Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:57 21/11/2014
NƯỚC BẨN THÀNH THIÊN NGA
Trong một quán bán nước trà đang làm ăn thịnh vượng, có một bàn khách đang ngồi uống trà tán chuyện rất phấn khởi, cùng nhau biện luận, trong đó có một người đang lớn tiếng nói tay chân múa máy thì đụng phải cô gái đang bưng trà lên, làm cho cả ly nước trà đậm đặc hắc vào bức tường trắng để lại vết bẩn màu vằn vện, chủ tiệm buộc khách ở bàn trà ấy phải bồi thường hư hại.
Khi những người ấy đang giằng co nhau, thì bàn trà bên cạnh có người khách là họa sĩ nổi tiếng đứng lên nói: “Đừng lo, xem tôi đây”.
Ông ta bèn lấy ra cây bút vẽ, dùng sơn màu phết lên vết bẩn vằn vện trên tường ấy biến thành một con thiên nga rất đẹp dang đôi cánh đang bay.
Bức tranh ấy làm cho tất cả cách khách uống trà đều tấm tắc khen ngợi, thậm chí còn hấp dẫn rất nhiều khách đến quán ấy uống trà để thưởng thức nó.
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)
Suy tư:
Con người ta thường hay có thành kiến, càng đạo đức thì càng có thành kiến với những người không đạo đức nên thường lắc đầu xua tay khi nói đến những người không đạo đức ấyấy, bởi vì họ cho rằng những người không đạo đức thì “hết thuốc chữa”, họ quên mất rằng, chính Đức Chúa Giê-su mới là vị bác sĩ chữa bệnh nơi tâm hồn và nơi thân xác chứ không phải là con người và càng không phải là họ -những người đạo đức.
Nước trà làm cho bức tường trắng thành vằn vện xấu xí khó coi, nhưng với cây cọ và tài hoa của người họa sĩ đã biến vết bẩn ấy thành con chim thiên nga đang bay tuyệt đẹp. Đức Chúa Giê-su là nhà họa sĩ vĩ đại, Ngài dùng cây bút vẽ là ân sủng của các bí tích mà tẩy xóa sửa chữa những vết nhơ tội lỗi trên con người tội lỗi, để họ trở nên những con người đang dùng đôi cánh ân sủng để bay về trời.
Ai cũng là người tội lỗi trước mặt Chúa và ai cũng đều được hưởng lòng thương xót của Chúa như nhau, cho nên, chúng ta đừng nên để thành kiến chiếm lấy tâm hồn mình, nhưng hãy cầu nguyện cho họ, để ân sủng Chúa bôi xóa tội lỗi và phác họa lại tâm hồn kính Chúa yêu người nơi những người mà chúng ta có thành kiến không tốt về họ...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
N2T |
Trong một quán bán nước trà đang làm ăn thịnh vượng, có một bàn khách đang ngồi uống trà tán chuyện rất phấn khởi, cùng nhau biện luận, trong đó có một người đang lớn tiếng nói tay chân múa máy thì đụng phải cô gái đang bưng trà lên, làm cho cả ly nước trà đậm đặc hắc vào bức tường trắng để lại vết bẩn màu vằn vện, chủ tiệm buộc khách ở bàn trà ấy phải bồi thường hư hại.
Khi những người ấy đang giằng co nhau, thì bàn trà bên cạnh có người khách là họa sĩ nổi tiếng đứng lên nói: “Đừng lo, xem tôi đây”.
Ông ta bèn lấy ra cây bút vẽ, dùng sơn màu phết lên vết bẩn vằn vện trên tường ấy biến thành một con thiên nga rất đẹp dang đôi cánh đang bay.
Bức tranh ấy làm cho tất cả cách khách uống trà đều tấm tắc khen ngợi, thậm chí còn hấp dẫn rất nhiều khách đến quán ấy uống trà để thưởng thức nó.
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)
Suy tư:
Con người ta thường hay có thành kiến, càng đạo đức thì càng có thành kiến với những người không đạo đức nên thường lắc đầu xua tay khi nói đến những người không đạo đức ấyấy, bởi vì họ cho rằng những người không đạo đức thì “hết thuốc chữa”, họ quên mất rằng, chính Đức Chúa Giê-su mới là vị bác sĩ chữa bệnh nơi tâm hồn và nơi thân xác chứ không phải là con người và càng không phải là họ -những người đạo đức.
Nước trà làm cho bức tường trắng thành vằn vện xấu xí khó coi, nhưng với cây cọ và tài hoa của người họa sĩ đã biến vết bẩn ấy thành con chim thiên nga đang bay tuyệt đẹp. Đức Chúa Giê-su là nhà họa sĩ vĩ đại, Ngài dùng cây bút vẽ là ân sủng của các bí tích mà tẩy xóa sửa chữa những vết nhơ tội lỗi trên con người tội lỗi, để họ trở nên những con người đang dùng đôi cánh ân sủng để bay về trời.
Ai cũng là người tội lỗi trước mặt Chúa và ai cũng đều được hưởng lòng thương xót của Chúa như nhau, cho nên, chúng ta đừng nên để thành kiến chiếm lấy tâm hồn mình, nhưng hãy cầu nguyện cho họ, để ân sủng Chúa bôi xóa tội lỗi và phác họa lại tâm hồn kính Chúa yêu người nơi những người mà chúng ta có thành kiến không tốt về họ...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:00 21/11/2014
N2T |
9. Nếu là một người thật tâm yêu mến Thiên Chúa, thì trong bất kỳ việc gì họ cũng không lưu luyến tìm an ủi. Vì ngoài Thiên Chúa ra thì bất cứ việc gì cũng không làm cho họ động tâm, bất luận là vinh quang hay giỏi giang của chính mình họ, họ đều không để tâm.
(Thánh Terese of Avila)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Để suy tôn vương quyền của Chúa Giêsu
Lm. Đanh Vinh
09:40 21/11/2014
HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN A
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ VUA VŨ TRỤ
Ed 34,11-12.15-17; 1 Cr 15,20-26.28; Mt 25,31-46
ĐỂ SUY TÔN VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 25,31-46.
(31) Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu. Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê, (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. (34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; (35) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom. Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.(37) Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống. (38) Có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ?” (40) Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”. (41) Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó”. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn. Ta khát, các ngươi đã không cho uống. (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu hay ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu ?” (45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”. (46) Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời”.
2. Ý CHÍNH:
Vào ngày tận thế, sau khi các thiên thần tập họp mọi người đã chết được sống lại, Vua Giê-su sẽ ngự đến lần thứ hai trong uy quyền và vinh quang. Người sẽ trở thành thẩm phán để phán xét chung mọi người (31), dựa trên cách họ đã ứng xử với Người đang hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn (40.45).
3. CHÚ THÍCH:
- C 31: + Khi Con Người đến trong vinh quang của Người: Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian 2 lần: Lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm tại nước Do thái để thiết lập Nước Trời. Người mở ra con đường lên trời là đường mến Chúa yêu người (x Mc 8,34). Người truyền cho các môn đệ loan báo Tin Mừng khắp thế gian. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh ở trần gian và là Thiên Đàng đời sau. Người cũng hứa sẽ đến lần thứ hai để làm Vua Thẩm Phán (x Mt 16,27), thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ (x Mt 25,31-32).
- C 32-33: + Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái: Bấy giờ Đức Giê-su như người Mục Tử sẽ phân chia muôn dân thành hai lọai người là “chiên và dê”. Chiên và dê là hai lòai vật giống nhau. Nhưng đặc tính của con chiên là hiền lành, còn đặc tính của con dê là hay phá phách chuồng trại. Về amawtj kinh tế, chiên có giá trị hơn dê nhờ có bộ lông dầy được thợ cắt xén từng thời kỳ. Lông chiên được dùng làm len, được đan thành áo ấm.
- C 34: + Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha ta chúc phúc…: Những người được xếp bên phải là những tín hữu sống theo “Tám Mối Phúc thật” (x. Mt 5,1-12), thực hành bác ái phục vụ Chúa hiện thân trong những người đau khổ bất hạnh (x Mt 25,35-36). Còn những người bên trái tượng trưng những kẻ vô tín, thể hiện qua thái độ làm ngơ trước những người đau khổ bất hạnh của tha nhân (x Mt 25,41-45).
4. CÂU HỎI: 1) Theo Tân Ước, Đức Giê-su đến trần gian mấy lần ? Mục đích đến mỗi lần là gì ? 2) Trong ngày tận thế khi đến lần thứ hai, Đức Giê-su sẽ phân chia lòai người thành hai lọai là những lọai nào ? Số phận những người loại “chiên” khác với những kẻ loại “dê” thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NẾU TÔI BIẾT LÀ NGÀI…
NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA (Nelson Mandela) là Tổng thông da đen đầu tiên tại một đất nước nổi tiếng về tệ nạn “phân biệt chủng tộc” là Nam Phi. Khi còn là một thanh niên, Men-đơ-la đã là lãnh tụ của đảng có tên “Quốc hội Châu Phi” (ANC) đã bị nhà cầm quyền cấm họat động. Vì đang ở trong thời kỳ đấu tranh giành quyền lực với đảng cầm quyền, nên NEN-SÂN buộc phải cải trang để hoạt động bằng cách ăn mặc và hóa trang thành nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ông tin rằng khi hóa trang như thế, người ta sẽ không nhận ra ông, để ông có thể đi nhiều nơi trong nước.
Lần kia, khi đi dự một cuộc họp kín tại một vùng quê nghèo là GIO-HAN-NÉT-BỚC (Johannesberg), do một linh mục sắp xếp để NEN-SÂN nói chuyện về cách mạng với một số thanh niên Công giáo. Khi ông đến nơi, người phụ nữ giữ cửa thấy cách ăn mặc lôi thôi đã không nhận ra và từ chối mở cửa với lý do: “Ở đây không có chỗ cho lọai người như ông”. Nói xong chị ta đóng sầm cửa lại trước mặt ông. Nhưng sau khi được biết người mới đến kia là ai, chị ta đã vội quay lại nói với ông: ”Xin lỗi ngài về sự thất kính của tôi khi nãy, vì tôi đã không nhận ra ngài. Nếu như tôi biết đó là ngài, thì tôi đã mở rộng cửa ra đón và phục vụ ngài chu đáo rồi”.
Tuy nhiên, dù ông đã cố giả dạng trở thành nhiều người khác, nhưng vẫn có người nhận ra ông. Một hôm, khi ông giả dạng làm một người tài xế ở Gio-han-nét-bớc dừng xe đón khách ở một góc phố, ông mặc áo khoác bụi bặm và đội một chiếc mũ nhàu nát, thì bỗng thấy một viên cảnh sát xuất hiện. Ông nhìn quanh để tìm cách thoát thân. Nhưng rất may khi viên cảnh sát kia lại mỉm cười và lén đưa tay lên chào theo kiểu ANC, rồi bước theo một hướng khác. Những chuyện như vậy xảy ra nhiều lần, và NEN-SÂN cũng tạm yên tâm vì biết rằng có nhiều người Châu Phi đang ủng hộ con đường đấu tranh chống tệ nạn phân biệt chủng tộc của ông. Cuối cùng sau khi bị bắt ở tù nhiều năm, MÊN-ĐƠ-LA đã được trả tự do và đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử công bằng để trở thành vị Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng đang ẩn mình dưới nhiều hạng người đau khổ bất hạnh. Vậy bạn có nhận ra Chúa và ân cần phục vụ Người cách chu đáo không ?
2) SUY TÔN VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng đế Ca-li-gu-la, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu như sau:
Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.
Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.
Ngày nay, trong Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Hội thánh tôn vinh Chúa Giê-su Con Thiên Chúa chính là Vua của toàn thể vũ trụ. Người cũng là Vua lòng của mỗi tín hữu chúng ta.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay là Chúa Nhật cuối năm Phụng vụ, Hội thánh mừng lề Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và đi theo Người, đồng thời phải chuẩn bị đón Chúa sẽ đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán xét xử kẻ sống và kẻ chết. Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ Ki-tô Vua vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan mừng Năm thánh 1925. Sở dĩ Đức Thánh Cha thiết lập lễ này vì vào thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết vô thần. Về phía Giáo Hội, qua việc mừng kính tước hiệu Vua của Chúa Giê-su, Hội thánh tuyên xưng vương quyền của Người trên mọi người, mọi gia đình, mọi xã hội và dân tộc trên thế giới.
1) ĐỨC GIÊ-SU LÀ VUA :
- Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng phấn khởi muốn tôn Đức Giê-su lên làm vua Thiên Sai. Nhưng Người đã lẩn tránh vì Người không đến để làm ông vua thế tục như dân Do thái đang mong đợi. Người chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô. Ông ta hỏi Đức Giê-su: “Ông là vua dân Do thái sao?” Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này” Ông Phi-la-tô liền hỏi: Vậy ông là vua sao ?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,33-36).
- Ngoài ra, Phi-la-tô khi tuyên án tử hình thập giá cho Đức Giê-su, ông còn truyền viết tấm bảng gắn phía trên đầu Người hàng chữ I.N.R.I. viết tắt của câu tiếng La tinh nghĩa là “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”. Qua đó ông ta công nhận Đức Giê-su là Vua, mà ngai vàng của Người là cây thập giá. Từ trên cao, Người giang hai tay ra như để ôm lấy dân Người. Người công bố quyết định miễn xá tội cho các tù nhân qua lời cầu xin với Chúa Cha: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đức Giê-su đã tha thứ cho người gian phi có lòng sám hối: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
2) VƯƠNG QUỐC CỦA VUA GIÊ-SU:
- Vương quốc của Đức Giê-su thiêng liêng:
Nghĩa là không thuộc về thế gian vì không có lãnh thổ, không có quân đội, không biên giới và tồn tại mãi mãi như trong kinh tin kính: ”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”.
- Vương quốc ấy là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đáng mai sau:
Mỗi tín hữu chúng ta có bổn phận gia nhập làm thần dân của Vương quốc Nước Trời và có bổn phận làm cho Vương quốc ấy ngày một lan rộng, như kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyên Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”.
- Bồn phận của các tín hữu:
Mỗi người phải làm thế nào để mời Chúa Giê-su đến làm chủ tâm hồn mình, bằng việc năng cầu nguyện với Chúa, tham gia sinh hoạt trong các hội đoàn Công Giáo tiên hành, để nhờ suy niệm Lời Chúa, cầu nguyện xin ơn Thánh Thần giúp thánh hóa bản thân, tích cực góp phần cải thiện môi trường xã hội mình đang sống và thực hành các công tác tông đồ bác ái, để Vương quyền của Chúa Giê-su cũng được nhiều người tin nhận.
3) ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ:
- Đức Giêsu là Vua Mục Tử:
nhưng không giống như các ông vua trần gian, mà là ông Vua Mục tử nhân lành như sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trên đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương Ta sẽ băng bó, Con nào bệnh tật Ta sẽ làm cho mạnh. Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về, con nào mạnh con nào béo mập Ta se canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16).
- Đức Giêsu là Vua Thiên Sai:
Người tuy là Thiên Chúa, nhưng đã khiên hạ vâng phục ý Chúa Cha để sẵn sàng hiến thân chịu chết trên cây thập giá hầu cứu chuộc muôn dân, đưa họ về làm con Thiên Chúa trong nước Trời hằng sống. Thánh Phao-lô đã ca tụng Đức Giê-su Vua như sau: ” Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đát, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,10-12).
- Vương quốc là Vương quốc tình thương:
Đặc điểm của công dân trong nước Trời là đón nhận mọi hạng người, đặc biệt là những người nghèo đói, bất hạnh, bệnh tật, tội lỗi... Chính Đức Kitô Vua Mục tử, cũng tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn này và mời gọi các thần dân của Người phải thể hiện đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến như sau:”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc Vương quốc của Người là những hành động yêu thương khiêm nhường phục vụ như: quan tâm để chía sẻ tinh thần vật chất, thăm viếng để an ủi và chia sẻ với những người nghèo hèn và bị bỏ rơi.
4) CHUẦN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN THẾ NÀO ? :
- Sẵn sàng đón Chúa đến cách bất ngờ:
Mối ngày luôn ý thức Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta vào giờ chết cách bất ngờ. Do đó chúng ta cần ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến như người đầy tớ canh thức chờ chủ đi ăn cưới về lúc đêm khuya. Cần chuẩn bị cây đèn đức tin chứa sẵn dầu ân sủng nhờ việc năng cầu nguyện suy niệm Lời Chúa và lãnh nhận các phép bí tích như xưng tội và rước lễ mỗi ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ có một cái nhìn đức tin để thấy Chúa Giê-su đang hiện thân nơi những người đau khổ bất hạnh, rồi tận tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giê-su.
- Sống yêu thương noi gương Mẹ Tê-rê-sa:
Khi còn sống, nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta (Therese Cancutta) rất tâm đắc với đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay về việc Chúa Giê-su sẽ đến làm Vua Thẩm Phán để ban thưởng kẻ lành và phạt kẻ gian ác. Mẹ luôn bị những người đau khổ và bất hạnh lôi cuốn sự quan tâm. Dưới mắt mẹ Tê-rê-sa, những người này không những đáng thương, mà còn là hiện thân của Đức Giê-su đang chịu đau khổ và bị bỏ rơi trên cây thập giá. Nơi mẹ, tình yêu Đức Giê-su và tình thương đối với những người bất hạnh luôn hòa quyện vào nhau. Càng yêu Chúa nhiều bao nhiêu thì mẹ lại càng yêu thương các người bệnh tật và đau khổ bấy nhiêu. Mẹ thường khuyên các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái như sau: “Chị em cần tập nhìn thấy Đức Giê-su trong mỗi con người bất hạnh mà chị em đang phục vụ, dù họ có đáng kinh tởm đến đâu đi nữa”.
4. THẢO LUẬN: Một giáo sư đại học ở Chi-ca-gô Hoa Kỳ đã đặt cho các sinh viên câu hỏi sau đây: “Bạn hãy cho biết: Gần đây nhất, bạn đã giúp đỡ cụ thể cho một người nào đang cần trợ giúp không ?” Đây là một câu hỏi quan trọng mà mỗi buổi tối chúng ta cần phải tự hỏi mình, rồi ăn năn sám hối và quyết tâm sống tình bác ái yêu thương là điều kiện để sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trong Nước Chúa.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Vua vũ trụ. Nếu Chúa thật sự là Vua của hơn một tỉ người Công giáo, thì thế giới chúng con đang sống đã biến thành thiên đàng từ lâu rồi. Chúng con chưa làm dậy men cho khối bột xã hội không phải vì số lượng men còn ít, cho bằng vì men Tin Yêu nơi chúng con đã bị quá “đát”, bị chai lì và mất phẩm chất rồi. Chúng con phải gánh chịu trách nhiệm về tình trạng sự dữ đang tràn lan khắp nơi, mà trong đó một phần là do lỗi của chúng con. Chúng con chỉ biết khoanh tay kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không tích cực làm cho Nước ấy sớm hình thành và phát triển từ nơi bản thân ra đến môi trường sống chung quanh.
- LẠY CHÚA. Nhiều lần con đã tự biện hộ về những thiếu sót bổn phận khi nói rằng: “Lực bất tòng tâm: Làm sao tôi có thể vào trong tù để thăm nuôi tù nhân ? Làm sao tôi dám chứa chấp những khách lỡ đường không giấy tờ tùy thân vào ở trọ trong nhà ? Tôi lấy đâu ra tiền để có thể chăm sóc những bệnh nhân bị AIDS hay phong cùi ? …” Lạy Chúa, nếu con cứ lý luận như thế thì chắc con sẽ không làm gì hết. Nhưng có biết bao công việc đang trong tầm tay của chúng con như: giúp đỡ tiền bạc cho một người cơ nhỡ, làm biển báo nguy bị sụt cống trên đường, giới thiệu Chúa cho một người lương đang tìm kiếm Chúa… Và còn biết bao những việc khác tương tự... Xin cho con biết luôn quan tâm tới người bên cạnh, và sẵn sàng chia sẻ tình thương với họ, hầu xứng đáng trở nên môn đệ thực sự của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ VUA VŨ TRỤ
Ed 34,11-12.15-17; 1 Cr 15,20-26.28; Mt 25,31-46
ĐỂ SUY TÔN VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 25,31-46.
(31) Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu. Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê, (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. (34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; (35) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom. Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.(37) Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống. (38) Có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ?” (40) Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”. (41) Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó”. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn. Ta khát, các ngươi đã không cho uống. (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu hay ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu ?” (45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”. (46) Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời”.
2. Ý CHÍNH:
Vào ngày tận thế, sau khi các thiên thần tập họp mọi người đã chết được sống lại, Vua Giê-su sẽ ngự đến lần thứ hai trong uy quyền và vinh quang. Người sẽ trở thành thẩm phán để phán xét chung mọi người (31), dựa trên cách họ đã ứng xử với Người đang hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn (40.45).
3. CHÚ THÍCH:
- C 31: + Khi Con Người đến trong vinh quang của Người: Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian 2 lần: Lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm tại nước Do thái để thiết lập Nước Trời. Người mở ra con đường lên trời là đường mến Chúa yêu người (x Mc 8,34). Người truyền cho các môn đệ loan báo Tin Mừng khắp thế gian. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh ở trần gian và là Thiên Đàng đời sau. Người cũng hứa sẽ đến lần thứ hai để làm Vua Thẩm Phán (x Mt 16,27), thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ (x Mt 25,31-32).
- C 32-33: + Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái: Bấy giờ Đức Giê-su như người Mục Tử sẽ phân chia muôn dân thành hai lọai người là “chiên và dê”. Chiên và dê là hai lòai vật giống nhau. Nhưng đặc tính của con chiên là hiền lành, còn đặc tính của con dê là hay phá phách chuồng trại. Về amawtj kinh tế, chiên có giá trị hơn dê nhờ có bộ lông dầy được thợ cắt xén từng thời kỳ. Lông chiên được dùng làm len, được đan thành áo ấm.
- C 34: + Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha ta chúc phúc…: Những người được xếp bên phải là những tín hữu sống theo “Tám Mối Phúc thật” (x. Mt 5,1-12), thực hành bác ái phục vụ Chúa hiện thân trong những người đau khổ bất hạnh (x Mt 25,35-36). Còn những người bên trái tượng trưng những kẻ vô tín, thể hiện qua thái độ làm ngơ trước những người đau khổ bất hạnh của tha nhân (x Mt 25,41-45).
4. CÂU HỎI: 1) Theo Tân Ước, Đức Giê-su đến trần gian mấy lần ? Mục đích đến mỗi lần là gì ? 2) Trong ngày tận thế khi đến lần thứ hai, Đức Giê-su sẽ phân chia lòai người thành hai lọai là những lọai nào ? Số phận những người loại “chiên” khác với những kẻ loại “dê” thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NẾU TÔI BIẾT LÀ NGÀI…
NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA (Nelson Mandela) là Tổng thông da đen đầu tiên tại một đất nước nổi tiếng về tệ nạn “phân biệt chủng tộc” là Nam Phi. Khi còn là một thanh niên, Men-đơ-la đã là lãnh tụ của đảng có tên “Quốc hội Châu Phi” (ANC) đã bị nhà cầm quyền cấm họat động. Vì đang ở trong thời kỳ đấu tranh giành quyền lực với đảng cầm quyền, nên NEN-SÂN buộc phải cải trang để hoạt động bằng cách ăn mặc và hóa trang thành nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ông tin rằng khi hóa trang như thế, người ta sẽ không nhận ra ông, để ông có thể đi nhiều nơi trong nước.
Lần kia, khi đi dự một cuộc họp kín tại một vùng quê nghèo là GIO-HAN-NÉT-BỚC (Johannesberg), do một linh mục sắp xếp để NEN-SÂN nói chuyện về cách mạng với một số thanh niên Công giáo. Khi ông đến nơi, người phụ nữ giữ cửa thấy cách ăn mặc lôi thôi đã không nhận ra và từ chối mở cửa với lý do: “Ở đây không có chỗ cho lọai người như ông”. Nói xong chị ta đóng sầm cửa lại trước mặt ông. Nhưng sau khi được biết người mới đến kia là ai, chị ta đã vội quay lại nói với ông: ”Xin lỗi ngài về sự thất kính của tôi khi nãy, vì tôi đã không nhận ra ngài. Nếu như tôi biết đó là ngài, thì tôi đã mở rộng cửa ra đón và phục vụ ngài chu đáo rồi”.
Tuy nhiên, dù ông đã cố giả dạng trở thành nhiều người khác, nhưng vẫn có người nhận ra ông. Một hôm, khi ông giả dạng làm một người tài xế ở Gio-han-nét-bớc dừng xe đón khách ở một góc phố, ông mặc áo khoác bụi bặm và đội một chiếc mũ nhàu nát, thì bỗng thấy một viên cảnh sát xuất hiện. Ông nhìn quanh để tìm cách thoát thân. Nhưng rất may khi viên cảnh sát kia lại mỉm cười và lén đưa tay lên chào theo kiểu ANC, rồi bước theo một hướng khác. Những chuyện như vậy xảy ra nhiều lần, và NEN-SÂN cũng tạm yên tâm vì biết rằng có nhiều người Châu Phi đang ủng hộ con đường đấu tranh chống tệ nạn phân biệt chủng tộc của ông. Cuối cùng sau khi bị bắt ở tù nhiều năm, MÊN-ĐƠ-LA đã được trả tự do và đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử công bằng để trở thành vị Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng đang ẩn mình dưới nhiều hạng người đau khổ bất hạnh. Vậy bạn có nhận ra Chúa và ân cần phục vụ Người cách chu đáo không ?
2) SUY TÔN VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng đế Ca-li-gu-la, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu như sau:
Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.
Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.
Ngày nay, trong Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Hội thánh tôn vinh Chúa Giê-su Con Thiên Chúa chính là Vua của toàn thể vũ trụ. Người cũng là Vua lòng của mỗi tín hữu chúng ta.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay là Chúa Nhật cuối năm Phụng vụ, Hội thánh mừng lề Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và đi theo Người, đồng thời phải chuẩn bị đón Chúa sẽ đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán xét xử kẻ sống và kẻ chết. Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ Ki-tô Vua vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan mừng Năm thánh 1925. Sở dĩ Đức Thánh Cha thiết lập lễ này vì vào thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết vô thần. Về phía Giáo Hội, qua việc mừng kính tước hiệu Vua của Chúa Giê-su, Hội thánh tuyên xưng vương quyền của Người trên mọi người, mọi gia đình, mọi xã hội và dân tộc trên thế giới.
1) ĐỨC GIÊ-SU LÀ VUA :
- Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng phấn khởi muốn tôn Đức Giê-su lên làm vua Thiên Sai. Nhưng Người đã lẩn tránh vì Người không đến để làm ông vua thế tục như dân Do thái đang mong đợi. Người chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô. Ông ta hỏi Đức Giê-su: “Ông là vua dân Do thái sao?” Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này” Ông Phi-la-tô liền hỏi: Vậy ông là vua sao ?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,33-36).
- Ngoài ra, Phi-la-tô khi tuyên án tử hình thập giá cho Đức Giê-su, ông còn truyền viết tấm bảng gắn phía trên đầu Người hàng chữ I.N.R.I. viết tắt của câu tiếng La tinh nghĩa là “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”. Qua đó ông ta công nhận Đức Giê-su là Vua, mà ngai vàng của Người là cây thập giá. Từ trên cao, Người giang hai tay ra như để ôm lấy dân Người. Người công bố quyết định miễn xá tội cho các tù nhân qua lời cầu xin với Chúa Cha: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đức Giê-su đã tha thứ cho người gian phi có lòng sám hối: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
2) VƯƠNG QUỐC CỦA VUA GIÊ-SU:
- Vương quốc của Đức Giê-su thiêng liêng:
Nghĩa là không thuộc về thế gian vì không có lãnh thổ, không có quân đội, không biên giới và tồn tại mãi mãi như trong kinh tin kính: ”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”.
- Vương quốc ấy là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đáng mai sau:
Mỗi tín hữu chúng ta có bổn phận gia nhập làm thần dân của Vương quốc Nước Trời và có bổn phận làm cho Vương quốc ấy ngày một lan rộng, như kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyên Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”.
- Bồn phận của các tín hữu:
Mỗi người phải làm thế nào để mời Chúa Giê-su đến làm chủ tâm hồn mình, bằng việc năng cầu nguyện với Chúa, tham gia sinh hoạt trong các hội đoàn Công Giáo tiên hành, để nhờ suy niệm Lời Chúa, cầu nguyện xin ơn Thánh Thần giúp thánh hóa bản thân, tích cực góp phần cải thiện môi trường xã hội mình đang sống và thực hành các công tác tông đồ bác ái, để Vương quyền của Chúa Giê-su cũng được nhiều người tin nhận.
3) ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ:
- Đức Giêsu là Vua Mục Tử:
nhưng không giống như các ông vua trần gian, mà là ông Vua Mục tử nhân lành như sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trên đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương Ta sẽ băng bó, Con nào bệnh tật Ta sẽ làm cho mạnh. Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về, con nào mạnh con nào béo mập Ta se canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16).
- Đức Giêsu là Vua Thiên Sai:
Người tuy là Thiên Chúa, nhưng đã khiên hạ vâng phục ý Chúa Cha để sẵn sàng hiến thân chịu chết trên cây thập giá hầu cứu chuộc muôn dân, đưa họ về làm con Thiên Chúa trong nước Trời hằng sống. Thánh Phao-lô đã ca tụng Đức Giê-su Vua như sau: ” Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đát, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,10-12).
- Vương quốc là Vương quốc tình thương:
Đặc điểm của công dân trong nước Trời là đón nhận mọi hạng người, đặc biệt là những người nghèo đói, bất hạnh, bệnh tật, tội lỗi... Chính Đức Kitô Vua Mục tử, cũng tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn này và mời gọi các thần dân của Người phải thể hiện đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến như sau:”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc Vương quốc của Người là những hành động yêu thương khiêm nhường phục vụ như: quan tâm để chía sẻ tinh thần vật chất, thăm viếng để an ủi và chia sẻ với những người nghèo hèn và bị bỏ rơi.
4) CHUẦN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN THẾ NÀO ? :
- Sẵn sàng đón Chúa đến cách bất ngờ:
Mối ngày luôn ý thức Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta vào giờ chết cách bất ngờ. Do đó chúng ta cần ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến như người đầy tớ canh thức chờ chủ đi ăn cưới về lúc đêm khuya. Cần chuẩn bị cây đèn đức tin chứa sẵn dầu ân sủng nhờ việc năng cầu nguyện suy niệm Lời Chúa và lãnh nhận các phép bí tích như xưng tội và rước lễ mỗi ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ có một cái nhìn đức tin để thấy Chúa Giê-su đang hiện thân nơi những người đau khổ bất hạnh, rồi tận tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giê-su.
- Sống yêu thương noi gương Mẹ Tê-rê-sa:
Khi còn sống, nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta (Therese Cancutta) rất tâm đắc với đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay về việc Chúa Giê-su sẽ đến làm Vua Thẩm Phán để ban thưởng kẻ lành và phạt kẻ gian ác. Mẹ luôn bị những người đau khổ và bất hạnh lôi cuốn sự quan tâm. Dưới mắt mẹ Tê-rê-sa, những người này không những đáng thương, mà còn là hiện thân của Đức Giê-su đang chịu đau khổ và bị bỏ rơi trên cây thập giá. Nơi mẹ, tình yêu Đức Giê-su và tình thương đối với những người bất hạnh luôn hòa quyện vào nhau. Càng yêu Chúa nhiều bao nhiêu thì mẹ lại càng yêu thương các người bệnh tật và đau khổ bấy nhiêu. Mẹ thường khuyên các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái như sau: “Chị em cần tập nhìn thấy Đức Giê-su trong mỗi con người bất hạnh mà chị em đang phục vụ, dù họ có đáng kinh tởm đến đâu đi nữa”.
4. THẢO LUẬN: Một giáo sư đại học ở Chi-ca-gô Hoa Kỳ đã đặt cho các sinh viên câu hỏi sau đây: “Bạn hãy cho biết: Gần đây nhất, bạn đã giúp đỡ cụ thể cho một người nào đang cần trợ giúp không ?” Đây là một câu hỏi quan trọng mà mỗi buổi tối chúng ta cần phải tự hỏi mình, rồi ăn năn sám hối và quyết tâm sống tình bác ái yêu thương là điều kiện để sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trong Nước Chúa.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Vua vũ trụ. Nếu Chúa thật sự là Vua của hơn một tỉ người Công giáo, thì thế giới chúng con đang sống đã biến thành thiên đàng từ lâu rồi. Chúng con chưa làm dậy men cho khối bột xã hội không phải vì số lượng men còn ít, cho bằng vì men Tin Yêu nơi chúng con đã bị quá “đát”, bị chai lì và mất phẩm chất rồi. Chúng con phải gánh chịu trách nhiệm về tình trạng sự dữ đang tràn lan khắp nơi, mà trong đó một phần là do lỗi của chúng con. Chúng con chỉ biết khoanh tay kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không tích cực làm cho Nước ấy sớm hình thành và phát triển từ nơi bản thân ra đến môi trường sống chung quanh.
- LẠY CHÚA. Nhiều lần con đã tự biện hộ về những thiếu sót bổn phận khi nói rằng: “Lực bất tòng tâm: Làm sao tôi có thể vào trong tù để thăm nuôi tù nhân ? Làm sao tôi dám chứa chấp những khách lỡ đường không giấy tờ tùy thân vào ở trọ trong nhà ? Tôi lấy đâu ra tiền để có thể chăm sóc những bệnh nhân bị AIDS hay phong cùi ? …” Lạy Chúa, nếu con cứ lý luận như thế thì chắc con sẽ không làm gì hết. Nhưng có biết bao công việc đang trong tầm tay của chúng con như: giúp đỡ tiền bạc cho một người cơ nhỡ, làm biển báo nguy bị sụt cống trên đường, giới thiệu Chúa cho một người lương đang tìm kiếm Chúa… Và còn biết bao những việc khác tương tự... Xin cho con biết luôn quan tâm tới người bên cạnh, và sẵn sàng chia sẻ tình thương với họ, hầu xứng đáng trở nên môn đệ thực sự của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
Linh mục nên thánh qua con đường Phụng Vụ và Mục Vụ
LM. Giuse Trương Đình Hiền
14:33 21/11/2014
THEO CHÂN ĐỨC KITÔ THỜ PHƯỢNG CHA VA XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA
Linh mục nên thánh qua con đường Phụng Vụ và Mục Vụ
(Bài chia sẻ nhân ngày hội ngộ Xuân Bích 21/11/2014)
Dẫn nhập :
Trọng kính….
Kính thưa…..
Như một “hòn than nhỏ” mang về trong ngày giỗ tổ Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế, Ngày lễ Mẹ Dâng Mình, để góp cho bếp lửa của tình huynh đệ linh mục-chủng sinh ấm thêm một chút, hồng thêm một chút, con xin được chia sẻ đôi điều như một cảm nghiệm riêng tư trong hành trình sống chức linh mục.
Và trong chút cảm nghiệm riêng tư hoàn toàn hạn chế và chủ quan nầy, con xin được bộc bạch cùng quý cha, quý thầy cái đề tài “xưa như quả đất” đó là : anh em linh mục, chủng sinh chúng ta cùng chiêm ngưỡng Chúa Giêsu qua hai tác động : THỜ PHƯỢNG CHA VA XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA ; để từ suy nghĩ đó, rút ra hai kết luận thực hành : NÊN THÁNH QUA CON ĐƯỜNG PHỤNG VỤ VÀ MỤC VỤ.
I. NHỮNG LÝ DO
1. Kinh nghiệm tu đức :
Trong tác phẩm tu đức "Nên thánh trong thời đại mới", Kilian Mc Gowan, C.P. đã nói một cách mạnh mẽ rằng : "Lãng phí lớn nhất của trí tuệ con người là sống mà không nhận biết Chúa Kitô. Thất bại thê thảm nhất của trái tim con người, nếu có, là chưa bao giờ thật sự yêu mến Chúa Kitô. Vở kịch bi thương nhất trong bất cứ cuộc đời nào là không đặt Chúa Kitô làm trung tâm của đời sống chúng ta"
(Nên thánh Thời đại mới, trang 72).
2. Định hướng của Hội Thánh :
- Sắc lệnh “Đào tạo linh mục” : “Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn hữu. Họ phải sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho đoàn chiên sẽ được giao phó. Phải dạy họ biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ” (Số 8).
- Sắc lệnh ‘Chức vụ và đời sống linh mục” : “Nhưng các Linh Mục có thể kiến tạo sự thống nhất đời sống khi các ngài theo gương Chúa Kitô trong việc chu toàn chức vụ: lương thực của Người là làm theo ý muốn của Ðấng đã sai Người, để Người hoàn thành công việc của mình.
Thực ra, Chúa Kitô hành động qua các thừa tác viên của Người để luôn luôn dùng Giáo Hội thi hành ý muốn của Chúa Cha trên trần gian, và vì vậy Người vẫn là nguyên lý và nguồn mạch sự thống nhất đời sống của các ngài. Vậy, các linh mục phải thực hiện việc thống nhất đời sống của mình bằng cách kết hợp với Chúa Kitô trong sự nhận biết ý Chúa Cha và trong sự hiến thân cho đoàn chiên đã trao phó cho các ngài “ (Số 14).
- Tông huấn “Pastores dabo vobis” : “Như vậy, các linh mục được mời gọi nối dài sự hiện diện của Đức Ki-tô, vị Mục tử duy nhất và tối cao, bằng cách noi theo lối sống của Ngài và bằng cách làm sao cho mình như thể được Ngài xuyên thấu ngay giữa đàn chiên được giao phó cho mình. (số 15)
- Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” : “Một người truyền giáo đích thực, người không bao giờ thôi là một môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo của chúng ta, lòng phấn khởi của chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không còn chắc chắn mình đang thông truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam mê.” (Só 266)
II. CHIÊM NGƯỠNG ĐỨC KITÔ THỜ PHƯỢNG Thiên Chúa :
"Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc nầy đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4, 23).
1. Đức Ki-tô, Đấng thờ phượng và tôn vinh Cha.
Trước hết, chúng ta biết rằng : sứ mệnh căn bản của Đức Ki-tô khi đến trần gian đó chính là thờ phượng và tôn vinh Cha : "Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con" (Ga 17, 4). Đồng thời, Ngài thiết lập một "trật tự thờ phượng mới trên căn bản "trong Thần Khí và sự thật" :
"Nầy Chị hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi, thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc nầy đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế"(Ga 4, 21-23).
* Đức Ki-tô thờ phượng Chúa cha trong "thần khí và sự thật" có nghĩa là Ngài thờ phượng Chúa Cha qua chính bản thân Ngài, bằng "đền thờ thân xác Ngài", với của lễ là chính "cuộc đời Ngài" :
"Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói : Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, , nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như sách thánh đã chép về con. (Dt 10, 5-7).
* Và trong tư cách là một "Tư tế của Giao ước mới", Đức Ki-tô đã đem toàn nhân loại vào trong hiến tế của Ngài để dâng lên Thiên Chúa sự "phượng thờ đích thực".
Nhưng Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy. Người đã vào cung thánh không phải với máu con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần mà thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. (Dt 9, 11-14).
Hiến chế Phụng vụ thánh đã chú giải và tóm tắt mầu nhiệm nầy như sau :
"Cho nên, nhờ Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài cách hoàn bị" (Hiến chế PV số 5).
* Mọi nẻo đường trần thế mà Đức Ki-tô đã đi qua trong thân phận con người, từ khi sinh ra cho đến khi "hoàn tất mọi sự" trên thánh giá, là một "cử hành phụng vụ" duy nhất để thờ phượng và tôn vinh Cha. Vì thế Chúa Cha đã chấp nhận và vui lòng vì việc tôn vinh nầy : "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con" (Mc. 1, 11).
Chiêm ngưởng một Đức Ki-tô thờ phượng Cha như thế chắc chắn sẽ là một động lực, một gọi mời để chúng ta lên đường biến cuộc sống mình thành một "cử hành phụng vụ" liên tục, biến cuộc đời mình thành "Ngôi Thánh Đường" mà chất liệu xây lên là tất cả những chắt chiu, những hy sinh, những lao nhọc, những lời kinh, những tiếng hát và cả những khổ đau, yếu đuối…
Để minh hoạ cho ý tưởng nầy, có lẽ chúng ta cùng đọc với nhau vài đoạn trong bài thơ cầu nguyện của Charles Singer. Bài thơ có tên :"Ngôi thánh đường đời con " (La Cathédrale de ma vie) :
Lạy Chúa, Cuộc đời con là một ngôi Thánh Đường,
Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao quí tôn nghiêm.
Con cố gắng, con miệt mài tìm kiếm,
Từ khắp nơi, tận góc biẻn chân trời,
Trên quê hương những loại đá tuyệt vời,
Con làm việc không một lời than vãn :
Xẻ, đục, cưa và chạm trỗ say mê,
Tay xây sát, con không hề bỏ cuộc,
Búa đẽo hư, con một mực kiên trì.
Con mải mê làm cho đến khi ẩn hiện,
Những phù điêu cảnh thánh điện, thiên thần,
đang tấu nhạc thật hoà vang tôn kính,
Nét vui tươi và thanh tĩnh nụ cuời
Lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng,
Cùng với nhiều biến dạng của thời gian….
Thế nhưng, con mãi mãi vững tin vào sức mạnh,
Chẳng phải từ nơi con để vượt thắng giòng đời,
Mà tâm nguyện : chỉ nơi Ngài, lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường con sẽ tựa trung kiên,
Để trụ vững giữa đảo điên nhân thế,
Để hiên ngang đứng giữa bể dâu đời.
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá lời đâu :
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.
(Trích trong "Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ", trg 11-12).
Cũng trong tư tưởng đó, Giáo Phụ Origène đã để lại cho chúng ta những lời khuyên đầy xác tín như sau :
"Cần tìm đền thánh không phải tại một nơi, nhưng trong các cử chỉ, trong cuộc sống và trong các thói quen. Nếu những cử chỉ nầy đẹp ý Thiên Chúa, nếu chúng phù hợp với các giới răn Thiên Chúa, thì cho dù bạn ở nhà hay ở ngoài quảng trường cũng không quan trọng : tôi nói gì, "ở ngoài quảng trường" hả ? Cả khi bạn đang ở trong rạp hát đi nữa cũng không quan trọng : nếu bạn đang phục vụ Lời của Thiên Chúa, là bạn đang ở trong đền thờ rồi, đừng nghi ngờ gì cả" (Bài giảng về sách Levi 12, 4 Nguồn gốc Kitô 187, tr. 182. Chứng nhân hy vọng tr. 96).
Sống theo Đức Ki-tô để "Thờ Cha trong thần khí và sự thật" cũng có nghĩa là sống trọn vẹn "Giây phút hiện tại" trong tình yêu, là tìm thấy và thực hiện thánh ý Chúa mọi giây phút…
Chúng ta hãy nghe Đức Hồng Y F.X Nguyễn văn Thuận cầu nguyện với Chúa trong thời gian ngồi tù :
"Lạy Chúa Giê-su, con sẽ không chờ đợi nữa.
Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu.
Chấm nầy nối tiếp chấm kia,
ngàn vạn chấm thành một đường dài.
Phút nầy nối tiếp phút kia,
muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng (ĐHV số 977).
Và Thánh Phaolô Thánh Giá lại xác quyết :
"May nắn thay linh hồn nào an nghỉ trong lòng Thiên Chúa mà không nghĩ tới tương lai, nhưng chỉ sống từng phút hiện tại trong Thiên Chúa, không lo lắng gì khác ngoài việc thực hiện tốt ý muốn của Người trong mọi biến cố".
(Chứng nhân hy vọng tr. 94).
2. Đức Ki-tô thờ phượng Cha qua Phụng Vụ.
Tiếp bước theo Đức Ki-tô trong chiều kích "thờ phượng" còn có nghĩa là qui hướng cuộc sống, đặt cuộc sống mỗi ngày trên nền tảng Phụng Vụ. Bởi vì, Đức Ki-tô không mất hút trong quá khứ, nhưng đang "thực diện" một cách đặc biệt trong các hoạt động Phụng Vụ của Hội Thánh :
Để chu toàn việc lớn lao ấy, Chúa Ki-tô hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong các cử hành Phụng Vụ" (PV số 7).
Cũng cần lưu ý rằng : đã có một thời người ta không quan tâm tới đời sống Phụng vụ cho đủ, trong khi lại quá chú trọng tới việc thực hành các việc đạo đức cá nhân cũng như tập thể. Chúng ta có thể tuyên bố mà không sợ sai điều nầy là : Nếu không đặt trọng tâm trên Phụng Vụ, thì việc thể hiện niềm tin của người Ki-tô hữu cũng chẳng khác bao nhiêu với các thực hành tín ngưởng của các tôn giáo khác; mà nói đến việc đạo đức cá nhân, e rằng người Ki-tô hữu chúng ta không sánh được với tín hữu Đạo Hồi, Đạo Phật.
Như vậy, để thực sự sống trong thái độ "thờ Cha trong thần khí và sự thật", điều trước tiên cần phải ghi nhận : Dành "ưu tiên một" cho việc cử hành Phụng Vụ. Chúng ta hãy nghe Giáo Hội dạy :
"Do đó, vì là công việc của Chúa Ki-tô tư tế và Thân Thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp" (PV số 7).
"Phụng vụ là tột đỉnh mà mọi hoạt động khác của Giáo Hội qui hướng về, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội" (PV số 10).
Và như thế, chúng ta có thể rút ra nhứng kết luận thiêng liêng để áp dụng vào đời sống mỗi ngày :
* Biến cuộc sống thành một "cử hành sống động" hy lễ tình yêu, cử hành thờ phượng và tôn vinh Cha.
* Tập chú và dành ưu tiên một cho việc cử hành Phụng Vụ bằng ý thức, tâm tình, thái độ, sự chuẩn bị, tính cộng đoàn… Chúng ta đừng quên điều nầy : một cộng đoàn có cử hành Phụng Vụ tốt, sinh động, là một cộng đoàn mạnh và trưởng thành về mặt thiêng liêng và các sinh hoạt mục vụ khác.
* Biến tâm tình yêu mến và trân trọng Phụng Vụ thành một hướng đi mục vụ : quan tâm, lo lắng, giúp đỡ việc cử hành Phụng Vụ nơi các cộng đoàn giáo dân nghèo, xa xôi hẻo lánh, thiếu phương tiện…
Sau hết, chúng ta hãy nhớ lời của Đức Ki-tô mà chúng ta nghe vọng lại mỗi lần cử hành Thánh Lễ :"Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy". Quả thật, có nhiều việc để nhớ Chúa Ki-tô. Nhưng việc chính yếu vẫn là Lễ Tạ ơn, là những cử hành Phụng Vụ. Và có lẽ lý tưởng nhất đó là : cuộc đời là một Thánh Lễ nối dài. Sống được như thế có nghĩa là đã thuộc về những người được Thiên Chúa muốn "Cha chỉ muốn có những người thờ phượng Ngài như thế" (Ga 4, 23).
III : CHIÊM NGƯỠNG ĐỨC KITÔ XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA
Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói :"Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1 14-15)
1. Đức Ki-tô đến thực hiện lời tiên báo của cựu ước.
- Đức Ki-tô hiên thực hoá lời tiên báo của các sứ ngôn :
Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra gặp đoạn chép rằng :
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…
Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ :"Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe".(Lc 4, 17-21)
-Đức Ki-tô là trung tâm của Nước Thiên Chúa :
"Đức Ki-tô là trung tâm của đoàn người được qui tụ trong gia đình Thiên Chúa. Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu chỉ chứng tỏ Nước Thiên Chúa đang hiện diện, bằng việc sai phái các môn đệ. Người sẽ làm cho Vương Quốc Người hiển trị bằng mầu nhiệm Vượt Qua của Người : Cái chết trên Thập Giá và Phục Sinh. "Phần tôi, một khi được đưa cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi" (Ga 12, 32). Mọi người đều được gọi kết hợp với Đức Ki-tô" (x. GH 3; GLGHCG số 542).
-Đức Ki-tô loan báo và thực hiện Nước Thiên Chúa :
- Để con người nhận biết chân lý, nhận biết quyền năng cứu độ, Đức Ki-tô đã rao giảng. Toàn bộ sứ điệp của Ngài là kêu gọi con người đón nhận và gia nhập Vương quốc Thiên Chúa.
- Để người ta hoà hợp, yêu thương, công chính : Ngài qui tụ nhóm "Mười Hai" xung quanh Ngài làm "hạt nhân" để bắt đầu hình thành một "Dân tộc mới", một "đoàn Dân Mới" công bình, thánh thiện, yêu thương.
- Để người ta sống hoà hợp, an bình, hạnh phúc…Ngài ra tay làm phép lạ như "dấu chỉ Nước Thiên Chúa hiện diện" :
"Nếu tôi nhờ Thánh Thần Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12, 28).
- Và để người ta được cứu độ, được thông phần sự sống vĩnh cửu, Ngài đã chấp nhận làm người phục vụ, hy sinh và tự hiến :
"Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc. 10, 45).
"Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32; 12, 24).
2. Linh mục noi gương Chúa Kitô : Dấn thân xây dựng Nước Thiên Chúa.
v Bằng cách sống Đức Ái mục vụ :
“Đời sống thiêng liêng của các thừa tác viên Tân ước phải được đóng ấn bằng thái độ tiên khởi ấy, thái độ phục vụ đối với Dân Thiên Chúa” (TH.Pastores dabo vobis số 21).“Nguyên lý nội tại, nhân đức thôi thúc và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục, xét như đã nên đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô Đầu và Mục tử, chính là Đức Ái Mục Vụ” (23)
-Bằng cuộc sống và hoán cải theo Tin Mừng :
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (EG 3)
-Bằng đời cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa :
“Thiên Chúa ưa thích biểu lộ những sự việc cao cả của Ngài qua những con người niềm nở và ngoan ngùy đối với sự thúc đẩy và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, qua những con người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và sống đời sống thánh thiện nhờ đó có thể nói như Thánh Tông Đồ : “Nếu tôi sống, thì không còn phải là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi”. (Pastores dabo vobis số 25)
-Bằng việc ra công kiến tạo sự công chính, yêu thương, hiệp nhất khởi sụ từ cuộc sống cộng đoàn.
“Tính thế tục thiêng liêng khiến người Kitô hữu gây chiến với những người Kitô hữu khác cản trở con đường tìm kiếm quyền lực, uy tín, thú vui và an toàn kinh tế. Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một “phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.”. (EG 98)
-Bằng nỗ lực xây dựng cuộc sống chính mình và cộng đoàn đầy tràn niềm vui Tin Mừng :
“NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh. Trong Tông Huấn này, tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới.” (EG 1)
-Bằng ước nguyện và dấn thân tích cực cho công cuộc truyền giáo :
“Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.” (EG 27)
Để tóm tắt nội dung của đề tài chia sẻ "Chiêm ngưỡng Đức Ki-tô xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa", chúng ta có thể đọc lại những lời sau đây của Hiến chế Giáo Hội để cảm nhận sâu sắc hơn về trách nhiệm của linh mục trong việc hiệp thông cùng Giáo Hội nỗ lực làm cho Nước Chúa hiển trị :
"Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa", Giáo Hội rao truyền cái chết thập giá Chúa, cho đến khi Người lại đến (x. 1 Cr 11, 26). Giáo Hội vững mạnh nhờ thần lực của Chúa phục sinh, để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên ngoài bằng yêu thương và kiên trì, và trung thành mạc khải cho thế gian mầu nhiệm của Chúa còn giấu trong bóng tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng vẹn toàn trong ngày sau hết". (LG 8)
3. Vài Lưu ý và áp dụng cụ thể :
- Đừng bao giời tự cho mình là “đấng ban phát sự thánh thiện”, là “thầy dạy đàng nên thánh” để xem thường và không tìm học hỏi được gì nơi cộng đoàn. Vì Đức Kitô mà còn “nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi”, và “Ở giữa các ngươi, ta là một kẻ hầu bàn”.
- Cộng đoàn có nhiều hoa trái thánh thiện (Trẻ em, các người già lão, những thanh niên nam nữ…)
- Trong đời sống giáo dân có nhiều nhân đức mà linh mục không có hay ít có : nhân đức nghèo, khổ, vất vả nhọc mệt, túng thiếu, đầu tắt mặt tối, bệnh hoạn tật nguyền, mất con, mất vợ…)
Như vậy, chính khi gắn kết với cộng đoàn, yêu thương và kính trọng, thăng tiến và xây dựng cộng đoàn, linh mục sẽ kiện toàn chính bản thân và trung thành với căn tính của chính mình.
Kết : Cho dù đi con đường nào, lựa chọn phương pháp nào, áp dụng linh đạo nào, tiêu đích cuối cùng, vẫn là như Thánh Phaolô “Tôi sống, không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Là một linh mục, đặc biệt là những linh mục coi xứ, quả thật, rất có nhiều điều kiện để thực hành việc nên thánh. Bởi chưng, khi được gắn kết với một cộng đoàn mục vụ, các linh mục coi xứ hoàn toàn thể hiện cái căn tính và sự sống thường xuyên của Giáo Hội, Hiền Thê Chúa Kitô qua Phụng vụ, qua sự hiệp thông cộng đoàn và qua chính môi trường cuộc sống đời thường với tất cả mọi nhân tố làm nên một Hội Thánh thu nhỏ. Ước mong sao mọi anh em linh mục chúng ta đều ý thức và biết vận dụng hiệu quả mọi yếu tố tích cực và thuận lợi nầy để trở thành những “mục tử như lòng Chúa mong ước”.
PHẦN PHỤ LỤC
GỢI Ý XÉT MÌNH THEO TÔNG HUẤN “NIỀM VUI TIN MỪNG”
_______
1. TÔI CÓ CÒN GIỮ ĐƯỢC NIỀM VUI CỦA ĐỜI LINH MỤC ?
“NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh.” (SỐ 1)
“Vốn được kêu gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị giữ chặt trong những cái chỉ sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm tan đi mọi nhiệt tình tông đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!” (Số 83)
2. CUỘC SỐNG LINH MỤC CỦA TÔI ĐÃ BỊ TỤC HÓA ?
“Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Khi mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong những lợi ích và những mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được nghe thấy, niềm vui an bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và ước muốn làm điều thiện bị phai mờ.” (Số 2)
3. TÔI ĐÃ ĐÁNH MẤT MỐI TƯƠNG QUAN THÂN MẬT VỚI CHÚA GIÊSU ?
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (Số 3)
4. TÔI CÓ GIỮ ĐƯỢC NIỀM VUI PHỤC SINH KHI PHẢI ĐỐI DIỆN VỚI GIAN NAN THỬ THÁCH ?
“Có những Kitô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào trong cuộc đời cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức khó khăn. Niềm vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc của chúng ta rằng, bất luận thế nào, chúng ta được thương yêu vô bờ.” (Số 6)
5. TÔI CHỌN SÔNG VỚI NHỮNG NIỀM VUI THẾ TỤC HAY NIỀM VUI TIN MỪNG ?
“Đôi khi chúng ta bị cám dỗ kiếm cớ để than thở và hành động như thể chúng ta chỉ có thể hạnh phúc nếu có hàng ngàn các điều kiện. Phần nào đó là vì “xã hội kỹ thuật của chúng ta đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ, nhưng lại rất khó tạo ra niềm vui”.[2] Tôi có thể nói rằng trong đời mình, tôi đã thấy những biểu hiện đẹp nhất và tự nhiên nhất của niềm vui nơi những người nghèo hầu như không có gì để bám víu vào.” (Số 7)
6. TÔI CÓ CÒN THA THIẾT VÀ NHIỆT THÀNH VỚI SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG HAY LỰA CHỌN THÁI ĐỘ AN TOÀN, THỤ ĐỘNG ?
“Nếu chúng ta muốn có một cuộc sống xứng đáng và sung mãn, chúng ta phải vươn ra tới người khác và mưu cầu lợi ích cho họ. Hiểu theo nghĩa này, một số câu nói của Thánh Phaolô sẽ không làm chúng ta ngạc nhiên: “Tình yêu của Đức Kitô thúc bách tôi” (2C 5:14); “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1C 9:16). (Số 9)
“Một con tim truyền giáo ý thức về những giới hạn này và làm cho mình trở nên “yếu với người yếu... mọi sự cho mọi người” (1Cr 9:22). Nó không bao giờ đóng kín mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ.” (Số 45)
7. TÔI LÀ CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI HAY CHỈ LÀ SỨ GIẢ CỦA NỔI BUỒN ?
“Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hi vọng, có thể nhận được tin mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô”.[6] (Số 10)
8. TÔI CÓ LUÔN CANH TÂN VIỆC RAO GIẢNG LỜI CHÚA HAY GIAM HẢM TIN MỪNG TRONG LỐI MÒN NHÀM CHÁN ?
“Đức Giêsu cũng có thể chọc thủng những phạm trù nhàm chán mà chúng ta dùng để giam hãm Ngài và Ngài luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên bằng sự sáng tạo thần linh của Ngài. Mỗi khi chúng ta cố gắng trở về nguồn và khôi phục lại sự tươi mới của Tin Mừng, những đại lộ mới sẽ xuất hiện, những con đường sáng tạo mới sẽ mở ra, với những hình thức biểu hiện khác nhau, những dấu chỉ và từ ngữ phong phú mang theo ý nghĩa mới cho thế giới hôm nay. Mọi hình thức loan báo Tin Mừng đích thực đều luôn luôn là “mới”. (Số 11)
9. TÔI CÓ LUÔN Ý THỨC : TRÁCH NHIỆM MỤC TỬ CỦA TÔI LÀ PHẢI ƯU TIÊN LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NHỮNG NGƯỜI NGOẠI ĐẠO ?
“Sau cùng, chúng ta không thể quên rằng loan báo Tin Mừng trước hết và trên hết là giảng Tin Mừng cho những người không biết Đức Giêsu Kitô hay luôn luôn chối bỏ Ngài.” (Số 14)
10. CHÚNG TA CÓ THẬT SỰ QUAN TÂM VÀ ĐẦU TƯ CHO VIỆC TRUYỀN GIÁO HAY CHỈ THỤ ĐỘNG TRONG “MỤC VỤ BẢO TỒN” ?
“chúng ta cần phải chuyển đổi “từ một nền mục vụ thuần tuý bảo tồn sang một mục vụ dứt khoát mang tính truyền giáo”.[18] Nhiệm vụ này tiếp tục là một nguồn vui vô biên cho Hội Thánh: “Quả thật, tôi bảo anh em, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn hối cải” (Lc 15:7). (Số 15)
11. TÔI CÓ XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ THÀNH MỘT CỘNG ĐOÀN ‘ĐI RA” TRUYỀN GIÁO HAY KHÉP KÍN NHƯ PHÁO ĐÀI ?
“Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng.” (Số 20)
“Điều này có nghĩa là giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và các cuộc đời của những con người, và không trở thành một cơ chế cách ly với con người hay một nhóm khép kín gồm một ít người được tuyển chọn.” (Số 28)
12. TÔI VÀ CỘNG ĐOÀN CỦA TÔI CÓ CHẤP NHẬN HẠ MÌNH DẤN THÂN ĐẾN VỚI NHỮNG NGƯỜI NGHÈO, NHỮNG NGƯỜI TỘI LỖI ĐỂ PHỤC VỤ ?
“Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động; công đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác. Như vậy, các người loan báo Tin Mừng mang lấy “mùi của đàn chiên” và đàn chiên sẵn sàng nghe tiếng của họ. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu.” (Số 24)
13. TÔI CÓ LUÔN MỞ CỬA NHÀ THỜ ĐỂ NHIỀU NGƯỜI ĐẾN GẶP CHÚA ?
“Hội Thánh được kêu gọi trở thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa. Một dấu hiệu của sự mở ra này là các nhà thờ của chúng ta phải luôn luôn mở cửa, để nếu có ai được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến đây tìm Thiên Chúa, họ sẽ không thấy cửa nhà thờ đang đóng.” (Số 47)
“Nhưng Hội Thánh không phải là một trạm thu phí; Hội Thánh là Nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ.” (Số 47)
14. TÔI CÓ LUÔN CANH TÂN VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG” SAO CHO THÍCH HỢP VỚI CON NGƯỜI VÀ THẾ GIỚI HÔM NAY ?
“Trong trường hợp này, điều chúng ta giảng không phải là Tin Mừng, mà là một số điểm về giáo điều hay luân lý dựa trên một số chọn lựa ý thức hệ đặc thù. Sứ điệp sẽ có nguy cơ mất đi sự tươi mát và sẽ không còn là “hương thơm của Tin Mừng”. (Số 39)
“Cứ thế, chúng ta cố bám vào một công thức trong khi không chuyển đạt được nội dung cơ bản của nó. Đây là mối nguy lớn nhất. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng “chân lý có thể được diễn tả bằng những hình thức khác nhau. Việc đổi mới các cách diễn tả này trở thành cần thiết để thông truyền cho con người ngày nay sứ điệp Tin Mừng trong ý nghĩa không thay đổi của nó” (Số 41)
15. TÔI CÓ BIẾN TÒA GIẢI TỘI THÀNH NƠI CON NGƯỜI GẶP GỠ Thiên Chúa HAY LÀ MỘT “BUỒNG TRA TẤN TỘI NHÂN” ?
“Tôi muốn nhắc nhớ các linh mục rằng toà giải tội không phải là một buồng tra tấn nhưng là một nơi gặp gỡ lòng từ bi của Chúa, thúc đẩy chúng ta làm hết sức mình.” (Số 44)
16. TÔI ĐANG LỰA CHỌN CUỘC SỐNG TIỆN NGHI ĐỂ TRỞ NÊN VÔ CẢM ?
“Hầu như vô tình, rốt cuộc chúng ta trở nên vô cảm trước tiếng kêu của người nghèo, không còn có thể khóc trước nỗi đau của người khác hay cảm thấy cần cứu giúp họ, coi như tất cả đều là trách nhiệm của một ai khác chứ không phải của chính chúng ta. Văn hoá của sự thịnh vượng làm chúng ta mất đi sự mẫn cảm; chúng ta phấn khích nếu thị trường cung cấp cho chúng ta một món hàng mới; trong khi tất cả những mảnh đời cằn cỗi vì thiếu cơ hội có vẻ chỉ là một cảnh tượng bình thường, không hề làm chúng ta mủi lòng.” (Số 54)
17. CHÚNG TA CÓ DÁM “NÓI KHÔNG VỚI NGẪU THẦN MỚI LÀ TIỀN BẠC” ? VÀ CÓ SẴN SÀNG CHIA SẺ VÀ GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO ?
“Một nguyên nhân của tình huống này được thấy trong mối quan hệ của chúng ta với tiền bạc, vì chúng ta thản nhiên chấp nhận sự thống trị của nó trên chúng ta và các xã hội của chúng ta.” (Số 55)
“Không chia sớt của cải với người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải của riêng chúng ta, mà là của họ” (Số 57)
18. CHÚNG TA CÓ VẬN DỤNG NỀN ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN ĐẺ KHẮC PHỤC CÁC TỆ NẠN TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN VÀ XÃ HỘI ?
“Tôi nghĩ đến lòng tin kiên vững của các bà mẹ chăm sóc những đứa con bệnh tật của họ, họ là những người rất yêu mến chuỗi mân côi dù có lẽ họ chỉ biết sơ sài những điểm của Kinh Tin Kính; tôi cũng nghĩ đến niềm hi vọng trọn vẹn được đổ vào một cây nến đốt lên trong nhà để cầu xin ơn trợ giúp của Đức Mẹ, hay cái nhìn trìu mến hướng lên tượng Chúa Kitô chịu nạn. Không một ai yêu mến dân thánh của Thiên Chúa mà có thể coi những hành động này chỉ là biểu hiện của một cố gắng thuần tuý phàm trần trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng là biểu hiện của một đời sống hướng thần được nuôi dưỡng bởi tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được đổ vào lòng chúng ta”. (xem Rm 5:5). (Số 125)
19. TÔI CÓ NHẬN RA VÀ TÌM ĐƯỢC NIỀM AN ỦI VÀ BÀI HỌC TỪ NHỮNG ANH CHỊ EM TÍN HỮU TỐT LÀNH ?
“Tôi biết ơn vì gương sáng tôi nhận được từ rất nhiều Kitô hữu khi họ vui vẻ hi sinh cuộc đời và thời giờ của họ. Những chứng tá này an ủi và nâng đỡ tôi trong cố gắng của chính mình để khắc phục tính ích kỷ và để tôi hiến mình trọn vẹn hơn.” (Số 76)
20. TÔI CÓ CAN ĐẢM NÓI KHÔNG VỚI ÍCH KỶ VÀ NGUỘI LẠNH THIÊNG LIÊNG ?
“Điều tương tự cũng xảy ra đối với các linh mục sợ mất thời giờ rảnh rỗi của mình. Lý do thường là vì người ta cảm thấy nhu cầu quá mạnh muốn bảo vệ sự tự do riêng của họ, họ coi nhiệm vụ loan báo Tin Mừng như thể là một chất độc nguy hiểm thay vì là một lời đáp hân hoan trước tình yêu của Thiên Chúa mời gọi chúng ta truyền giáo, hoàn thiện bản thân và sinh hoa kết quả. Một số người hoàn toàn từ chối hiến thân cho truyền giáo và rốt cuộc đi đến một tình trạng tê liệt và nhàm chán thiêng liêng.” (Số 81)
21. ĐỐI DIỆN VỚI NHỮNG THÁCH ĐỐ MỤC VỤ, TÔI CÓ ĐỦ BẢN LĨNH “NÓI KHÔNG VỚI BI QUAN VÔ BỔ” ĐỂ VỮNG LÒNG TRÔNG CẬY ?
“Lắm khi nhiệm vụ này là một cây thập giá nặng nề, nhưng chính từ thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, Đức Giêsu đã hiến mình cho chúng ta như một nguồn nước sự sống. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hi vọng!” (Số 86)
22. TÔI KHÉP KÍN TRONG CÁI TÔI TỰ MÃN HAY CỞI MỞ ĐÓN NHẬN MỌI NGƯỜI ĐỂ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG CHUNG YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT ?
“Ra khỏi mình để hoà vào với người khác là điều tốt cho chúng ta. Tự đóng kín mình là nếm cảm vị đắng độc hại của tính tự tại, và loài người sẽ trở nên tổi tệ hơn vì mỗi một chọn lựa ích kỷ của chúng ta.” (Số 87)
“Chúng ta được kêu gọi làm chứng cho một cách sống chung luôn luôn mới mẻ trong sự trung thành với Tin Mừng.[70] Chúng ta đừng để mình bị cướp mất đời sống chung!” (Số 92)
23. TÔI CÓ CAN ĐẢM NÓI KHÔNG VỚI TÍNH THẾ TỤC THIÊNG LIÊNG ?
- “một sự quan tâm phô trương đối với phụng vụ, giáo lý hay uy tín của Hội Thánh, nhưng không hề lo cho Tin Mừng có một tác động thực sự đối với các tín hữu và các nhu cầu cụ thể của thời đại.” (Số 95)
- “ẩn nấp bên dưới vẻ hào nhoáng của lợi lộc xã hội và chính trị, hay dưới sự kiêu căng vì họ có khả năng xử lý các vấn đề thực tế, hay một sự say mê đối với các chương trình tự lực và tự thể hiện mình.” (SĐD)
- “muốn được người khác để ý tới, xuất hiện với đủ vẻ sang trọng trong đời sống xã hội, trong các buổi gặp gỡ, tiệc tùng và tiếp tân.” (SĐD)
- “luôn bận bịu với các công việc quản lý, các vấn đề thống kê, kế hoạch và đánh giá mà lợi ích chính không phải là dân Chúa mà là Giáo Hội được nhìn như là một tổ chức.” (SĐD)
- “thói háo danh của những người có chút ít quyền lực và thà làm tướng của một đạo quân thất trận hơn chỉ là người lính quèn vẫn tiếp tục chiến đấu.” (Số 96)
- “Chúng ta để mình bị cuốn theo những ảo mộng và mất tiếp xúc với những mảnh đời thực và những khó khăn của dân chúng.” (SĐD)
24. TÔI LÀ NHÂN TỐ ĐỂ HIỆP NHẤT VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUYNH ĐỆ HAY TÁC NHÂN GÂY CHIA RẼ ?
“Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một “phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.” (Số 98)
“Tôi đặc biệt xin các Kitô hữu trong các cộng đồng trên khắp thế giới cống hiến một chứng tá rực sáng và hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ.” (Số 99)
“Chúng ta hãy làm điều đó hôm nay! Chúng ta đừng để mình bị cướp mất lý tưởng tình yêu huynh đệ!” (Số 101)
25. TÔI CÓ TỰ HÀO KIÊU CĂNG VÌ PHẨM CHỨC LINH MỤC CỦA MÌNH ?
“Việc đồng hoá người linh mục với Đức Kitô là đầu—nghĩa là nguồn mạch chính của ân sủng—không có nghĩa là đặt người linh mục lên trên những người khác. Trong Hội Thánh, các chức vụ “không đặt một số người lên địa vị cao hơn những người khác” (Số 104)
26. TÔI CÓ QUAN TÂM ĐỦ CHO MỤC VỤ GIỚI TRẺ, MỤC VỤ ƠN GỌI ?
- “Giới trẻ thường không thể tìm thấy những giải đáp cho các mối quan tâm, nhu cầu, vấn đề và các thương tổn của họ trong các cơ cấu bình thường. Là người lớn, chúng ta cảm thấy khó kiên nhẫn lắng nghe họ, trân trọng các mối quan tâm và đòi hỏi của họ, và nói với họ bằng một ngôn ngữ họ có thể hiểu.” (Số 105)
- “Nhiều nơi đang trải qua một tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đây thường là do thiếu một nhiệt tình tông đồ có sức lan toả trong các cộng đồng, dẫn đến sự nguội lạnh của niềm phấn khởi và sức hấp dẫn. Ở đâu có sự sống, nhiệt tình và ước muốn đem Đức Kitô đến cho người khác, ở đó sẽ xuất hiện các ơn gọi đích thực.” (Số 107)
27. BÀI GIẢNG LỄ CỦA TÔI CÓ TRỞ THÀNH GÁNH NẶNG CHO MÌNH VÀ CHO GIÁO DÂN ?
“Chúng ta biết các tín hữu rất coi trọng bài giảng, và cả các tín hữu lẫn các thừa tác viên có chức thánh đều khổ sở vì các bài giảng: giáo dân vì phải nghe các bài giảng, còn các giáo sĩ vì phải giảng bài! Đây là trường hợp đáng buồn. Bài giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng về Thần Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh tân và tăng trưởng thường xuyên.” (Số 135)
“Khi bài giảng diễn ra trong bối cảnh phụng vụ, nó là một phần của lễ hiến dâng lên Cha và là một trung gian cho ân sủng mà Đức Kitô đã tuôn đổ trong cuộc cử hành. Bối cảnh này đòi hỏi việc giảng phải hướng dẫn cộng đoàn và giảng viên tới một sự hiệp thông với Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, để giúp họ thay đổi cuộc sống. Muốn được thế, các lời giảng của giảng viên phải điều độ, để cho tâm điểm của sự chú ý Chúa, chứ không phải là thừa tác viên của Chúa.” (Số 138 ; xem thêm các số từ 139-159)
28. TÔI ĐÃ GẶP GỠ, ĐỒNG HÀNH LÀM SAO ĐỐI VỚI CÁC DỰ TÒNG, TÂN TÒNG ?
“các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể hiện thực hoá hương thơm sự gần gũi và cái nhìn thân mật của Đức Kitô. Hội Thánh sẽ phải dẫn đưa mọi người—linh mục, tu sĩ, và giáo dân—vào trong “nghệ thuật đồng hành” này, nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác (xem Xh 3:5). Bước chân đồng hành này phải có nhịp đều và vững vàng, phản ánh thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của chúng ta, giúp chữa lành và khích lệ sự tăng trưởng trong đời sống Kitô giáo.” (Số 169)
29. TÔI ĐÃ THỰC HIỆN GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG CỤ THỂ LÀM SAO ? CÓ ĐÁP ỨNG TIẾNG KÊU CỦA NGƯỜI NGHÈO ĐỂ CHĂM SÓC MỤC VỤ ?
“việc phục vụ bác ái cũng là một yếu tố cấu thành của sứ mạng Hội Thánh và là một biểu hiện thiết yếu của chính sự hiện hữu của Hội Thánh”.[144] Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; Hội Thánh tràn trề đức ái hiệu quả và một sự cảm thông có sức thấu hiểu, giúp đỡ và phát huy.” (Số 179)
“tôi muốn nói với lòng đau buồn rằng sự kỳ thị tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu chăm sóc thiêng liêng. Đa số người nghèo có một sự mở lòng đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa và chúng ta không thể không cống hiến cho họ tình bạn, sự chúc lành, lời nói, việc cử hành các bí tích và một hành trình lớn lên và trưởng thành trong đức tin. Chọn lựa ưu tiên của chúng ta vì người nghèo phải chủ yếu trở thành một sự chăm sóc tôn giáo đặc biệt và ưu tiên cho họ.” (Số 200)
30. TÔI CÓ SIÊNG NĂNG CẦU NGUYỆN VÀ SUY NIỆM TIN MỪNG ?
“Sự khích lệ tốt nhất để chia sẻ Tin Mừng là qua việc suy niệm Tin Mừng với tình yêu, dừng lại ở mỗi trang và đọc bằng trái tim. Nếu chúng ta đến với Tin Mừng bằng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm chúng ta kinh ngạc và không ngừng kích thích chúng ta. Nhưng muốn được như thế, chúng ta cần lấy lại một tinh thần chiêm niệm để có thể giúp chúng ta không ngừng nhận ra rằng mình được thừa hưởng một kho tàng làm chúng ta người hơn và giúp chúng ta sống một đời sống mới.” (Số 264)
“Một người truyền giáo đích thực, người không bao giờ thôi là một môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo của chúng ta, lòng phấn khởi của chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không còn chắc chắn mình đang thông truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam mê.” (Số 266)
31. TÔI CÓ THƯỜNG XUYÊN CẦU XIN CHÚA THÁNH THẦN NUNG ĐỐT NHIỆT TÌNH TRUYỀN GIÁO ?
“Duy trì nhiệt tình truyền giáo sống động đòi chúng ta vững vàng tin cậy vào Chúa Thánh Thần, vì chính Người là Đấng “cứu giúp những nỗi yếu hèn của chúng ta” (Rm 8:6). Nhưng sự tin cậy quảng đại này cần được nuôi dưỡng, vì thế chúng ta cần liên lỷ kêu xin Chúa Thánh Thần. Người có thể chữa lành những gì làm chúng ta suy giảm nhiệt tình truyền giáo.” (Số 280)
32. ĐỨC MARIA CÓ VAI TRÒ NÀO TRONG CUỘC ĐỜI MỤC TỬ CỦA TÔI ?
“Mẹ là người truyền giáo đến gần chúng ta và đồng hành với chúng ta suốt dòng đời, dùng tình mẫu tử để mở lòng chúng ta ra đón nhận đức tin. Là người mẹ thực sự, mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ các phấn đấu của chúng ta và hằng bao bọc chúng ta bằng tình thương của Thiên Chúa.” (Số 286)
Linh mục nên thánh qua con đường Phụng Vụ và Mục Vụ
(Bài chia sẻ nhân ngày hội ngộ Xuân Bích 21/11/2014)
Dẫn nhập :
Trọng kính….
Kính thưa…..
Như một “hòn than nhỏ” mang về trong ngày giỗ tổ Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế, Ngày lễ Mẹ Dâng Mình, để góp cho bếp lửa của tình huynh đệ linh mục-chủng sinh ấm thêm một chút, hồng thêm một chút, con xin được chia sẻ đôi điều như một cảm nghiệm riêng tư trong hành trình sống chức linh mục.
Và trong chút cảm nghiệm riêng tư hoàn toàn hạn chế và chủ quan nầy, con xin được bộc bạch cùng quý cha, quý thầy cái đề tài “xưa như quả đất” đó là : anh em linh mục, chủng sinh chúng ta cùng chiêm ngưỡng Chúa Giêsu qua hai tác động : THỜ PHƯỢNG CHA VA XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA ; để từ suy nghĩ đó, rút ra hai kết luận thực hành : NÊN THÁNH QUA CON ĐƯỜNG PHỤNG VỤ VÀ MỤC VỤ.
I. NHỮNG LÝ DO
1. Kinh nghiệm tu đức :
Trong tác phẩm tu đức "Nên thánh trong thời đại mới", Kilian Mc Gowan, C.P. đã nói một cách mạnh mẽ rằng : "Lãng phí lớn nhất của trí tuệ con người là sống mà không nhận biết Chúa Kitô. Thất bại thê thảm nhất của trái tim con người, nếu có, là chưa bao giờ thật sự yêu mến Chúa Kitô. Vở kịch bi thương nhất trong bất cứ cuộc đời nào là không đặt Chúa Kitô làm trung tâm của đời sống chúng ta"
(Nên thánh Thời đại mới, trang 72).
2. Định hướng của Hội Thánh :
- Sắc lệnh “Đào tạo linh mục” : “Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn hữu. Họ phải sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho đoàn chiên sẽ được giao phó. Phải dạy họ biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ” (Số 8).
- Sắc lệnh ‘Chức vụ và đời sống linh mục” : “Nhưng các Linh Mục có thể kiến tạo sự thống nhất đời sống khi các ngài theo gương Chúa Kitô trong việc chu toàn chức vụ: lương thực của Người là làm theo ý muốn của Ðấng đã sai Người, để Người hoàn thành công việc của mình.
Thực ra, Chúa Kitô hành động qua các thừa tác viên của Người để luôn luôn dùng Giáo Hội thi hành ý muốn của Chúa Cha trên trần gian, và vì vậy Người vẫn là nguyên lý và nguồn mạch sự thống nhất đời sống của các ngài. Vậy, các linh mục phải thực hiện việc thống nhất đời sống của mình bằng cách kết hợp với Chúa Kitô trong sự nhận biết ý Chúa Cha và trong sự hiến thân cho đoàn chiên đã trao phó cho các ngài “ (Số 14).
- Tông huấn “Pastores dabo vobis” : “Như vậy, các linh mục được mời gọi nối dài sự hiện diện của Đức Ki-tô, vị Mục tử duy nhất và tối cao, bằng cách noi theo lối sống của Ngài và bằng cách làm sao cho mình như thể được Ngài xuyên thấu ngay giữa đàn chiên được giao phó cho mình. (số 15)
- Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” : “Một người truyền giáo đích thực, người không bao giờ thôi là một môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo của chúng ta, lòng phấn khởi của chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không còn chắc chắn mình đang thông truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam mê.” (Só 266)
II. CHIÊM NGƯỠNG ĐỨC KITÔ THỜ PHƯỢNG Thiên Chúa :
"Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc nầy đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4, 23).
1. Đức Ki-tô, Đấng thờ phượng và tôn vinh Cha.
Trước hết, chúng ta biết rằng : sứ mệnh căn bản của Đức Ki-tô khi đến trần gian đó chính là thờ phượng và tôn vinh Cha : "Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con" (Ga 17, 4). Đồng thời, Ngài thiết lập một "trật tự thờ phượng mới trên căn bản "trong Thần Khí và sự thật" :
"Nầy Chị hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi, thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc nầy đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế"(Ga 4, 21-23).
* Đức Ki-tô thờ phượng Chúa cha trong "thần khí và sự thật" có nghĩa là Ngài thờ phượng Chúa Cha qua chính bản thân Ngài, bằng "đền thờ thân xác Ngài", với của lễ là chính "cuộc đời Ngài" :
"Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói : Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, , nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như sách thánh đã chép về con. (Dt 10, 5-7).
* Và trong tư cách là một "Tư tế của Giao ước mới", Đức Ki-tô đã đem toàn nhân loại vào trong hiến tế của Ngài để dâng lên Thiên Chúa sự "phượng thờ đích thực".
Nhưng Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy. Người đã vào cung thánh không phải với máu con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần mà thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. (Dt 9, 11-14).
Hiến chế Phụng vụ thánh đã chú giải và tóm tắt mầu nhiệm nầy như sau :
"Cho nên, nhờ Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài cách hoàn bị" (Hiến chế PV số 5).
* Mọi nẻo đường trần thế mà Đức Ki-tô đã đi qua trong thân phận con người, từ khi sinh ra cho đến khi "hoàn tất mọi sự" trên thánh giá, là một "cử hành phụng vụ" duy nhất để thờ phượng và tôn vinh Cha. Vì thế Chúa Cha đã chấp nhận và vui lòng vì việc tôn vinh nầy : "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con" (Mc. 1, 11).
Chiêm ngưởng một Đức Ki-tô thờ phượng Cha như thế chắc chắn sẽ là một động lực, một gọi mời để chúng ta lên đường biến cuộc sống mình thành một "cử hành phụng vụ" liên tục, biến cuộc đời mình thành "Ngôi Thánh Đường" mà chất liệu xây lên là tất cả những chắt chiu, những hy sinh, những lao nhọc, những lời kinh, những tiếng hát và cả những khổ đau, yếu đuối…
Để minh hoạ cho ý tưởng nầy, có lẽ chúng ta cùng đọc với nhau vài đoạn trong bài thơ cầu nguyện của Charles Singer. Bài thơ có tên :"Ngôi thánh đường đời con " (La Cathédrale de ma vie) :
Lạy Chúa, Cuộc đời con là một ngôi Thánh Đường,
Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao quí tôn nghiêm.
Con cố gắng, con miệt mài tìm kiếm,
Từ khắp nơi, tận góc biẻn chân trời,
Trên quê hương những loại đá tuyệt vời,
Con làm việc không một lời than vãn :
Xẻ, đục, cưa và chạm trỗ say mê,
Tay xây sát, con không hề bỏ cuộc,
Búa đẽo hư, con một mực kiên trì.
Con mải mê làm cho đến khi ẩn hiện,
Những phù điêu cảnh thánh điện, thiên thần,
đang tấu nhạc thật hoà vang tôn kính,
Nét vui tươi và thanh tĩnh nụ cuời
Lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng,
Cùng với nhiều biến dạng của thời gian….
Thế nhưng, con mãi mãi vững tin vào sức mạnh,
Chẳng phải từ nơi con để vượt thắng giòng đời,
Mà tâm nguyện : chỉ nơi Ngài, lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường con sẽ tựa trung kiên,
Để trụ vững giữa đảo điên nhân thế,
Để hiên ngang đứng giữa bể dâu đời.
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá lời đâu :
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.
(Trích trong "Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ", trg 11-12).
Cũng trong tư tưởng đó, Giáo Phụ Origène đã để lại cho chúng ta những lời khuyên đầy xác tín như sau :
"Cần tìm đền thánh không phải tại một nơi, nhưng trong các cử chỉ, trong cuộc sống và trong các thói quen. Nếu những cử chỉ nầy đẹp ý Thiên Chúa, nếu chúng phù hợp với các giới răn Thiên Chúa, thì cho dù bạn ở nhà hay ở ngoài quảng trường cũng không quan trọng : tôi nói gì, "ở ngoài quảng trường" hả ? Cả khi bạn đang ở trong rạp hát đi nữa cũng không quan trọng : nếu bạn đang phục vụ Lời của Thiên Chúa, là bạn đang ở trong đền thờ rồi, đừng nghi ngờ gì cả" (Bài giảng về sách Levi 12, 4 Nguồn gốc Kitô 187, tr. 182. Chứng nhân hy vọng tr. 96).
Sống theo Đức Ki-tô để "Thờ Cha trong thần khí và sự thật" cũng có nghĩa là sống trọn vẹn "Giây phút hiện tại" trong tình yêu, là tìm thấy và thực hiện thánh ý Chúa mọi giây phút…
Chúng ta hãy nghe Đức Hồng Y F.X Nguyễn văn Thuận cầu nguyện với Chúa trong thời gian ngồi tù :
"Lạy Chúa Giê-su, con sẽ không chờ đợi nữa.
Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu.
Chấm nầy nối tiếp chấm kia,
ngàn vạn chấm thành một đường dài.
Phút nầy nối tiếp phút kia,
muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng (ĐHV số 977).
Và Thánh Phaolô Thánh Giá lại xác quyết :
"May nắn thay linh hồn nào an nghỉ trong lòng Thiên Chúa mà không nghĩ tới tương lai, nhưng chỉ sống từng phút hiện tại trong Thiên Chúa, không lo lắng gì khác ngoài việc thực hiện tốt ý muốn của Người trong mọi biến cố".
(Chứng nhân hy vọng tr. 94).
2. Đức Ki-tô thờ phượng Cha qua Phụng Vụ.
Tiếp bước theo Đức Ki-tô trong chiều kích "thờ phượng" còn có nghĩa là qui hướng cuộc sống, đặt cuộc sống mỗi ngày trên nền tảng Phụng Vụ. Bởi vì, Đức Ki-tô không mất hút trong quá khứ, nhưng đang "thực diện" một cách đặc biệt trong các hoạt động Phụng Vụ của Hội Thánh :
Để chu toàn việc lớn lao ấy, Chúa Ki-tô hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong các cử hành Phụng Vụ" (PV số 7).
Cũng cần lưu ý rằng : đã có một thời người ta không quan tâm tới đời sống Phụng vụ cho đủ, trong khi lại quá chú trọng tới việc thực hành các việc đạo đức cá nhân cũng như tập thể. Chúng ta có thể tuyên bố mà không sợ sai điều nầy là : Nếu không đặt trọng tâm trên Phụng Vụ, thì việc thể hiện niềm tin của người Ki-tô hữu cũng chẳng khác bao nhiêu với các thực hành tín ngưởng của các tôn giáo khác; mà nói đến việc đạo đức cá nhân, e rằng người Ki-tô hữu chúng ta không sánh được với tín hữu Đạo Hồi, Đạo Phật.
Như vậy, để thực sự sống trong thái độ "thờ Cha trong thần khí và sự thật", điều trước tiên cần phải ghi nhận : Dành "ưu tiên một" cho việc cử hành Phụng Vụ. Chúng ta hãy nghe Giáo Hội dạy :
"Do đó, vì là công việc của Chúa Ki-tô tư tế và Thân Thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp" (PV số 7).
"Phụng vụ là tột đỉnh mà mọi hoạt động khác của Giáo Hội qui hướng về, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội" (PV số 10).
Và như thế, chúng ta có thể rút ra nhứng kết luận thiêng liêng để áp dụng vào đời sống mỗi ngày :
* Biến cuộc sống thành một "cử hành sống động" hy lễ tình yêu, cử hành thờ phượng và tôn vinh Cha.
* Tập chú và dành ưu tiên một cho việc cử hành Phụng Vụ bằng ý thức, tâm tình, thái độ, sự chuẩn bị, tính cộng đoàn… Chúng ta đừng quên điều nầy : một cộng đoàn có cử hành Phụng Vụ tốt, sinh động, là một cộng đoàn mạnh và trưởng thành về mặt thiêng liêng và các sinh hoạt mục vụ khác.
* Biến tâm tình yêu mến và trân trọng Phụng Vụ thành một hướng đi mục vụ : quan tâm, lo lắng, giúp đỡ việc cử hành Phụng Vụ nơi các cộng đoàn giáo dân nghèo, xa xôi hẻo lánh, thiếu phương tiện…
Sau hết, chúng ta hãy nhớ lời của Đức Ki-tô mà chúng ta nghe vọng lại mỗi lần cử hành Thánh Lễ :"Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy". Quả thật, có nhiều việc để nhớ Chúa Ki-tô. Nhưng việc chính yếu vẫn là Lễ Tạ ơn, là những cử hành Phụng Vụ. Và có lẽ lý tưởng nhất đó là : cuộc đời là một Thánh Lễ nối dài. Sống được như thế có nghĩa là đã thuộc về những người được Thiên Chúa muốn "Cha chỉ muốn có những người thờ phượng Ngài như thế" (Ga 4, 23).
III : CHIÊM NGƯỠNG ĐỨC KITÔ XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA
Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói :"Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1 14-15)
1. Đức Ki-tô đến thực hiện lời tiên báo của cựu ước.
- Đức Ki-tô hiên thực hoá lời tiên báo của các sứ ngôn :
Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra gặp đoạn chép rằng :
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…
Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ :"Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe".(Lc 4, 17-21)
-Đức Ki-tô là trung tâm của Nước Thiên Chúa :
"Đức Ki-tô là trung tâm của đoàn người được qui tụ trong gia đình Thiên Chúa. Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu chỉ chứng tỏ Nước Thiên Chúa đang hiện diện, bằng việc sai phái các môn đệ. Người sẽ làm cho Vương Quốc Người hiển trị bằng mầu nhiệm Vượt Qua của Người : Cái chết trên Thập Giá và Phục Sinh. "Phần tôi, một khi được đưa cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi" (Ga 12, 32). Mọi người đều được gọi kết hợp với Đức Ki-tô" (x. GH 3; GLGHCG số 542).
-Đức Ki-tô loan báo và thực hiện Nước Thiên Chúa :
- Để con người nhận biết chân lý, nhận biết quyền năng cứu độ, Đức Ki-tô đã rao giảng. Toàn bộ sứ điệp của Ngài là kêu gọi con người đón nhận và gia nhập Vương quốc Thiên Chúa.
- Để người ta hoà hợp, yêu thương, công chính : Ngài qui tụ nhóm "Mười Hai" xung quanh Ngài làm "hạt nhân" để bắt đầu hình thành một "Dân tộc mới", một "đoàn Dân Mới" công bình, thánh thiện, yêu thương.
- Để người ta sống hoà hợp, an bình, hạnh phúc…Ngài ra tay làm phép lạ như "dấu chỉ Nước Thiên Chúa hiện diện" :
"Nếu tôi nhờ Thánh Thần Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12, 28).
- Và để người ta được cứu độ, được thông phần sự sống vĩnh cửu, Ngài đã chấp nhận làm người phục vụ, hy sinh và tự hiến :
"Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc. 10, 45).
"Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32; 12, 24).
2. Linh mục noi gương Chúa Kitô : Dấn thân xây dựng Nước Thiên Chúa.
v Bằng cách sống Đức Ái mục vụ :
“Đời sống thiêng liêng của các thừa tác viên Tân ước phải được đóng ấn bằng thái độ tiên khởi ấy, thái độ phục vụ đối với Dân Thiên Chúa” (TH.Pastores dabo vobis số 21).“Nguyên lý nội tại, nhân đức thôi thúc và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục, xét như đã nên đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô Đầu và Mục tử, chính là Đức Ái Mục Vụ” (23)
-Bằng cuộc sống và hoán cải theo Tin Mừng :
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (EG 3)
-Bằng đời cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa :
“Thiên Chúa ưa thích biểu lộ những sự việc cao cả của Ngài qua những con người niềm nở và ngoan ngùy đối với sự thúc đẩy và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, qua những con người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và sống đời sống thánh thiện nhờ đó có thể nói như Thánh Tông Đồ : “Nếu tôi sống, thì không còn phải là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi”. (Pastores dabo vobis số 25)
-Bằng việc ra công kiến tạo sự công chính, yêu thương, hiệp nhất khởi sụ từ cuộc sống cộng đoàn.
“Tính thế tục thiêng liêng khiến người Kitô hữu gây chiến với những người Kitô hữu khác cản trở con đường tìm kiếm quyền lực, uy tín, thú vui và an toàn kinh tế. Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một “phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.”. (EG 98)
-Bằng nỗ lực xây dựng cuộc sống chính mình và cộng đoàn đầy tràn niềm vui Tin Mừng :
“NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh. Trong Tông Huấn này, tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới.” (EG 1)
-Bằng ước nguyện và dấn thân tích cực cho công cuộc truyền giáo :
“Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.” (EG 27)
Để tóm tắt nội dung của đề tài chia sẻ "Chiêm ngưỡng Đức Ki-tô xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa", chúng ta có thể đọc lại những lời sau đây của Hiến chế Giáo Hội để cảm nhận sâu sắc hơn về trách nhiệm của linh mục trong việc hiệp thông cùng Giáo Hội nỗ lực làm cho Nước Chúa hiển trị :
"Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa", Giáo Hội rao truyền cái chết thập giá Chúa, cho đến khi Người lại đến (x. 1 Cr 11, 26). Giáo Hội vững mạnh nhờ thần lực của Chúa phục sinh, để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên ngoài bằng yêu thương và kiên trì, và trung thành mạc khải cho thế gian mầu nhiệm của Chúa còn giấu trong bóng tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng vẹn toàn trong ngày sau hết". (LG 8)
3. Vài Lưu ý và áp dụng cụ thể :
- Đừng bao giời tự cho mình là “đấng ban phát sự thánh thiện”, là “thầy dạy đàng nên thánh” để xem thường và không tìm học hỏi được gì nơi cộng đoàn. Vì Đức Kitô mà còn “nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi”, và “Ở giữa các ngươi, ta là một kẻ hầu bàn”.
- Cộng đoàn có nhiều hoa trái thánh thiện (Trẻ em, các người già lão, những thanh niên nam nữ…)
- Trong đời sống giáo dân có nhiều nhân đức mà linh mục không có hay ít có : nhân đức nghèo, khổ, vất vả nhọc mệt, túng thiếu, đầu tắt mặt tối, bệnh hoạn tật nguyền, mất con, mất vợ…)
Như vậy, chính khi gắn kết với cộng đoàn, yêu thương và kính trọng, thăng tiến và xây dựng cộng đoàn, linh mục sẽ kiện toàn chính bản thân và trung thành với căn tính của chính mình.
Kết : Cho dù đi con đường nào, lựa chọn phương pháp nào, áp dụng linh đạo nào, tiêu đích cuối cùng, vẫn là như Thánh Phaolô “Tôi sống, không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Là một linh mục, đặc biệt là những linh mục coi xứ, quả thật, rất có nhiều điều kiện để thực hành việc nên thánh. Bởi chưng, khi được gắn kết với một cộng đoàn mục vụ, các linh mục coi xứ hoàn toàn thể hiện cái căn tính và sự sống thường xuyên của Giáo Hội, Hiền Thê Chúa Kitô qua Phụng vụ, qua sự hiệp thông cộng đoàn và qua chính môi trường cuộc sống đời thường với tất cả mọi nhân tố làm nên một Hội Thánh thu nhỏ. Ước mong sao mọi anh em linh mục chúng ta đều ý thức và biết vận dụng hiệu quả mọi yếu tố tích cực và thuận lợi nầy để trở thành những “mục tử như lòng Chúa mong ước”.
PHẦN PHỤ LỤC
GỢI Ý XÉT MÌNH THEO TÔNG HUẤN “NIỀM VUI TIN MỪNG”
_______
1. TÔI CÓ CÒN GIỮ ĐƯỢC NIỀM VUI CỦA ĐỜI LINH MỤC ?
“NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh.” (SỐ 1)
“Vốn được kêu gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị giữ chặt trong những cái chỉ sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm tan đi mọi nhiệt tình tông đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!” (Số 83)
2. CUỘC SỐNG LINH MỤC CỦA TÔI ĐÃ BỊ TỤC HÓA ?
“Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Khi mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong những lợi ích và những mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được nghe thấy, niềm vui an bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và ước muốn làm điều thiện bị phai mờ.” (Số 2)
3. TÔI ĐÃ ĐÁNH MẤT MỐI TƯƠNG QUAN THÂN MẬT VỚI CHÚA GIÊSU ?
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (Số 3)
4. TÔI CÓ GIỮ ĐƯỢC NIỀM VUI PHỤC SINH KHI PHẢI ĐỐI DIỆN VỚI GIAN NAN THỬ THÁCH ?
“Có những Kitô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào trong cuộc đời cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức khó khăn. Niềm vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc của chúng ta rằng, bất luận thế nào, chúng ta được thương yêu vô bờ.” (Số 6)
5. TÔI CHỌN SÔNG VỚI NHỮNG NIỀM VUI THẾ TỤC HAY NIỀM VUI TIN MỪNG ?
“Đôi khi chúng ta bị cám dỗ kiếm cớ để than thở và hành động như thể chúng ta chỉ có thể hạnh phúc nếu có hàng ngàn các điều kiện. Phần nào đó là vì “xã hội kỹ thuật của chúng ta đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ, nhưng lại rất khó tạo ra niềm vui”.[2] Tôi có thể nói rằng trong đời mình, tôi đã thấy những biểu hiện đẹp nhất và tự nhiên nhất của niềm vui nơi những người nghèo hầu như không có gì để bám víu vào.” (Số 7)
6. TÔI CÓ CÒN THA THIẾT VÀ NHIỆT THÀNH VỚI SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG HAY LỰA CHỌN THÁI ĐỘ AN TOÀN, THỤ ĐỘNG ?
“Nếu chúng ta muốn có một cuộc sống xứng đáng và sung mãn, chúng ta phải vươn ra tới người khác và mưu cầu lợi ích cho họ. Hiểu theo nghĩa này, một số câu nói của Thánh Phaolô sẽ không làm chúng ta ngạc nhiên: “Tình yêu của Đức Kitô thúc bách tôi” (2C 5:14); “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1C 9:16). (Số 9)
“Một con tim truyền giáo ý thức về những giới hạn này và làm cho mình trở nên “yếu với người yếu... mọi sự cho mọi người” (1Cr 9:22). Nó không bao giờ đóng kín mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ.” (Số 45)
7. TÔI LÀ CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI HAY CHỈ LÀ SỨ GIẢ CỦA NỔI BUỒN ?
“Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hi vọng, có thể nhận được tin mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô”.[6] (Số 10)
8. TÔI CÓ LUÔN CANH TÂN VIỆC RAO GIẢNG LỜI CHÚA HAY GIAM HẢM TIN MỪNG TRONG LỐI MÒN NHÀM CHÁN ?
“Đức Giêsu cũng có thể chọc thủng những phạm trù nhàm chán mà chúng ta dùng để giam hãm Ngài và Ngài luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên bằng sự sáng tạo thần linh của Ngài. Mỗi khi chúng ta cố gắng trở về nguồn và khôi phục lại sự tươi mới của Tin Mừng, những đại lộ mới sẽ xuất hiện, những con đường sáng tạo mới sẽ mở ra, với những hình thức biểu hiện khác nhau, những dấu chỉ và từ ngữ phong phú mang theo ý nghĩa mới cho thế giới hôm nay. Mọi hình thức loan báo Tin Mừng đích thực đều luôn luôn là “mới”. (Số 11)
9. TÔI CÓ LUÔN Ý THỨC : TRÁCH NHIỆM MỤC TỬ CỦA TÔI LÀ PHẢI ƯU TIÊN LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NHỮNG NGƯỜI NGOẠI ĐẠO ?
“Sau cùng, chúng ta không thể quên rằng loan báo Tin Mừng trước hết và trên hết là giảng Tin Mừng cho những người không biết Đức Giêsu Kitô hay luôn luôn chối bỏ Ngài.” (Số 14)
10. CHÚNG TA CÓ THẬT SỰ QUAN TÂM VÀ ĐẦU TƯ CHO VIỆC TRUYỀN GIÁO HAY CHỈ THỤ ĐỘNG TRONG “MỤC VỤ BẢO TỒN” ?
“chúng ta cần phải chuyển đổi “từ một nền mục vụ thuần tuý bảo tồn sang một mục vụ dứt khoát mang tính truyền giáo”.[18] Nhiệm vụ này tiếp tục là một nguồn vui vô biên cho Hội Thánh: “Quả thật, tôi bảo anh em, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn hối cải” (Lc 15:7). (Số 15)
11. TÔI CÓ XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ THÀNH MỘT CỘNG ĐOÀN ‘ĐI RA” TRUYỀN GIÁO HAY KHÉP KÍN NHƯ PHÁO ĐÀI ?
“Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng.” (Số 20)
“Điều này có nghĩa là giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và các cuộc đời của những con người, và không trở thành một cơ chế cách ly với con người hay một nhóm khép kín gồm một ít người được tuyển chọn.” (Số 28)
12. TÔI VÀ CỘNG ĐOÀN CỦA TÔI CÓ CHẤP NHẬN HẠ MÌNH DẤN THÂN ĐẾN VỚI NHỮNG NGƯỜI NGHÈO, NHỮNG NGƯỜI TỘI LỖI ĐỂ PHỤC VỤ ?
“Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động; công đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác. Như vậy, các người loan báo Tin Mừng mang lấy “mùi của đàn chiên” và đàn chiên sẵn sàng nghe tiếng của họ. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu.” (Số 24)
13. TÔI CÓ LUÔN MỞ CỬA NHÀ THỜ ĐỂ NHIỀU NGƯỜI ĐẾN GẶP CHÚA ?
“Hội Thánh được kêu gọi trở thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa. Một dấu hiệu của sự mở ra này là các nhà thờ của chúng ta phải luôn luôn mở cửa, để nếu có ai được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến đây tìm Thiên Chúa, họ sẽ không thấy cửa nhà thờ đang đóng.” (Số 47)
“Nhưng Hội Thánh không phải là một trạm thu phí; Hội Thánh là Nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ.” (Số 47)
14. TÔI CÓ LUÔN CANH TÂN VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG” SAO CHO THÍCH HỢP VỚI CON NGƯỜI VÀ THẾ GIỚI HÔM NAY ?
“Trong trường hợp này, điều chúng ta giảng không phải là Tin Mừng, mà là một số điểm về giáo điều hay luân lý dựa trên một số chọn lựa ý thức hệ đặc thù. Sứ điệp sẽ có nguy cơ mất đi sự tươi mát và sẽ không còn là “hương thơm của Tin Mừng”. (Số 39)
“Cứ thế, chúng ta cố bám vào một công thức trong khi không chuyển đạt được nội dung cơ bản của nó. Đây là mối nguy lớn nhất. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng “chân lý có thể được diễn tả bằng những hình thức khác nhau. Việc đổi mới các cách diễn tả này trở thành cần thiết để thông truyền cho con người ngày nay sứ điệp Tin Mừng trong ý nghĩa không thay đổi của nó” (Số 41)
15. TÔI CÓ BIẾN TÒA GIẢI TỘI THÀNH NƠI CON NGƯỜI GẶP GỠ Thiên Chúa HAY LÀ MỘT “BUỒNG TRA TẤN TỘI NHÂN” ?
“Tôi muốn nhắc nhớ các linh mục rằng toà giải tội không phải là một buồng tra tấn nhưng là một nơi gặp gỡ lòng từ bi của Chúa, thúc đẩy chúng ta làm hết sức mình.” (Số 44)
16. TÔI ĐANG LỰA CHỌN CUỘC SỐNG TIỆN NGHI ĐỂ TRỞ NÊN VÔ CẢM ?
“Hầu như vô tình, rốt cuộc chúng ta trở nên vô cảm trước tiếng kêu của người nghèo, không còn có thể khóc trước nỗi đau của người khác hay cảm thấy cần cứu giúp họ, coi như tất cả đều là trách nhiệm của một ai khác chứ không phải của chính chúng ta. Văn hoá của sự thịnh vượng làm chúng ta mất đi sự mẫn cảm; chúng ta phấn khích nếu thị trường cung cấp cho chúng ta một món hàng mới; trong khi tất cả những mảnh đời cằn cỗi vì thiếu cơ hội có vẻ chỉ là một cảnh tượng bình thường, không hề làm chúng ta mủi lòng.” (Số 54)
17. CHÚNG TA CÓ DÁM “NÓI KHÔNG VỚI NGẪU THẦN MỚI LÀ TIỀN BẠC” ? VÀ CÓ SẴN SÀNG CHIA SẺ VÀ GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO ?
“Một nguyên nhân của tình huống này được thấy trong mối quan hệ của chúng ta với tiền bạc, vì chúng ta thản nhiên chấp nhận sự thống trị của nó trên chúng ta và các xã hội của chúng ta.” (Số 55)
“Không chia sớt của cải với người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải của riêng chúng ta, mà là của họ” (Số 57)
18. CHÚNG TA CÓ VẬN DỤNG NỀN ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN ĐẺ KHẮC PHỤC CÁC TỆ NẠN TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN VÀ XÃ HỘI ?
“Tôi nghĩ đến lòng tin kiên vững của các bà mẹ chăm sóc những đứa con bệnh tật của họ, họ là những người rất yêu mến chuỗi mân côi dù có lẽ họ chỉ biết sơ sài những điểm của Kinh Tin Kính; tôi cũng nghĩ đến niềm hi vọng trọn vẹn được đổ vào một cây nến đốt lên trong nhà để cầu xin ơn trợ giúp của Đức Mẹ, hay cái nhìn trìu mến hướng lên tượng Chúa Kitô chịu nạn. Không một ai yêu mến dân thánh của Thiên Chúa mà có thể coi những hành động này chỉ là biểu hiện của một cố gắng thuần tuý phàm trần trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng là biểu hiện của một đời sống hướng thần được nuôi dưỡng bởi tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được đổ vào lòng chúng ta”. (xem Rm 5:5). (Số 125)
19. TÔI CÓ NHẬN RA VÀ TÌM ĐƯỢC NIỀM AN ỦI VÀ BÀI HỌC TỪ NHỮNG ANH CHỊ EM TÍN HỮU TỐT LÀNH ?
“Tôi biết ơn vì gương sáng tôi nhận được từ rất nhiều Kitô hữu khi họ vui vẻ hi sinh cuộc đời và thời giờ của họ. Những chứng tá này an ủi và nâng đỡ tôi trong cố gắng của chính mình để khắc phục tính ích kỷ và để tôi hiến mình trọn vẹn hơn.” (Số 76)
20. TÔI CÓ CAN ĐẢM NÓI KHÔNG VỚI ÍCH KỶ VÀ NGUỘI LẠNH THIÊNG LIÊNG ?
“Điều tương tự cũng xảy ra đối với các linh mục sợ mất thời giờ rảnh rỗi của mình. Lý do thường là vì người ta cảm thấy nhu cầu quá mạnh muốn bảo vệ sự tự do riêng của họ, họ coi nhiệm vụ loan báo Tin Mừng như thể là một chất độc nguy hiểm thay vì là một lời đáp hân hoan trước tình yêu của Thiên Chúa mời gọi chúng ta truyền giáo, hoàn thiện bản thân và sinh hoa kết quả. Một số người hoàn toàn từ chối hiến thân cho truyền giáo và rốt cuộc đi đến một tình trạng tê liệt và nhàm chán thiêng liêng.” (Số 81)
21. ĐỐI DIỆN VỚI NHỮNG THÁCH ĐỐ MỤC VỤ, TÔI CÓ ĐỦ BẢN LĨNH “NÓI KHÔNG VỚI BI QUAN VÔ BỔ” ĐỂ VỮNG LÒNG TRÔNG CẬY ?
“Lắm khi nhiệm vụ này là một cây thập giá nặng nề, nhưng chính từ thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, Đức Giêsu đã hiến mình cho chúng ta như một nguồn nước sự sống. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hi vọng!” (Số 86)
22. TÔI KHÉP KÍN TRONG CÁI TÔI TỰ MÃN HAY CỞI MỞ ĐÓN NHẬN MỌI NGƯỜI ĐỂ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG CHUNG YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT ?
“Ra khỏi mình để hoà vào với người khác là điều tốt cho chúng ta. Tự đóng kín mình là nếm cảm vị đắng độc hại của tính tự tại, và loài người sẽ trở nên tổi tệ hơn vì mỗi một chọn lựa ích kỷ của chúng ta.” (Số 87)
“Chúng ta được kêu gọi làm chứng cho một cách sống chung luôn luôn mới mẻ trong sự trung thành với Tin Mừng.[70] Chúng ta đừng để mình bị cướp mất đời sống chung!” (Số 92)
23. TÔI CÓ CAN ĐẢM NÓI KHÔNG VỚI TÍNH THẾ TỤC THIÊNG LIÊNG ?
- “một sự quan tâm phô trương đối với phụng vụ, giáo lý hay uy tín của Hội Thánh, nhưng không hề lo cho Tin Mừng có một tác động thực sự đối với các tín hữu và các nhu cầu cụ thể của thời đại.” (Số 95)
- “ẩn nấp bên dưới vẻ hào nhoáng của lợi lộc xã hội và chính trị, hay dưới sự kiêu căng vì họ có khả năng xử lý các vấn đề thực tế, hay một sự say mê đối với các chương trình tự lực và tự thể hiện mình.” (SĐD)
- “muốn được người khác để ý tới, xuất hiện với đủ vẻ sang trọng trong đời sống xã hội, trong các buổi gặp gỡ, tiệc tùng và tiếp tân.” (SĐD)
- “luôn bận bịu với các công việc quản lý, các vấn đề thống kê, kế hoạch và đánh giá mà lợi ích chính không phải là dân Chúa mà là Giáo Hội được nhìn như là một tổ chức.” (SĐD)
- “thói háo danh của những người có chút ít quyền lực và thà làm tướng của một đạo quân thất trận hơn chỉ là người lính quèn vẫn tiếp tục chiến đấu.” (Số 96)
- “Chúng ta để mình bị cuốn theo những ảo mộng và mất tiếp xúc với những mảnh đời thực và những khó khăn của dân chúng.” (SĐD)
24. TÔI LÀ NHÂN TỐ ĐỂ HIỆP NHẤT VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUYNH ĐỆ HAY TÁC NHÂN GÂY CHIA RẼ ?
“Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một “phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.” (Số 98)
“Tôi đặc biệt xin các Kitô hữu trong các cộng đồng trên khắp thế giới cống hiến một chứng tá rực sáng và hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ.” (Số 99)
“Chúng ta hãy làm điều đó hôm nay! Chúng ta đừng để mình bị cướp mất lý tưởng tình yêu huynh đệ!” (Số 101)
25. TÔI CÓ TỰ HÀO KIÊU CĂNG VÌ PHẨM CHỨC LINH MỤC CỦA MÌNH ?
“Việc đồng hoá người linh mục với Đức Kitô là đầu—nghĩa là nguồn mạch chính của ân sủng—không có nghĩa là đặt người linh mục lên trên những người khác. Trong Hội Thánh, các chức vụ “không đặt một số người lên địa vị cao hơn những người khác” (Số 104)
26. TÔI CÓ QUAN TÂM ĐỦ CHO MỤC VỤ GIỚI TRẺ, MỤC VỤ ƠN GỌI ?
- “Giới trẻ thường không thể tìm thấy những giải đáp cho các mối quan tâm, nhu cầu, vấn đề và các thương tổn của họ trong các cơ cấu bình thường. Là người lớn, chúng ta cảm thấy khó kiên nhẫn lắng nghe họ, trân trọng các mối quan tâm và đòi hỏi của họ, và nói với họ bằng một ngôn ngữ họ có thể hiểu.” (Số 105)
- “Nhiều nơi đang trải qua một tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đây thường là do thiếu một nhiệt tình tông đồ có sức lan toả trong các cộng đồng, dẫn đến sự nguội lạnh của niềm phấn khởi và sức hấp dẫn. Ở đâu có sự sống, nhiệt tình và ước muốn đem Đức Kitô đến cho người khác, ở đó sẽ xuất hiện các ơn gọi đích thực.” (Số 107)
27. BÀI GIẢNG LỄ CỦA TÔI CÓ TRỞ THÀNH GÁNH NẶNG CHO MÌNH VÀ CHO GIÁO DÂN ?
“Chúng ta biết các tín hữu rất coi trọng bài giảng, và cả các tín hữu lẫn các thừa tác viên có chức thánh đều khổ sở vì các bài giảng: giáo dân vì phải nghe các bài giảng, còn các giáo sĩ vì phải giảng bài! Đây là trường hợp đáng buồn. Bài giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng về Thần Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh tân và tăng trưởng thường xuyên.” (Số 135)
“Khi bài giảng diễn ra trong bối cảnh phụng vụ, nó là một phần của lễ hiến dâng lên Cha và là một trung gian cho ân sủng mà Đức Kitô đã tuôn đổ trong cuộc cử hành. Bối cảnh này đòi hỏi việc giảng phải hướng dẫn cộng đoàn và giảng viên tới một sự hiệp thông với Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, để giúp họ thay đổi cuộc sống. Muốn được thế, các lời giảng của giảng viên phải điều độ, để cho tâm điểm của sự chú ý Chúa, chứ không phải là thừa tác viên của Chúa.” (Số 138 ; xem thêm các số từ 139-159)
28. TÔI ĐÃ GẶP GỠ, ĐỒNG HÀNH LÀM SAO ĐỐI VỚI CÁC DỰ TÒNG, TÂN TÒNG ?
“các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể hiện thực hoá hương thơm sự gần gũi và cái nhìn thân mật của Đức Kitô. Hội Thánh sẽ phải dẫn đưa mọi người—linh mục, tu sĩ, và giáo dân—vào trong “nghệ thuật đồng hành” này, nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác (xem Xh 3:5). Bước chân đồng hành này phải có nhịp đều và vững vàng, phản ánh thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của chúng ta, giúp chữa lành và khích lệ sự tăng trưởng trong đời sống Kitô giáo.” (Số 169)
29. TÔI ĐÃ THỰC HIỆN GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG CỤ THỂ LÀM SAO ? CÓ ĐÁP ỨNG TIẾNG KÊU CỦA NGƯỜI NGHÈO ĐỂ CHĂM SÓC MỤC VỤ ?
“việc phục vụ bác ái cũng là một yếu tố cấu thành của sứ mạng Hội Thánh và là một biểu hiện thiết yếu của chính sự hiện hữu của Hội Thánh”.[144] Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; Hội Thánh tràn trề đức ái hiệu quả và một sự cảm thông có sức thấu hiểu, giúp đỡ và phát huy.” (Số 179)
“tôi muốn nói với lòng đau buồn rằng sự kỳ thị tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu chăm sóc thiêng liêng. Đa số người nghèo có một sự mở lòng đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa và chúng ta không thể không cống hiến cho họ tình bạn, sự chúc lành, lời nói, việc cử hành các bí tích và một hành trình lớn lên và trưởng thành trong đức tin. Chọn lựa ưu tiên của chúng ta vì người nghèo phải chủ yếu trở thành một sự chăm sóc tôn giáo đặc biệt và ưu tiên cho họ.” (Số 200)
30. TÔI CÓ SIÊNG NĂNG CẦU NGUYỆN VÀ SUY NIỆM TIN MỪNG ?
“Sự khích lệ tốt nhất để chia sẻ Tin Mừng là qua việc suy niệm Tin Mừng với tình yêu, dừng lại ở mỗi trang và đọc bằng trái tim. Nếu chúng ta đến với Tin Mừng bằng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm chúng ta kinh ngạc và không ngừng kích thích chúng ta. Nhưng muốn được như thế, chúng ta cần lấy lại một tinh thần chiêm niệm để có thể giúp chúng ta không ngừng nhận ra rằng mình được thừa hưởng một kho tàng làm chúng ta người hơn và giúp chúng ta sống một đời sống mới.” (Số 264)
“Một người truyền giáo đích thực, người không bao giờ thôi là một môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo của chúng ta, lòng phấn khởi của chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không còn chắc chắn mình đang thông truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam mê.” (Số 266)
31. TÔI CÓ THƯỜNG XUYÊN CẦU XIN CHÚA THÁNH THẦN NUNG ĐỐT NHIỆT TÌNH TRUYỀN GIÁO ?
“Duy trì nhiệt tình truyền giáo sống động đòi chúng ta vững vàng tin cậy vào Chúa Thánh Thần, vì chính Người là Đấng “cứu giúp những nỗi yếu hèn của chúng ta” (Rm 8:6). Nhưng sự tin cậy quảng đại này cần được nuôi dưỡng, vì thế chúng ta cần liên lỷ kêu xin Chúa Thánh Thần. Người có thể chữa lành những gì làm chúng ta suy giảm nhiệt tình truyền giáo.” (Số 280)
32. ĐỨC MARIA CÓ VAI TRÒ NÀO TRONG CUỘC ĐỜI MỤC TỬ CỦA TÔI ?
“Mẹ là người truyền giáo đến gần chúng ta và đồng hành với chúng ta suốt dòng đời, dùng tình mẫu tử để mở lòng chúng ta ra đón nhận đức tin. Là người mẹ thực sự, mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ các phấn đấu của chúng ta và hằng bao bọc chúng ta bằng tình thương của Thiên Chúa.” (Số 286)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tổng kết hội luận liên tôn về tính bổ túc nam nữ
Vũ Văn An
03:22 21/11/2014
Điểm nổi bật của hội luận liên tôn về tính bổ túc nam nữ tại Vatican trong các ngày 17-19 tháng Mười Một vừa qua là bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và của Nguyên Giáo Sĩ Trưởng Do Thái tại Vương Quốc Thống Nhất (Anh), và sự hiện diện của 350 nhà lãnh đạo liên tôn.
Theo ký giả Michael Severance của The Catholic World Report, Đức GH Phanxicô đã có một tiếng nói mạnh mẽ tại hội luận liên tôn kỳ này, không giống như lúc ngài tham dự THĐ mới đây về gia đình, trong đó phần lớn ngài đóng vai người nghe. Trong bài diễn văn dài 10 phút mở đầu hội luận, ngài nói với 350 nhà lãnh đạo liên tôn rằng trẻ em có “quyền được lớn lên trong một gia đình có cha có mẹ có khả năng tạo nên một môi trường thích đáng cho đứa trẻ phát triển và trưởng thành về xúc cảm”.
Ngài nhấn mạnh rằng các nhà lãnh đạo liên hệ tới trẻ em và sự lành mạnh lâu dài của xã hội dân sự phải “ cỏ vũ các rường cột nền tảng đang quản trị các quốc gia… Gia đình là nền tảng của việc sống chung và là phương thuốc chữa căn bệnh phân mảnh xã hội”.
Trích dẫn chính tông huấn Niềm Vui Tin Mừng của ngài, Đức Phanxicô nói thêm: “Việc đóng góp của hôn nhân cho xã hội là điều ‘không thể thiếu’;… gia đình ‘vượt lên trên mọi cảm xúc và mọi nhu cầu tạm bợ của vợ chồng. Và đó là lý do tại sao tôi biết ơn qúy vị vì hội luận của qúy vị đã nhấn mạnh tới các phúc lợi do hôn nhân mang tới cho con cái, cho chính các cặp vợ chồng và cho xã hội.
“Trong những ngày này, khi qúy vị khởi sự suy tư về vẻ đẹp của tính bổ túc nam nữ trong hôn nhân, tôi khẩn khoản xin qúy vị đề cao hơn nữa một chân lý khác về hôn nhân: đó là chỉ có sự cam kết vĩnh viễn đối với tình liên đới, lòng trung thành và tình yêu sinh hoa trái mới đáp ứng được các khát vọng sâu xa nhất của trái tim con người mà thôi.
“Tôi khẩn khoản xin qúy vị đặc biệt nhớ tới người trẻ là những người đại diện cho tương lai ta. Qúy vị hãy cam kết sao cho giới trẻ của ta không nhường bước đối với thứ môi sinh tạm bợ đầy độc dược, nhưng đúng hơn trở thành những nhà cách mạng dám can đảm lên đường tìm kiếm tình yêu chân thực và lâu bền, chống lại kiểu mẫu thông thường”.
Cuối cùng Đức Thánh Cha yêu cầu cử tọa, gồm các nhà thần học, khoa học xã hội, tâm lý học, cố vấn hôn nhân, luật sự gia đình, chuyên viên truyền thông, các thừa tác viên, và các mục tử thuộc 14 truyền thống tín ngưỡng khác nhau đến từ 23 quốc gia, hãy đoàn kết trong một tinh thần không thiên vị và không bè phái: “Qúy vị đừng để mình rơi vào tình thế bị các ý niệm chính trị lung lạc. Gia đình là một sự kiện nhân học, một sự kiện liên hệ tới xã hội và văn hóa.
“Ta không thể nghĩ tới các ý niệm bảo thủ hay cấp tiến. Gia đình là gia đình. Nó không thể bị khoác cho các ý niệm có tính ý thức hệ”.
Gốc rễ của tính bổ túc: tạo dựng, tính được ban cho (given-ness) và việc hoàn tất
Tập chú vào nhân quyền căn bản của đứa trẻ là được dưỡng dục bởi cả cha lẫn mẹ, Đức Phanxicô cho hay: tính bổ túc là một ý niệm phong phú về ý nghĩa liên quan tới các vai trò tự nhiên, đan kết với nhau và rất cần thiết của vợ và chồng trong việc lên khuôn các gia hộ hạnh phúc và lành mạnh. Họ “làm việc với nhau vì lợi ích của toàn thể; các tài năng của mọi người có thể cùng nhau làm việc vì ích lợi của mỗi người”. Đối với ngài, tính bổ túc “không là gì khác ngoài việc cân nhắc các hòa hợp đầy năng động tại tâm điểm của Tạo Dựng”.
Suốt hội luận, loạt phim giáo dục tựa là Humanum (Nhân Bản) đã được chiếu lần đầu làm phong phú thêm các cuộc thảo luận về mầu nhiệm sinh học của sự bổ túc tính dục trong hôn nhân.
Peter Kreeft, một giáo sư triết học tại Cao Đẳng Boston và là một tác giả quen thuộc, đã xuất hiện trong phim đầu tiên. Ông cho rằng ta có “hai cặp chữ không hoàn toàn giống nhau ‘nam và nữ’, ‘đực và cái’”.
Ông giải thích: “Nam và nữ có tính sinh học. Chúng đòi một thân xác, chúng đòi các yếu tố di truyền. Đực hay cái có tính vũ trụ học (cosmological).
“Mọi xã hội trong lịch sử thế giới đều đã thấy rằng âm và dương, đực và cái, không phải chỉ con người mới có, hay chỉ con vật mới có. Mọi ngôn ngữ mà tôi biết, trừ tiếng Anh, đều có danh từ giống đực giống cái. Mặt trời luôn ở giống đực (chàng), mặt trăng luôn ở giống cái (nàng)”.
Kreeft cho biết thêm: ta không nên giản lược vẻ đẹp và sự mầu nhiệm của giống đực giống cái trong ngôn ngữ, coi nó chỉ như “một phóng chiếu tính dục của ta lên vũ trụ.
“Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra tính dục con người cũng đã sáng tạo ra vũ trụ. Hai giống (đực và cái) rất thích đáng. Nó là một triết lý hạnh phúc hơn nhiều. Ta thích ứng với bản nhiên sự vật”.
Tiếp theo cuốn video của giáo sư Kreeft, diễn giả đầu tiên trong ngày khai mạc là Ngài Jonathan Sacks, nguyên Giáo Sĩ Trưởng Do Thái Giáo của Vương Quốc Thống Nhất (Anh) và Khối Thịnh Vượng Chung. Giáo sĩ Sacks nói rằng ta sẽ hiểu tính bổ túc của hai phái giống một cách tốt nhất khi suy nghĩ về điều nền văn hóa đương thời vốn dạy ta: hoặc ta là “điều gì đó” hoặc ta “không là gì” cả.
Nhưng giáo sĩ cho hay: trong Do Thái Giáo, ta học thấy rằng “ta chỉ là một nửa. Ta phải mở cửa chào đón một nửa khác nếu ta muốn trở nên toàn bộ”.
Thứ nhân học cổ điển trên được diễn giải bởi một chuyên viên của hội luận, đó là tiến sĩ Samuel Gregg, giám đốc nghiên cứu của Viện Acton có trụ sở tại Michigan.
Tiến sĩ Gregg nói rằng ở cốt lõi nền nhân học trên, một nền nhân học chung của phần lớn các tham dự viên hội luận, là niềm tin cho rằng điều đã “được ban” cho ta trong trật tự tự nhiên là một trật tự do Thiên Chúa sáng lập. Đó là nền nhân học dẫn ta tới việc hiểu được con người nhân bản dựa trên các sự thật khách quan.
Ông cho hay: “điểm dị biệt tối hậu ở đây là giữa hai nền nhân học. Nền nhân học do rất nhiều tham dự viên phát biểu, nhất là các tham dự viên Do Thái Giáo và Kitô Giáo, coi con người nhân bản như những hữu thể “được ban” cho theo nghĩa ta là ai. Bản sắc ta và trọn bộ vấn đề tính dục đều là những điều đã được ban cho, và ta biết được nó nhờ Mạc Khải và luật tự nhiên”.
Ở phía kia là chủ trương cho rằng bản sắc con người, trong yếu tính, vốn “co dãn” (plastic): co dãn theo nghĩa ta xác định ta là ai dựa trên các cảm xúc (feelings) của mình và một ý chí quyết bác bỏ hay làm ngơ các tầm nhìn thông xuốt không những của Mạc Khải mà của cả lý trí tự nhiên nữa.
Tiến sĩ Gregg nói thêm rằng quan điểm thứ hai không những tương đối hóa ý nghĩa tính thể lý của ta và tính bổ túc nam nữ mà còn tương đối hóa cả “tính được ban cho (hồng phúc)” như là nam hoặc nữ nữa, một “tính hồng phúc bắt nguồn từ chính trật tự tạo dựng, vốn được phác thảo cách sâu sắc trong Thánh Kinh Do Thái và được chính Chúa Kitô xác nhận”.
Cuối cùng, Đức HY Gerhard Müller, tổng trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin và là người chủ trì chính của hội luận, đã liên kết mọi ngôn từ nhân học lại với nhau, khi cho rằng điều hết sức tự nhiên là “mỗi người chúng ta đều cảm thấy thiếu thốn và thiếu sót cần được hoàn tất. Sự kiện không thể nào xóa nhòa khỏi bản nhiên con người này cho thấy sự lệ thuộc căn để của ta: ta không tự hoàn tất được mình bằng chính bản ngã mình, ta hoàn toàn không tự mình đầy đủ được”.
Luôn cam kết: cuộc khủng hoảng kết hợp, vĩnh cửu và hy vọng
Theo Đức Phanxicô, “hôn nhân và gia đình ngày nay đang gặp khủng hoảng. Ta đang sống trong nền văn hóa tạm bợ, trong đó, càng ngày càng có nhiều người đơn thuần bỏ cuộc đối với hôn nhân như một cam kết công khai”.
Thực vậy, ngày nay, thách đố của ta là “chiếm lại” cái hiểu chung không những về bản chất hôn nhân, mà cả về các thực hành của nó như một thề hứa suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm sinh sản và dưỡng dục con cái một cách yêu thương và trách nhiệm.
Mô phỏng Đức Thánh Cha, chủ tịch Trung Tâm Văn Hóa Tawasul ở Cairo, Ai Cập, Ông Wael Forrouq, nói rằng, trên thực tế, ta từng để cho nền văn hóa phù phiếm bén rễ trong hậu bán thế kỷ 20; trong nền văn hóa này,các liên hệ nhân bản bị coi như “thoáng qua và tạm bợ”. Ông tự hỏi ta phải làm gì để đưa nền văn hóa nhân bản, ở cả Đông lẫn Tây Phương, trở về với chiều hướng vĩnh cửu.
Học giả Á Căn Đình và là TGĐ của Grupo Sólido, ông Ignacio Ibarzabal, khi lên tiếng trong cùng một nhóm với Forrouq, cũng có chung một phê phán như Đức Phanxicô về nền văn hóa vứt bỏ, hay “nền văn hóa tạm bợ” bằng chứng là các liên hệ tan tành vỡ vụn, được ông coi là nguồn gốc gây ra “không biết bao nhiêu đau khổ không cần thiết” và nỗi chán chường chung.
Ibarzabal nhận định rằng một phần của việc phân mảnh này phải qui lỗi cho rất nhiều nhân tố khác hơn là cha mẹ trong việc dưỡng dục trẻ em ngày nay, từ hệ thống trường công tới internet, nơi chúng chỉ xây dựng các mối liên hệ và những cuộc đàm đạo ngắn hạn, thoáng qua trên các phương tiện truyền thông xã hội như Facebook, Twitter, và WhatsApp.
Ibarzabal gọi đó là “cuộc khủng hoảng kết hợp”, một cuộc khủng hoảng đang phát sinh ra cả một thế hệ người trẻ sống mà không có hy vọng nào xây dựng được những mối liên hệ bền chặt và thân mật.
Ông kể lại cách việc trên xuất hiện ra sao dưới ánh sáng các nghiên cứu xã hội học về các thiếu nữ 15 tuổi gần Buenos Aires, cựu TGP của Đức Giáo Hoàng. Ông cho biết: khi trả lời bản câu hỏi do ông đưa ra, 100% thiếu nữ đều nói “có” đối với câu hỏi liệu các em có muốn “một tình yêu kéo dài suốt đời” hay không. Tuy nhiên, khi hỏi câu hỏi tiếp theo rằng liệu các em có thực sự tin có thứ tình yêu suốt đời hay không, thì 80% trả lời “không”, cho rằng nó không thể có được. Ông cho hay, các câu trả lời này làm ông rất chưng hửng, vì lớp tuổi này thường là lớp tuổi “lãng mạn và không tưởng” nhất hạng, đầy mộng mơ về những điều mình có thể làm được.
Gia đình như nguồn gây ra căng thẳng, nhưng cũng đem lại tăng trưởng
Các diễn giả tại hội luận, thuộc đủ mọi tín ngưỡng và hệ phái, đã thống nhất ý kiến trong việc qui kết các căn bệnh xã hội như thiếu niên phạm pháp, quyên sinh, sinh đẻ ngoài hôn nhân, trầm cảm, và đủ thứ xáo trộn tâm sinh lý khác cho các hậu quả dài hạn và tai hại mà ly dị đã gây ra cho các cơ cấu xã hội.
Tan vỡ hôn nhân không chỉ là hậu quả của nền văn hóa thế tục và cuộc cách mạng tình dục mà thôi; xét cho cùng, nó còn do bản chất tội lỗi, sa ngã và chỉ biết đến mình nữa. Điều này nhất quán với nền nhân học về sự bất toàn. Bởi thế, như lời Đức Phanxicô nói, lẽ đương nhiên hôn nhân và gia đình “làm gia tăng các căng thẳng: giữa vị kỷ và vị tha, giữa lý trí và đam mê, giữa thèm muốn tức khắc và mục đích lâu dài. Nhưng gia đình cũng cung cấp cho ta các khuôn thước để giải quyết các căng thẳng này”.
Các điều hợp viên cuộc hội luận nhận định rằng luật lệ ly dị đã thay đổi rất nhiều trong 40, 50 năm nay, và việc này thực sự đã khiến cho ba thứ sau đây trong các tranh tụng về ly dị trở thành khôngliên quan gì nữa: ngoại tình, lạm dụng, và bỏ rơi. Từ ngày thông qua điều khoản cho phép ly dị không cần viện dẫn lỗi lầm, 3 lý do người ta vốn dùng để nghị án tiêu hôn đã trở thành phế tích của quá khứ.
Nhiều người tham dự hội luận tỏ ra tiếc nuối thời kỳ đã qua của những gia hộ ổn định, của những gia đình bền vững, những ngày xưa thân ái của thời hậu chiến mắn con trước khi ra đời của những đạo luật cho phép ly dị bừa bãi.
Tiến sĩ Ryan T. Anderson, một vị tham dự luận hội và là đồng tác giả cuốn What Is Marriage? Man and Woman: A Defense (Hôn Nhân Là Gì? Người Đàn Ông và Người Đàn Bà, Một Bênh Vực) là người hăng say đề cao các phúc lợi của cuộc hôn nhân bền vững đối với xã hội, tuy nhiên, ông cho hay: ta nên thận trọng đừng nên cho rằng thời trước khi có ly dị không cần lầm lỗi là thời kỳ tốt đẹp hơn.
Ông nói: “Tôi không muốn nói như thế… Đến một mức nào đó, ly dị không cần lầm lỗi quả có cố gắng giải quyết một vấn đề. Và vấn đề này có thực. Chỉ bất hạnh một điều: giải pháp nó đưa ra không phải là giải pháp đúng. Nên tôi không muốn nói: ta nên trở lại với thời kỳ trước khi có ly dị không cần lầm lỗi. Điều ta muốn là tiến tới một điều gì đó khác thế”.
Anderson nói rằng: một trong các ta thán hợp pháp chống lại hệ thống ly dị trước đây “là nó có quá nhiều trở ngại (adversarial); thực vậy, khi cần, khó mà ly dị đượ, vì bạn phải trưng dẫn đủ bằng chứng cho thấy người phối ngẫu của bạn bạo hành bạn; vả lại đôi khi tòa án còn thiên vị nữa”.
Thay vì đi tìm một hệ thống trong đó các tiêu chuẩn về bằng chứng trở nên tốt hơn, người ta lại đưa ra một hệ thống, trong đó, họ không cần bằng chứng chi cả, vì đâu cần viện dẫn lỗi lầm, thậm chí còn không cần bên kia phải đồng ý tiêu hôn. Theo Anderson, điều ấy cho thấy hôn nhân không cần phải vĩnh viễn nữa. Ông đồng ý với nhận định của Giám Mục Anh Giáo Michael Nazir’Ali, khi cho rằng ra khỏi hôn nhân còn dễ dàng hơn ra khỏi khoản nợ mua nhà.
Anderson ca ngợi chiều hướng mới tiến tới hôn nhân giao ước, trong đó có một số thủ tục nhất định để giải quyết khi hôn nhân hết hy vọng cứu vãn. Tiểu bang Louisiana của Mỹ đang đi theo chiều hướng này: khởi đầu, hai vợ chồng gặp cố vấn hôn nhân, rồi phải đợi thêm một thời gian trước khi ly dị, rồi phải qua nhiều bước, mới kết thúc ly dị. Theo ông, luật pháp cần nhấn mạnh hôn nhân là một tương quan nghiêm túc; ra khỏi nó không phải là việc tùy tiện muốn làm thế nào cũng được, cần có những thủ tục nghiêm túc.
Xây dựng những gia hộ hoàng gia
Theo Đức Phanxicô, việc bãi bỏ nền văn hóa tôn giáo truyền thống của gia đình và hôn nhân, tức mối tương quan đơn hôn, có tính giao ước giữa một người đàn ông và một người đàn bà để sinh sản và dạy dổ con cái là “một cuộc cách mạng phong hóa và luân lý”. Nó “thường phất ngọn cờ tự do, nhưng thực tế, nó tàn phá không biết bao nhiêu con người về tâm linh và vật chất, nhất là những người nghèo nhất và yếu thế nhất”.
Ngài nói rằng “gia đình cung cấp nơi chốn chính để ta vươn tới sự cao cả, nhờ biết cố gắng thể hiện khả năng trọn vẹn của mình đạt tới nhân đức và đức ái”.
Nếu cần một đồng lãnh đạo không chính thức cho hội luận thì chắc phải là Giáo Sĩ Jonathan Sacks, người một lần nữa đã rất nổi bật về phương diện trí thức, tâm linh, và cả thực nghiệm nữa trong lãnh vực này.
Sacks đã từng đau khổ chứng kiến cảnh Nước Đại Anh mau chóng nhường đất cho các ý thức hệ duy tục về tính dục và hôn nhân. Hiện nay, tại đây, 42 phần trăm các cuộc hôn nhân kết liễu bằng ly dị và việc sống chung đang trở thành hình thức thay thế cho hôn nhân, nhưng chỉ kéo dài trung bình 2 năm.
Ông cho hay: “Ở Đại Anh hiện nay, hơn một triệu trẻ em lớn lên mà không được tiếp xúc chi với cha các em cả. Điều này đang tạo ra hố phân cách trong các xã hội, một phân cách chưa từng có bao giờ kể từ ngày Disrael nói tới ‘hai quốc gia’ cách nay hai thế kỷ rưỡi”.
Giáo sĩ Sacks cảnh cáo rằng giai cấp cai trị hiện nay đang hưởng lợi trước tình thế hỗn độn này. Lang chạ tình dục và các ý tưởng cấp tiến về hôn nhân như đa hôn, đa ái (polyamorous) “đang nhân gấp bội cơ may cho các ghế làm vua hay làm kẻ có quyền được truyền lại cho thế hệ kế tiếp. Trong chế độ đơn hôn, kẻ giầu và kẻ có quyền mất thế, nhưng người nghèo và người vô quyền được lợi”.
Ông giải thích: “Việc hướng về đơn hôn đi ngược lại khuynh hướng thay đổi xã hội bình thường. Nó là một chiến thắng thực sự cho phẩm giá bình đẳng của mọi người, trong đó, mọi cô dâu và chàng rể đều là vua chúa, mọi gia hộ đều là cung điện khi được trang trí bằng tình yêu”.
Đã đến lúc phải chơi trò tấn công
Một trong các bài diễn văn chủ lực sau cùng là của mục sư Tin Lành Rick Warren. Ông nói đùa: có một điều nguy hiểm khi làm diễn giả thứ 28, vì người ta đã nói hết rồi. “Còn gì để nói đây?”.
Ông bảo: Ông phải viết lại bài diễn văn bằng cách chỉ nói tới một vài nhận định thực tế, về việc các nhà lãnh đạo nên tấn công ra sao để thắng cuộc chiến tranh về hôn nhân và gia đình.
Điều đáng buồn là hiện nay ai cũng biết hôn nhân đang bị làm ra hoen ố. Nó bị bác bỏ như là một truyền thống lỗi thời do con người bày ra; nó bị kết án là kẻ thù của đàn bà; nó bị hạ bệ như là hạn chế tham vọng nghề nghiệp; nó bị bôi lọ trong phim ảnh, truyền hình, và người ta trì hoãn nó vì sợ nó hạn chế tự do bản thân.
Trước tình thế ấy, Giáo Hội không thể hèn nhát giữ im lặng. Nguy cơ quá lớn không cho phép ta làm vậy. Theo mục sư, ta phải can đảm dấn thân “khẳng định thẩm quyền của Lời Chúa. Chân lý vẫn còn là chân lý, bất kể người ta hoài nghi về nó thế nào. Tôi có thể bác bỏ luật sức hút, nhưng điều này chẳng thay đổi luật sức hút chút nào. Ta không phá luật, luật phá ta”.
Việc quan trọng, theo ông, là công khai nhìn nhận và cử hành các cuộc hôn nhân lành mạnh. “Bênh vực hôn nhân không đủ, ta phải cử hành nó. Ta phải là người đề xuất những gì là đúng, không phải chỉ là người phản đối những gì là sai. Ta phải đưa ra một thay thế hấp dẫn đối với các hứa hẹn hão huyền của thế gian”.
Ông nhắc tới điển hình tại Nhà Thờ của ông, nơi các cặp vợ chồng lên trình bầy chứng từ của họ, và là nơi hàng năm có nghi thức tuyên thệ lại lời đoan hứa lúc kết hôn. “Lời nói lung lay gương bày lôi kéo”.
Sau đó, ta cần liên tục nhấn mạnh tới các ơn ích của hôn nhân và thuyết phục người khác hỗ trợ bằng các dữ kiện. Thí dụ: con cái được cả cha lẫn mẹ dưỡng dục là những đứa trẻ khỏe mạnh hơn, hạnh phúc hơn và mạnh mẽ hơn. Chúng ít thất bại ở trường, ít lạm dụng ma túy, ít bị giam cầm, ít bị lo âu, trầm cảm, và ít có khuynh hướng tự sát hơn.
Ta cần cho người ta thấy tiêu hôn có hại cho người nghèo hơn cả. Bà mẹ đơn chiếc khó có thể trở thành người nâng đỡ đáng tin về kinh tế… Người đàn ông lấy vợ và tiếp tục cuộc sống hôn nhân thường ít bệnh tật hơn, sống lâu hơn đàn ông độc thân, thu hái nhiều của cải hơn đàn ông độc thân…
Cuối cùng, Warren nói rằng ta cần vận động mọi cơ sở truyền thông để cổ vũ hôn nhân. Theo ông, “bên nào kể truyện hay nhất, bên ấy thắng”. Ông cho rằng cần có nhiều cuốn video kiểu của hội luận lần này hơn nữa nhằm mô tả những cuộc hôn nhân hân hoan hạnh phúc đầy cam kết dấn thân. Ta phải sử dụng truyền thông để chất vấn các láo khoét văn hóa… vì chúng chưa bao giờ bị chất vấn.
Trong phần kết luận, Mục Sư Warren trình bày 6 mục đích của hôn nhân: loại bỏ cô đơn, nói lên tính dục con người cách thích đáng, nhân thừa nòi giống người, bảo vệ và dạy dỗ con cái, hoàn thiện hóa nhân cách, phản ảnh sự kết hợp của ta với Chúa Kitô.
Một trong các mục đích quan trọng nhất là làm ta nên thánh, chứ không chỉ hạnh phúc. Hôn nhân là “phòng thí nghiệm để học cách yêu thương… là trường học hy sinh. Nó là đại học để học hỏi vị tha, là giảng khóa suốt đời để nên giống Chúa Kitô… Dụng cụ hạng nhất Thiên Chúa dùng lên khuôn bạn chính là người phối ngẫu của bạn”.
Ông cho hay: tình yêu hỗ tương và các vai trò thánh hóa giữa các người phối ngẫu bổ túc cho nhau là ý nghĩa sâu sắc nhất của hôn nhân. Đây là lý do mạnh mẽ nhất tại sao hôn nhân chỉ có thể giữa một người đàn ông và một người đàn bà.
“Không có mối tương quan nào, kể cả mối tương quan cha mẹ và con cái, có thề hình dung được sự kết hợp thân mật này. Định nghĩa lại hôn nhân là phá hủy hình ảnh mà Thiên Chúa muốn vẽ ra. Ta không thể thoái lui trong vấn đề này. Nó là hình ảnh Chúa Kitô hiện diện trong Giáo Hội”.
Theo ký giả Michael Severance của The Catholic World Report, Đức GH Phanxicô đã có một tiếng nói mạnh mẽ tại hội luận liên tôn kỳ này, không giống như lúc ngài tham dự THĐ mới đây về gia đình, trong đó phần lớn ngài đóng vai người nghe. Trong bài diễn văn dài 10 phút mở đầu hội luận, ngài nói với 350 nhà lãnh đạo liên tôn rằng trẻ em có “quyền được lớn lên trong một gia đình có cha có mẹ có khả năng tạo nên một môi trường thích đáng cho đứa trẻ phát triển và trưởng thành về xúc cảm”.
Ngài nhấn mạnh rằng các nhà lãnh đạo liên hệ tới trẻ em và sự lành mạnh lâu dài của xã hội dân sự phải “ cỏ vũ các rường cột nền tảng đang quản trị các quốc gia… Gia đình là nền tảng của việc sống chung và là phương thuốc chữa căn bệnh phân mảnh xã hội”.
Trích dẫn chính tông huấn Niềm Vui Tin Mừng của ngài, Đức Phanxicô nói thêm: “Việc đóng góp của hôn nhân cho xã hội là điều ‘không thể thiếu’;… gia đình ‘vượt lên trên mọi cảm xúc và mọi nhu cầu tạm bợ của vợ chồng. Và đó là lý do tại sao tôi biết ơn qúy vị vì hội luận của qúy vị đã nhấn mạnh tới các phúc lợi do hôn nhân mang tới cho con cái, cho chính các cặp vợ chồng và cho xã hội.
“Trong những ngày này, khi qúy vị khởi sự suy tư về vẻ đẹp của tính bổ túc nam nữ trong hôn nhân, tôi khẩn khoản xin qúy vị đề cao hơn nữa một chân lý khác về hôn nhân: đó là chỉ có sự cam kết vĩnh viễn đối với tình liên đới, lòng trung thành và tình yêu sinh hoa trái mới đáp ứng được các khát vọng sâu xa nhất của trái tim con người mà thôi.
“Tôi khẩn khoản xin qúy vị đặc biệt nhớ tới người trẻ là những người đại diện cho tương lai ta. Qúy vị hãy cam kết sao cho giới trẻ của ta không nhường bước đối với thứ môi sinh tạm bợ đầy độc dược, nhưng đúng hơn trở thành những nhà cách mạng dám can đảm lên đường tìm kiếm tình yêu chân thực và lâu bền, chống lại kiểu mẫu thông thường”.
Cuối cùng Đức Thánh Cha yêu cầu cử tọa, gồm các nhà thần học, khoa học xã hội, tâm lý học, cố vấn hôn nhân, luật sự gia đình, chuyên viên truyền thông, các thừa tác viên, và các mục tử thuộc 14 truyền thống tín ngưỡng khác nhau đến từ 23 quốc gia, hãy đoàn kết trong một tinh thần không thiên vị và không bè phái: “Qúy vị đừng để mình rơi vào tình thế bị các ý niệm chính trị lung lạc. Gia đình là một sự kiện nhân học, một sự kiện liên hệ tới xã hội và văn hóa.
“Ta không thể nghĩ tới các ý niệm bảo thủ hay cấp tiến. Gia đình là gia đình. Nó không thể bị khoác cho các ý niệm có tính ý thức hệ”.
Gốc rễ của tính bổ túc: tạo dựng, tính được ban cho (given-ness) và việc hoàn tất
Tập chú vào nhân quyền căn bản của đứa trẻ là được dưỡng dục bởi cả cha lẫn mẹ, Đức Phanxicô cho hay: tính bổ túc là một ý niệm phong phú về ý nghĩa liên quan tới các vai trò tự nhiên, đan kết với nhau và rất cần thiết của vợ và chồng trong việc lên khuôn các gia hộ hạnh phúc và lành mạnh. Họ “làm việc với nhau vì lợi ích của toàn thể; các tài năng của mọi người có thể cùng nhau làm việc vì ích lợi của mỗi người”. Đối với ngài, tính bổ túc “không là gì khác ngoài việc cân nhắc các hòa hợp đầy năng động tại tâm điểm của Tạo Dựng”.
Suốt hội luận, loạt phim giáo dục tựa là Humanum (Nhân Bản) đã được chiếu lần đầu làm phong phú thêm các cuộc thảo luận về mầu nhiệm sinh học của sự bổ túc tính dục trong hôn nhân.
Peter Kreeft, một giáo sư triết học tại Cao Đẳng Boston và là một tác giả quen thuộc, đã xuất hiện trong phim đầu tiên. Ông cho rằng ta có “hai cặp chữ không hoàn toàn giống nhau ‘nam và nữ’, ‘đực và cái’”.
Ông giải thích: “Nam và nữ có tính sinh học. Chúng đòi một thân xác, chúng đòi các yếu tố di truyền. Đực hay cái có tính vũ trụ học (cosmological).
“Mọi xã hội trong lịch sử thế giới đều đã thấy rằng âm và dương, đực và cái, không phải chỉ con người mới có, hay chỉ con vật mới có. Mọi ngôn ngữ mà tôi biết, trừ tiếng Anh, đều có danh từ giống đực giống cái. Mặt trời luôn ở giống đực (chàng), mặt trăng luôn ở giống cái (nàng)”.
Kreeft cho biết thêm: ta không nên giản lược vẻ đẹp và sự mầu nhiệm của giống đực giống cái trong ngôn ngữ, coi nó chỉ như “một phóng chiếu tính dục của ta lên vũ trụ.
“Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra tính dục con người cũng đã sáng tạo ra vũ trụ. Hai giống (đực và cái) rất thích đáng. Nó là một triết lý hạnh phúc hơn nhiều. Ta thích ứng với bản nhiên sự vật”.
Tiếp theo cuốn video của giáo sư Kreeft, diễn giả đầu tiên trong ngày khai mạc là Ngài Jonathan Sacks, nguyên Giáo Sĩ Trưởng Do Thái Giáo của Vương Quốc Thống Nhất (Anh) và Khối Thịnh Vượng Chung. Giáo sĩ Sacks nói rằng ta sẽ hiểu tính bổ túc của hai phái giống một cách tốt nhất khi suy nghĩ về điều nền văn hóa đương thời vốn dạy ta: hoặc ta là “điều gì đó” hoặc ta “không là gì” cả.
Nhưng giáo sĩ cho hay: trong Do Thái Giáo, ta học thấy rằng “ta chỉ là một nửa. Ta phải mở cửa chào đón một nửa khác nếu ta muốn trở nên toàn bộ”.
Thứ nhân học cổ điển trên được diễn giải bởi một chuyên viên của hội luận, đó là tiến sĩ Samuel Gregg, giám đốc nghiên cứu của Viện Acton có trụ sở tại Michigan.
Tiến sĩ Gregg nói rằng ở cốt lõi nền nhân học trên, một nền nhân học chung của phần lớn các tham dự viên hội luận, là niềm tin cho rằng điều đã “được ban” cho ta trong trật tự tự nhiên là một trật tự do Thiên Chúa sáng lập. Đó là nền nhân học dẫn ta tới việc hiểu được con người nhân bản dựa trên các sự thật khách quan.
Ông cho hay: “điểm dị biệt tối hậu ở đây là giữa hai nền nhân học. Nền nhân học do rất nhiều tham dự viên phát biểu, nhất là các tham dự viên Do Thái Giáo và Kitô Giáo, coi con người nhân bản như những hữu thể “được ban” cho theo nghĩa ta là ai. Bản sắc ta và trọn bộ vấn đề tính dục đều là những điều đã được ban cho, và ta biết được nó nhờ Mạc Khải và luật tự nhiên”.
Ở phía kia là chủ trương cho rằng bản sắc con người, trong yếu tính, vốn “co dãn” (plastic): co dãn theo nghĩa ta xác định ta là ai dựa trên các cảm xúc (feelings) của mình và một ý chí quyết bác bỏ hay làm ngơ các tầm nhìn thông xuốt không những của Mạc Khải mà của cả lý trí tự nhiên nữa.
Tiến sĩ Gregg nói thêm rằng quan điểm thứ hai không những tương đối hóa ý nghĩa tính thể lý của ta và tính bổ túc nam nữ mà còn tương đối hóa cả “tính được ban cho (hồng phúc)” như là nam hoặc nữ nữa, một “tính hồng phúc bắt nguồn từ chính trật tự tạo dựng, vốn được phác thảo cách sâu sắc trong Thánh Kinh Do Thái và được chính Chúa Kitô xác nhận”.
Cuối cùng, Đức HY Gerhard Müller, tổng trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin và là người chủ trì chính của hội luận, đã liên kết mọi ngôn từ nhân học lại với nhau, khi cho rằng điều hết sức tự nhiên là “mỗi người chúng ta đều cảm thấy thiếu thốn và thiếu sót cần được hoàn tất. Sự kiện không thể nào xóa nhòa khỏi bản nhiên con người này cho thấy sự lệ thuộc căn để của ta: ta không tự hoàn tất được mình bằng chính bản ngã mình, ta hoàn toàn không tự mình đầy đủ được”.
Luôn cam kết: cuộc khủng hoảng kết hợp, vĩnh cửu và hy vọng
Theo Đức Phanxicô, “hôn nhân và gia đình ngày nay đang gặp khủng hoảng. Ta đang sống trong nền văn hóa tạm bợ, trong đó, càng ngày càng có nhiều người đơn thuần bỏ cuộc đối với hôn nhân như một cam kết công khai”.
Thực vậy, ngày nay, thách đố của ta là “chiếm lại” cái hiểu chung không những về bản chất hôn nhân, mà cả về các thực hành của nó như một thề hứa suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm sinh sản và dưỡng dục con cái một cách yêu thương và trách nhiệm.
Mô phỏng Đức Thánh Cha, chủ tịch Trung Tâm Văn Hóa Tawasul ở Cairo, Ai Cập, Ông Wael Forrouq, nói rằng, trên thực tế, ta từng để cho nền văn hóa phù phiếm bén rễ trong hậu bán thế kỷ 20; trong nền văn hóa này,các liên hệ nhân bản bị coi như “thoáng qua và tạm bợ”. Ông tự hỏi ta phải làm gì để đưa nền văn hóa nhân bản, ở cả Đông lẫn Tây Phương, trở về với chiều hướng vĩnh cửu.
Học giả Á Căn Đình và là TGĐ của Grupo Sólido, ông Ignacio Ibarzabal, khi lên tiếng trong cùng một nhóm với Forrouq, cũng có chung một phê phán như Đức Phanxicô về nền văn hóa vứt bỏ, hay “nền văn hóa tạm bợ” bằng chứng là các liên hệ tan tành vỡ vụn, được ông coi là nguồn gốc gây ra “không biết bao nhiêu đau khổ không cần thiết” và nỗi chán chường chung.
Ibarzabal nhận định rằng một phần của việc phân mảnh này phải qui lỗi cho rất nhiều nhân tố khác hơn là cha mẹ trong việc dưỡng dục trẻ em ngày nay, từ hệ thống trường công tới internet, nơi chúng chỉ xây dựng các mối liên hệ và những cuộc đàm đạo ngắn hạn, thoáng qua trên các phương tiện truyền thông xã hội như Facebook, Twitter, và WhatsApp.
Ibarzabal gọi đó là “cuộc khủng hoảng kết hợp”, một cuộc khủng hoảng đang phát sinh ra cả một thế hệ người trẻ sống mà không có hy vọng nào xây dựng được những mối liên hệ bền chặt và thân mật.
Ông kể lại cách việc trên xuất hiện ra sao dưới ánh sáng các nghiên cứu xã hội học về các thiếu nữ 15 tuổi gần Buenos Aires, cựu TGP của Đức Giáo Hoàng. Ông cho biết: khi trả lời bản câu hỏi do ông đưa ra, 100% thiếu nữ đều nói “có” đối với câu hỏi liệu các em có muốn “một tình yêu kéo dài suốt đời” hay không. Tuy nhiên, khi hỏi câu hỏi tiếp theo rằng liệu các em có thực sự tin có thứ tình yêu suốt đời hay không, thì 80% trả lời “không”, cho rằng nó không thể có được. Ông cho hay, các câu trả lời này làm ông rất chưng hửng, vì lớp tuổi này thường là lớp tuổi “lãng mạn và không tưởng” nhất hạng, đầy mộng mơ về những điều mình có thể làm được.
Gia đình như nguồn gây ra căng thẳng, nhưng cũng đem lại tăng trưởng
Các diễn giả tại hội luận, thuộc đủ mọi tín ngưỡng và hệ phái, đã thống nhất ý kiến trong việc qui kết các căn bệnh xã hội như thiếu niên phạm pháp, quyên sinh, sinh đẻ ngoài hôn nhân, trầm cảm, và đủ thứ xáo trộn tâm sinh lý khác cho các hậu quả dài hạn và tai hại mà ly dị đã gây ra cho các cơ cấu xã hội.
Tan vỡ hôn nhân không chỉ là hậu quả của nền văn hóa thế tục và cuộc cách mạng tình dục mà thôi; xét cho cùng, nó còn do bản chất tội lỗi, sa ngã và chỉ biết đến mình nữa. Điều này nhất quán với nền nhân học về sự bất toàn. Bởi thế, như lời Đức Phanxicô nói, lẽ đương nhiên hôn nhân và gia đình “làm gia tăng các căng thẳng: giữa vị kỷ và vị tha, giữa lý trí và đam mê, giữa thèm muốn tức khắc và mục đích lâu dài. Nhưng gia đình cũng cung cấp cho ta các khuôn thước để giải quyết các căng thẳng này”.
Các điều hợp viên cuộc hội luận nhận định rằng luật lệ ly dị đã thay đổi rất nhiều trong 40, 50 năm nay, và việc này thực sự đã khiến cho ba thứ sau đây trong các tranh tụng về ly dị trở thành khôngliên quan gì nữa: ngoại tình, lạm dụng, và bỏ rơi. Từ ngày thông qua điều khoản cho phép ly dị không cần viện dẫn lỗi lầm, 3 lý do người ta vốn dùng để nghị án tiêu hôn đã trở thành phế tích của quá khứ.
Nhiều người tham dự hội luận tỏ ra tiếc nuối thời kỳ đã qua của những gia hộ ổn định, của những gia đình bền vững, những ngày xưa thân ái của thời hậu chiến mắn con trước khi ra đời của những đạo luật cho phép ly dị bừa bãi.
Tiến sĩ Ryan T. Anderson, một vị tham dự luận hội và là đồng tác giả cuốn What Is Marriage? Man and Woman: A Defense (Hôn Nhân Là Gì? Người Đàn Ông và Người Đàn Bà, Một Bênh Vực) là người hăng say đề cao các phúc lợi của cuộc hôn nhân bền vững đối với xã hội, tuy nhiên, ông cho hay: ta nên thận trọng đừng nên cho rằng thời trước khi có ly dị không cần lầm lỗi là thời kỳ tốt đẹp hơn.
Ông nói: “Tôi không muốn nói như thế… Đến một mức nào đó, ly dị không cần lầm lỗi quả có cố gắng giải quyết một vấn đề. Và vấn đề này có thực. Chỉ bất hạnh một điều: giải pháp nó đưa ra không phải là giải pháp đúng. Nên tôi không muốn nói: ta nên trở lại với thời kỳ trước khi có ly dị không cần lầm lỗi. Điều ta muốn là tiến tới một điều gì đó khác thế”.
Anderson nói rằng: một trong các ta thán hợp pháp chống lại hệ thống ly dị trước đây “là nó có quá nhiều trở ngại (adversarial); thực vậy, khi cần, khó mà ly dị đượ, vì bạn phải trưng dẫn đủ bằng chứng cho thấy người phối ngẫu của bạn bạo hành bạn; vả lại đôi khi tòa án còn thiên vị nữa”.
Thay vì đi tìm một hệ thống trong đó các tiêu chuẩn về bằng chứng trở nên tốt hơn, người ta lại đưa ra một hệ thống, trong đó, họ không cần bằng chứng chi cả, vì đâu cần viện dẫn lỗi lầm, thậm chí còn không cần bên kia phải đồng ý tiêu hôn. Theo Anderson, điều ấy cho thấy hôn nhân không cần phải vĩnh viễn nữa. Ông đồng ý với nhận định của Giám Mục Anh Giáo Michael Nazir’Ali, khi cho rằng ra khỏi hôn nhân còn dễ dàng hơn ra khỏi khoản nợ mua nhà.
Anderson ca ngợi chiều hướng mới tiến tới hôn nhân giao ước, trong đó có một số thủ tục nhất định để giải quyết khi hôn nhân hết hy vọng cứu vãn. Tiểu bang Louisiana của Mỹ đang đi theo chiều hướng này: khởi đầu, hai vợ chồng gặp cố vấn hôn nhân, rồi phải đợi thêm một thời gian trước khi ly dị, rồi phải qua nhiều bước, mới kết thúc ly dị. Theo ông, luật pháp cần nhấn mạnh hôn nhân là một tương quan nghiêm túc; ra khỏi nó không phải là việc tùy tiện muốn làm thế nào cũng được, cần có những thủ tục nghiêm túc.
Xây dựng những gia hộ hoàng gia
Theo Đức Phanxicô, việc bãi bỏ nền văn hóa tôn giáo truyền thống của gia đình và hôn nhân, tức mối tương quan đơn hôn, có tính giao ước giữa một người đàn ông và một người đàn bà để sinh sản và dạy dổ con cái là “một cuộc cách mạng phong hóa và luân lý”. Nó “thường phất ngọn cờ tự do, nhưng thực tế, nó tàn phá không biết bao nhiêu con người về tâm linh và vật chất, nhất là những người nghèo nhất và yếu thế nhất”.
Ngài nói rằng “gia đình cung cấp nơi chốn chính để ta vươn tới sự cao cả, nhờ biết cố gắng thể hiện khả năng trọn vẹn của mình đạt tới nhân đức và đức ái”.
Nếu cần một đồng lãnh đạo không chính thức cho hội luận thì chắc phải là Giáo Sĩ Jonathan Sacks, người một lần nữa đã rất nổi bật về phương diện trí thức, tâm linh, và cả thực nghiệm nữa trong lãnh vực này.
Sacks đã từng đau khổ chứng kiến cảnh Nước Đại Anh mau chóng nhường đất cho các ý thức hệ duy tục về tính dục và hôn nhân. Hiện nay, tại đây, 42 phần trăm các cuộc hôn nhân kết liễu bằng ly dị và việc sống chung đang trở thành hình thức thay thế cho hôn nhân, nhưng chỉ kéo dài trung bình 2 năm.
Ông cho hay: “Ở Đại Anh hiện nay, hơn một triệu trẻ em lớn lên mà không được tiếp xúc chi với cha các em cả. Điều này đang tạo ra hố phân cách trong các xã hội, một phân cách chưa từng có bao giờ kể từ ngày Disrael nói tới ‘hai quốc gia’ cách nay hai thế kỷ rưỡi”.
Giáo sĩ Sacks cảnh cáo rằng giai cấp cai trị hiện nay đang hưởng lợi trước tình thế hỗn độn này. Lang chạ tình dục và các ý tưởng cấp tiến về hôn nhân như đa hôn, đa ái (polyamorous) “đang nhân gấp bội cơ may cho các ghế làm vua hay làm kẻ có quyền được truyền lại cho thế hệ kế tiếp. Trong chế độ đơn hôn, kẻ giầu và kẻ có quyền mất thế, nhưng người nghèo và người vô quyền được lợi”.
Ông giải thích: “Việc hướng về đơn hôn đi ngược lại khuynh hướng thay đổi xã hội bình thường. Nó là một chiến thắng thực sự cho phẩm giá bình đẳng của mọi người, trong đó, mọi cô dâu và chàng rể đều là vua chúa, mọi gia hộ đều là cung điện khi được trang trí bằng tình yêu”.
Đã đến lúc phải chơi trò tấn công
Một trong các bài diễn văn chủ lực sau cùng là của mục sư Tin Lành Rick Warren. Ông nói đùa: có một điều nguy hiểm khi làm diễn giả thứ 28, vì người ta đã nói hết rồi. “Còn gì để nói đây?”.
Ông bảo: Ông phải viết lại bài diễn văn bằng cách chỉ nói tới một vài nhận định thực tế, về việc các nhà lãnh đạo nên tấn công ra sao để thắng cuộc chiến tranh về hôn nhân và gia đình.
Điều đáng buồn là hiện nay ai cũng biết hôn nhân đang bị làm ra hoen ố. Nó bị bác bỏ như là một truyền thống lỗi thời do con người bày ra; nó bị kết án là kẻ thù của đàn bà; nó bị hạ bệ như là hạn chế tham vọng nghề nghiệp; nó bị bôi lọ trong phim ảnh, truyền hình, và người ta trì hoãn nó vì sợ nó hạn chế tự do bản thân.
Trước tình thế ấy, Giáo Hội không thể hèn nhát giữ im lặng. Nguy cơ quá lớn không cho phép ta làm vậy. Theo mục sư, ta phải can đảm dấn thân “khẳng định thẩm quyền của Lời Chúa. Chân lý vẫn còn là chân lý, bất kể người ta hoài nghi về nó thế nào. Tôi có thể bác bỏ luật sức hút, nhưng điều này chẳng thay đổi luật sức hút chút nào. Ta không phá luật, luật phá ta”.
Việc quan trọng, theo ông, là công khai nhìn nhận và cử hành các cuộc hôn nhân lành mạnh. “Bênh vực hôn nhân không đủ, ta phải cử hành nó. Ta phải là người đề xuất những gì là đúng, không phải chỉ là người phản đối những gì là sai. Ta phải đưa ra một thay thế hấp dẫn đối với các hứa hẹn hão huyền của thế gian”.
Ông nhắc tới điển hình tại Nhà Thờ của ông, nơi các cặp vợ chồng lên trình bầy chứng từ của họ, và là nơi hàng năm có nghi thức tuyên thệ lại lời đoan hứa lúc kết hôn. “Lời nói lung lay gương bày lôi kéo”.
Sau đó, ta cần liên tục nhấn mạnh tới các ơn ích của hôn nhân và thuyết phục người khác hỗ trợ bằng các dữ kiện. Thí dụ: con cái được cả cha lẫn mẹ dưỡng dục là những đứa trẻ khỏe mạnh hơn, hạnh phúc hơn và mạnh mẽ hơn. Chúng ít thất bại ở trường, ít lạm dụng ma túy, ít bị giam cầm, ít bị lo âu, trầm cảm, và ít có khuynh hướng tự sát hơn.
Ta cần cho người ta thấy tiêu hôn có hại cho người nghèo hơn cả. Bà mẹ đơn chiếc khó có thể trở thành người nâng đỡ đáng tin về kinh tế… Người đàn ông lấy vợ và tiếp tục cuộc sống hôn nhân thường ít bệnh tật hơn, sống lâu hơn đàn ông độc thân, thu hái nhiều của cải hơn đàn ông độc thân…
Cuối cùng, Warren nói rằng ta cần vận động mọi cơ sở truyền thông để cổ vũ hôn nhân. Theo ông, “bên nào kể truyện hay nhất, bên ấy thắng”. Ông cho rằng cần có nhiều cuốn video kiểu của hội luận lần này hơn nữa nhằm mô tả những cuộc hôn nhân hân hoan hạnh phúc đầy cam kết dấn thân. Ta phải sử dụng truyền thông để chất vấn các láo khoét văn hóa… vì chúng chưa bao giờ bị chất vấn.
Trong phần kết luận, Mục Sư Warren trình bày 6 mục đích của hôn nhân: loại bỏ cô đơn, nói lên tính dục con người cách thích đáng, nhân thừa nòi giống người, bảo vệ và dạy dỗ con cái, hoàn thiện hóa nhân cách, phản ảnh sự kết hợp của ta với Chúa Kitô.
Một trong các mục đích quan trọng nhất là làm ta nên thánh, chứ không chỉ hạnh phúc. Hôn nhân là “phòng thí nghiệm để học cách yêu thương… là trường học hy sinh. Nó là đại học để học hỏi vị tha, là giảng khóa suốt đời để nên giống Chúa Kitô… Dụng cụ hạng nhất Thiên Chúa dùng lên khuôn bạn chính là người phối ngẫu của bạn”.
Ông cho hay: tình yêu hỗ tương và các vai trò thánh hóa giữa các người phối ngẫu bổ túc cho nhau là ý nghĩa sâu sắc nhất của hôn nhân. Đây là lý do mạnh mẽ nhất tại sao hôn nhân chỉ có thể giữa một người đàn ông và một người đàn bà.
“Không có mối tương quan nào, kể cả mối tương quan cha mẹ và con cái, có thề hình dung được sự kết hợp thân mật này. Định nghĩa lại hôn nhân là phá hủy hình ảnh mà Thiên Chúa muốn vẽ ra. Ta không thể thoái lui trong vấn đề này. Nó là hình ảnh Chúa Kitô hiện diện trong Giáo Hội”.
Đức Thánh Cha Phanxicô tham dự Đại Hội Quốc Tế về Mục Vụ Di Dân
Bùi Hữu Thư
19:16 21/11/2014
Ngài nói Giáo Hội cung ứng nguồn hy vọng cho những người cô đơn và bị loại ra ngoài lề xã hội
Vatican, ngày 21, tháng 11, 2014 (Zenit.org)
Trước các tham dự viên của Đại Hội Quốc Tế lần thứ 7 về Mục Vụ Di Dân, Đức Thánh Cha Phanxicô phát biểu: những ai di cư đều hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn cho gia đình, “ngay cả khi phải chấp nhận sự thất bại và tuyệt vọng.”
Theo một thông cáo của Văn Phòng Truyền Thông của Tòa Thánh, ba ngày Đại Hội đề cao sự cần thiết của việc hợp tác và phát triển trong mục vụ di dân.
Đức Thánh Cha nói các yếu tố gây nên việc di dân gồm có: hoàn cảnh bất bình đẳng, tìng trạng nghèo khổ, dân số quá đông, chiến tranh, áp bức, thiên tai và nạn thất nghiệp trong giới trẻ. Ngài cũng nhấn mạnh rằng, trong khi các quốc gia tiếp nhận di dân “được hưởng lợi trong việc xử dụng các di dân trong nhu cầu sản xuất”, một số các quốc gia gốc bị mất đi những người di dân, nhận thấy có sự suy giảm về con số thất nghiệp nhưng lại có lợi nhuận nhờ nhận được tiền họ gửi về giúp gia đình.
Ngài nói: “Cuối cùng các di dân, đã có thể thỏa mãn ước mơ là sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn cho mình và gia đình.”
“Tuy nhiên chúng ta biết rằng vẫn còn một vài vấn đề liên quan tới các lợi ích này. Chúng ta thấy các quốc gia nguồn gốc cũng chịu ảnh hưởng của sự thiếu hụt “chất xám”, và con em và giới trẻ lớn lên phải thiếu văng một hay cả ai cha mẹ, và nguy cơ hôn nhân tan vỡ vì xa cách lâu dài.”
Các vấn đề khác Đức Thánh Cha ghi nhận là các di dân tới định cư tại các khu vực gặp phải nhiều khó khăn trong việc hội nhập và học biết các tập quán mới về xã hội và văn hóa.
Muốn được như vậy, Đức Thánh Cha nói: các thừa tác viên mục vụ đóng một vai trò quan trọng qua đối thoại, trợ giúp trong các vấn đề pháp luật và làm trung gian giao hảo với các dân địa phương.
Đức Thánh Cha nói: “Ngược lại tại các quốc gia định cư, sự gần gũi của các thừa tác viên mục vụ đối với gia đình và con cái của các phụ huynh di cư có thể làm giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của sự xa vắng phụ huynh.”
“Giáo Hội cổ võ các chương trình mục vụ về việc truyền giáo và yểm trợ di dân trong suốt hành trình từ quê hương của họ qua các nước trung gian tới quốc gia tị nạn. Giáo Hội chú tâm đặc biệt đến việc đáp ứng các nhu cầu thiêng liêng của di dân, qua việc dậy giáo lý, phụng vụ và cử hành các bí tích.”
Đức Thánh Cha, 77 tuổi tiếp rằng Giáo Hội cũng cung cấp nguồn hy vọng cho các di dân đã trải qua nhiều kinh nghiệm bất mãn, tuyệt vọng và cô đơn.
Ngài nói: “Khi tiếp xúc với di dân, điều quan trọng là phải có một viễn cảnh tổng hợp, để có thể trân qúy các khả năng của mình thay vì coi như chỉ là các vấn đề phải đối phó và giải quyết.”.
“Quyền lợi chân chính về phát triển đối với tất cả mọi người đều được tôn trọng. Điều này đòi hỏi là tất cả mọi người đều cam đoan được phép tham gia tối thiểu vào đời sống của cộng đồng Kitô, nơi không ai là một khách lạ và, vì vậy tất cả mọi người đều xứng đáng được đón chào và trợ giúp.”
Để kết luận, Đức Thánh Cha Phanxicô cầu xin Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse bảo vệ cho người di dân, vì chính các ngài cũng đã cảm nghiệm những khó khăn khi bị lưu đầy bên Ai Cập.”
Vatican, ngày 21, tháng 11, 2014 (Zenit.org)
Trước các tham dự viên của Đại Hội Quốc Tế lần thứ 7 về Mục Vụ Di Dân, Đức Thánh Cha Phanxicô phát biểu: những ai di cư đều hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn cho gia đình, “ngay cả khi phải chấp nhận sự thất bại và tuyệt vọng.”
Theo một thông cáo của Văn Phòng Truyền Thông của Tòa Thánh, ba ngày Đại Hội đề cao sự cần thiết của việc hợp tác và phát triển trong mục vụ di dân.
Đức Thánh Cha nói các yếu tố gây nên việc di dân gồm có: hoàn cảnh bất bình đẳng, tìng trạng nghèo khổ, dân số quá đông, chiến tranh, áp bức, thiên tai và nạn thất nghiệp trong giới trẻ. Ngài cũng nhấn mạnh rằng, trong khi các quốc gia tiếp nhận di dân “được hưởng lợi trong việc xử dụng các di dân trong nhu cầu sản xuất”, một số các quốc gia gốc bị mất đi những người di dân, nhận thấy có sự suy giảm về con số thất nghiệp nhưng lại có lợi nhuận nhờ nhận được tiền họ gửi về giúp gia đình.
Ngài nói: “Cuối cùng các di dân, đã có thể thỏa mãn ước mơ là sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn cho mình và gia đình.”
“Tuy nhiên chúng ta biết rằng vẫn còn một vài vấn đề liên quan tới các lợi ích này. Chúng ta thấy các quốc gia nguồn gốc cũng chịu ảnh hưởng của sự thiếu hụt “chất xám”, và con em và giới trẻ lớn lên phải thiếu văng một hay cả ai cha mẹ, và nguy cơ hôn nhân tan vỡ vì xa cách lâu dài.”
Các vấn đề khác Đức Thánh Cha ghi nhận là các di dân tới định cư tại các khu vực gặp phải nhiều khó khăn trong việc hội nhập và học biết các tập quán mới về xã hội và văn hóa.
Muốn được như vậy, Đức Thánh Cha nói: các thừa tác viên mục vụ đóng một vai trò quan trọng qua đối thoại, trợ giúp trong các vấn đề pháp luật và làm trung gian giao hảo với các dân địa phương.
Đức Thánh Cha nói: “Ngược lại tại các quốc gia định cư, sự gần gũi của các thừa tác viên mục vụ đối với gia đình và con cái của các phụ huynh di cư có thể làm giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của sự xa vắng phụ huynh.”
“Giáo Hội cổ võ các chương trình mục vụ về việc truyền giáo và yểm trợ di dân trong suốt hành trình từ quê hương của họ qua các nước trung gian tới quốc gia tị nạn. Giáo Hội chú tâm đặc biệt đến việc đáp ứng các nhu cầu thiêng liêng của di dân, qua việc dậy giáo lý, phụng vụ và cử hành các bí tích.”
Đức Thánh Cha, 77 tuổi tiếp rằng Giáo Hội cũng cung cấp nguồn hy vọng cho các di dân đã trải qua nhiều kinh nghiệm bất mãn, tuyệt vọng và cô đơn.
Ngài nói: “Khi tiếp xúc với di dân, điều quan trọng là phải có một viễn cảnh tổng hợp, để có thể trân qúy các khả năng của mình thay vì coi như chỉ là các vấn đề phải đối phó và giải quyết.”.
“Quyền lợi chân chính về phát triển đối với tất cả mọi người đều được tôn trọng. Điều này đòi hỏi là tất cả mọi người đều cam đoan được phép tham gia tối thiểu vào đời sống của cộng đồng Kitô, nơi không ai là một khách lạ và, vì vậy tất cả mọi người đều xứng đáng được đón chào và trợ giúp.”
Để kết luận, Đức Thánh Cha Phanxicô cầu xin Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse bảo vệ cho người di dân, vì chính các ngài cũng đã cảm nghiệm những khó khăn khi bị lưu đầy bên Ai Cập.”
Phúc trình dân số đầy tính ý thức hệ của LHQ
Vũ Văn An
22:11 21/11/2014
Theo tin AP, ngày 18 tháng Mười Một vừa qua, Qũy Dân Số của LHQ đã cho công bố bản phúc trình của họ, nhấn mạnh rằng các yếu tố về dân số đang thay đổi, chủ yếu tại Phi Châu và Á Châu, có thể dẫn tới một tăng trưởng nhanh về kinh tế nếu có đủ đầu tư vào giới trẻ.
Cơ quan này cho rằng một “lời lãi do dân số” (demographic dividend) có thể xẩy ra khi số dân ở tuổi lao động của một nước lớn hơn số dân ở tuổi cao hơn hay nhỏ hơn, vốn sống lệ thuộc.
Babatunde Osotimehin, Tổng Giám Đốc của Qũy, cho hay: “Con số kỷ lục 1.8 tỷ người trẻ hiện nay cho ta thấy một cơ hội to lớn để biến đổi tương lai. Chưa bao giờ có một tiềm năng lớn như thế đối với tiến bộ kinh tế và xã hội”.
Theo ông, 90 phần trăm số người trẻ trên hiện sống trong các quốc gia kém mở mang nơi họ đang gặp rất nhiều trở ngại đối với quyền được hưởng giáo dục, y tế và thoát khỏi bạo lực. Có tới 57 triệu người trẻ không được học hành, và người trẻ hiện nay chiếm tới 2 phần 5 người thất nghiệp trên hế giới.
Trong Phúc Trình năm 2014 về Tình Trạng Dân Số Thế Giới của mình, Qũy này cho hay: các thay đổi về dân số hiện diễn ra tại 60 quốc gia kém phát triển, chủ yếu tại Phi Châu và Á Châu, đang mở ra triển vọng để họ đạt được một mức lời do dân số đem lại. Tầm cỡ của mức lời này phần lớn tùy thuộc mức đầu tư người ta sẵn sàng bỏ ra đối với người trẻ để họ thể hiện trọn vẹn tiềm năng của họ.
Osotimehin nói rằng bản phúc trình này khuyến cáo phải khẩn cấp đầu tư để người trẻ tham gia các cộng đồng của họ và việc phát triển quốc gia. Nhất là phải đầu tư vào nền giáo dục có liên quan, có chất lượng cao, vào nền chăm sóc y tế toàn diện và tạo cơ hội để người trẻ kiếm kế sinh nhai.
Ông nêu Đông Á làm điển hình: những đầu tư của vùng này trong thập niên 1960 vào người trẻ đã mang lại một mức lời giúp gia tăng tổng sản lượng quốc gia tới 6 phần trăm và gia tăng thu nhập theo đầu người tới 4 lần tại một số quốc gia. Nếu vùng Hạ Sahara của Phi Châu cũng áp dụng cùng một chiến lược như thế, họ sẽ tạo nên “một phép lạ kinh tế”, mỗi năm đem thêm 500 tỷ dollars cho nền kinh tế của họ.
Khuyến khích phá thai, đĩ điếm
Nếu chỉ đọc bản phúc trình trong những nét đại cương ấy, ta thấy nó khá khoa học và quả góp phần tạo ra mức lời hiển nhiên và đáng kể cho các nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, như tường trình của Rebecca Oas thuộc Viện Gia Đình và Nhân Quyền Công Giáo (Catholic Family and Human Rights Institute), rất nhiều chi tiết trong phúc trình cho thấy Qũy Dân Số LHQ đưa ra rất nhiều khuyến cáo có tính ý thức hệ nhằm hạ thấp nếp sống lành mạnh của tuổi trẻ hiện đại.
Thực vậy, một trong các công thức mang lợi lại cho xã hội do Qũy đề xướng là các thiếu niên được tự do phá thai, loại bỏ tuổi ưng thuận, loại bỏ các luật lệ về ma túy và đĩ điếm, và giảm thiểu quyền cha mẹ được can dự vào việc giáo dục sinh lý cho con cái mình.
Phúc trình nguyên văn nói như thế này: “người trẻ đòi hỏi hàng loạt các dịch vụ khác nhau về y tế tính dục và sinh sản, kể cả…việc chăm sóc để các em phá thai an toàn”. Theo Qũy Dân Số LHQ, hệ thống luật pháp tại đa số các quốc gia không thực thi đúng đắn các cam kết họ ký thự trong các hiệp ước quốc tế, và cần phải “theo kịp các thực tế của thiếu niên và người trẻ”.
Nhưng nào có hiệp ước quốc tế nào nói tới phá thai hay cho phép người lớn cung cấp các dịch vụ tính dục cho người trẻ!
Qũy Dân Số LHQ đặc biệt lưu tâm tới luật lệ về tuổi ưng thuận, tức các luật lệ đòi các thiếu niên phải có phép của cha mẹ mới được phá thai, ngừa thai hay các dịch vụ khác như các chương trình trao đổi kim chích cho những người sử dụng ma túy. Vì thế, Phúc Trình lần này cho rằng “Các luật lệ về tuổi ưng thuận đi ngược lại ý niệm này: người trẻ nên được tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng tới họ phù hợp các các khả năng đang diễn biến của họ”.
Qũy Dân Số LHQ cũng chỉ trích các luật lệ chống “tác phong đồng tính, sử dụng ma túy, hay bán tình dục hoặc lao động tình dục” vì cho rằng các luật lệ này cản trở không cho người trẻ thể hiện các quyền của họ trong lãnh vực y tế tình dục và sinh sản.
Điều nghịch lý là tuy phúc trình nhìn nhận rằng: điều lý tưởng là cha mẹ trở thành nguồn thông tri và hướng dẫn đệ nhất đẳng về tính dục cho người trẻ, nhưng sau khi cho rằng trên thực tế, họ đã không làm được như vậy vì thường cha mẹ không biết cách nói với con cái họ về những vấn đề này, thay vì đề nghị biện pháp giúp cha mẹ chu toàn nghĩa vụ của họ, phúc trình lại đề nghị qua mặt họ và trao việc ấy cho “các can thiệp về chính sách”. Các can thiệp này cần “nới rộng các hạn chế về tuổi hay phải có sự ưng thuận của cha mẹ các thiếu niên mới được hưởng các dịch vụ”.
Thứ ngôn ngữ đề cao nhân quyền, tối đa hóa tiềm năng và loại bỏ rào cản tiến tới thành công của người trẻ trên đây thực ra chỉ là một chiêu bài che đây quan tâm hàng đầu của Qũy Dân Số LHQ là hạn chế gia tăng dân số. Tiền đề cho rằng việc giảm sinh suất của các nước đang phát triển sẽ thúc đẩy họ tiến tới thịnh vượng là điều đáng nghi vấn. Những nước có sinh suất kém thì thực tế sẽ càng ngày càng ít người trẻ và nhiều người già hơn, và do đó, càng gia tăng gánh nặng tài chánh. Các nhà kinh tế học vốn nhận định rằng giảm sinh suất thường đến sau, chứ không đến trước, việc gia tăng thịnh vượng kinh tế.
Mặc dù phúc trình nhìn nhận rằng người trẻ bị kìm hãm bởi ứ đọng kinh tế, thiếu giáo dục hoặc cơ hội làm việc, quan tâm chính của nó lại là cảnh nghèo “có thể là rào cản mạnh mẽ khiến các cá nhân không có được những gì họ cần để đạt được sự lành mạnh của họ về tính dục và sinh sản cũng như các quyền về sinh sản”.
Nói chung, phúc trình này quả quyết rằng chìa khóa của phát triển là bảo đảm để tác phong tình dục của người trẻ khỏi bị giám sát, bất hạn chế, được công chúng tài trợ và, trên hết, không có tính sinh sản. Qũy Dân Số LHQ cho rằng việc áp đặt chính sách vô quyền đối với tính dục (sexual anarchy) người trẻ là bảo đảm phúc lợi của họ và phúc lợi thế giới.
Bản tin của Catholic World News cũng cho biết thêm: phúc trình của Qũy Dân Số LHQ nói trên tố cáo ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo trong việc chống đối “việc giáo dục toàn diện về tính dục” cho người trẻ và phê phán các nhà lãnh đạo và các cha mẹ có tôn giáo trong việc kiểm soát việc tìm kiếm thông tri và dịch vụ.
Cơ quan này cho rằng một “lời lãi do dân số” (demographic dividend) có thể xẩy ra khi số dân ở tuổi lao động của một nước lớn hơn số dân ở tuổi cao hơn hay nhỏ hơn, vốn sống lệ thuộc.
Babatunde Osotimehin, Tổng Giám Đốc của Qũy, cho hay: “Con số kỷ lục 1.8 tỷ người trẻ hiện nay cho ta thấy một cơ hội to lớn để biến đổi tương lai. Chưa bao giờ có một tiềm năng lớn như thế đối với tiến bộ kinh tế và xã hội”.
Theo ông, 90 phần trăm số người trẻ trên hiện sống trong các quốc gia kém mở mang nơi họ đang gặp rất nhiều trở ngại đối với quyền được hưởng giáo dục, y tế và thoát khỏi bạo lực. Có tới 57 triệu người trẻ không được học hành, và người trẻ hiện nay chiếm tới 2 phần 5 người thất nghiệp trên hế giới.
Trong Phúc Trình năm 2014 về Tình Trạng Dân Số Thế Giới của mình, Qũy này cho hay: các thay đổi về dân số hiện diễn ra tại 60 quốc gia kém phát triển, chủ yếu tại Phi Châu và Á Châu, đang mở ra triển vọng để họ đạt được một mức lời do dân số đem lại. Tầm cỡ của mức lời này phần lớn tùy thuộc mức đầu tư người ta sẵn sàng bỏ ra đối với người trẻ để họ thể hiện trọn vẹn tiềm năng của họ.
Osotimehin nói rằng bản phúc trình này khuyến cáo phải khẩn cấp đầu tư để người trẻ tham gia các cộng đồng của họ và việc phát triển quốc gia. Nhất là phải đầu tư vào nền giáo dục có liên quan, có chất lượng cao, vào nền chăm sóc y tế toàn diện và tạo cơ hội để người trẻ kiếm kế sinh nhai.
Ông nêu Đông Á làm điển hình: những đầu tư của vùng này trong thập niên 1960 vào người trẻ đã mang lại một mức lời giúp gia tăng tổng sản lượng quốc gia tới 6 phần trăm và gia tăng thu nhập theo đầu người tới 4 lần tại một số quốc gia. Nếu vùng Hạ Sahara của Phi Châu cũng áp dụng cùng một chiến lược như thế, họ sẽ tạo nên “một phép lạ kinh tế”, mỗi năm đem thêm 500 tỷ dollars cho nền kinh tế của họ.
Khuyến khích phá thai, đĩ điếm
Nếu chỉ đọc bản phúc trình trong những nét đại cương ấy, ta thấy nó khá khoa học và quả góp phần tạo ra mức lời hiển nhiên và đáng kể cho các nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, như tường trình của Rebecca Oas thuộc Viện Gia Đình và Nhân Quyền Công Giáo (Catholic Family and Human Rights Institute), rất nhiều chi tiết trong phúc trình cho thấy Qũy Dân Số LHQ đưa ra rất nhiều khuyến cáo có tính ý thức hệ nhằm hạ thấp nếp sống lành mạnh của tuổi trẻ hiện đại.
Thực vậy, một trong các công thức mang lợi lại cho xã hội do Qũy đề xướng là các thiếu niên được tự do phá thai, loại bỏ tuổi ưng thuận, loại bỏ các luật lệ về ma túy và đĩ điếm, và giảm thiểu quyền cha mẹ được can dự vào việc giáo dục sinh lý cho con cái mình.
Phúc trình nguyên văn nói như thế này: “người trẻ đòi hỏi hàng loạt các dịch vụ khác nhau về y tế tính dục và sinh sản, kể cả…việc chăm sóc để các em phá thai an toàn”. Theo Qũy Dân Số LHQ, hệ thống luật pháp tại đa số các quốc gia không thực thi đúng đắn các cam kết họ ký thự trong các hiệp ước quốc tế, và cần phải “theo kịp các thực tế của thiếu niên và người trẻ”.
Nhưng nào có hiệp ước quốc tế nào nói tới phá thai hay cho phép người lớn cung cấp các dịch vụ tính dục cho người trẻ!
Qũy Dân Số LHQ đặc biệt lưu tâm tới luật lệ về tuổi ưng thuận, tức các luật lệ đòi các thiếu niên phải có phép của cha mẹ mới được phá thai, ngừa thai hay các dịch vụ khác như các chương trình trao đổi kim chích cho những người sử dụng ma túy. Vì thế, Phúc Trình lần này cho rằng “Các luật lệ về tuổi ưng thuận đi ngược lại ý niệm này: người trẻ nên được tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng tới họ phù hợp các các khả năng đang diễn biến của họ”.
Qũy Dân Số LHQ cũng chỉ trích các luật lệ chống “tác phong đồng tính, sử dụng ma túy, hay bán tình dục hoặc lao động tình dục” vì cho rằng các luật lệ này cản trở không cho người trẻ thể hiện các quyền của họ trong lãnh vực y tế tình dục và sinh sản.
Điều nghịch lý là tuy phúc trình nhìn nhận rằng: điều lý tưởng là cha mẹ trở thành nguồn thông tri và hướng dẫn đệ nhất đẳng về tính dục cho người trẻ, nhưng sau khi cho rằng trên thực tế, họ đã không làm được như vậy vì thường cha mẹ không biết cách nói với con cái họ về những vấn đề này, thay vì đề nghị biện pháp giúp cha mẹ chu toàn nghĩa vụ của họ, phúc trình lại đề nghị qua mặt họ và trao việc ấy cho “các can thiệp về chính sách”. Các can thiệp này cần “nới rộng các hạn chế về tuổi hay phải có sự ưng thuận của cha mẹ các thiếu niên mới được hưởng các dịch vụ”.
Thứ ngôn ngữ đề cao nhân quyền, tối đa hóa tiềm năng và loại bỏ rào cản tiến tới thành công của người trẻ trên đây thực ra chỉ là một chiêu bài che đây quan tâm hàng đầu của Qũy Dân Số LHQ là hạn chế gia tăng dân số. Tiền đề cho rằng việc giảm sinh suất của các nước đang phát triển sẽ thúc đẩy họ tiến tới thịnh vượng là điều đáng nghi vấn. Những nước có sinh suất kém thì thực tế sẽ càng ngày càng ít người trẻ và nhiều người già hơn, và do đó, càng gia tăng gánh nặng tài chánh. Các nhà kinh tế học vốn nhận định rằng giảm sinh suất thường đến sau, chứ không đến trước, việc gia tăng thịnh vượng kinh tế.
Mặc dù phúc trình nhìn nhận rằng người trẻ bị kìm hãm bởi ứ đọng kinh tế, thiếu giáo dục hoặc cơ hội làm việc, quan tâm chính của nó lại là cảnh nghèo “có thể là rào cản mạnh mẽ khiến các cá nhân không có được những gì họ cần để đạt được sự lành mạnh của họ về tính dục và sinh sản cũng như các quyền về sinh sản”.
Nói chung, phúc trình này quả quyết rằng chìa khóa của phát triển là bảo đảm để tác phong tình dục của người trẻ khỏi bị giám sát, bất hạn chế, được công chúng tài trợ và, trên hết, không có tính sinh sản. Qũy Dân Số LHQ cho rằng việc áp đặt chính sách vô quyền đối với tính dục (sexual anarchy) người trẻ là bảo đảm phúc lợi của họ và phúc lợi thế giới.
Bản tin của Catholic World News cũng cho biết thêm: phúc trình của Qũy Dân Số LHQ nói trên tố cáo ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo trong việc chống đối “việc giáo dục toàn diện về tính dục” cho người trẻ và phê phán các nhà lãnh đạo và các cha mẹ có tôn giáo trong việc kiểm soát việc tìm kiếm thông tri và dịch vụ.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Linh mục đoàn giáo phận Phú Cường tĩnh tâm năm 2014
Lm. Thanh Yên
09:49 21/11/2014
LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG: TĨNH TÂM NĂM 2014
Theo chương trình mục vụ năm 2014, Linh Mục Đoàn Giáo Phận Phú Cường sẽ tạm gác lại mọi công việc thường nhật, thực hiện một chuyến hành trình “đi ra khỏi nơi đang cư ngụ ” để đến một nơi cách xa hơn 300 km.
Sáng Thứ Hai, 17.11.2014, tại Nhà Chung Phú Cường, đoàn xe ca gồm 03 chiếc – trên đó có Đức Giám Mục Giáo Phận và 126 Linh Mục – xuất phát, thẳng tiến về vùng trời cao nguyên và sau hơn tám giờ di chuyển, đoàn đã đến điểm hẹn: Trung Tâm Don Bosco K’Long, thuộc Giáo Phận Đà Lạt.
Xem Hình
Chương trình Tĩnh Tâm Năm 2014 của Linh Mục Đoàn Giáo Phận Phú Cường được khai mạc và thực hiện bởi sự hướng dẫn của Đức Cha Mat-thêu Nguyễn Văn Khôi – Giám mục Giáo Phận Qui Nhơn, theo nội dung với chủ đề chính: “Linh Mục của một Hội Thánh đi ra dưới ánh sáng của tông huấn Niềm Vui Tin Mừng”, và được trình bày qua các đề tài:
1. Linh Mục xuất phát lại từ Đức Kitô,
2. Từ Mục Vụ bảo tồn đến Mục Vụ truyền giáo,
3. Ra đi loan báo Tin Mừng bằng Niềm Vui,
4. Ra khỏi chính mình,
5. Những địa chỉ cần đến.
Ngày cuối cùng, Linh Mục Đoàn dành riêng cho việc thảo luận, hoạch định chương trình mục vụ và thống nhất mục tiêu hành động cho Năm Phụng Vụ Mới 2015 của Giáo Phận Phú Cường là: “TÂN PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH CON CÁI Thiên Chúa”.
Sáng Thứ Sáu, 21.11.2014, bế mạc Tuần Tĩnh Tâm, Linh Mục Đoàn tiếp tục chuyến hành trình, nhưng lần này là hành trình “trở về” nơi vùng đất mẹ (Giáo Phận Phú Cường).
Hy vọng rằng, sau Tuần Tĩnh Tâm này, các vị mục tử của Giáo Phận Phú Cường được tràn đầy “Niềm Vui Tin Mừng” – như là những “ngọn lửa mẹ” – để rồi khi trở về cộng đoàn giáo xứ, các ngài sẽ truyền ngọn lửa này cho anh chị em Giáo Dân của mình cùng với ước mong: tất cả tín hữu Giáo phận Phú Cường cùng nhau thực hành sống tinh thần “Niềm Vui Tin Mừng”, và được cụ thể hóa qua việc “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình Con Cái Thiên Chúa”.
Xin chân thành cám ơn Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước – Giám Mục Giáo Phận Phú Cường và Đức Cha Mat-thêu Nguyễn Văn Khôi – Giám Mục Giáo Phận Qui Nhơn.
Chân thành cám ơn những người đã góp phần làm cho Tuần Tĩnh Tâm đạt kết quả như lòng mong ước.
Và xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
LM THANH YÊN
Theo chương trình mục vụ năm 2014, Linh Mục Đoàn Giáo Phận Phú Cường sẽ tạm gác lại mọi công việc thường nhật, thực hiện một chuyến hành trình “đi ra khỏi nơi đang cư ngụ ” để đến một nơi cách xa hơn 300 km.
Sáng Thứ Hai, 17.11.2014, tại Nhà Chung Phú Cường, đoàn xe ca gồm 03 chiếc – trên đó có Đức Giám Mục Giáo Phận và 126 Linh Mục – xuất phát, thẳng tiến về vùng trời cao nguyên và sau hơn tám giờ di chuyển, đoàn đã đến điểm hẹn: Trung Tâm Don Bosco K’Long, thuộc Giáo Phận Đà Lạt.
Xem Hình
Chương trình Tĩnh Tâm Năm 2014 của Linh Mục Đoàn Giáo Phận Phú Cường được khai mạc và thực hiện bởi sự hướng dẫn của Đức Cha Mat-thêu Nguyễn Văn Khôi – Giám mục Giáo Phận Qui Nhơn, theo nội dung với chủ đề chính: “Linh Mục của một Hội Thánh đi ra dưới ánh sáng của tông huấn Niềm Vui Tin Mừng”, và được trình bày qua các đề tài:
1. Linh Mục xuất phát lại từ Đức Kitô,
2. Từ Mục Vụ bảo tồn đến Mục Vụ truyền giáo,
3. Ra đi loan báo Tin Mừng bằng Niềm Vui,
4. Ra khỏi chính mình,
5. Những địa chỉ cần đến.
Ngày cuối cùng, Linh Mục Đoàn dành riêng cho việc thảo luận, hoạch định chương trình mục vụ và thống nhất mục tiêu hành động cho Năm Phụng Vụ Mới 2015 của Giáo Phận Phú Cường là: “TÂN PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH CON CÁI Thiên Chúa”.
Sáng Thứ Sáu, 21.11.2014, bế mạc Tuần Tĩnh Tâm, Linh Mục Đoàn tiếp tục chuyến hành trình, nhưng lần này là hành trình “trở về” nơi vùng đất mẹ (Giáo Phận Phú Cường).
Hy vọng rằng, sau Tuần Tĩnh Tâm này, các vị mục tử của Giáo Phận Phú Cường được tràn đầy “Niềm Vui Tin Mừng” – như là những “ngọn lửa mẹ” – để rồi khi trở về cộng đoàn giáo xứ, các ngài sẽ truyền ngọn lửa này cho anh chị em Giáo Dân của mình cùng với ước mong: tất cả tín hữu Giáo phận Phú Cường cùng nhau thực hành sống tinh thần “Niềm Vui Tin Mừng”, và được cụ thể hóa qua việc “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình Con Cái Thiên Chúa”.
Xin chân thành cám ơn Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước – Giám Mục Giáo Phận Phú Cường và Đức Cha Mat-thêu Nguyễn Văn Khôi – Giám Mục Giáo Phận Qui Nhơn.
Chân thành cám ơn những người đã góp phần làm cho Tuần Tĩnh Tâm đạt kết quả như lòng mong ước.
Và xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
LM THANH YÊN
Khôi Bình giáo tỉnh Sàigòn mừng ngày Khôi Bình Quốc Tế 2014
Giuse Nguyễn Hồ
10:00 21/11/2014
KB GIÁO TỈNH SÀIGÒN
MỪNG NGÀY KHÔI BÌNH QUỐC TẾ 2014
Ngày Lễ Khôi Bình Quốc Tế được KBVN tổ chức tại Trung Tâm Khôi Bình Việt Nam dành cho các thành viên Khôi Bình thuộc 8 giáo phận trực thuộc giáo tỉnh Sài Gòn vào ngày 1.11.2014.
Ý nghĩa ngày lễ KBQT là kỉ niệm ngày 27.10.1991, lễ tuyên phúc Linh mục Ađôn Khôi Bình lên hàng Chân Phước được cử hành trọng thể tại Đền Thánh Phêrô. Từ đó, ngày này được chọn là ngày KBQT để tất cả các thành viên Khôi Bình trên toàn thế giới tự hào về lịch sử của mình.
Thành phần tham dự: Đức TGM Tổng Giáo phận Tp.HCM Phaolô Bùi Văn Đọc, Cha Robert Henrich, Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng (phụ trách Tông đồ giáo dân TGP), Soeur Anna Lê Thị Kim Chi (quản lí trung tâm nuôi dạy trẻ khuyến tật Mái ấm Thiên Phước), đại diện chính quyền UBND Quận 12 và Phường An Phú Đông, BQG KBVN, BĐH KBVN, và hơn 400 thành viên Khôi Bình đã đến dự.
Công tác chuẩn bị cho ngày Lễ được BĐH KBVN và một số anh chị em khác tất bật hoàn thành để đón các thành viên đến dự. Khoảng 4h sáng ngày 1/11, phái đoàn sớm nhất có mặt là KBGP. Long Xuyên tiếp đó là Đà Lạt, Mỹ Tho… Mọi người đều rất mệt sau chuyến hành trình dài nhưng ai nấy đều tỏ vẻ hân hoan khi đặt chân đến Trung Tâm Khôi Bình- ngôi nhà chung của tất cả các thành viên trong đại Gia đình KBVN. Một số thành viên tới sớm dùng bữa sáng bằng xôi. Trong lúc ăn thì một số thành viên tranh thủ chụp vài tấm ảnh kỉ niệm với BQG KBVN và Cha Robert Henrich.
8h30, tất cả các phái đoàn đều đến đông đủ để bắt đầu khai mạc ngày lễ KBQT. Mọi người được xem trình chiếu lại các hoạt động nổi bậc và các điểm nhấn của KBVN trong năm vừa qua.
Sau đó, Cha Henrich có đôi lời chia sẻ, ngài nói Khôi Bình hiện giờ đã xuất hiện trên hơn 60 quốc gia trên toàn thế giới, bởi vậy Khôi Bình cũng giống như Giáo Hội Công Giáo có tính hoàn vũ. Ngài cũng hy vọng rằng KBVN ngày càng có nhiều người trẻ tham gia, vì tương lai KBVN gắn với thế hệ trẻ đầy năng động và nhiệt huyết này.
9h00 là phần tĩnh tâm do Cha Đaminh Nguyễn Đình Tân (Linh mục ĐHKBVN) hướng dẫn. Ngài hướng các tham dự viên tìm hiểu về ý nghĩa dấn thân của đường lối Khôi Bình trong Giáo Hội. Giáo Hội không phải là một xã hội trần thế vì còn mang tính chất thiêng liêng, nên chúng ta phục vụ cả xã hội và tâm linh, đưa người ta đến ơn cứu độ. Qua đó, ngài kêu gọi mọi người hãy thấy chỗ đứng của mình, phải làm gì có ích trong đoàn thể chúng ta đang sinh hoạt.
10h00, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tới, khi bước xuống xe, ngài được BQG KBVN đón ngay ở cổng, ngài đi vào khuôn viên TTKB bằng con đường đã được rất nhiều thành viên Khôi Bình trẻ đứng hai bên làm hàng chào trông rất đẹp. Ngài bắt đầu huấn từ cho các tham dự viên, ngài nói gia đình bây giờ đang là vấn đề đang được thảo luận khắp nơi trên thế giới mà mới đây là kì hợp Thượng HĐGM thế giới khóa ngoại thường thứ III về “những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”, cũng bàn với vấn đề gia đình. Vì vậy, Gia đình Khôi Bình rất hợp với thời đại chúng ta, ở đây mọi người xem như như anh chị em, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Ngài đưa ra những vấn đề bất cập ảnh hưởng đến đời sống gia đình: bạo lực gia đình, tự do luyến ái, phá thai,… Ngài cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh đó, Gia đình Khôi Bình cần phải hành động để đương đầu với thử thách khó khăn. Vì gia đình là tế bào của xã hội, xã hội muốn mạnh thì trước hết gia đình phải ổn.
10h30, bắt đầu Thánh lễ, đúng là Thánh lễ là đỉnh điểm của ngày lễ KBQT hôm nay. Do trùng với ngày lễ các Thánh Nam Nữ nên Đức TGM xin các Thánh hãy che chở và cầu bầu cùng Chúa cho tất cả mọi người, đồng thời ngài cũng mời gọi chúng ta hãy nên Thánh bằng con đường hợp với từng hoàn cảnh mỗi người, mà Linh đạo Khôi Bình là một trong những con đường đó.
Cuối lễ, anh GT KBVN thay mặt cho các anh chị em Khôi Bình cảm ơn Đức TGM, Cha Ernest, quý Tu sĩ, quý khách, đại diện chính quyền địa phương và hứa Gia đình Khôi Bình sẽ cố gắng nổ lực hơn nữa để trở thành chứng nhân Chúa Kitô giữa xã hội.
Kết thúc, tất cả mọi người dùng cơm trưa thân mật với nhau. Đáng trân trọng khi Gia đình Khôi Bình Cồn Phước (thuộc GĐKBGP. Long Xuyên) đã hăng hái phục vụ chu đáo cho bàn khách mời, một số thành viên Khôi Bình Xuân Lộc tiếp tay vô cơm hộp cho từng thành viên, và một số thành viên Khôi Bình Mỹ Tho gom nhặt rác quanh khuôn viên khi mọi người đã dùng cơm xong. Chúng ta có thể nói rằng đây chinh là tinh thần Khôi Bình.
Sau đó, mọi người chia tay nhau ra về trong niềm hân hoan. Quả đúng là ngày hội dành cho các thành viên Khôi Bình. Trong từng người vẫn đâu đó có chung niềm vui và tự hào khi được Đức TGM đến dự, ban huấn từ, và dùng cơm với mọi người. Xin chúc quý khách mời nhiều sức khỏe, và chúc cho các thành viên Khôi Bình đến dự nói riêng và KBVN nói chung luôn sống đúng với Lời Chúa, Giáo huấn về xã hội của Giáo Hội Công Giáo và tư tưởng của Cha Thánh Ađôn Khôi Bình để có đủ hành trang mà đi ra xã hội đang đầy rẫy gian khó này.
Giuse Nguyễn Hồ
MỪNG NGÀY KHÔI BÌNH QUỐC TẾ 2014
Ý nghĩa ngày lễ KBQT là kỉ niệm ngày 27.10.1991, lễ tuyên phúc Linh mục Ađôn Khôi Bình lên hàng Chân Phước được cử hành trọng thể tại Đền Thánh Phêrô. Từ đó, ngày này được chọn là ngày KBQT để tất cả các thành viên Khôi Bình trên toàn thế giới tự hào về lịch sử của mình.
Thành phần tham dự: Đức TGM Tổng Giáo phận Tp.HCM Phaolô Bùi Văn Đọc, Cha Robert Henrich, Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng (phụ trách Tông đồ giáo dân TGP), Soeur Anna Lê Thị Kim Chi (quản lí trung tâm nuôi dạy trẻ khuyến tật Mái ấm Thiên Phước), đại diện chính quyền UBND Quận 12 và Phường An Phú Đông, BQG KBVN, BĐH KBVN, và hơn 400 thành viên Khôi Bình đã đến dự.
Công tác chuẩn bị cho ngày Lễ được BĐH KBVN và một số anh chị em khác tất bật hoàn thành để đón các thành viên đến dự. Khoảng 4h sáng ngày 1/11, phái đoàn sớm nhất có mặt là KBGP. Long Xuyên tiếp đó là Đà Lạt, Mỹ Tho… Mọi người đều rất mệt sau chuyến hành trình dài nhưng ai nấy đều tỏ vẻ hân hoan khi đặt chân đến Trung Tâm Khôi Bình- ngôi nhà chung của tất cả các thành viên trong đại Gia đình KBVN. Một số thành viên tới sớm dùng bữa sáng bằng xôi. Trong lúc ăn thì một số thành viên tranh thủ chụp vài tấm ảnh kỉ niệm với BQG KBVN và Cha Robert Henrich.
8h30, tất cả các phái đoàn đều đến đông đủ để bắt đầu khai mạc ngày lễ KBQT. Mọi người được xem trình chiếu lại các hoạt động nổi bậc và các điểm nhấn của KBVN trong năm vừa qua.
Sau đó, Cha Henrich có đôi lời chia sẻ, ngài nói Khôi Bình hiện giờ đã xuất hiện trên hơn 60 quốc gia trên toàn thế giới, bởi vậy Khôi Bình cũng giống như Giáo Hội Công Giáo có tính hoàn vũ. Ngài cũng hy vọng rằng KBVN ngày càng có nhiều người trẻ tham gia, vì tương lai KBVN gắn với thế hệ trẻ đầy năng động và nhiệt huyết này.
9h00 là phần tĩnh tâm do Cha Đaminh Nguyễn Đình Tân (Linh mục ĐHKBVN) hướng dẫn. Ngài hướng các tham dự viên tìm hiểu về ý nghĩa dấn thân của đường lối Khôi Bình trong Giáo Hội. Giáo Hội không phải là một xã hội trần thế vì còn mang tính chất thiêng liêng, nên chúng ta phục vụ cả xã hội và tâm linh, đưa người ta đến ơn cứu độ. Qua đó, ngài kêu gọi mọi người hãy thấy chỗ đứng của mình, phải làm gì có ích trong đoàn thể chúng ta đang sinh hoạt.
10h00, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tới, khi bước xuống xe, ngài được BQG KBVN đón ngay ở cổng, ngài đi vào khuôn viên TTKB bằng con đường đã được rất nhiều thành viên Khôi Bình trẻ đứng hai bên làm hàng chào trông rất đẹp. Ngài bắt đầu huấn từ cho các tham dự viên, ngài nói gia đình bây giờ đang là vấn đề đang được thảo luận khắp nơi trên thế giới mà mới đây là kì hợp Thượng HĐGM thế giới khóa ngoại thường thứ III về “những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”, cũng bàn với vấn đề gia đình. Vì vậy, Gia đình Khôi Bình rất hợp với thời đại chúng ta, ở đây mọi người xem như như anh chị em, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Ngài đưa ra những vấn đề bất cập ảnh hưởng đến đời sống gia đình: bạo lực gia đình, tự do luyến ái, phá thai,… Ngài cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh đó, Gia đình Khôi Bình cần phải hành động để đương đầu với thử thách khó khăn. Vì gia đình là tế bào của xã hội, xã hội muốn mạnh thì trước hết gia đình phải ổn.
10h30, bắt đầu Thánh lễ, đúng là Thánh lễ là đỉnh điểm của ngày lễ KBQT hôm nay. Do trùng với ngày lễ các Thánh Nam Nữ nên Đức TGM xin các Thánh hãy che chở và cầu bầu cùng Chúa cho tất cả mọi người, đồng thời ngài cũng mời gọi chúng ta hãy nên Thánh bằng con đường hợp với từng hoàn cảnh mỗi người, mà Linh đạo Khôi Bình là một trong những con đường đó.
Cuối lễ, anh GT KBVN thay mặt cho các anh chị em Khôi Bình cảm ơn Đức TGM, Cha Ernest, quý Tu sĩ, quý khách, đại diện chính quyền địa phương và hứa Gia đình Khôi Bình sẽ cố gắng nổ lực hơn nữa để trở thành chứng nhân Chúa Kitô giữa xã hội.
Kết thúc, tất cả mọi người dùng cơm trưa thân mật với nhau. Đáng trân trọng khi Gia đình Khôi Bình Cồn Phước (thuộc GĐKBGP. Long Xuyên) đã hăng hái phục vụ chu đáo cho bàn khách mời, một số thành viên Khôi Bình Xuân Lộc tiếp tay vô cơm hộp cho từng thành viên, và một số thành viên Khôi Bình Mỹ Tho gom nhặt rác quanh khuôn viên khi mọi người đã dùng cơm xong. Chúng ta có thể nói rằng đây chinh là tinh thần Khôi Bình.
Sau đó, mọi người chia tay nhau ra về trong niềm hân hoan. Quả đúng là ngày hội dành cho các thành viên Khôi Bình. Trong từng người vẫn đâu đó có chung niềm vui và tự hào khi được Đức TGM đến dự, ban huấn từ, và dùng cơm với mọi người. Xin chúc quý khách mời nhiều sức khỏe, và chúc cho các thành viên Khôi Bình đến dự nói riêng và KBVN nói chung luôn sống đúng với Lời Chúa, Giáo huấn về xã hội của Giáo Hội Công Giáo và tư tưởng của Cha Thánh Ađôn Khôi Bình để có đủ hành trang mà đi ra xã hội đang đầy rẫy gian khó này.
Giuse Nguyễn Hồ
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ruộng Đồng Phì Nhiêu
Dominic Đức Nguyễn
22:16 21/11/2014
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Nhất thốn thổ nhất thốn kim.
(Ca dao)