giống Lời Chúa vốn được gieo vãi bên ngoài các biên giới hữu hình và bí tích của mình. Các ngài nại tới “luật tiệm tiến” ("law of graduality") để suy nghĩ về cách thế Thiên Chúa vươn tay ra với nhân loại và dẫn Dân của Người từng bước tiến lên phía trước.
Các nghị phụ cũng ghi nhận nhu cầu phải suy nghĩ xa hơn nữa về việc liệu sự viên mãn bí tích có loại bỏ khả thể nhìn nhận các yếu tố tích cực dưới các hình thức chưa hoàn hảo không. Thí dụ, liệu có hay chăng các yếu tố tích cực trong các cuộc hôn nhân bất thường. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng khi cuộc hôn nhân dân sự vững ổn, biểu lộ một tình âu yếm và săn sóc con cái cách sâu sắc, thì Giáo Hội nên cố gắng đồng hành với nó hướng về tính bí tích.
Đức Hồng Y Erdő nói tới nhu cầu phải hồi tâm truyền giáo, tới việc Giáo Hội không thể ngưng tại các công bố chỉ có tính tín lý, mà phải đi xa hơn. Hôn nhân Kitô Giáo phải là một quyết định có tính ơn gọi được đảm nhiệm với một việc chuẩn bị thích đáng trên hành trình đức tin. Sở dĩ như thế vì Tin Mừng gia đình vốn là lời giảp đáp cho những hoài mong sâu sắc nhất của con người.
Trong phúc trình này, các nghị phụ Thượng Hội Đồng quả quyết rằng Giáo Hội được đặc biệt mời gọi nhận ra sự đau khổ của những người phối ngẫu bị bỏ rơi và con cái họ thực sự là nạn nhân như thế nào của các cuộc gia đình tan vỡ.
Nhiều thành viên của Thượng Hội Đồng nói lên sự cần thiết phải cải tổ và đơn giản hóa các thủ tục của việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Đức Hồng Y Erdő nói tới việc cuộc cải cách án tuyên bố hôn nhân vô hiệu này sẽ đòi các vị giám mục đang cai quản các giáo phận phải lãnh nhận các trách nhiệm mới và có lẽ sẽ ủy nhiệm cho một linh mục được huấn luyện một cách chuyên biệt ra sao.
Liên quan tới những người Công Giáo ly dị, ly dị và tái hôn dân sự, bản phúc trình nói đến việc cần phải có “các chọn lựa mục vụ can đảm” và “những con đường mục vụ mới”. Bản phúc trình kêu gọi việc biện phân từng trường hợp một theo luật tiệm tiến, nhất là liên quan tới việc nhận lãnh các bí tích. Đức Hồng Y Erdő cho hay: cuộc đối thoại về chủ đề này sẽ tiếp diễn tại các Giáo Hội địa phương trong vòng năm tới và các câu trả lời sẽ được đệ nạp cho Thượng Hội Đồng năm tới.
Bản phúc trình ghi nhận rằng vấn đề sống chung có thể cho thấy nỗi sợ phải cam kết, nhưng cũng là một chọn lựa được đưa ra “trong khi chờ đợi một cuộc sống an toàn” như có việc làm và thu nhập đều đặn.
Vấn đề đồng tính đã được đề cập sau đó, với lời kêu gọi phải suy nghĩ nghiêm túc. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhận định rằng những người đồng tính cũng có những ơn phúc và tài năng để cung hiến cho cộng đồng Kitô hữu và việc vươn tới họ về mục vụ là một thách đố có tính giáo dục quan trọng.
Trong bản phúc trình, các ngh ịphụ Thượng Hội Đồng cũng tái khẳng định rằng các cuộc kết hợp đồng tính không thể được coi là ngang hàng với hôn nhân. Và không thể chấp nhận được việc gây áp lực lên các mục tử hay việc các cơ quan quốc tế đòi phải dẫn khởi các luật lệ lấy hứng từ ý thức hệ phái tính mới được lãnh nhận viện trợ tài chánh.
Cuối cùng, khi quả quyết rằng việc cởi mở đối với sự sống mới là phần chủ yếu của tình yêu vợ chồng, các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã trích dẫn sứ điệp của Thông Điệp Humanae Vitae /human vitatê/ của Đức Phaolô Đệ Lục liên quan tới việc phải tôn trọng nhân phẩm trong việc lượng giá các phương pháp kiểm soát sinh đẻ.
Kết luận phần trình bày bản phúc trình sau thảo luận, Đức Hồng Y Erdő nói rằng bằng cách mô phỏng lòng thương xót của Chúa Giêsu, Giáo Hội phải đồng hành với những người con nam nữ mỏng dòn nhất của mình đang đau khổ vì một tình yêu bị thương tổn và mất mát.
5. Ngoại ô Baghdad thất thủ, Sứ thần Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc kêu gọi can thiệp quốc tế
Thông tấn xã AINA của Giáo Hội Assyriô cho biết các tín hữu Kitô ở Baghdad, và ở Qara Tappah đã chìm trong đau buồn và âu lo sau khi toàn bộ tỉnh Anbar thất thủ vào tay quân khủng bố Hồi Giáo IS vào hôm Chúa Nhật 12/10. Ba vụ nổ xe bom đã diễn ra tại Qara Tappah, trong vùng kiểm soát của người Kurds, hôm thứ Bẩy giết chết hơn 100 quân nhân Kurds. Cũng vào ngày thứ Bẩy, chuẩn tướng cảnh sát Ahmed al-Dulaimi, đã bị quân khủng bố Hồi Giáo IS phục kích giết chết tại Ramadi. Thêm vào đó, ba vụ nổ xe bom khác làm chấn động thủ đô Baghdad, đã giết chết 33 thường dân vô tội.
Bất chấp bị liên quân dội bom, quân khủng bố Hồi Giáo IS chỉ còn cách thủ đô Iraq chưa đầy 20km và có khả năng đe doạ phi trường quân sự Baghdad nơi xuất phát các cuộc tấn công của không quân Hoa Kỳ.
Tình hình tại thành phố Kobane giáp biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ càng trở nên tuyệt vọng vì nhiều mặt trận nổ ra cùng một lúc.
Từ Cario, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban-Kimoon nói:
"Hàng ngàn mạng sống đang bị đe dọa. Tôi tái kêu gọi tất cả các bên đứng lên để chặn đứng một vụ thảm sát thường dân ở Kobane".
Đức Tổng Giám Mục Bernardito Auza, sứ thần Toà Thánh tại Liên Hiệp Quốc, cũng lên tiếng là "cộng đồng quốc tế phải can thiệp" để bảo vệ các nhóm thiểu số bị bách hại ở Trung Đông nếu chính phủ các nước liên hệ không thể bảo vệ họ.
Phát biểu tại một cuộc họp hôm Thứ Hai 13 tháng 10, Đức Cha nói: "Trách nhiệm bảo vệ người dân" là sự công nhận sự bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật, dựa trên phẩm giá bẩm sinh của mỗi người nam nữ. Tòa Thánh muốn tái khẳng định rằng tất cả các nhà nước có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ người dân của mình khỏi những tấn kích nghiêm trọng, khỏi những vi phạm các quyền con người, và khỏi những hậu quả của các cuộc khủng hoảng nhân đạo. Nếu các quốc gia không thể đảm bảo sự bảo vệ đó, cộng đồng quốc tế phải can thiệp với các phương tiện pháp lý đã được quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và trong các văn kiện quốc tế khác.
6. Chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào cuối tháng Mười Một có thể có những khó khăn
Trong một diễn biến gây bất ngờ cho nhiều người, Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết trong cuộc họp báo hôm 12 tháng 9 rằng Đức Thánh Cha sẽ đến thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng Mười Một.
Thông báo của Tòa Thánh chỉ diễn ra vài giờ sau khi tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ là ông Recep Tayyip Erdoğan chính thức mời Đức Thánh Cha đến thăm đất nước này và Đức Thánh Cha đã đồng ý ngay lập tức.
Theo dự kiến Đức Thánh Cha sẽ đến Istanbul vào ngày 30 tháng 11 nhân lễ thánh Anrê Tông Đồ bổn mạng của Giáo Hội Chính Thống Constantinope. Theo thông lệ, mỗi năm Giáo Hội Chính Thống Constantinope đều cử đoàn đại biểu sang Rôma vào ngày 29 tháng 6 để mừng lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Ngược lại, Tòa Thánh cũng gởi đoàn đại biểu sang Istanbul để mừng lễ thánh Anrê Tông Đồ.
Tình hình đã trở nên phức tạp vì thái độ của Thổ Nhĩ Kỳ đối với thảm họa nhân đạo tại Kobane, một thành phố của người Kurds ở sát biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ. Với một biên giới mênh mông dài đến 570 dặm với Syria, Thổ Nhĩ Kỳ tỏ ra miễn cưỡng không muốn đụng chạm quân khủng bố Hồi Giáo IS. Thêm vào đó, Thổ Nhĩ Kỳ sẵn có một mối hiềm khích với người Kurds sau một cuộc chiến đòi ly khai kéo dài từ ngày 15/8/1984 đến ngày 21/3/2013 khiến cho 45,000 người thiệt mạng. Vì thế, Thổ Nhĩ Kỳ đã ngăn cản mọi nỗ lực tiếp cứu người dân ở Kobane.
Chính sách này đã gây ra những cuộc biểu tình bạo động trong tuần qua tại nhiều thành phố miền Nam của Thổ Nhĩ Kỳ nơi có đông người Kurds. Ít nhất 31 người đã thiệt mạng vì các cuộc đụng độ giữa người biểu tình và cảnh sát. Một dự luật ban hành tình trạng khẩn cấp có thể sẽ được đưa ra thảo luận tại Quốc Hội nếu tình hình không được cải thiện. Các thủ lĩnh người Kurds đã kêu gọi hoãn các cuộc biểu tình bạo động. Tuy nhiên, nếu cuộc thảm sát tại Kobane diễn ra thì không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể không chỉ là các cuộc biểu tình mà thôi nhưng nền hòa bình mong manh giữa người Kurds và Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ tan vỡ.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã đến thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng Mười năm 2006. Ngài đã viếng thăm Ankara, và gặp gỡ với chính quyền địa phương. Ngài cũng đã đến thăm Izmir, gần thành phố Ephesus cổ đại, để kính viếng một ngôi đền dành riêng cho Đức Trinh Nữ Maria. Người Hồi Giáo cũng đến đây để tôn kính Đức Mẹ. Sau đó, ngài đến thăm Toà Thượng Phụ Fanar ở Istanbul, của Đức Thượng phụ Đại kết Constantinople và cầu nguyện với vị Đại Giáo Trưởng của Hồi Giáo tại đền thờ Xanh của Hồi giáo.
7. Đức Tổng Giám Mục Dennis Hart nói: Cần phải tìm kiếm những cách thức thông truyền tín lý trong những trường hợp khó khăn về mục vụ gia đình
Đức Tổng Giám Mục Denis Hart, người đã lãnh đạo Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia từ năm 2001, đã nói với Đài phát thanh Vatican rằng Giáo Hội cần phải "suy nghĩ lại" làm thế nào để thông truyền giáo huấn Giáo Hội trong những trường hợp khó khăn về mục vụ gia đình, chẳng hạn, như trong trường hợp đồng tính luyến ái.
Đề cập đến giáo huấn trong Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo rằng “hành vi đồng tính luyến ái là rối loạn về bản chất”, Ngài nói: “Những gì thần học phát biểu trong Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, về những người bị ‘rối loạn’, về những thứ ‘xấu xa về bản chất’ là đúng”.
“Nhưng khi chúng ta nói với một phụ huynh có con trai hay con gái đồng tính là đứa con mà họ yêu thương và dưỡng nuôi, và đứa con ấy đã lựa chọn một điều mà họ cũng không chấp thuận, chỉ vì thế mà nó bị từ chối thì họ thấy chói tai lắm”.
Ngài nói tiếp:
"Tôi nghĩ rằng chúng ta phải trung thành với tín lý của chúng ta và những gì chúng ta giảng dạy và thực hành phải đi đôi với nhau, nhưng chúng ta có thể làm như vậy với lòng thương xót và tình yêu thương để giúp mọi người nhận ra rằng trước bất cứ thách đố nào trong cuộc sống của họ, họ luôn được Giáo Hội tôn trọng và yêu mến. "
Ngài nói thêm:
“Có những người đang ly thân và ly dị, có những người có xu hướng đồng tính, có những người đang thực sự gặp khó khăn trong hôn nhân của họ, và tự hỏi họ nên làm thế nào. Các giám mục đã nhấn mạnh rằng chúng ta là những mục tử. Khi người dân chịu đau khổ chúng ta chia sẻ khổ đau với họ, khi họ chịu tang chế chúng ta khóc với họ, khi họ chịu gánh nặng của bệnh tật chúng ta cùng chiến đấu với họ, khi họ không chắc chắn về con đường của mình hay đang vật lộn với nghèo nàn cơ cực Giáo Hội phải ở đó với họ.”
8. Nhận định của hai vị Hồng Y Hoa Kỳ về thực trạng mục vụ gia đình tại Mỹ
Hai vị Hồng Y Hoa Kỳ đã trả lời phỏng vấn của Đài phát thanh Vatican khi đang tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.
Đức Hồng Y Raymond Burke nói: "Một trong những thách thức lớn nhất" mà các gia đình phải đối mặt "là tình trạng khiếm khuyết về giáo lý trong Giáo Hội - tôi có thể nói từ kinh nghiệm của tôi trong thời gian làm mục vụ tại Mỹ là trong vòng 40 đến 50 năm qua, trẻ em và thanh thiếu niên chưa được dạy đến nơi đến chốn giáo lý liên quan đến hôn nhân."
"Cùng với tình trạng đó là sự ra đời gần đây của cái gọi là ‘lý thuyết giới tính' trong đó tách biệt tính dục con người khỏi ý nghĩa cơ bản của hôn nhân. Điều này hiện đang được đưa vào trường học cùng với đà tiến của trào lưu cổ vũ cho đồng tính luyến ái."
"Các giải pháp mục vụ cho các vấn đề nan giải của gia đình sẽ không thể có ngay lập tức," Đức Hồng Y Donald Wuerl, là vị Hồng Y đã nhấn mạnh về tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa thế tục tại Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình nhận xét như trên.
"Thế giới thế tục, tầm nhìn thế tục không có chỗ cho một mối quan hệ với Thiên Chúa, hay một thực tại siêu việt vượt lên trên chúng ta. Đó là thế giới đã hình thành nên chủ nghĩa cá nhân và một thế giới tự tham chiếu vào chính mình trong đó không còn chỗ cho không gian của một cuộc hôn nhân lành mạnh và một cuộc sống gia đình hình thành từ cuộc hôn nhân đó"
Nhiều người Công Giáo "đã có kinh nghiệm thất bại mà tầm nhìn thế tục này mang lại. Chúng ta phải có khả năng mục vụ để nói với mọi người rằng chúng ta biết đau khổ của họ, tình trạng đổ vỡ trong hôn nhân của họ, những rối loạn chức năng trong gia đình họ và chúng ta phải hiện diện ở đó để giúp họ."
9. Vấn đề của các gia đình Công Giáo ở Tây phương khác với những vấn đề mà các gia đình ở Phi Châu phải đương đầu
Các nghị phụ châu Phi phát biểu tại Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhắc nhở các nghị phụ tại Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình rằng mối quan tâm chính của các ngài về việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình không giống với những lo lắng của các giám mục ở các nước giàu có phương Tây.
Đức tin Công Giáo đang lan rộng nhanh chóng ở châu Phi. Các giám mục từ lục địa lưu ý Thượng Hội Đồng rằng các tín hữu tin rằng sau thế hệ học hỏi từ các nhà truyền giáo châu Âu, các cộng đồng của các ngài bây giờ có cái gì đó để dạy lại cho phương Tây.
Một số giám mục đã bày tỏ sự bực tức của các ngài vì đã có nhiều cố gắng của các tổ chức từ phương Tây muốn thay đổi các tiêu chuẩn đạo đức truyền thống của châu Phi. Đức Tổng Giám Mục Ignatius Kaigama của Jos, Nigeria, phàn nàn như sau:
“Chúng tôi bị các tổ chức quốc tế, quốc gia, và các nhóm lôi kéo chúng tôi đi chệch khỏi những thực hành của chúng tôi về văn hóa và truyền thống và thậm chí cả niềm tin tôn giáo của chúng tôi bởi vì họ nghĩ rằng chúng tôi phải mặc nhiên đón nhận quan điểm của họ, ý kiến của họ và khái niệm của họ về cuộc sống.”
Các nghị phụ châu Phi cho biết các ngài phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong việc đối phó với ảnh hưởng của nền văn hóa ngoại giáo, đặc biệt là chế độ đa thê và những ảnh hưởng có hại mà nghèo đói gây ra trong cuộc sống gia đình.
10. Gương mục tử Iraq anh hùng
Thông tấn xã Công Giáo CNA đã ca ngợi một linh mục người Iraq đã chọn ở lại giáo xứ của ngài, chỉ cách tuyến đầu giao tranh với quân khủng bố Hồi Giáo IS có mấy dặm đường, chứ không chọn ở lại Rôma.
Cha giáo Ghazwan Yousif Baho phải phân chia thời gian của mình trong việc coi sóc một giáo xứ ở thị trấn Algosh và trách nhiệm giảng dạy tại Đại học giáo hoàng Urbanô ở Rôma. Trong kỳ giảng dạy vừa qua tại Rôma, vì lo cho sự an nguy của ngài, nhà trường đã yêu cầu ngài ở lại Rôma, nhưng ngài đã từ chối.
Giải thích về quyết định của mình với thông tấn xã CNA, cha nói:
"Đôi khi tôi cũng có nghĩ đến việc rời khỏi Iraq, nhưng tôi nói với lòng mình: Tôi sẽ không rời khỏi ngôi làng của tôi.” Ngài nói rằng giáo dân đã được khích lệ rất nhiều bởi sự lựa chọn cha là sát cánh với họ bất chấp những hiểm nguy.
11. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 có thể sẽ tham dự Lễ Phong Chân Phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục
Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 không tham dự vào Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình, nhưng có thể ngài sẽ tham dự nghi lễ phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô VI vào ngày 19 tháng 10. Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã cho biết như trên.
Lịch trình của Thượng Hội Đồng "rất mệt nhọc và lâu giờ" nên vị Giáo Hoàng nghỉ hưu không đủ sức khoẻ để tham dự, cha Federico Lombardi giải thích với các ký giả như trên về sự vắng mặt của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 trong các cuộc thảo luận của Thượng Hội Đồng. Cha trưởng phòng Báo Chí nêu ra nhận xét rằng kể từ khi nghỉ hưu Đức Bênêđíctô thứ 16 đã từ chối tham gia vào các cuộc thảo luận công cộng, và đã "sống một cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện."
Tuy nhiên, gần đây Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã tham gia trong các nghi lễ phụng vụ. Mới đây nhất là buổi lễ dành cho người cao niên, và phát ngôn viên Vatican nói rằng "tất cả mọi người hy vọng sẽ được gặp ngài trong lễ phong chân phước cho Đức Phaolô VI."
12. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ sang thăm Pháp vào năm tới
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ tông du sang Pháp vào năm 2015. Một thông báo từ Văn phòng báo chí Tòa Thánh đã cho biết như trên.
Theo thống kê vào tháng 7 năm 2013, nước Pháp có 65,951,000 dân trong đó người Công Giáo chiếm 87% dân số, sinh hoạt trong 19 tổng giáo phận và 80 giáo phận dưới sự coi sóc của 226 vị Giám Mục và Tổng Giám Mục.
Từ đầu triều Giáo Hoàng của ngài đến nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tông du Brazil (tháng 7 năm 2013), Thánh Địa (tháng 5 năm nay), Hàn Quốc (tháng 8), và Albania (tháng 9).
Ngài dự kiến thăm các tổ chức Châu Âu ở Strasbourg vào ngày 25; Sri Lanka và Philippines vào tháng Giêng năm 2015.
13. Quân khủng bố Hồi Giáo Bobo Haram gây thiệt hại nặng cho Giáo Hội Công Giáo tại Nigeria
Trong bản tin đánh đi hôm 7 tháng 10, thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết tại Giáo Phận Maiduguri, ở miền bắc Nigeria, 185 nhà thờ đã bị đốt cháy trong hai tháng qua và gần 200,000 tín hữu đã phải bỏ nhà cửa chạy giặc Hồi Giáo Boko Haram.
Cha Gideon Obasogie, phát ngôn viên của giáo phận, nói rằng 11 thành phố trong khu vực đã bị Boko Haram tấn công gần đây. Cư dân đã bỏ chạy, và bây giờ họ phải tạm trú tại nhà của người thân hay nằm ngủ lang thang ngoài đường.
14. Các Giám Mục Iraq tố cáo tình trạng kỳ thị các Kitô hữu trong việc phân phối phẩm vật cứu trợ
Các Giám Mục Iraq nói rằng chính phủ đang sử dụng hỗ trợ nhân đạo quốc tế để hỗ trợ người tị nạn Hồi giáo ở Baghdad mà thôi chứ không hề giúp đỡ các tín hữu Kitô tị nạn đông đảo tại thủ phủ Erbil của người Kurd.
"Chính phủ ở Baghdad nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ cộng đồng quốc tế cho người tị nạn từ Mosul và vùng bình nguyên Nineveh nhưng ở Erbil chúng tôi chẳng nhận được thứ gì" Đức Tổng Giám mục Bashar Warda của tổng giáo phận Mosul nói với tổ chức rợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ như trên.
Trong khi chính phủ Iraq "đã chẳng làm gì, hoàn toàn chẳng làm gì" để hỗ trợ các Kitô hữu chạy trốn quân khủng bố Hồi Giáo IS, Đức Cha Bashar nói rằng "các cơ quan bác ái của Giáo Hội đã ở đây giúp chúng tôi kể từ ngày đầu và họ tiếp tục ở lại với chúng tôi sau khi các hàng tít lớn trên báo chí và các phương tiện truyền thông đã chuyển sang một đề tài khác. "
Dịp này, Đức Tổng Giám Mục Warda cũng lên tiếng chỉ trích các nhà lãnh đạo Hồi giáo Iraq là đã không lên án hành động tàn bạo của quân khủng bố Hồi Giáo IS là những kẻ đang cướp bóc tài sản của các Kitô hữu là những người 'hàng xóm lâu năm của người Hồi giáo’.
15. Các linh mục dòng Tên Ấn Độ tố cáo 600 cuộc tấn công nhắm vào các nhóm tôn giáo thiểu số tại Ấn
Trong bản tin đánh đi ngày 9 tháng 10, thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết từ tháng Năm đến nay, đã có hơn 600 vụ tấn công bạo lực chống lại các tín hữu Kitô và các tín hữu của các tôn giáo thiểu số khác ở Ấn Độ. Các linh mục dòng Tên trong tổ chức Hành động Xã hội gọi tắt là JESA đã cho biết như trên.
JESA kêu gọi "chấm dứt các chiến dịch được dàn dựng trên quy mô cả nước, được thúc đẩy bởi hận thù và bạo lực đối với các tôn giáo thiểu số, đang tạo ra một tác động tiêu cực đến sự hài hòa xã hội ở nhiều thành phố và làng mạc".
"100 ngày đầu tiên của chính phủ mới do Thủ tướng Narendra Modi lãnh đạo đã cho thấy một cao trào những bài phát biểu thù hận chống lại người Hồi giáo và Thiên Chúa giáo," Các cha dòng Tên Ấn Độ nói thêm. "Thực chất của những bài phát biểu là chế giễu, phủ nhận quyền công dân của các tín hữu không theo Ấn Giáo, và nhạo báng đức tin của họ."
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 17 - 23/10/2014: Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
06:02 23/10/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ khởi hành từ sân bay Fiumicino ở Rôma vào Thứ Sáu 28 Tháng 11 lúc 9:00 sáng. Ngài sẽ đến Ankara lúc 1:00 trưa và sẽ đến thăm ngôi mộ của Kemal Atatürk, cha đẻ nước Thổ Nhĩ Kỳ thời hiện đại.
Lễ đón tiếp sẽ diễn ra tại Phủ tổng thống, nơi Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ với Tổng thống Recep Tayyip Erdogan và Thủ tướng Ahmet Davutoglu. Ngài cũng sẽ gặp gỡ với vị bộ trưởng Tôn giáo Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào ngày thứ Bảy, ngài sẽ đến Istanbul và đó là phần quan trọng nhất trong chuyến đi. Đức Thánh Cha sẽ đến thăm nhà thờ Hagia Sophia, nơi đã từng là một đền thờ của Chính Thống Giáo, sau đó là Vương Cung Thánh Đường Công Giáo, rồi bị Hồi Giáo chiếm làm đền thờ và bây giờ là một viện bảo tàng. Đức Thánh Cha cũng sẽ viếng thăm đền thờ Xanh của Hồi giáo. Sau đó, ngài sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Nhà thờ Chúa Thánh Thần của Công Giáo và tham dự một buổi cầu nguyện đại kết với Đức Thượng Phụ Bartholomew Đệ Nhất.
Vào ngày Chúa Nhật, ngài sẽ tham dự buổi Phụng Vụ tại Tòa Thượng phụ Đại kết nhân lễ Thánh Anrê Tông Đồ.
Cùng ngày hôm đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ khởi hành từ Istanbul vào lúc 5 giờ chiều và về đến Rôma khoảng 7 giờ tối.
2. Chuyến viếng thăm Sri Lanka của Đức Thánh Cha có thể phải huỷ bỏ
Trong một diễn biến bất ngờ, hôm thứ Hai 20 tháng 10, Bộ Trưởng Thông Tin Sri Lanka là Keheliya Rambukwella đã cho biết rằng “Cuộc bầu cử tổng thống sẽ diễn ra vào tháng Giêng năm tới”. Được hỏi chính xác là vào ngày nào, ông cho biết: “Tôi biết ngày nào nhưng không thể nói ngay bây giờ”.
Nhiệm kỳ tổng thống tại Sri Lanka là 6 năm và hiến pháp chỉ cho phép một vị tổng thống được đảm nhiệm tối đa là 2 nhiệm kỳ. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2010, Quốc Hội bỏ phiếu tu chính hiến pháp mở đường cho tổng thống Mahinda Rajapaksa có thể làm bao nhiêu nhiệm kỳ cũng được.
Sau khi giải giáp được quân du kích Hổ Tamil vào năm 2009, uy tín của tổng thống Mahinda đã lên rất cao và ông đã thắng áp đảo trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2010 để đảm đương nhiệm kỳ tổng thống thứ hai. Bình thường ra thì cuộc bầu cử tổng thống sẽ diễn ra vào năm 2017. Tuy nhiên, vì những lý do chính trị, tổng thống Mahinda đã muốn bầu cử sớm đến 2 năm.
Buổi sáng ngày 20 tháng 10, trong công nghị Hồng Y bàn về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông, Đức Thánh Cha cũng đã ấn định ngày phong hiển thánh cho chân phước linh mục Joseph Vaz là ngày 14 tháng Giêng 2015, trong chuyến viếng thăm của ngài tại Sri Lanka từ 13 đến 15 tháng Giêng năm tới.
Với quyết định tuyển cử sớm này của Sri Lanka, tình hình trở nên phức tạp. Theo thông lệ ngoại giao, Đức Giáo Hoàng sẽ không viếng thăm một quốc gia trong thời gian tuyển cử để tránh làm phức tạp thêm tình hình chính trị tại quốc gia đó. Tương lai chuyến viếng thăm Sri Lanka của Đức Thánh Cha Phanxicô, do đó, rất là mong manh.
3. Những điều ít người biết về Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục
Đức Hồng Y Montini đã rất lo lắng trong thời gian Mật Nghị bầu Giáo Hoàng, vì ngài biết rõ những gì sắp diễn ra. Tuy nhiên, trong suốt 15 năm triều Giáo Hoàng của ngài, ngài không sợ hãi phải đối mặt với những thách đố của một giai đoạn đặc biệt khó khăn thông qua 7 cử chỉ đáng ngạc nhiên.
Ngài là vị Giáo Hoàng đã bán vương miện của mình
Thật vậy, thưa quý vị và anh chị em,
Tin rằng Đức Giáo Hoàng không phải là một vị vua, ngài đã từ bỏ vương miện ba tầng chỉ một năm sau khi được bầu vào ngôi Giáo Hoàng. Số tiền bán được đã dành để giúp đỡ các công việc bác ái của Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Từ đó, đến nay không có vị Giáo Hoàng nào sử dụng vương miện nữa.
Một nhóm người Công Giáo Mỹ đã mua lại vương miện này với giá 1 triệu Mỹ Kim. Quý vị nào có dịp đến Washington DC, ghé thăm Đền Thánh Quốc Gia Hoa Kỳ, nơi cũng có một nhà nguyện kính Mẹ La Vang của người Việt Nam sẽ thấy vương miện này được trưng bày ở đó.
Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên thực hiện các chuyến tông du trên thế giới
Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục là vị Giáo Hoàng đầu tiên thực hiện các chuyến tông du trên thế giới bên ngoài nước Ý.
Trên tờ bìa số ra ngày 4/1/2004, tờ Quan Sát Viên Rôma đã trình bày những suy tư về chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục xảy ra trước đó 40 năm, tức là 50 năm tại thời điểm năm 2014 này. Tờ báo này nhận định rằng dù ngắn ngủi (chỉ có 3 ngày), đây là chuyến tông du "hết sức quan trọng".
Tờ Quan Sát Viên Rôma nhận xét "Đây là lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng dùng phi cơ, và thực hiện một chuyến đi đến miền đất của Thánh Phêrô và các thánh tông đồ".
Ngài đã đến thăm 19 quốc gia trên khắp năm châu trong 9 chuyến tông du. Ngài đã viếng thăm New York, Iran, Philippines, Colombia, và Bồ Đào Nha. Khi trở về từ Thánh Địa, ngài gặp gỡ dân chúng trên đường phố Rôma với vòng tay rộng mở.
Roberto Paglialonga, tác giả cuốn "La Chiesa in uscita di Paolo VI" nói:
"Trong mỗi chuyến tông du, ngài thường yêu cầu những nhà tổ chức để ngài được tiếp xúc trực tiếp với người dân và các gia đình. Ngài cũng yêu cầu đến thăm các vùng ngoại ô của thành phố."
Ngài là vị Giáo Hoàng chỉ còn cách Trung Quốc có 29km
Năm 1970, ngài tới thăm Hương Cảng. Phần đất này lúc đó vẫn còn dưới quyền cai trị của người Anh. Thống đốc David Trench, người đã chính thức mời ngài sang thăm Hương Cảng đã chịu một áp lực nặng nề và những lời hăm dọa của Mao Trạch Đông đến mức ông phải làm bộ cáo ốm đi nghỉ hè để không chính thức tiếp đón Ngài.
Roberto Paglialonga, tác giả cuốn "La Chiesa in uscita di Paolo VI" nói thêm:
"Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên rất gần với Trung Quốc về mặt địa lý. Ngài đã có thể nói chuyện trực tiếp với mọi người, với những từ ngữ của hòa bình và tình yêu."
Ngài là vị Giáo Hoàng đã bãi bỏ danh mục các sách bị cấm
Năm 1966, Đức Phaolô Đệ Lục đã loại bỏ danh mục các sách cấm người Công Giáo đọc, vốn đã tồn tại bốn thế kỷ.
Cha Gianfranco Grieco /gian – fran- co griê-cô/, tác giả, cuốn "Pablo VI. He visto, he creído" /pab-lo sêi he vis-to he crêi – đô/ nói:
"Ngài là một nhà nhà trí thức và đồng thời là một người cam kết đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới. Ngài biết rằng một kỷ nguyên đã kết thúc và một kỷ nguyên khác đã bắt đầu."
Ngài đề cao sự hiệp nhất trong Công Đồng Vatican II
Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình vừa mới diễn ra chỉ có 191 nghị phụ và bàn thảo về một chủ đề giới hạn trong phạm vi mục vụ gia đình. Tuy nhiên, đã có những ý kiến rất khác biệt. Vì thế, người ta phải nhìn nhận rằng Đức Phaolô Đệ lục đã thành công trong một kỳ công gần như không thể đó là ngài ông đã đưa 2,500 nghị phụ tham gia Công Đồng Chung Vatican II, bàn thảo về nhiều vấn đề bao quát trong Giáo Hội đến chỗ đồng thuận với nhau. Ngài đã cho thấy khả năng của mình trong việc hòa giải mà không tương nhượng bất cứ tín lý nào.
Ngài xây dựng nhịp cầu với Giáo Hội Chính Thống
Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục là người đã có thể chấm dứt 1,000 năm mất lòng tin giữa người Công Giáo và Chính Thống Giáo. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên gặp gỡ các nhà lãnh đạo hàng đầu của Chính Thống Giáo. Ngài đã làm mọi thứ có thể để thiết lập một tình bạn trực tiếp và cá nhân với ngài mở ra quan hệ tốt đẹp như hiện nay.
Hơn 50 năm trước đây, chính xác là vào ngày 6 tháng Giêng năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã gặp gỡ Đức Thượng Phụ Đại Kết Athenagoras tại Giêrusalem “nơi Đấng Cứu Chuộc chung của chúng tôi, là Chúa Kitô, đã sống, đã giảng dạy, đã chết, đã sống lại, và đã lên trời, mà từ đó, Người đã sai Chúa Thánh Thần xuống trên Giáo Hội non trẻ” như đã nêu trong Thông Cáo Chung của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras, công bố sau cuộc gặp gỡ.
Ngài đề cao giá trị của tình yêu
Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục công bố bảy thông điệp trong triều đại giáo hoàng kéo dài 15 năm của ngài.
Thông điệp cuối cùng là Humanae Vitae (Sự sống con người), có lẽ một trong những tài liệu gây tranh cãi nhất trong lịch sử gần đây của Giáo Hội.
Cha Roberto Regoli thuộc Đại học Giáo hoàng Gregoriô nói:
"Đối với ngài, cuộc tranh luận dữ dội về tài liệu này khiến ngài bị sửng sốt đến mức từ năm 1968 cho đến khi qua đời, ngài không công bố một thông điệp nào khác. Ngài đã viết các tài liệu khác, những tông huấn, tông thư, tông hiến, nhưng không có một thông điệp nào khác."
Năm 1968, Hoa Kỳ và nhiều nước trong thế giới phương Tây đã trải qua những thay đổi đáng kể về phương diện văn hóa và xã hội.
Các thế hệ sinh viên mới của những năm cuối thập niên 1960 đã nổi dậy chống lại các giá trị của cha mẹ, đặc biệt là trong các lĩnh vực đạo đức và tình dục.
Cha Roberto Regoli nói thêm:
"Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã phải thực hiện những thay đổi sâu rộng được Công đồng Vatican II đưa ra giữa một cuộc khủng hoảng rộng lớn hơn, vượt ra ngoài Giáo Hội, đó là một cuộc khủng hoảng xã hội, chính trị và văn hóa."
Ngài đã quyết định viết Humanae Vitae. Tài liệu làm sáng tỏ trách nhiệm của những bậc cha mẹ và đề cập đến các vấn đề đạo đức như việc sử dụng các biện pháp tránh thai của người Công Giáo, trong đó, Đức Giáo Hoàng đã viết rằng " hành động hôn nhân phải gắn liền với ý nghĩa của sự hiệp nhất và sinh sản."
Giáo Hội đã dự kiến sẽ vấp phải những chống đối từ các thành phần không phải là người Công Giáo trong xã hội, nhưng điều gây kinh ngạc là những chống báng đã đến từ ngay cả nhiều người Công Giáo.
Cha Roberto Regoli cho biết:
"Đó là một điều chưa từng xảy ra trong Giáo Hội. Nhiều thông điệp bị chỉ trích trong thập kỷ 1800 từ các thành phần cấp tiến, nhưng chưa bao giờ có những chống đối lan rộng bên trong Giáo Hội như vào năm 1968. Các nhà thần học, dân Chúa, và ngay cả một số giám mục từ chối Huấn Quyền của ngài."
Trong thông điệp, Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã cảnh báo về những hậu quả mà phong cách sống mới này có thể gây ra cho gia đình. Những hậu quả như ngoại tình, mất sự tôn trọng đối với phụ nữ, và các biện pháp tránh thai trở thành quốc sách của các nhà nước trên thế giới.
Trong một cuộc phỏng vấn được công bố tháng Ba vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng thông điệp Humanae Vitae có tính tiên tri và Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã có "can đảm đi ngược lại với đa số," khi quyết liệt "bảo vệ kỷ luật đạo đức."
4. Đức Thánh Cha chủ tọa công nghị Hồng Y về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông
Sáng thứ Hai 20 tháng 10, Đức Thánh Cha đã chủ tọa công nghị Hồng Y về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông và quyết định về việc phong Hiển thánh.
Tham dự công nghị bắt đầu lúc 9 giờ sáng tại Hội trường Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng có các vị Thượng Phụ và một số Giám Mục.
Đức Thánh Cha đã ấn định ngày phong hiển thánh cho chân phước linh mục Joseph Vaz là ngày 14 tháng Giêng năm 2015, trong chuyến viếng thăm của ngài tại Sri Lanka từ 13 đến 15 tháng Giêng năm tới. Thánh nhân từ Ấn Độ đến truyền giáo tại Sri Lanka trong thời kỳ người Hòa Lan bách hại các tín hữu Kitô tại đảo này.
Về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông, Đức Thánh Cha nói:
“Chúng ta có cùng ước muốn hòa bình và ổn định tại Trung Đông và ý chí cổ võ giải pháp cho các cuộc xung đột bằng cách đối thoại, hòa giải và dấn thân chính trị. Đồng thời chúng ta muốn gia tăng sự trợ giúp có thế cho các cộng đồng Kitô để hỗ trợ họ ở lại vùng miền ấy.
“Như tôi đã có dịp lập lại nhiều lần, chúng ta không thể có thái độ cam chịu khi nghĩ đến miền Trung Đông không còn Kitô hữu nữa, những người từ 2 ngàn năm nay đã tuyên xưng danh Chúa Giêsu tại đó. Những biến cố gần đây, nhất là tại Irak và Siria, gây lo âu rất nhiều. Chúng ta chứng kiến một hiện tượng khủng bố có chiều kích không thể tưởng tượng được trước đây. Bao nhiêu anh chị em chúng ta bị bách hại và đã phải rời bỏ gia cư, cả trong tình thế tàn bạo. Dường như người ta đánh mất ý thức về giá trị sự sống con người, con người dường như không đáng kể gì nữa, và người ta có thể hy sinh con người cho những lợi lộc khác. Rất tiếng là tất cả những điều đó xảy ra trong sự dửng dưng của bao nhiêu người.
Và Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Tình trạng bất công này, không những đòi lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng còn cần phải có câu trả lời thích hợp từ phía cộng đồng quốc tế. Tôi chắc chắn rằng với sự phù trợ của Chúa, từ cuộc gặp gỡ hôm nay, sẽ có những suy tư giá trị và những đề nghị để có thể giúp anh chị em chúng ta đang chịu đau khổ và đáp ứng cả thảm trạng suy giảm sự hiện diện của Kitô giáo tại miền đất nơi Kitô giáo được khai sinh và phổ biến.
Tiếp lời Đức Thánh Cha, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã tường trình trước công nghị về khóa họp mới đây tại Vatican, từ ngày 2 đến 4-10 vừa qua của các vị Sứ thần Tòa Thánh ở Trung Đông, các đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở Genève và New York cùng với các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh về sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông.
Trước tiên các vị bàn về tình trạng không thể chấp nhận được tại Trung Đông do cái gọi Nhà Nước Hồi giáo, một thực tài chà đạp công pháp và dùng những phương pháp khủng bố để mưu toan mở rộng quyền bính: giết người hằng loạt, chém đầu những kẻ nghĩ khác họ, bán phụ nữ ở chợ, xung các trẻ em vào các cuộc chiến đấu, tàn phá các nơi thờ phượng.. Tình trạng đó khiến hàng trăm ngàn người phải bỏ gia cư đi lánh nạn nơi khác, trong những điều kiện bấp bênh, chịu bao đau khổ về thể lý và tinh thần. Khi lên án rõ ràng những vi phạm đó, không những đối với công pháp quốc tế về nhân đạo, nhưng cả về các nhân quyền sơ đẳng nhất, người ta cũng tái khẳng định quyền của người tị nạn được trở về đất nước của mình và sống trong phẩm giá, trong an ninh. Đó là quyền phải được cộng đồng quốc tế và các quốc gia hỗ trợ và bảo đảm. Điều có liên hệ ở đây là những nguyên tắc căn bản như giá trị sinh mạng và phẩm giá con người, tự do tôn giáo, sự sống chung hòa bình và hòa giữa các cá nhân và giữa các dân tộc.
Đức Hồng Y Parolin cũng nhấn mạnh rằng các cuộc xung đột ở Trung Đông là một trong những đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự ổn định quốc tế. Hòa bình ở Trung Đông không thể tìm kiếm bằng những chọn lựa đơn phương áp đặt bằng võ lực.
Đức Hồng Y nhắc đến lời Đức Thánh Cha lên án nạn buôn bán võ khí là một trong những nguyên nhân tạo nên nhiều nạn nhân ở Trung Đông và cộng đồng quốc tế không thể nhắm mắt làm ngơ trước vấn đề này.
5. Những phiên họp cuối của Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình
Trong phiên khoáng đại thứ 14 sáng thứ Bẩy 18 tháng 10, từ 9 giờ đến 12 giờ rưỡi, các nghị phụ đã nghe Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng Giám Mục Sàigòn trình bày bài suy niệm ngắn trong kinh Giờ Ba lúc 9 giờ. Ngài nói với Đức Thánh Cha và các nghị phụ rằng "Chúa Kitô là hy vọng duy nhất cho cuộc sống gia đình ngày hôm nay và ngày mai ... Chúng ta tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, hoặc sức mạnh của thế giới? Sức mạnh của thế giới phá hủy tất cả mọi thứ: cuộc sống, tình yêu, gia đình nhân loại. Trái lại đời sống đức tin được diễn tả qua một cuộc sống yêu thương, là nguồn mạch vui mừng, hạnh phúc”.
Các nghị phụ sau đó đã nghe đọc dự thảo Bản tường trình kết thúc công nghị Giám Mục thế giới này, và bỏ phiếu chấp thuận văn bản chung kết Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục gửi cộng đồng dân Chúa.
Ban chiều từ 4 giờ rưỡi đến 7 giờ, có phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng. Các nghị phụ đã bỏ phiếu thông qua Bản tường trình Thượng Hội Đồng Giám Mục để đệ lên Đức Thánh Cha. Văn kiện này chưa phải là quyết định chung kết nhưng sẽ được dùng làm Tài Liệu làm việc cho Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới khóa thường lệ sẽ diễn ra từ 4 đến 25 tháng 10 năm 2015.
6. Sứ điệp của Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình gởi cho cộng đoàn Dân Chúa trên thế giới
Sáng thứ Bẩy 18 tháng 10, một cuộc họp báo đã được tổ chức tại phòng báo chí Tòa Thánh để trình bày sứ điệp của Thượng Hội Đồng Ngoại Thường Kỳ thứ Ba nhóm từ ngày 05 tháng 10 đến ngày 19 Tháng 10 để bàn về các "thách thức mục vụ đối với gia đình trong bối cảnh phúc âm hóa". Tham dự trong buổi họp báo có Đức Hồng Y Raymundo Damasceno Assis, Tổng Giám Mục Aparecida, Brazil, Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa và Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng Giám Mục Bombay, Ấn Độ.
Toàn văn sứ điệp gởi cộng đoàn Dân Chúa được công bố dưới đây:
"Chúng tôi, các nghị phụ của Thượng Hội Đồng, tập trung tại Rôma cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thượng Hội Đồng Ngoại Thường, gởi lời chào đến tất cả các gia đình ở các châu lục khác nhau và đặc biệt là tất cả những ai đang tiến bước theo Chúa Kitô, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Chúng tôi bày tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn đối với những chứng tá hàng ngày mà anh chị em đưa ra cho thế giới với sự trung tín, đức tin, hy vọng và tình yêu của anh chị em.
Mỗi người chúng tôi, các vị mục tử của Giáo Hội, lớn lên trong một mái gia đình, và chúng tôi đến từ những bối cảnh và kinh nghiệm rất đa dạng. Là những linh mục và giám mục, chúng tôi đã từng sống cùng với các gia đình, những người đã chuyện trò với chúng tôi và trình bày cho chúng tôi thấy những câu chuyện về niềm vui và khó khăn của họ.
Việc chuẩn bị cho cuộc họp Thượng Hội Đồng này, được bắt đầu với bản câu hỏi được gửi đến các Giáo Hội trên toàn thế giới, đã cho chúng tôi cơ hội để lắng nghe những kinh nghiệm của nhiều gia đình. Cuộc thảo luận của chúng tôi tại Thượng Hội Đồng này giúp chúng tôi làm phong phú lẫn nhau, giúp chúng tôi nhìn vào các tình huống phức tạp mà các gia đình ngày nay phải đối mặt.
Chúng tôi muốn gởi đến anh chị em những lời này của Chúa Kitô: "Nầy đây, Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa, Ta sẽ vào nhà và dùng bữa tối với người ấy, và người ấy sẽ ở cùng Ta. Trên hành trình của Ngài qua các nẻo đường Thánh Địa, Chúa Giêsu thường vào những ngôi nhà trong các làng mạc. Ngay cả ngày nay, Ngài vẫn tiếp tục đi qua những đường phố của chúng ta. Trong ngôi nhà của anh chị em có ánh sáng và bóng tối. Những thách đố và đôi khi thậm chí cả những gian nan vẫn thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống. Bóng tối có thể phát triển sâu đến mức trở thành một màn đêm dày đặc khi xấu xa và tội lỗi len vào vào trung tâm của gia đình.
Chúng tôi nhìn nhận có những thách đố lớn lao để trung thành trong tình yêu vợ chồng. Đức tin yếu đuối và sự thờ ơ với những giá trị đích thực, chủ nghĩa cá nhân, các mối quan hệ bị làm nghèo nàn đi, và những căng thẳng khiến con người không còn có thể suy tư chín chắn để lại những vết thẹo trong cuộc sống gia đình. Quá thường khi những khủng hoảng trong hôn nhân được giải quyết một cách vội vàng và người ta không có can đảm, kiên nhẫn và suy tư chín chắn để hy sinh và tha thứ cho nhau. Những thất bại làm gia tăng các mối quan hệ mới, các cặp vợ chồng mới, các kết hợp dân sự mới, và những cuộc hôn nhân mới, tạo ra những hoàn cảnh gia đình rất phức tạp và khó giải quyết, trong đó lựa chọn Kitô trong cách hành động không phải là mặc nhiên.
Chúng tôi cũng nghĩ đến những gánh nặng áp đặt bởi cuộc sống trong những khổ đau có thể xảy ra khi con cái cần phải được chăm sóc đặc biệt, khi bệnh tật nghiêm trọng ập đến, trong sự suy thoái của tuổi già, hoặc trong cái chết của một người thân yêu. Chúng tôi ngưỡng mộ lòng trung thành của rất nhiều gia đình đã phải chịu đựng những thử thách với lòng dũng cảm, đức tin và tình yêu. Họ thấy đó không phải là một gánh nặng gây ra để làm khổ họ, nhưng là một cái gì đó mà chính qua đó họ nhìn thấy Chúa Kitô đang đau khổ trong thể xác yếu đuối của mình.
Chúng tôi nhớ đến những khó khăn gây ra bởi hệ thống kinh tế bị thống trị bởi "sự sùng bái ngẫu tượng tiền bạc và tính chất độc tài của một nền kinh tế phi nhân thiếu vắng một cùng đích nhân bản thực sự" đang làm suy yếu phẩm giá con người. Chúng tôi nghĩ đến những người làm cha làm mẹ đang thất nghiệp, là những người bất lực trong việc cung cấp những nhu cầu cơ bản cho gia đình mình, và những thanh niên đang đối diện với một viễn ảnh trống rỗng, những người là miếng mồi ngon cho ma túy và tội phạm.
Chúng tôi nghĩ đến rất nhiều những gia đình nghèo, những người bám víu vào những con thuyền mong manh hy vọng đến được một bến bờ sống sót, những người tị nạn lang thang vô vọng trong sa mạc, những người bị bách hại vì đức tin và vì những giá trị nhân bản và tinh thần mà họ đề cao. Đó là những người bị ảnh hưởng bởi sự tàn bạo của chiến tranh và áp bức. Chúng tôi nhớ đến những người phụ nữ bị bạo hành và khai thác, là nạn nhân của tệ buôn bán người, những trẻ em bị lạm dụng bởi những người lẽ ra phải bảo vệ họ và thúc đẩy sự phát triển của họ, và các thành viên của rất nhiều gia đình đã bị suy thoái lại còn phải đương đầu với những gánh nặng khó khăn chồng chất. "Nền văn hóa của sự thịnh vượng đang làm chúng ta chết dần mòn .... tất cả những người đang phải còi cọc trong cuộc sống vì thiếu cơ hội dường như chỉ là một cảnh tượng không hơn không kém; không còn làm chúng ta mủi lòng ". Chúng tôi kêu gọi các chính phủ và tổ chức quốc tế hãy thúc đẩy các quyền của gia đình vì lợi ích chung.
Chúa Kitô muốn Giáo Hội của Người là một ngôi nhà luôn mở rộng cửa chào đón tất cả mọi người. Chúng tôi nhiệt liệt cảm ơn các vị mục tử của chúng ta, những anh chị em giáo dân trung thành, và các cộng đồng đang đồng hành với các cặp vợ chồng và các gia đình, và đang chăm sóc cho vết thương của họ.
Cũng có ánh đèn đêm tỏa sáng rực rỡ làm ấm áp thể xác và tâm hồn con người đằng sau những ô kính cửa sổ trong những ngôi nhà thành phố, trong những mái nhà khiêm tốn ở vùng ngoại ô và trong các làng mạc, và thậm chí trong các túp lều. Ánh sáng này - ánh sáng của một mối lương duyên - tỏa sáng từ cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng: đó là một ân sủng, một hồng ân được thể hiện như trong Sách Sáng Thế khi hai người "mặt đối mặt" như những người giúp đỡ lẫn nhau và bình đẳng. Tình yêu của người nam và người nữ dạy chúng ta rằng mỗi người cần đến người khác để mình được thực sự là mình. Mỗi người vẫn khác với người kia nhưng tự mở mình ra và hiểu mình hơn trong ân sủng hỗ tương này. Chính vì thế mà cô dâu trong Diễm Tình Ca đã hát bài ca vịnh của mình: “Người tôi yêu thuộc trọn về tôi và tôi trọn vẹn thuộc về chàng.”
Cuộc gặp gỡ đích thực này bắt đầu với sự theo đuổi nhau, với một thời gian chờ đợi và chuẩn bị. Nó được hiện thực hóa trong bí tích mà Thiên Chúa đóng lên dấu ấn của Ngài với sự hiện diện của Ngài, và ân sủng. Con đường này cũng bao gồm các mối quan hệ tình dục, sự dịu dàng, thân mật, và vẻ đẹp có khả năng kéo dài sức sống và sự tươi mát của tuổi trẻ. Tình yêu như thế, tự bản chất của nó, cố gắng kéo dài mãi mãi đến độ dám hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Trong ánh sáng này tình yêu phu phụ, là duy nhất và bất khả phân ly, mới được bền vững dù gặp bao gian nan thử thách. Tình yêu ấy là một trong những phép lạ đẹp nhất và phổ biến nhất.
Tình yêu này lây lan qua khả năng sinh sản và thông truyền cho thế hệ trẻ, trong đó bao gồm không chỉ việc đón nhận con cái nhưng còn là trao ban món quà của sự sống thiêng liêng qua việc rửa tội, dạy giáo lý, và giáo dục con cái. Nó bao gồm khả năng trao ban cuộc sống, tình cảm, và các giá trị - một kinh nghiệm có thể thực hiện ngay cả bởi những người không thể sinh con. Các gia đình sống tràn ngập trong ánh sáng này trở thành một dấu chỉ cho tất cả, đặc biệt là cho những người trẻ.
Cuộc hành trình này đôi khi là một chuyến leo núi dốc dác đầy những khó khăn và vấp ngã. Thiên Chúa luôn luôn ở đó để đi cùng với chúng ta. Các gia đình cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài trong tình cảm và trong cuộc đối thoại giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em. Họ đón nhận Ngài trong lời cầu nguyện gia đình và trong việc lắng nghe Lời Chúa – như một ốc đảo nhỏ để nương tựa tinh thần hàng ngày. Họ nhận ra Ngài mỗi ngày khi họ giáo dục con cái trong đức tin và trong vẻ đẹp của một đời sống theo Tin Mừng, một cuộc sống thánh thiện. Ông bà cũng chia sẻ nhiệm vụ này với tình cảm tuyệt vời và sự tận tụy. Như thế, gia đình là một Giáo Hội đích thực mở rộng ra thành cộng đồng Giáo Hội là gia đình của các gia đình. Các đôi vợ chồng Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những thầy dạy về đức tin và tình yêu cho những cặp vợ chồng trẻ.
Một biểu hiện khác của sự hiệp thông huynh đệ là tình bác ái, là sự cho đi, là sự gần gũi với những người ở tận cùng của xã hội, những người chịu thiệt thòi, người nghèo, người cô đơn, người bệnh tật, những người xa lạ, và các gia đình đang trong cuộc khủng hoảng, với nhận thức từ lời Chúa rằng "Cho thì có phúc hơn là nhận". Đó là ân sủng của những điều thiện, của tình bạn, của tình yêu và lòng thương xót, và cũng là một chứng tá cho sự thật, ánh sáng, và ý nghĩa của cuộc sống.
Đỉnh cao tổng hợp tất cả những mối dây hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân là việc cử hành Thánh Thể Chúa Nhật khi gia đình và toàn thể Giáo Hội ngồi đồng bàn với Chúa. Ngài ban chính mình cho tất cả chúng ta, những người lữ hành qua dòng lịch sử hướng tới mục tiêu là cuộc gặp gỡ cuối cùng khi "Chúa Kitô là tất cả và trong tất cả". Do đó, trong giai đoạn đầu tiên của chương trình nghị sự tại Thượng Hội Đồng này, chúng tôi đã suy tư về những cách thế để đi cùng với những người đã ly dị và tái hôn; và về sự tham gia của họ trong các bí tích.
Chúng tôi, các nghị phụ tại Thượng Hội Đồng xin anh chị em đồng hành với chúng tôi tại Thượng Hội Đồng tiếp theo. Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse dưới mái nhà khiêm tốn của các Ngài vẫn hiện diện trên anh chị em. Hiệp với Thánh Gia Nazareth, chúng ta dâng lên Chúa Cha lời thỉnh cầu của các gia đình trên thế giới:
Lạy Cha, xin ban cho tất cả các gia đình sự hiện diện mạnh mẽ và khôn ngoan của những đôi vợ chồng, là những người có thể là nguồn mạch cho một gia đình tự do và hiệp nhất.
Lạy Cha, xin ban cho những bậc cha mẹ có thể có một mái nhà, để sống trong an bình với gia đình họ.
Lạy Cha, xin cho những trẻ em có thể là một dấu chỉ của sự tin cậy và hy vọng và cho những người trẻ tuổi có can đảm để chấp nhận những cam kết lâu dài, và trung tín.
Lạy Cha, xin cho tất cả mọi người có thể kiếm được lương thực hàng ngày với đôi tay của họ, xin cho họ có thể tận hưởng sự thanh thản về tinh thần và có thể giữ cho ngọn đuốc đức tin bùng cháy ngay cả trong những thời kỳ bóng tối.
Lạy Cha, xin ban cho tất cả chúng con được thấy một Giáo Hội phát triển mạnh, trung thành và khả tín hơn bao giờ hết, một thành phố công lý và nhân bản, một thế giới yêu mến sự thật, công lý và lòng thương xót ".
7. Diễn từ bế mạc Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình
Buổi chiều ngày thứ Bẩy 18 tháng Mười, trong diễn văn kết thúc Thượng Hội Đồng về gia đình tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cám ơn các nghị phụ về các cố gắng của các ngài tại Thượng Hội Đồng và nói tới một số cám dỗ có thể có trong cuộc họp đặc biệt này.
Ngài khuyến khích các vị thẳng thắn trao đổi. Đức Thánh Cha nói: “bản thân tôi rất lo ngại và buồn bã nữa nếu không có những cám dỗ và những cuộc thảo luận hào hứng này… Thay vào đó, tôi đã vui mừng và biết ơn được thấy và được nghe những bài nói và tham luận đầy đức tin, đầy nhiệt tâm mục vụ và tín lý, đầy khôn ngoan, chân thành và can đảm: và cả bộc trực nữa. Và tôi thấy đặt trước chúng ta là thiện ích của Giáo Hội, của các gia đình, và ‘luật tối cao’, ‘lợi ích của các linh hồn (xem Giáo Luật Điều 1752)”.
Đức Thánh Cha cũng cảnh giác rằng:
“Vì là một cuộc hành trình của những con người nhân bản, nên bên cạnh những điều đáng khích lệ còn có những giây phút phiền muộn, căng thẳng và cám dỗ, mà ta có thể nhắc tới một vài khả thể như sau:
Thứ nhất, cám dỗ chống lại sự mềm dẻo một cách thù nghịch, nghĩa là, muốn tự khóa chặt mình bên trong chữ viết và không để cho mình được Thiên Chúa làm cho ngạc nhiên, khoá chặt mình trong lề luật, trong sự chắc mẩm điều mình biết chứ không phải điều mình vẫn còn cần phải học và đạt cho được. Từ thời Chúa Kitô, vốn đã có cơn cám dỗ của kẻ ghen tương, người quá thận trọng, quá lo lắng và người ngày nay gọi là “duy truyền thống” và của những nhà trí thức nữa.
Thứ hai là cơn cám dỗ của khuynh hướng muốn phá hủy sự thiện, tức là nhân danh lòng từ tâm lừa đảo băng bó các vết thương mà trước đó không chữa chạy gì cả; là chỉ trị các triệu chứng mà không chịu trị nguyên nhân và gốc rễ. Đây là cơn cám dỗ của “người lo làm điều tốt”, của người sợ sệt, và của cả những người gọi là “cấp tiến và duy tự do”.
Thứ ba là cơn cám dỗ muốn biến đá thành cơm để đã cơn chay tịnh lâu dài, nặng nề và đau đớn (xem Lc 4:1-4); cũng như biến cơm thành đá để dùng nó liệng vào người tội lỗi, người yếu đuối và người bệnh hoạn (xem Ga 8:7), nghĩa là, biến nó thành những gánh nặng không thể nào chịu đựng nổi (Lc 11:46).
Thứ tư là cơn cám dỗ bước xuống khỏi thập giá, để làm vui lòng người, chứ không chịu ở trên đó, ngõ hầu chu toàn thánh ý Chúa Cha; là rạp mình trước tinh thần thế gian thay vì phải thanh tẩy nó và bắt nó rạp mình trước Thần Trí Thiên Chúa.
Cuối cùng là cơn cám dỗ lãng quên “kho tàng đức tin”, không nghĩ mình là người canh giữ mà là chủ nhân ông hay ông chúa của nó; hoặc, mặt khác, cơn cám dỗ lãng quên thực tại, sử dụng những ngôn ngữ cầu kỳ, những ngôn ngữ êm tai để nói thật nhiều mà cũng là chẳng nói được chi. Người ta gọi họ là “chủ nghĩa Byzantyne”, tôi nghĩ thế, đại loại như vậy…
Anh chị em thân mến, các cơn cám dỗ không nên làm ta sợ hãi hay luống cuống, hoặc thậm chí ngã lòng, vì không đồ đệ nào lớn hơn thầy mình; bởi thế, nếu chính Chúa Giêsu đã bị cám dỗ, thậm chí còn bị gọi là qủy Bendêbút (xem Mt 12:24), thì các đồ đệ của Người không mong gì được đối xử tốt hơn.
Nhiều nhà bình luận, hay những người hay nói, đã tưởng tượng rằng họ đang chứng kiến một Giáo Hội cãi cọ nhau, trong đó, thành phần này chống lại thành phần kia, hoài nghi luôn cả Chúa Thánh Thần, Đấng cổ vũ và bảo đảm sự hợp nhất và hòa hợp của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần mà suốt trong lịch sử, luôn sử dụng các thừa tác viên của Giáo Hội, để hướng dẫn con thuyền, cả những lúc gặp sóng to gió cả, và cả những thừa tác viên bất trung và người tội lỗi.
Và, như tôi từng dám nói và đã nói từ đầu Thượng Hội Đồng, điều cần thiết là phải sống qua tất cả những điều trên trong thanh thản, trong bình an nội tâm, để Thượng Hội Đồng này diễn ra với Phêrô và dưới Phêrô, và sự hiện diện của Giáo Hoàng bảo đảm mọi việc trên.
Hướng đến Thượng Hội Đồng năm 2015, ngài nói “chúng ta vẫn còn một năm nữa để, với việc biện phân thiêng liêng chân thực, chúng ta hãy làm cho các ý niệm đã đề xuất được chín mùi; để tìm ra các giải pháp cụ thể cho rất nhiều khó khăn và muôn vàn thách đố mà các gia đình hiện phải đối phó; để đem lại các giải đáp cho nhiều nỗi thất vọng đang bủa vây và làm ngột ngạt các gia đình”.
8. Đức Hồng Y George Pell: “Chúng ta không chiều theo áp lực của thế gian”
Đức Hồng Y George Pell nói trong một cuộc phỏng vấn hôm 16 tháng 10 rằng việc công bố những chỉ trích của các nghị phụ đối với phúc trình tạm thời của Thượng Hội Đồng do Đức Hồng Y Peter Erdo chịu trách nhiệm là một điều tốt vì đã mang đến cho các tín hữu một hình ảnh thực sự về quan điểm của đa số các nghị phụ tham dự Thượng Hội Đồng.
Ngài nói với Catholic News Service:
"Chúng tôi muốn những người Công Giáo trên toàn thế giới biết thực tế những gì đang diễn ra trong Thượng Hội Đồng về hôn nhân và gia đình và, nói chung, tôi nghĩ rằng mọi người sẽ vô cùng yên tâm"
"Chúng tôi không chiều theo áp lực của thế gian; chúng tôi không bị xô nhào. Chúng tôi không có ý định chạy theo những yếu tố cấp tiến trong các Giáo Hội Kitô khác, hay hùa theo một số trào lưu cấp tiến của Giáo Hội Công Giáo ở một hoặc hai quốc gia, và tách ra khỏi đường lối của mình."
Ngài nói thêm:
"Ý kiến muốn cho những người ly dị và tái hôn được rước lễ là rất ít, chắc chắn không phải là ý kiến của đa số các nghị phụ tại Thượng Hội Đồng -- nó chỉ là phần thấy được của tảng băng ngầm, đó là một khúc dạo đầu. Thực ra, họ muốn thay đổi rộng lớn hơn, muốn công nhận mọi thứ kết hiệp dân sự, công nhận cả hôn nhân đồng tính ".
"Giáo Hội không thể đi theo hướng đó", Đức Hồng Y Pell nói. "Nó sẽ là một sự nhượng bộ mà chung cục đánh mất đi vẻ đẹp và sức mạnh của truyền thống Công Giáo, là điều mà hàng hàng lớp lớp các tín hữu đã sẵn sàng hy sinh bảo vệ từ hàng trăm, hàng ngàn năm nay... nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là yêu cầu mọi người dừng lại, để cầu nguyện, để nắm được nhịp thở của mình, để ý thức rằng chúng ta sẽ không từ bỏ giáo lý Công Giáo, và để hợp tác với nhau giảm bớt sự chia rẽ và ngăn chặn mọi trào lưu cực đoan của những phe phái hoặc những quan điểm khác nhau. "
9. Đức Hồng Y Willem Jacobus Eijk nói vấn nạn của Giáo Hội tại Hà Lan là tỷ lệ ly hôn cao
Một trong những vấn đề được nhiều nghị phụ đề cập đến tại Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình là xu hướng ngày càng tăng của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội phương Tây.
Đức Hồng Y Willem Jacobus Eijk là Tổng Giám mục Utrech (Hà Lan) nhận xét:
"Trong xã hội của chúng tôi, một số người có ý tưởng cho rằng quan hệ hôn nhân hoặc tình dục là cái gì đó không liên quan đến xã hội hay Giáo Hội. Nó chỉ là một sự lựa chọn của cá nhân trong cuộc sống của người đó."
Hà Lan là một trong những nước có tỷ lệ kết hôn thấp nhất trên thế giới. Trong 10 năm qua, số lượng các cuộc hôn nhân trong Giáo Hội đã giảm từ 6,000 trong một năm xuống đến 3,000 trong một năm.
Đức Hồng Y Willem cho biết:
"Nhiều cặp vợ chồng, ngay cả những người Công Giáo sống chung với nhau chẳng cưới hỏi gì cả. Họ sống với nhau mà không kết hôn, kể cả hôn nhân dân sự cũng không có. Sống chán thì bỏ nhau."
Chính phủ Hà Lan hỗ trợ đáng kể cho các gia đình dù đây là một trong những nước có mức sống cao nhất ở châu Âu. Tuy nhiên, oái oăm thay người ta thờ ơ đối với việc lập gia đình và có lập gia đình đi chăng nữa thì tỷ lệ ly hôn cũng ở mức chóng mặt là 40%.
Đức Hồng Y Willem nói thêm:
"Nhiều người Công Giáo, những người đã kết hôn trong Giáo Hội, sau khi ly hôn không cố gắng giải quyết tình trạng của họ. Họ chẳng mưu tìm việc tiêu hôn. Cứ thản nhiên chung sống với người khác. Và điều này là một khía cạnh đáng lo ngại. Người ta không thiết tha ngay cả việc tái xét xem cuộc hôn nhân đầu tiên của họ có thể là vô hiệu hay không để tìm kiếm một cuộc hôn nhân mới được Giáo Hội công nhận."
Nhưng Thượng Hội Đồng không chỉ tập trung vào các vấn đề. Nhiều giải pháp cũng được đưa ra thảo luận. Một ví dụ là Tổng Giáo Phận Utrech có sáng kiến là các cặp vợ chồng lớn tuổi giúp các cặp vợ chồng trẻ khám phá cuộc sống hôn nhân và làm thế nào để vượt qua khó khăn.
10. Đức Hồng Y Timothy Dolan nói vợ chồng nên dành thời gian bên nhau
Nhiều nghị phụ đã trình bày những khó khăn trong mục vụ gia đình và những sáng kiến của các ngài để đương đầu với những vấn đề. Nhiều bài thuyết trình có thể là khá chuyên biệt với địa phương của các ngài.
Tham dự trong Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình, Đức Hồng Y Timothy Dolan đề cập đến một vấn đề bao quát hơn trên toàn thế giới. Ngài nói chủ nghĩa cá nhân đang giết dần mòn các gia đình. Vợ chồng không thể là hai hành tinh riêng biệt trong gia đình. Họ phải dành thời gian cho nhau.
Đức Hồng Y nói:
“Bố tôi chết sớm lắm. Mới 51 tuổi ông đã qua đời. Trong lễ tang, người ta nói với tôi: ‘Tội quá, cha mẹ cháu vẫn còn âu yếm như đôi trai gái mới đôi mươi. Họ yêu thương nhau quá mà phải chia lìa’. Vâng, họ dành nhiều thời gian với nhau. Điều đó là rất quan trọng đối với họ. Khi cha tôi trở về nhà từ công việc hàng ngày, vào lúc 5 giờ chiều ông và mẹ của tôi, lại ngồi chuyện vãn với nhau hàng giờ.”
Khi được hỏi về các vấn đề liên quan đến người đồng tính, Đức Hồng Y Dolan nhắc lại một trong những chủ đề trung tâm của Thượng Hội Đồng: đó là Giáo Hội phải là một ngôi nhà an toàn cho tất cả.
Ngài nói:
"Khi họ đến với Giáo Hội, họ thích những người khác, họ nói: ‘Ồ, tôi biết vấn đề của tôi, tôi biết cuộc đấu tranh của tôi, tôi biết những khó khăn của tôi, nhưng tôi cố gắng hết sức mình để sống như Chúa Giêsu muốn, tôi cần sự khuyến khích của Giáo Hội, tôi cần lời cầu nguyện, tôi cần rước lễ, tôi cần các bí tích Thống Hối’ Chứ đừng nói: ‘Hi, tôi là gay đây, tôi là người đồng tính đây'. Người ta cần đến với nhau như những con người yêu mến Giáo Hội, và Giáo Hội sẽ là gia đình của họ, họ sẽ cảm thấy như ở nhà mình. Vấn đề là như thế."
Đức Hồng Y Timothy Dolan được bổ nhiệm là Tổng Giám Mục New York vào năm 2009 và đã được nâng lên hàng Hồng Y vào năm 2012. Tổng giáo phận của ngài ước tính có tới 2,5 triệu người Công Giáo.
11. Đức Hồng Y Gracias nói về những khó khăn trong mục vụ gia đình tại Ấn
Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng Giám Mục Mumbai hay còn gọi là Bombay, là một trong 9 vị Hồng Y cố vấn cho Đức Thánh Cha Phanxicô trong việc cải cách giáo triều Rôma. Ngài cũng là một trong các vị đại diện của Giáo Hội Công Giáo tại Ấn độ ở Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình.
Đức Hồng Y cho biết một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất trong cả nước là khuynh hướng “femicide” – nghĩa là trọng nam khinh nữ trong xã hội. Khi phụ nữ mang thai tìm hiểu ra và biết họ đang có mang một cháu gái, một số sẽ phá thai. Ở một số vùng người ta ước tính rằng cứ 1000 người nam thì chỉ có 300 người nữ.
Đức Hồng Y giải thích:
"Vấn đề nằm ở chỗ số tiền hồi môn quá lớn. Khi một cô gái lấy chồng, gia đình nhà gái phải đưa cho nhà trai một số tiền rất lớn. Số tiền này lớn lắm nên thông thường người ta phá thai khi biết thai nhi là một cháu gái. Chính phủ biết như thế. Họ cấm các nhân viên y tế tiết lộ giới tính của thai nhi, nhưng cách nào đó người ta cũng biết."
Nhiều ký giả, theo suy luận có lý nêu ra một ‘chiến lược’ là bây giờ người Công Giáo ta đừng đòi tiền hồi môn của nhà gái như thế có lẽ là một cách hay để ‘phát triển dân số Kitô’ tại Ấn.
Tuy nhiên, thực tế không hoàn toàn dễ dàng như thế. Do bị khối Ấn Giáo kỳ thị nặng nề, người Công Giáo đa số là dân dalit – tức là giới cùng đinh trong xã hội. Những cô gái Ấn thà là chọn làm thiếp – tức là làm vợ lẽ của những người nhà giàu chứ không chịu làm ‘chính cung’ của anh nhà nghèo. Và đó là vấn đề thứ hai mà Đức Hồng Y đề cập đến: vấn nạn về hôn nhân khác đạo. Ngay cả những cô gái có đạo cũng không chịu lấy những anh có đạo vì họ nghèo quá.
80% dân số là Ấn giáo và khả năng cải đạo một người Ấn Giáo sang Công Giáo là gian nan.
Đức Hồng Y nói:
"Có một trường hợp. Người chồng là một người Ấn Giáo, ông là một thương gia và người vợ là một người Công Giáo rất ngoan đạo. Cô ấy đã rất quan tâm đến các khóa Thần học và người chồng vì rất thương vợ đã giúp cô ghi chú các bài giảng, và học hỏi các tài liệu này với vợ mình. Ông tốt lành đến mức cung cấp nhà mình là địa điểm cho các khóa học và lo việc trà nước cho các tham dự viên. Bản thân tôi đã trình bày nhiều bài giảng tại chỗ đặc biệt này và ông là một người rất tốt và thân thiện. 10 năm hoặc lâu hơn nữa sau khi nghe hết tất cả các bài trong khóa học này, ông mới yêu cầu được rửa tội để thành người Công Giáo. "
Vấn đề nổi cộm thứ ba là công ăn việc làm của người phụ nữ. Người phụ nữ rất khó kiếm việc làm. Có kiếm được thì tiền lương cũng thua xa một người đàn ông làm cùng một công việc. Nhưng điều tệ hại là họ thường bị lường gạt.
Đức Hồng Y nêu một ví dụ:
"Bombay là thành phố của những bộ phim, Bollywood là ở đó. Nhiều cô gái được mồi chài rằng 'Tôi sẽ cho cô một vai diễn ở Bollywood. Và chẳng mấy chốc cô sẽ là một nữ diễn viên tên tuổi'. Họ tin lắm, rồi họ bỏ nhà ra đi, người ta cũng mang họ đến đó nhưng sau đó họ không phải là diễn viên đâu nhưng là gái mại dâm. Có rất nhiều trường hợp như thế. "
12. Đức Hồng Y Robert Sarah nói chúng ta hãy cầu nguyện cho những người muốn lèo lái Giáo Hội xa cách Thiên Chúa
Đức Hồng Y Robert Sarah, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Cor Unum, đã phàn nàn rằng một số lực lượng có thế lực đã tìm cách thao túng Thượng Hội Đồng Giám Mục.
Phát biểu với Thông tấn xã Công Giáo CNS, vị Hồng Y người châu Phi đặc biệt trích dẫn "những gì đã được công bố bởi các phương tiện truyền thông về hôn nhân đồng tính như là một nỗ lực để thúc đẩy Giáo Hội phải thay đổi tín lý của mình."
Đức Hồng Y Sarah phàn nàn rằng một số bản tin trên các cơ quan truyền thông đời đã cho rằng Thượng Hội Đồng sẽ đảo ngược giáo huấn Công Giáo mà trước nay vẫn lên án đồng tính luyến ái. Những báo cáo như thế là sai sự thật.
Ngài nói: "Giáo Hội không bao giờ ác cảm với người đồng tính, nhưng hành vi đồng tính luyến ái và kết hiệp đồng tính phải bị xem là sự sai lệch nghiêm trọng về tính dục con người."
Đức Hồng Y, người gốc Guinea, nhắc nhớ một tuyên bố mạnh mẽ trong báo cáo tạm thời của Thượng Hội Đồng trong đó nhấn mạnh rằng Giáo Hội Công Giáo không thể chấp nhận "lý thuyết về giới tính." Trong các cuộc thảo luận tại Thượng Hội Đồng nhiều giám mục châu Phi đã phàn nàn rằng các quốc gia phương Tây đã sử dụng các chương trình viện trợ nước ngoài để áp đặt các lý thuyết về giới tính và các ý thức hệ khác chống lại gia đình ở các nước đang phát triển.
Đức Hồng Y Sarah đã hướng dẫn một nhóm thảo luận bằng tiếng Pháp tại Thượng Hội Đồng. Nhóm của ngài đã bày tỏ sự thất vọng rằng báo cáo tạm thời đã được đưa ra trước khi được thảo luận và được đánh bóng quá sai lạc.
Phát biểu với Thông tấn xã Công Giáo CNA, Đức Hồng Y Sarah cũng nêu lên mối quan tâm của ngài rằng một số phương tiện truyền thông và cả một số quan chức trong Giáo Hội đang muốn thay đổi giáo huấn của Giáo Hội. Ngài nói: "Chúng ta hãy cầu nguyện cho những mục tử đang muốn để chiên của Chúa lại cho những con sói của cái xã hội suy đồi và tục hóa, xa cách Thiên Chúa và thiên nhiên này."