Phụng Vụ - Mục Vụ
Đợi chờ trong hi vọng
Lm Trần Bình Trọng
08:52 24/11/2011
Hằng năm, mỗi khi mùa Vọng đến, thường cho loài người cảm giác mong mỏi, đợi chờ. Bốn tuần lễ mùa vọng tượng trưng cho thời gian lâu dài mà dân Chúa trong Cựu ước mong đợi Ðấng Cứu thế. Vì thế mà Thánh kinh Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.
Bài trích sách ngôn sứ Isaia hôm nay ghi nhận tội lỗi của dân Chúa: tội bất trung và quên lãng ơn Chúa. Do đó vị ngôn sứ khẩn cầu Chúa thương xót mà ngự đến để giải thoát dân chúng khỏi cảnh lầm than và đưa dẫn họ về đường trung nghĩa: Vì tình thương đối với tôi tớ, là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại (Is 63:17). Bằng lời cầu khẩn cho dân chúng, ngôn sứ Isaia khơi dậy nơi họ niềm hi vọng. Và dân chúng cũng nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Chúa đến, họ cũng được nhắc nhở rằng Chúa cũng trông đợi họ bỏ đường tội lỗi để trở về với Chúa. Qua những bức thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô cho thấy giáo dân Corintô đang trải qua cơn khủng hoảng trong cộng đoàn. Cộng đoàn tín hữu Corintô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm và sống trong cảnh vô trật tự sau khi thánh Phaolô rời cộng đoàn đi truyền giáo nơi khác. Vì thế thánh nhân khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng đợi chờ ngày Chúa đến lần thứ hai (1Cr 1:8). Còn giáo dân La mã thời bấy giờ thì đang trải qua cuộc bắt đạo. Thánh sử Marcô bảo họ phải tỉnh thức.
Phải chăng người tín hữu đời nay cũng đang gặp cảnh khó khăn thử thách về đời sống vật chất, tinh thần và thiêng liêng? Phải chăng có những người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lí đã bị đảo lộn? Có những người cảm thấy mất mát khi thấy gia đình đổ vỡ, những liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đã trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không nói là đã bị cắt đứt? Còn những ngưòi khác có thể cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin của con cháu đã trở nên bê trễ ?
Riêng đối với khối người di cư ra ngoại quốc, có những người có thể cảm thấy nhớ cảnh thân mật duới mái gia đình và cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ khi xưa? Có những người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu không còn nhớ đến tổ tiên, họ hàng và không còn biết nói tiếng mẹ? Những người khác cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị giới hạn? Có những người cảm thấy tủi hổ khi thấy mình già cả, bị con cháu cho qua mặt, không còn được coi là thích hợp và hữu dụng?
Thêm vào đó, người ta còn có thể gặp đau khổ, bệnh tật về thể xác hay tinh thần khiến nên đặt những câu hỏi tại sao. Tại sao Chúa gửi bệnh tật, đau khổ đến với ta? Tại sao Chúa gửi thánh giá, tai hoạ đến cho gia đình ta? Bệnh tật và sự chết là nhiệm mầu. Ta không hiểu được tại sao bệnh tật và sự chết đến với mỗi cá nhân vào thời điểm này?
Ðứng trước những cảnh khó khăn trắc trở, ngôn sứ Isaia nhắc nhở cho dân Do thái đặt niềm hi vọng vào Ðấng Cứu thế sẽ đến. Thánh Phaolô khuyên giáo dân Corintô phải trung thành đến cùng. Còn thánh sử Mác-cô nhắc đi nhắc lại cho giáo dân La mã đến bốn lần phải canh thức đợi chờ chủ đến (Mc 13:33, 35, 36, 37) vào lúc chập tối, lúc nửa đêm, lúc gà gáy, hay lúc tảng sáng. Tỉnh thức hay canh thức không phải là trạng thái tĩnh, ngồi chờ cách thụ động, nhưng là tư thế sẵn sàng chờ việc kế tiếp. Như vậy theo lời ngôn sứ Isaia, lời thánh Phaolô và lời thánh sử Mác-cô, ta phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay vì để cho hoàn cảnh và trở ngại đè bẹp.
Mỗi người phải đặt cho mình một mối hi vọng nào đó: hi vọng con cái thành đạt, hi vọng có việc làm, hi vọng đời sống kinh tế gia đình sẽ được cải tiến, hi vọng đời sống đạo hạnh được phát triển, hi vọng mối liên hệ gia đình sẽ được phát triển, hi vọng ngày mai trời lại sáng. Còn hi vọng là còn cầu nguyện. Khi tuyệt vọng, người ta sẽ thôi cầu nguyện. Ðồi với người Do thái, thì Giavê là niềm hi vọng của họ. Ðộng lực khiến họ đặt hi vọng vào Ðức Giavê là những việc lạ lùng Người đã làm cho họ trong quá khứ. Ðối với ngưởi Kitô giáo, thì Chúa Cứu thế phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.
Mùa Vọng mà Giáo hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo hội dùng phụng vụ lời Chúa để khơi dậy trong ta lòng mong mỏi đợi chờ Chúa đến. Việc Chúa đến lần thứ nhất trong lịch sử loài người đã được thực hiện khi Chúa Cứu thế sinh tại Bêlem. Việc Chúa đến lần thứ hai cũng đã được thực hiện và còn tiếp tục được thực hiện khi Chúa đến bằng ơn thánh trong mỗi bí tích ta lãnh nhận, trong lời cầu nguyện và việc hi sinh bác ái ta làm. Việc Chúa đến lần thứ ba sẽ xẩy ra khi Chúa sai thiên thần đến gọi ta ra khỏi đời này. Việc Chúa đến lần bốn và là lần sau hết khi Chúa đến vào ngày sau hết để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nếu ta tỉnh thức đợi chờ, thì Chúa đến vào giai đoạn nào đi nữa trong ba giai đoạn cuối, thì việc đợi chờ của ta sẽ là đợi chờ trong hi vọng. Còn nếu không tỉnh thức, thì việc đợi chờ sẽ trở thành đợi chờ trong lo âu, sợ hãi.
Lời cầu nguyện: xin cho được biết đợi chờ trong hi vọng:
Lạy Chúa, Chúa là nguồn hi vọng của người tín hữu.
Xin dạy con giữ vững niềm hi vọng vào việc Chúa đến,
để giải thoát con khỏi cảnh lầm than, sầu khổ và tội lỗi.
Xin cho con biết tỉnh thức đợi chờ trong hi vọng.
Xin đừng để con bao giờ ngã lòng trông cậy Chúa.
Và xin Chúa là niềm hi vọng và là lẽ sống của đời con. Amen.
Giới thiệu Sách: Hằng tuần Chúa nói – Ta đáp, Năm B
của linh mục Trần Bình Trọng mới được tái bản
(in lần hai tại Việt Nam với những sửa chữa và thêm bớt nhỏ do chính tác giả thực hiện)
Muốn có sách, xin hỏi mua tại các Nhà sách Kì Đồng, Nhà sách Hoàng Mai, Nhà sách Fatima Bình Triệu, Nhà sách Hà Nội,
Nhà sách Toà GM Long Khánh, Nhà sách Toà GM Nha Trang, Nhà sách Toà GM Ban Mê Thuột, nhà sách ở Vinh,
và nhiều nhà sách khác nữa tại Việt Nam để có sách dùng cho Năm Phụng Vụ B 2012.
Giá mỗi cuốn là 42.000 đồng. Sau chu kì ba năm lại có thể dùng lại, và cứ thế mãi nếu muốn.
Sách dày 340 trang, gồm 84 bài chiêm niệm lời Chúa trong Thánh lễ
(4 bài Mùa Vọng, 5 Giáng Sinh, 9 Mùa Chay, 10 Phục sinh, 36 Mùa Thường Niên, 13 lễ trọng,
lễ kính và lễ đặc biệt vào Chúa nhật, 7 lễ đặc biệt khác (gồm 5 lễ Tết Nguyên Đán).
- Sách nhằm chia sẻ với quí linh mục quá bận rộn với công việc giáo xứ và với quí tu sĩ nam nữ.
- Tuy nhiên chủ đích của tác giả là nhắm chia sẻ với quí giáo dân Công Giáo trong việc sửa soạn tâm hồn
khi đến thánh đường đón nhận Lời Chúa trong thánh lễ và chiêm niệm Lời Ngài trong tuần.
- Sách còn nhắm chia sẻ với cả quí tín đồ Chính Thống Giáo và Tin Lành và quí vị thuộc những tôn giáo khác
hoặc ngoài tôn giáo với tâm tư thao thức đi tìm sự thật hoặc tìm hiểu những suy tư thần học
trong Thánh Kinh và cách sống đạo của người Công Giáo.
Tập sách này cũng được giới thiệu trên trang Web: Chúa nói ta đáp của LM Trần Bình Trọng.
Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam: Sống vì Đạo
+TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
09:20 24/11/2011
Lễ các thánh Tử đạo Việt Nam (24/11)
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Phúc Âm Lc 9, 23-26: Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hi sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi ? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột ? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quí hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quí. Nhưng còn những thứ cao quí hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quí. Nhưng có những giá trị còn cao quí hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quí. Nhưng linh hồn còn cao quí hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quí hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quí. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quí. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quí nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. Người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được phục sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa và vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng rằng đức tin là gia tài cao quí nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhã, chịu hành hạ đau đớn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa và từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quí. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải mất chức tước danh vọng. Để đi theo Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ ri rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực. Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình ? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển ?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không ?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không ?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
![]() |
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hi sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi ? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột ? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quí hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quí. Nhưng còn những thứ cao quí hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quí. Nhưng có những giá trị còn cao quí hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quí. Nhưng linh hồn còn cao quí hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quí hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quí. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quí. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quí nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. Người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được phục sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa và vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng rằng đức tin là gia tài cao quí nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhã, chịu hành hạ đau đớn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa và từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quí. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải mất chức tước danh vọng. Để đi theo Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ ri rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực. Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình ? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển ?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không ?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không ?
Hãy tỉnh thức
Lm Jude Siciliano OP
17:55 24/11/2011
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG (B)
Isaia 63: 16b-17, 19b; 4: 2b-7; Tv 80; 1Corintô 1: 3-9; Maccô 13: 33-37
“Đồng xu rơi” (thành ngữ này có nghĩa là chợt hiểu ra). Đó là cụm từ một phụ nữ ở Maine trong đợt tĩnh tâm của giáo xứ đã dùng để tóm kết bài Tin Mừng hôm nay. Tôi chưa nghe thành ngữ này bao giờ mà cũng chẳng biết nguồn gốc của nó xuất phát từ đâu. Dường như thành ngữ này đã có từ “xa xưa” khi những đồng xu được sử dụng trong những thiết bị như cái cân nơi công cộng. Những đồng xu có thể đã được sử dụng. Sau khi thả đồng xu vào máy, người ta phải chờ một chút cho đến khi “đồng xu rơi xuống” và rồi cái cân cho biết mình nặng bao nhiêu.
Vì thế, thuật ngữ trên ám chỉ việc nhận ra điều gì đó sau một một lúc băn khoăn và chờ đợi. Có một sự liên hệ trong tiểu thuyết của Nigel Balchin, trong đó nhân vật thủ vai chính nói rằng, “Tôi ngồi suy nghĩ một lúc sau đó mới chợt hiểu ra”. Chúng ta hãy trở lại Mùa Vọng và bài Tin mừng hôm nay để xem “chợt hiểu” như thế nào.
Với năm phụng vụ mới này, chúng ta bắt đầu những bài đọc Chúa Nhật trong Tin Mừng của thánh Máccô. Đây có thể là sự khởi đầu của năm phụng vụ, nhưng Tin mừng Máccô bắt đầu từ đâu? Bài đọc hôm nay không bắt đầu năm phụng vụ của chúng ta với chương thứ nhất, câu một, nhưng đoạn văn hôm nay là phần kế cuối của Tin Mừng Máccô.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1), nơi đó Người sắp kết thúc sứ vụ công khai của mình. Người khép lại cuộc sống phụng tự trong Đền thờ (11,15) và bước vào cuộc tranh luận với các thầy dạy truyền thống đức tin (12,12). Sau đó, từ trên núi Ôliu, Người tiên báo sự sụp đổ của thành Giêrusalem và ngày tận cùng của thế giới (13,1).
Bài Tin mừng được chọn đọc hôm nay kết thúc lời giảng dạy của Chúa Giêsu với các môn đệ. Vì vâng lời Chúa Cha và trao hiến chính mình trên thập giá, Chúa Giêsu sắp rời xa các môn đệ. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu liên hệ sự ra đi của Ngài với “người trẩy đi phương xa”. Ông chủ đang rời xa, nhưng chắc chắn ông sẽ trở lại; dù những người đầy tớ được trao trách nhiệm trông coi nhà cửa không biết khi nào ông chủ về. Có một điều chắc chắn là khi ông chủ trở về ông muốn thấy nhà mình ngăn nắp và đầy tớ của ông còn tỉnh thức. Họ phải luôn luôn tỉnh thức.
Mùa vọng đã bắt đầu và chúng ta cần được điều này nhắc nhở rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại, vì ai trong chúng ta đã không từng có lúc ngủ quên trong việc phục sự Chúa? Dụ ngôn này nhắc chúng ta ý thức đầy đủ về sự sẵn sàng của người môn đệ. Đồng xu sẽ rơi xuống và chúng ta cần phải tỉnh thức cho đến giây phút chắc chắn đó trong cuộc đời mình.
Có vẻ như thánh Máccô đang nói về một biến cố tương lai. Nhưng ngài lại không lưu tâm đến tương lai vì ngài đang muốn nói và nhấn mạnh với cộng đoàn của ngài về thái độ của một Kitô hữu đối với hiện tại. Thánh Máccô nhắc lại một dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể để giúp thính giả không những chuẩn bị cho sự trở lại của Chúa Giêsu; mà còn đáp lại sứ điệp của Người ngay lúc đó.
Nếu dụ ngôn chỉ đơn thuần muốn cảnh giác các Kitô hữu hãy tỉnh thức, thì hóa ra sự nhấn mạnh đó chỉ tập trung vào người giữ cửa, vì anh ta là người đón ông chủ vào. Vậy, mục đích và nhiệm vụ của những người đầy tớ khác là gì? Chẳng lẽ họ chỉ là những nhân vật phụ trong bối cảnh của câu chuyện này sao? Thánh Máccô có lẽ đang nghĩ đến cộng đoàn rộng lớn hơn của ngài – tất cả những người “đầy tớ” trong Giáo hội lãnh trách nhiệm của mình và họ phải được động viên để luôn cảnh giác. Vì thế, những hàng cuối của dụ ngôn là, “điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!" Những lời kết thúc của Chúa Giêsu như nói với tất cả những người tin sau này rằng hãy tỉnh thức.
Tin mừng của thánh Máccô dẫn đến trình thuật cuộc Khổ nạn. Sau khi ở Caesarea Philippi, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình với Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi đó Người hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Với dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, thánh Máccô tóm kết diễn từ khải huyền dành cho cộng đoàn của ngài. Bây giờ thánh sử sẵn sàng thuật lại những sự kiện dẫn đến Cuộc Khổ Nạn. Vì vậy, lời khuyên sau cùng của đoạn Tin mừng ngày hôm nay thật ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta được cảnh báo “hãy tỉnh thức”. Tất nhiên, đó là sự nhấn mạnh về việc tỉnh thức và sự chuẩn bị đón ông chủ trở về.
Nhưng có lẽ thánh Máccô cũng đang nhấn mạnh ý nghĩa về những gì đang xảy ra. Ngài kêu gọi chúng ta “hãy tỉnh thức”. Những sự kiện lớn lao diễn ra đều có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi người chúng ta. Hôm nay đã bắt đầu mùa Vọng, nhưng cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu được liên hệ với mùa này nhằm giữ chúng ta trong tư thế sẵn sàng và lưu tâm đến những gì mà Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ: sự tỉnh thức, lòng trung thành và phục vụ hy sinh vì danh Người.
Nhiều người mới hoán cải trong các giáo xứ sẵn sàng chia sẻ niềm phấn khởi của cuộc trở lại của mình. Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn là một tiến trình mà ở đó không chỉ dẫn họ vào trong Giáo hội mà còn thắp lên trong cuộc đời của họ một ngọn lửa niềm tin nồng ấm. Khi nghe các câu chuyện của những người mới trở lại, người ta hy vọng rằng niềm tin của họ sẽ giữ được niềm phấn khởi và sự sống động mãi như hiện nay. Nhưng họ và chúng ta dễ dàng bị cuốn vào nếp thường ngày và những phỏng đoán trong lời nguyện cũng như các thực hành đức tin.
Mùa Vọng bắt đầu với lời kêu gọi tỉnh thức, mời gọi và thôi thúc chúng ta tự vấn: “Tôi phải nhạy bén thế nào với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày?” Chúng ta biết rằng mình đang mong chờ cuộc quang lâm của Thiên Chúa trong tương lai, trong khi đó, tôi tỉnh thức ra sao với sự hiện diện của Người ngay ở đây và lúc này trong cuộc đời tôi? Chúng ta tin Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện ở giữa chúng ta. Chính niềm tin đó hôm nay đã qui tụ chúng ta quanh bàn thờ để nghe lời của Người và lãnh nhận Mình và Máu của Người để giúp chúng ta luôn cảnh giác và thức tỉnh chúng ta nếu chúng ta đang ngủ quên. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở, “đồng xu sẽ rơi”.
Một người khác trong đợt tĩnh tâm đó đã thuật lại về những gì mà người mẹ 85 tuổi của chị mới nói với chị: “Cuộc đời của mẹ qua đi quá nhanh!” Ngẫm nghĩ về câu nói của mẹ, chị chia sẻ rằng, “Một ngày nào đó tôi cũng sẽ nói như vậy, vì thế, bây giờ tôi cần làm những gì phải làm, vì tôi đang còn có thời gian.” Đó là một quyết tâm Mùa Vọng mà tôi từng được nghe.
Trong ánh sáng của bài Tin mừng hôm nay, người phụ nữ mô tả sự “chờ đợi chủ động”. Tựa như lau nhà khi tôi chuẩn bị đón khách đến. Điều đó khác với sự “chờ đợi thụ động”, nghĩa là chỉ để cho thời gian trôi qua mà không tập trung và cũng chẳng tỉnh thức như Tin mừng đòi chúng ta. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm khi chúng ta sống trong “thời gian sẵn sàng và sắp tới”. Người Dothái chờ đợi với lòng khao khát sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Chúng ta tin rằng Người đã đến, nhưng bây giờ chúng ta đang chờ đợi tích cực, sự chờ đợi đó được duy trì bởi niềm tin và hy vọng của chúng ta rằng Chúa Giêsu, Người đã đến và sẽ lại đến.
Hãy để ý cách Chúa Giêsu lặp lại yêu cầu “hãy tỉnh thức”. Nếu chúng ta đang cố gắng sẵn sàng mọi lúc, chúng ta sẽ gặp được Đức Kitô khi Người đến mỗi ngày. Đó là vì giây phút hiện tại là cơ hội. Thời gian trong Kinh thánh có thể được diễn tả theo cách mà chúng ta thường nói đến. Chúng ta nhìn vào đồng hồ và nói, “11 giờ sáng”. Đó là giờ “chronos” trong tiếng Hylạp, nó chỉ phút, giờ, ngày, v.v… Nhưng trong Kinh thánh còn có giờ “kairos” – một thời cơ đặc biệt; một khoảnh khắc mà một điều không mong đợi lại xảy ra và làm thay đổi những công việc hằng ngày của chúng ta, hoặc thời khắc đó đưa chúng ta đến một thời cơ. Tin mừng đang nói về thời gian “kairos” và khiến chúng ta ngẫm nghĩ: có phải tôi chỉ đang chỉ giờ, bận rộn chờ đợi thứ tương lai xa rời với hiện thực. Hoặc tôi có cảm giác rằng hiện tại có những thời cơ, và vì thế, tôi cứ đưa mắt nhìn để đáp lại những khả năng đó khi nó đến?
Trong thời gian giao mùa này tôi có thực sự đang đi tìm những phương thế để thức tỉnh và giữ cho mình biết ý thức để tôi có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu khi Người đi vào trong cuộc đời tôi – vào một khoảnh khắc kairos nào đó hay không? Những người trong đợt tĩnh tâm ở Maine đã nhận thấy tĩnh tâm là một cách để tự mình cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời của họ. Những người khác lại dành thời gian cho việc đọc bài chia sẻ, suy niệm hoặc dành thời gian nghe giảng trong nhà thờ, thực hành một nghi thức sám hối mùa Vọng, hoặc tìm nơi ăn chốn ở và áo quần cho những người vô gia cư, hay dạy thêm cho những trẻ em trong thành phố và những khoảnh khắc khác với những khả năng thời cơ kairos. Một cách nào đó những người này đang tỉnh thức và sẵn sàng cho đến khi “đồng xu rơi”.
Chuyển ngữ:: Anh em HV Đaminh Gò-Vấp
1st SUNDAY OF ADVENT (B)
Is 63:16b-17,19b;4:2b-7;Ps 80; 1Cor1:3-9; Mk 13: 33-37
"The Penny Drops." That’s a phrase a woman in Maine on a parish retreat recently used to sum up today’s gospel. I had never heard the phrase and didn’t have a clue to its origins. Apparently it goes back to the "old days" when coins were used in mechanisms like public scales. They would cost a penny to use and sometimes a coin would jam. So, after dropping a coin a person would wait for a moment until the "penny dropped" and the scale delivered a person’s weight.
So, the term refers to a belated realization of something after a period of confusion and waiting. There is a line in a novel by Nigel Balchin where the protagonist says, "I sat and thought for a moment and then the penny dropped." Let’s back into the Advent season and today’s gospel to see how the "penny drops."
With this new liturgical year we begin our Sunday readings from Mark’s gospel. This may be the beginning of the liturgical year, but where’s the beginning of Mark? Today’s reading doesn’t start our year with chapter1,verse 1, instead our passage is close to the end of the gospel.
The context of today’s gospel passage: Jesus has entered Jerusalem (11:1) where he brings his public ministry to a close. He closes the cultic life of the Temple (11:15ff) and enters into debate with the traditional teachers of the faith (12:12ff ). Then, from the Mount of Olives, he predicts Jerusalem’s destruction and the end of the world (13:1ff).
Today’s gospel selection ends Jesus’ teaching to his disciples. Under obedience and the gift of himself on the cross, Jesus is about to leave his disciples. In the parable he associates his departure with the "man traveling aboard." The master may be leaving, but his return is quite certain; though those given charge of his household do not know when. What is for sure is that when the master returns he expects to find his house in good order and his servants alert. They are charged to be constantly awake.
Advent has begun and we need this reminder that Jesus will return, for who among us has not dozed in our service of the Lord? This parable shakes us awake to full disciple-readiness. The penny will drop and we need to wake up to that certainty in our lives.
Mark sounds like he is speaking about some future event. But he is not so much concerned about the future, as he is to instill and reinforce in his community a Christian attitude towards the present. Mark tells a parable which Jesus told to help his hearers prepare for his return; but also so that they would respond to his message then and there.
If the parable just wanted to warn Christians to be watchful, then the emphasis would have been on the doorkeeper who would admit the master on his return. What’s the purpose of the other servants and their assignments? Are they merely extras in the background of the story? Mark seems to be thinking of his wider community – all of the "servants" in the church have their own tasks and must also be encouraged to be vigilant. Hence, the closing line of the parable, "What I say to you, I say to all: ‘Watch.’" With Jesus’ closing words all future believers are told to be vigilant.
Mark’s gospel has been leading up to the Passion Narrative. After Caesarea Philippi we have been journeying with Jesus towards Jerusalem where he will fulfill God’s saving plan for us. With today’s parable Mark concludes the apocalyptic discourse addressed to his community. The evangelist is now ready to narrate the events leading up to the Passion. Thus, the closing advice of today’s passage has significance for us. "Watch," we are told. Of course its an emphasis on vigilance and preparation for the master’s return.
But perhaps Mark is also underlining the significance of what is about to happen. "Watch," he tells us. The great events about to unfold have profound significance for each of us. Today may be the beginning of Advent, but Jesus’ Passion is linked to this season in which we keep vigil, mindful of what the coming Christ asks of all his disciples: watchfulness and faithful, sacrificial service in his name.
Many recent converts in parishes are willing to share the excitement of their conversion. The Rite of Christian Initiation of Adults (RCIA) has been a process that not only brought them into the church, but ignited their lives with the light and heat of faith. Listening to their stories one hopes their faith stays as exciting and animating as it presently is. But they and we can easily drift into routine and predictability in prayer and the practice of our faith.
Advent begins with a wake-up call, inviting and challenging us to ask, "How watchful have I been for the Lord in my daily life?" We know we are waiting for the Lord’s future coming, but in the meanwhile, how alert have I been to his presence here and now in my life? Our faith in Jesus’ presence already among us draws us around the altar today to listen to his Word and to receive his Body and Blood which will help us stay vigilant and wake us if we have been dozing. Once again, we are reminded, "The penny will drop."
Another person on that retreat recounted what her 85-year-old mother told her recently, "My life has gone by so quickly!" The woman reflected on what her mother told her and said, "I will say the same thing someday, so I need to do now what I must, while I still have time." That is an Advent resolution if ever I’ve have heard one.
In light of today’s parable the woman was describing "active waiting." It’s like cleaning house as I prepare for guests to come. That’s very different from "passive waiting" which just lets time pass without focus and the watchfulness the parable asks of us. Jesus calls us to have a sense of responsibility as we live in the "already- and-not-yet time." The Jewish people waited with expectation for the coming of the Messiah. We believe he has come, but now we are actively waiting, sustained by our faith and hope that Jesus, who has come, will come again.
Notice how Jesus repeats the command "Watch." If we are trying to be ready all the time we will meet Christ when he arrives each day. That is because the present moment is charged with possibility. Time in the Bible can be described the way we usually refer to it. We look at our watch and say, "It’s 11 AM." That’s "chronos" time, it marks the minutes, hours, days etc. But in the Scripture there is also "kairos" time–a special time charged with possibility; a moment when the unexpected happens and breaks in on our routine, offering a gifted opportunity. The parable is speaking about "kairos" time and should cause us to reflect: am I just marking time, keeping busy waiting for some future far off event. or do I sense that the present is charged with possibility and so I keep my eyes open to respond to it when it comes?
During this in-between time am I finding ways to stay alert and conscious so that I can detect Jesus’ presence when he enters my life – at some kairos moment? Those people on that retreat in Maine found the retreat to be one way to sensitize themselves to Christ’s presence in their lives. Other people devote some time for reflective reading, meditation, lectures at church, an Advent penance service, finding housing and clothing for the homeless, tutoring inner-city kids and other moments filled with the possibility of kairos time. Somehow these people are awake and ready for when "the penny drops."
Isaia 63: 16b-17, 19b; 4: 2b-7; Tv 80; 1Corintô 1: 3-9; Maccô 13: 33-37
“Đồng xu rơi” (thành ngữ này có nghĩa là chợt hiểu ra). Đó là cụm từ một phụ nữ ở Maine trong đợt tĩnh tâm của giáo xứ đã dùng để tóm kết bài Tin Mừng hôm nay. Tôi chưa nghe thành ngữ này bao giờ mà cũng chẳng biết nguồn gốc của nó xuất phát từ đâu. Dường như thành ngữ này đã có từ “xa xưa” khi những đồng xu được sử dụng trong những thiết bị như cái cân nơi công cộng. Những đồng xu có thể đã được sử dụng. Sau khi thả đồng xu vào máy, người ta phải chờ một chút cho đến khi “đồng xu rơi xuống” và rồi cái cân cho biết mình nặng bao nhiêu.
Vì thế, thuật ngữ trên ám chỉ việc nhận ra điều gì đó sau một một lúc băn khoăn và chờ đợi. Có một sự liên hệ trong tiểu thuyết của Nigel Balchin, trong đó nhân vật thủ vai chính nói rằng, “Tôi ngồi suy nghĩ một lúc sau đó mới chợt hiểu ra”. Chúng ta hãy trở lại Mùa Vọng và bài Tin mừng hôm nay để xem “chợt hiểu” như thế nào.
Với năm phụng vụ mới này, chúng ta bắt đầu những bài đọc Chúa Nhật trong Tin Mừng của thánh Máccô. Đây có thể là sự khởi đầu của năm phụng vụ, nhưng Tin mừng Máccô bắt đầu từ đâu? Bài đọc hôm nay không bắt đầu năm phụng vụ của chúng ta với chương thứ nhất, câu một, nhưng đoạn văn hôm nay là phần kế cuối của Tin Mừng Máccô.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1), nơi đó Người sắp kết thúc sứ vụ công khai của mình. Người khép lại cuộc sống phụng tự trong Đền thờ (11,15) và bước vào cuộc tranh luận với các thầy dạy truyền thống đức tin (12,12). Sau đó, từ trên núi Ôliu, Người tiên báo sự sụp đổ của thành Giêrusalem và ngày tận cùng của thế giới (13,1).
Bài Tin mừng được chọn đọc hôm nay kết thúc lời giảng dạy của Chúa Giêsu với các môn đệ. Vì vâng lời Chúa Cha và trao hiến chính mình trên thập giá, Chúa Giêsu sắp rời xa các môn đệ. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu liên hệ sự ra đi của Ngài với “người trẩy đi phương xa”. Ông chủ đang rời xa, nhưng chắc chắn ông sẽ trở lại; dù những người đầy tớ được trao trách nhiệm trông coi nhà cửa không biết khi nào ông chủ về. Có một điều chắc chắn là khi ông chủ trở về ông muốn thấy nhà mình ngăn nắp và đầy tớ của ông còn tỉnh thức. Họ phải luôn luôn tỉnh thức.
Mùa vọng đã bắt đầu và chúng ta cần được điều này nhắc nhở rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại, vì ai trong chúng ta đã không từng có lúc ngủ quên trong việc phục sự Chúa? Dụ ngôn này nhắc chúng ta ý thức đầy đủ về sự sẵn sàng của người môn đệ. Đồng xu sẽ rơi xuống và chúng ta cần phải tỉnh thức cho đến giây phút chắc chắn đó trong cuộc đời mình.
Có vẻ như thánh Máccô đang nói về một biến cố tương lai. Nhưng ngài lại không lưu tâm đến tương lai vì ngài đang muốn nói và nhấn mạnh với cộng đoàn của ngài về thái độ của một Kitô hữu đối với hiện tại. Thánh Máccô nhắc lại một dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể để giúp thính giả không những chuẩn bị cho sự trở lại của Chúa Giêsu; mà còn đáp lại sứ điệp của Người ngay lúc đó.
Nếu dụ ngôn chỉ đơn thuần muốn cảnh giác các Kitô hữu hãy tỉnh thức, thì hóa ra sự nhấn mạnh đó chỉ tập trung vào người giữ cửa, vì anh ta là người đón ông chủ vào. Vậy, mục đích và nhiệm vụ của những người đầy tớ khác là gì? Chẳng lẽ họ chỉ là những nhân vật phụ trong bối cảnh của câu chuyện này sao? Thánh Máccô có lẽ đang nghĩ đến cộng đoàn rộng lớn hơn của ngài – tất cả những người “đầy tớ” trong Giáo hội lãnh trách nhiệm của mình và họ phải được động viên để luôn cảnh giác. Vì thế, những hàng cuối của dụ ngôn là, “điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!" Những lời kết thúc của Chúa Giêsu như nói với tất cả những người tin sau này rằng hãy tỉnh thức.
Tin mừng của thánh Máccô dẫn đến trình thuật cuộc Khổ nạn. Sau khi ở Caesarea Philippi, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình với Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi đó Người hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Với dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, thánh Máccô tóm kết diễn từ khải huyền dành cho cộng đoàn của ngài. Bây giờ thánh sử sẵn sàng thuật lại những sự kiện dẫn đến Cuộc Khổ Nạn. Vì vậy, lời khuyên sau cùng của đoạn Tin mừng ngày hôm nay thật ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta được cảnh báo “hãy tỉnh thức”. Tất nhiên, đó là sự nhấn mạnh về việc tỉnh thức và sự chuẩn bị đón ông chủ trở về.
Nhưng có lẽ thánh Máccô cũng đang nhấn mạnh ý nghĩa về những gì đang xảy ra. Ngài kêu gọi chúng ta “hãy tỉnh thức”. Những sự kiện lớn lao diễn ra đều có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi người chúng ta. Hôm nay đã bắt đầu mùa Vọng, nhưng cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu được liên hệ với mùa này nhằm giữ chúng ta trong tư thế sẵn sàng và lưu tâm đến những gì mà Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ: sự tỉnh thức, lòng trung thành và phục vụ hy sinh vì danh Người.
Nhiều người mới hoán cải trong các giáo xứ sẵn sàng chia sẻ niềm phấn khởi của cuộc trở lại của mình. Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn là một tiến trình mà ở đó không chỉ dẫn họ vào trong Giáo hội mà còn thắp lên trong cuộc đời của họ một ngọn lửa niềm tin nồng ấm. Khi nghe các câu chuyện của những người mới trở lại, người ta hy vọng rằng niềm tin của họ sẽ giữ được niềm phấn khởi và sự sống động mãi như hiện nay. Nhưng họ và chúng ta dễ dàng bị cuốn vào nếp thường ngày và những phỏng đoán trong lời nguyện cũng như các thực hành đức tin.
Mùa Vọng bắt đầu với lời kêu gọi tỉnh thức, mời gọi và thôi thúc chúng ta tự vấn: “Tôi phải nhạy bén thế nào với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày?” Chúng ta biết rằng mình đang mong chờ cuộc quang lâm của Thiên Chúa trong tương lai, trong khi đó, tôi tỉnh thức ra sao với sự hiện diện của Người ngay ở đây và lúc này trong cuộc đời tôi? Chúng ta tin Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện ở giữa chúng ta. Chính niềm tin đó hôm nay đã qui tụ chúng ta quanh bàn thờ để nghe lời của Người và lãnh nhận Mình và Máu của Người để giúp chúng ta luôn cảnh giác và thức tỉnh chúng ta nếu chúng ta đang ngủ quên. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở, “đồng xu sẽ rơi”.
Một người khác trong đợt tĩnh tâm đó đã thuật lại về những gì mà người mẹ 85 tuổi của chị mới nói với chị: “Cuộc đời của mẹ qua đi quá nhanh!” Ngẫm nghĩ về câu nói của mẹ, chị chia sẻ rằng, “Một ngày nào đó tôi cũng sẽ nói như vậy, vì thế, bây giờ tôi cần làm những gì phải làm, vì tôi đang còn có thời gian.” Đó là một quyết tâm Mùa Vọng mà tôi từng được nghe.
Trong ánh sáng của bài Tin mừng hôm nay, người phụ nữ mô tả sự “chờ đợi chủ động”. Tựa như lau nhà khi tôi chuẩn bị đón khách đến. Điều đó khác với sự “chờ đợi thụ động”, nghĩa là chỉ để cho thời gian trôi qua mà không tập trung và cũng chẳng tỉnh thức như Tin mừng đòi chúng ta. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm khi chúng ta sống trong “thời gian sẵn sàng và sắp tới”. Người Dothái chờ đợi với lòng khao khát sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Chúng ta tin rằng Người đã đến, nhưng bây giờ chúng ta đang chờ đợi tích cực, sự chờ đợi đó được duy trì bởi niềm tin và hy vọng của chúng ta rằng Chúa Giêsu, Người đã đến và sẽ lại đến.
Hãy để ý cách Chúa Giêsu lặp lại yêu cầu “hãy tỉnh thức”. Nếu chúng ta đang cố gắng sẵn sàng mọi lúc, chúng ta sẽ gặp được Đức Kitô khi Người đến mỗi ngày. Đó là vì giây phút hiện tại là cơ hội. Thời gian trong Kinh thánh có thể được diễn tả theo cách mà chúng ta thường nói đến. Chúng ta nhìn vào đồng hồ và nói, “11 giờ sáng”. Đó là giờ “chronos” trong tiếng Hylạp, nó chỉ phút, giờ, ngày, v.v… Nhưng trong Kinh thánh còn có giờ “kairos” – một thời cơ đặc biệt; một khoảnh khắc mà một điều không mong đợi lại xảy ra và làm thay đổi những công việc hằng ngày của chúng ta, hoặc thời khắc đó đưa chúng ta đến một thời cơ. Tin mừng đang nói về thời gian “kairos” và khiến chúng ta ngẫm nghĩ: có phải tôi chỉ đang chỉ giờ, bận rộn chờ đợi thứ tương lai xa rời với hiện thực. Hoặc tôi có cảm giác rằng hiện tại có những thời cơ, và vì thế, tôi cứ đưa mắt nhìn để đáp lại những khả năng đó khi nó đến?
Trong thời gian giao mùa này tôi có thực sự đang đi tìm những phương thế để thức tỉnh và giữ cho mình biết ý thức để tôi có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu khi Người đi vào trong cuộc đời tôi – vào một khoảnh khắc kairos nào đó hay không? Những người trong đợt tĩnh tâm ở Maine đã nhận thấy tĩnh tâm là một cách để tự mình cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời của họ. Những người khác lại dành thời gian cho việc đọc bài chia sẻ, suy niệm hoặc dành thời gian nghe giảng trong nhà thờ, thực hành một nghi thức sám hối mùa Vọng, hoặc tìm nơi ăn chốn ở và áo quần cho những người vô gia cư, hay dạy thêm cho những trẻ em trong thành phố và những khoảnh khắc khác với những khả năng thời cơ kairos. Một cách nào đó những người này đang tỉnh thức và sẵn sàng cho đến khi “đồng xu rơi”.
Chuyển ngữ:: Anh em HV Đaminh Gò-Vấp
1st SUNDAY OF ADVENT (B)
Is 63:16b-17,19b;4:2b-7;Ps 80; 1Cor1:3-9; Mk 13: 33-37
"The Penny Drops." That’s a phrase a woman in Maine on a parish retreat recently used to sum up today’s gospel. I had never heard the phrase and didn’t have a clue to its origins. Apparently it goes back to the "old days" when coins were used in mechanisms like public scales. They would cost a penny to use and sometimes a coin would jam. So, after dropping a coin a person would wait for a moment until the "penny dropped" and the scale delivered a person’s weight.
So, the term refers to a belated realization of something after a period of confusion and waiting. There is a line in a novel by Nigel Balchin where the protagonist says, "I sat and thought for a moment and then the penny dropped." Let’s back into the Advent season and today’s gospel to see how the "penny drops."
With this new liturgical year we begin our Sunday readings from Mark’s gospel. This may be the beginning of the liturgical year, but where’s the beginning of Mark? Today’s reading doesn’t start our year with chapter1,verse 1, instead our passage is close to the end of the gospel.
The context of today’s gospel passage: Jesus has entered Jerusalem (11:1) where he brings his public ministry to a close. He closes the cultic life of the Temple (11:15ff) and enters into debate with the traditional teachers of the faith (12:12ff ). Then, from the Mount of Olives, he predicts Jerusalem’s destruction and the end of the world (13:1ff).
Today’s gospel selection ends Jesus’ teaching to his disciples. Under obedience and the gift of himself on the cross, Jesus is about to leave his disciples. In the parable he associates his departure with the "man traveling aboard." The master may be leaving, but his return is quite certain; though those given charge of his household do not know when. What is for sure is that when the master returns he expects to find his house in good order and his servants alert. They are charged to be constantly awake.
Advent has begun and we need this reminder that Jesus will return, for who among us has not dozed in our service of the Lord? This parable shakes us awake to full disciple-readiness. The penny will drop and we need to wake up to that certainty in our lives.
Mark sounds like he is speaking about some future event. But he is not so much concerned about the future, as he is to instill and reinforce in his community a Christian attitude towards the present. Mark tells a parable which Jesus told to help his hearers prepare for his return; but also so that they would respond to his message then and there.
If the parable just wanted to warn Christians to be watchful, then the emphasis would have been on the doorkeeper who would admit the master on his return. What’s the purpose of the other servants and their assignments? Are they merely extras in the background of the story? Mark seems to be thinking of his wider community – all of the "servants" in the church have their own tasks and must also be encouraged to be vigilant. Hence, the closing line of the parable, "What I say to you, I say to all: ‘Watch.’" With Jesus’ closing words all future believers are told to be vigilant.
Mark’s gospel has been leading up to the Passion Narrative. After Caesarea Philippi we have been journeying with Jesus towards Jerusalem where he will fulfill God’s saving plan for us. With today’s parable Mark concludes the apocalyptic discourse addressed to his community. The evangelist is now ready to narrate the events leading up to the Passion. Thus, the closing advice of today’s passage has significance for us. "Watch," we are told. Of course its an emphasis on vigilance and preparation for the master’s return.
But perhaps Mark is also underlining the significance of what is about to happen. "Watch," he tells us. The great events about to unfold have profound significance for each of us. Today may be the beginning of Advent, but Jesus’ Passion is linked to this season in which we keep vigil, mindful of what the coming Christ asks of all his disciples: watchfulness and faithful, sacrificial service in his name.
Many recent converts in parishes are willing to share the excitement of their conversion. The Rite of Christian Initiation of Adults (RCIA) has been a process that not only brought them into the church, but ignited their lives with the light and heat of faith. Listening to their stories one hopes their faith stays as exciting and animating as it presently is. But they and we can easily drift into routine and predictability in prayer and the practice of our faith.
Advent begins with a wake-up call, inviting and challenging us to ask, "How watchful have I been for the Lord in my daily life?" We know we are waiting for the Lord’s future coming, but in the meanwhile, how alert have I been to his presence here and now in my life? Our faith in Jesus’ presence already among us draws us around the altar today to listen to his Word and to receive his Body and Blood which will help us stay vigilant and wake us if we have been dozing. Once again, we are reminded, "The penny will drop."
Another person on that retreat recounted what her 85-year-old mother told her recently, "My life has gone by so quickly!" The woman reflected on what her mother told her and said, "I will say the same thing someday, so I need to do now what I must, while I still have time." That is an Advent resolution if ever I’ve have heard one.
In light of today’s parable the woman was describing "active waiting." It’s like cleaning house as I prepare for guests to come. That’s very different from "passive waiting" which just lets time pass without focus and the watchfulness the parable asks of us. Jesus calls us to have a sense of responsibility as we live in the "already- and-not-yet time." The Jewish people waited with expectation for the coming of the Messiah. We believe he has come, but now we are actively waiting, sustained by our faith and hope that Jesus, who has come, will come again.
Notice how Jesus repeats the command "Watch." If we are trying to be ready all the time we will meet Christ when he arrives each day. That is because the present moment is charged with possibility. Time in the Bible can be described the way we usually refer to it. We look at our watch and say, "It’s 11 AM." That’s "chronos" time, it marks the minutes, hours, days etc. But in the Scripture there is also "kairos" time–a special time charged with possibility; a moment when the unexpected happens and breaks in on our routine, offering a gifted opportunity. The parable is speaking about "kairos" time and should cause us to reflect: am I just marking time, keeping busy waiting for some future far off event. or do I sense that the present is charged with possibility and so I keep my eyes open to respond to it when it comes?
During this in-between time am I finding ways to stay alert and conscious so that I can detect Jesus’ presence when he enters my life – at some kairos moment? Those people on that retreat in Maine found the retreat to be one way to sensitize themselves to Christ’s presence in their lives. Other people devote some time for reflective reading, meditation, lectures at church, an Advent penance service, finding housing and clothing for the homeless, tutoring inner-city kids and other moments filled with the possibility of kairos time. Somehow these people are awake and ready for when "the penny drops."
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha cho hay Phi Châu có một niềm hy vọng tươi mát
Bùi Hữu Thư
07:22 24/11/2011
![]() |
| Triều kiến chung ngày 23 tháng 11, 2011 |
VATICAN, ngày 23 tháng 11, 2011 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI dành buổi triều kiến chung hôm nay cho việc duyệt lại chuyến đi Benin, và cho hay ngài thấy tại Phi Châu có một "niềm hy vọng tươi mát."
Như thường lệ sau mỗi chuyến tông du, Đức Thánh Cha dùng buổi triều kiến để nói về một vài cao điểm của những biến cố chính trong chuyến đi Benin từ ngày 18 đến 20 tháng 11.
Điểm chính của chuyến đi của ngài là trao gửi tông huấn hậu thượng hội đồng "Africae Munus" cho Giáo Hội.
Đức Thánh Cha nói về Phi Châu như một như một vai trò chính yếu trong "một mùa hy vọng mới," với "cam kết của đại lục này cho việc phục vụ Phúc Âm và với nhân chứng can đảm về sự tương trợ hữu hiệu."
Ngài nói: "Tại Phi Châu, tôi thấy có một sự tươi mát của "lời xin vâng" cho đời sống, một sự tươi mát về việc nhậy cảm đối với tôn giáo, và một sự tươi mát của niềm hy vọng, cũng như một cảm nghĩ về sự thực tại toàn vẹn, với Thiên Chúa -- và không bị giảm thiểu vào một sự lạc quan, khiến cho cuối cùng sẽ dập tắt niềm hy vọng."
Đức Thánh Cha suy tư rằng điều này "cho chúng ta thấy rằng đại lục này chứa đựng một nguồn lưu trữ về sự sống và sự năng động cho tương lai chúng ta có thể tin tưởng, và Giáo Hội có thể trông cậy."
Mọi Nỗ Lực
Đức Thánh Cha giải thích: "Chuyến đi của tôi là một thúc đẩy lớn cho Phi Châu để hướng dẫn mọi nỗ lực cho việc loan truyền Phúc Âm cho những ai vẫn chưa nhận biết. Điều này đòi hỏi một cam kết mới cho việc phúc âm hóa -- và mời gọi mỗi cá nhân đã được rửa tội -- bằng cách cổ võ cho sự hòa giải, công lý và hòa bình."
Nhắc đến tông huấn "Africae Munus," vị giám mục thành Rôma nói ngài dâng Phi Châu cho Đức Mẹ.
Ngài nói: "Xin lời cầu bầu của Đức Mẹ, 'đấng mà trái tim luôn luôn hướng về thánh ý Chúa, sẽ nâng đỡ mọi nỗ lực để hoán cải; xin Mẹ tổng hợp tất cả mọi kế hoạch hòa giải và tăng cường mọi cố gắng xây dựng hòa bình trong một thế giới khao khát công lý' (Africae munus, 175)."
Ứng dụng mới giúp đọc Thần vụ tiếng Hoa trên điện thoại thông minh
Phạm Kim An
08:21 24/11/2011
Ứng dụng mới giúp đọc Thần vụ tiếng Hoa trên điện thoại thông minh
Công nghệ giúp cầu nguyện dễ dàng hơn
Linh mục Leung giới thiệu ứng dụng mới
HONG KONG - Tuần trước, ĐTC Biển Đức XVI đề nghị các tín hữu tập có thói quen cầu nguyện với Phụng Vụ Các Giờ Kinh. Hiện giờ những người nói tiếng Hoa có thể sử dụng điện thoại thông minh của mình để thực hành lời khuyên của Ngài.
Hãng tin UCAN đưa tin về ứng dụng iBreviarium của linh mục Paul Leung Kai-Kwong, một ứng dụng bằng tiếng Hoa với các bài đọc Thánh Lễ hàng ngày, kinh Thần vụ (Phụng Vụ Các Giờ Kinh), các kinh nguyện và nhiều hạnh thánh.
Ứng dụng này được tung ra hồi tháng Tám qua cho iPhone, và cho hệ điều hành Android tuần trước.
Cha Leung, người từng làm việc tại Roma trong hai thập kỷ, đã có ý tưởng cho ứng dụng tiếng Hoa của mình từ một ứng dụng tương tự bằng tiếng Ý.
Cha Leung nói với hãng tin UCAN: “Trước đây, một linh mục đã viết thư cho tôi, cho biết là ngài không đọc Thần vụ mỗi ngày được, vì ngài quá bận rộn; nhưng bây giờ ngài nói rất vui sướng, bởi vì ứng dụng mới cho phép ngài cầu nguyện, bất cứ khi nào ngài có thể tìm được một góc yên tĩnh".
Mặc dù linh mục nói rằng thanh thiếu niên dành nhiều thời giờ cho điện thoại thông minh của họ, ngài ủng hộ lời khuyến khích của Giáo Hội, bằng cách cố gắng để cung cấp các nguồn lực tinh thần với công nghệ.
Phụng Vụ Các Giờ Kinh cũng đã sẵn sàng cho ứng dụng bằng tiếng Anh. (Zenit.org 23-11-2011)
Phạm Kim An
Công nghệ giúp cầu nguyện dễ dàng hơn
![]() |
HONG KONG - Tuần trước, ĐTC Biển Đức XVI đề nghị các tín hữu tập có thói quen cầu nguyện với Phụng Vụ Các Giờ Kinh. Hiện giờ những người nói tiếng Hoa có thể sử dụng điện thoại thông minh của mình để thực hành lời khuyên của Ngài.
Hãng tin UCAN đưa tin về ứng dụng iBreviarium của linh mục Paul Leung Kai-Kwong, một ứng dụng bằng tiếng Hoa với các bài đọc Thánh Lễ hàng ngày, kinh Thần vụ (Phụng Vụ Các Giờ Kinh), các kinh nguyện và nhiều hạnh thánh.
Ứng dụng này được tung ra hồi tháng Tám qua cho iPhone, và cho hệ điều hành Android tuần trước.
Cha Leung, người từng làm việc tại Roma trong hai thập kỷ, đã có ý tưởng cho ứng dụng tiếng Hoa của mình từ một ứng dụng tương tự bằng tiếng Ý.
Cha Leung nói với hãng tin UCAN: “Trước đây, một linh mục đã viết thư cho tôi, cho biết là ngài không đọc Thần vụ mỗi ngày được, vì ngài quá bận rộn; nhưng bây giờ ngài nói rất vui sướng, bởi vì ứng dụng mới cho phép ngài cầu nguyện, bất cứ khi nào ngài có thể tìm được một góc yên tĩnh".
Mặc dù linh mục nói rằng thanh thiếu niên dành nhiều thời giờ cho điện thoại thông minh của họ, ngài ủng hộ lời khuyến khích của Giáo Hội, bằng cách cố gắng để cung cấp các nguồn lực tinh thần với công nghệ.
Phụng Vụ Các Giờ Kinh cũng đã sẵn sàng cho ứng dụng bằng tiếng Anh. (Zenit.org 23-11-2011)
Phạm Kim An
Giám chức Vatican: Việc Tân Phúc Âm hoá mới không chỉ dành cho châu Âu
Nguyễn Trọng Đa
17:36 24/11/2011
Giám chức Vatican: Việc Tân Phúc Âm hoá mới không chỉ dành cho châu Âu
Hội nghị đề cao lời mời gọi của Chúa Giêsu để đem an ủi cho người đau khổ
ROMA – Có một viễn cảnh toàn cầu cho việc Tân Phúc Âm hoá mới, - giám chức Vatican đứng đầu Hội đồng Tân Phúc Âm hoá mới nói. Tuy nhiên viễn cảnh này tái kích thích đức tin hơn ở châu Âu.
Đức Tổng Giám Mục Salvatore Fisichella, chủ tịch Hội đồng Toà thánh Cổ vũ việc Tân Phúc Âm hoá mới, nói như thế trong phần kết thúc cuộc hội thảo "châu Âu và việc Tân Phúc Âm hoá mới", được tổ chức ngày 22-11ở Roma.
Hội nghị được đồng tổ chức bởi Hội đồng của các Hội Đồng Giám Mục Châu Âu (CCEE) và Hội đồng Toà thánh Cổ vũ việc Tân Phúc Âm hoá mới, để kỷ niệm 40 năm ngày diễn ra các nỗ lực thống nhất của các Giám mục châu Âu.
Đức Tổng Giám mục Fisichella giải thích rằng việc Tân Phúc Âm hoá mới là cần thiết để đối phó với cuộc khủng hoảng nhân chủng học, đạo đức và xã hội, vốn được gây ra bởi sự bỏ quên Thiên Chúa.
Theo giám chức Vatican, sự nhiệt tình của một đức tin bao gồm lý trí là chìa khóa cho một sự tái sinh trong chân lý và tự do của toàn thế giới.
Tình yêu đầu tiên
Về sự liên kết này, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Toà thánh, nhấn mạnh rằng đối với "những người được rửa tội mà đức tin bị dập tắt và những ai không thực hành sống đạo nữa, Tin Mừng phải được công bố với nhiệt huyết mới, các phương pháp mới và cách diễn đạt mới".
Đức Hồng Y Bertone nói đã đến lúc cần tái khám phá "tình yêu đầu tiên", vốn được "phản ánh trong tình yêu bao la, mà Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta, bằng cách ban tặng cho chúng ta Người Con của Ngài”, bởi vì "tình yêu đầu tiên " này là sức mạnh tác động trái tim và các bước đi của rất nhiều nhà truyền giáo mới: cá nhân, gia đình, cộng đồng, các phong trào giáo hội.
Đức Hồng Y Péter Erdõ, chủ tịch Hội đồng của các Hội Đồng Giám Mục Châu Âu (CCEE), nói rằng mặc dù có vẻ tình trạng thế tục hóa chiếm ưu thế, "nhưng thông qua tín lý, nghệ thuật, và phụng vụ, Giáo Hội cung cấp cho thế giới một cái nhìn vào Mầu nhiệm của Chúa có khả năng mở trái tim và lý trí con người".
Và Ngài nói thêm: "Việc Tân Phúc Âm hoá luôn luôn và nhất thiết đi qua đức ái được sống hàng ngày", bởi vì đức ái "là một dấu hiệu của sự hiện diện và tình yêu của Chúa Kitô".
"Trong lời mời gọi việc Tân Phúc Âm hoá mới", Đức Hồng Y Erdõ kết luận, "các Kitô hữu được thách thức bởi Chúa Giêsu và Giáo Hội, và cũng bởi tiếng kêu của những người đi tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc đời của họ, để cam kết mang lại sự an ủi nâng đỡ cho những ai đang đau khổ trong linh hồn và thể xác”. (Zenit.org 23-11-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Hội nghị đề cao lời mời gọi của Chúa Giêsu để đem an ủi cho người đau khổ
![]() |
| Đức TGM Salvatore Fisichella |
Đức Tổng Giám Mục Salvatore Fisichella, chủ tịch Hội đồng Toà thánh Cổ vũ việc Tân Phúc Âm hoá mới, nói như thế trong phần kết thúc cuộc hội thảo "châu Âu và việc Tân Phúc Âm hoá mới", được tổ chức ngày 22-11ở Roma.
Hội nghị được đồng tổ chức bởi Hội đồng của các Hội Đồng Giám Mục Châu Âu (CCEE) và Hội đồng Toà thánh Cổ vũ việc Tân Phúc Âm hoá mới, để kỷ niệm 40 năm ngày diễn ra các nỗ lực thống nhất của các Giám mục châu Âu.
Đức Tổng Giám mục Fisichella giải thích rằng việc Tân Phúc Âm hoá mới là cần thiết để đối phó với cuộc khủng hoảng nhân chủng học, đạo đức và xã hội, vốn được gây ra bởi sự bỏ quên Thiên Chúa.
Theo giám chức Vatican, sự nhiệt tình của một đức tin bao gồm lý trí là chìa khóa cho một sự tái sinh trong chân lý và tự do của toàn thế giới.
Tình yêu đầu tiên
Về sự liên kết này, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Toà thánh, nhấn mạnh rằng đối với "những người được rửa tội mà đức tin bị dập tắt và những ai không thực hành sống đạo nữa, Tin Mừng phải được công bố với nhiệt huyết mới, các phương pháp mới và cách diễn đạt mới".
Đức Hồng Y Bertone nói đã đến lúc cần tái khám phá "tình yêu đầu tiên", vốn được "phản ánh trong tình yêu bao la, mà Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta, bằng cách ban tặng cho chúng ta Người Con của Ngài”, bởi vì "tình yêu đầu tiên " này là sức mạnh tác động trái tim và các bước đi của rất nhiều nhà truyền giáo mới: cá nhân, gia đình, cộng đồng, các phong trào giáo hội.
Đức Hồng Y Péter Erdõ, chủ tịch Hội đồng của các Hội Đồng Giám Mục Châu Âu (CCEE), nói rằng mặc dù có vẻ tình trạng thế tục hóa chiếm ưu thế, "nhưng thông qua tín lý, nghệ thuật, và phụng vụ, Giáo Hội cung cấp cho thế giới một cái nhìn vào Mầu nhiệm của Chúa có khả năng mở trái tim và lý trí con người".
Và Ngài nói thêm: "Việc Tân Phúc Âm hoá luôn luôn và nhất thiết đi qua đức ái được sống hàng ngày", bởi vì đức ái "là một dấu hiệu của sự hiện diện và tình yêu của Chúa Kitô".
"Trong lời mời gọi việc Tân Phúc Âm hoá mới", Đức Hồng Y Erdõ kết luận, "các Kitô hữu được thách thức bởi Chúa Giêsu và Giáo Hội, và cũng bởi tiếng kêu của những người đi tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc đời của họ, để cam kết mang lại sự an ủi nâng đỡ cho những ai đang đau khổ trong linh hồn và thể xác”. (Zenit.org 23-11-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Top Stories
Chine: Le 30 novembre prochain, une ordination épiscopale aura lieu au Sichuan, la première depuis les excommunications de cet été
Eglises d'Asie
11:40 24/11/2011
Pour cette ordination épiscopale au sein de la partie « officielle » de l’Eglise, le Saint-Siège a donné son accord à la candidature du P. Luo Xuegang, et Mgr Chen Shizhong, consacré évêque en 1985, est lui-même en communion avec Rome. Toutefois, à quelques jours de la cérémonie d’ordination, l’incertitude demeure quant à l’identité des deux autres évêques qui se tiendront aux côtés de Mgr Chen pour ordonner le P. Luo. Des informations concordantes en provenance de Chine font état de la probable participation à la cérémonie de Mgr Paul Lei Shiyin, dont le diocèse de Leshan jouxte celui de Yibin. Depuis son ordination au titre d’évêque « officiel » de Leshan, conférée en l’absence de mandat pontifical le 29 juin dernier, ce dernier est sous le coup d’une excommunication latae sententiae (2).
L’ordination épiscopale du 30 novembre prochain, si elle a lieu, serait la première à être menée en Chine depuis les deux ordinations illégitimes du 29 juin dernier à Leshan et du 14 juillet à Shantou, dans la province du Guangdong (3). Ces deux ordinations avaient été suivies par une communication du Saint-Siège indiquant qu’en acceptant l’épiscopat sans mandat pontifical, les deux nouveaux évêques s’étaient placés en dehors de la communion ecclésiale et étaient donc frappés d’une peine d’excommunication, peine non levée à ce jour (4).
La participation de Mgr Paul Lei Shiyin à la cérémonie du 30 novembre semble quasi certaine. En effet, responsable de l’Association patriotique des catholiques chinois pour la province du Sichuan et président du Comité sichuanais pour les Affaires de l’Eglise (catholique), Mgr Lei Shiyin est très proche des autorités provinciales et l’on peut s’attendre à ce que celles-ci veillent à la nature « patriotique » de l’ordination prévue en imposant la présence de l’évêque de Leshan. Plusieurs évêques des diocèses environnants hésitent donc à participer à cette ordination.
Les deux personnalités dont il est question, le P. Luo Xuegang et Mgr Lei Shiyin, se connaissent bien. Neveu de Mgr Matthew Luo Duxi, qui fut évêque de Leshan jusqu’à sa mort en 2009, le P. Luo a été ordonné prêtre il y a vingt ans, le 30 novembre 1991, en même temps que le P. Lei Shiyin. Tous deux ont commencé leur ministère pastoral dans le diocèse de Leshan, avant qu’en mai 2009, le P. Luo soit transféré dans le diocèse de Yibin (dans le but non avoué par le gouvernement de laisser la place à Lei Shiying pour le siège de Leshan). Et c’est le 9 janvier 2010 que le P. Luo a été choisi par le presbyterium de Yibin, par 14 voix sur 17, pour devenir évêque coadjuteur de Mgr Chen Shizhong. Président de l’Association patriotique de Yibin, le P. Luo a également le titre de vice-président du Comité provincial des Affaires de l’Eglise.
(1) La solennité de la fête de saint André revêt une signification particulière pour l’Eglise catholique en Chine, et notamment au Sichuan. C’est en effet le nom de baptême que portait le P. André Li (1692-1775), prêtre chinois formé au sacerdoce par les prêtres des Missions Etrangères de Paris (MEP). Au milieu du XVIIIème siècle, les missionnaires étrangers ayant dû quitter le pays, le P. André Li s’est retrouvé seul dans la province du Sichuan durant plusieurs années et c’est notamment grâce à son zèle apostolique que les familles catholiques et les petites communautés dispersées ont pu conserver leur fidélité à la foi chrétienne dans un contexte de persécutions récurrentes. La catéchèse du P. Li s’inscrivait dans une pastorale sacramentaire rigoureuse, soucieuse de donner tout leur sens et le respect voulu aux sacrements reçus. Les missionnaires qui revinrent par la suite dans cette partie de la Chine s’appuyèrent sur son témoignage pour poursuivre sa tâche (Cf. « La catéchèse du prêtre chinois André Li (1692-1775) dans la province du Sichuan », par le P. Jean Charbonnier, MEP, in EDA du 16 septembre 2001 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-nord-est/chine/la-catechese-du-pretre-chinois-andre-li-1692-1775). Par ailleurs, le dernier évêque MEP de Yibin, alors appelé Suifu, fut Mgr René Boisguérin (1901-1998), expulsé en 1952 mais qui ne démissionna qu’en 1984. Il mourut en 1998 toujours très attaché à son diocèse de Chine. http://archives.mepasie.org/notices/notices-necrologiques/boisguerin-rene-1901-1998-1
(2) Voir dépêche EDA du 4 juillet 2011 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-nord-est/chine/le-saint-siege-excommunie-le-p.-lei-shiyin-ordonne-illicitement-eveque-du-diocese-de-leshan
(3) Voir dépêche EDA du 15 juillet 2011 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-nord-est/chine/huit-eveques-participent-a-une-nouvelle-ordination-episcopale-illicite-dans-la-cathedrale-saintjoseph-a-shantou
(4) Voir dépêche EDA du 25 juillet 2011 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-nord-est/chine/pekin-qualifie-de-ab-deraisonnable-et-grossiere-bb-la-sanction-canonique-appliquee-aux-deux-eveques-recemment-ordonnes-de-maniere-illicite.
(Source: Eglises d'Asie, 24 novembre 2011)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gia Đình Xa Quê Hà Nội thắp nến cầu nguyện cho Công Lý và Sự Thật
CTV Hoài Trang
05:24 24/11/2011
![]() |
![]() |
Thánh Lễ được chủ trì bởi hai cha đặc trách Gia Đình Công Giáo Xa Quê Hà Nội Gioan Lưu Ngọc Quỳnh và cha phó đặc trách Vinhsơn Liêm Nguyễn Trường Chính. Thánh lễ thường xuyên của Gia đình xa quê được diễn ra vào thứ tư hàng tuần vào lúc 20h tại Nhà thờ Thái Hà, với sự góp mặt của đông đảo anh chị em trong Gia Đình Công Giáo Xa Quê.
Trong Thánh Lễ mọi người đã được nghe những lời chia sẻ rất chân thành của cha phó và cuối Thánh lễ mọi người cũng được nghe lời giáo huấn của cha đặc trách, luôn luôn cầu nguyện với Chúa, cậy trông vào Chúa trước những sóng gió mà nhà Dòng và giáo xứ Thái Hà đang gặp phải. Cha cũng nhắc nhở mọi người cầu nguyện cho những người bị cám dỗ của đồng tiền mà xúc phạm đến Danh Thánh Chúa, cầu xin Chúa ban cho họ ơn sáng suốt để thấy những việc làm sai trái của mình.
Sau lời chúc bình an mọi người tập trung dưới chân Đức Mẹ cầu nguyện và hát Kinh Hòa Bình để cầu nguyện cho công lý- sự thật được tôn trọng. Những ánh nến thắp sáng lung linh ấy là những lời cầu nguyện chân thành và khát khao công lý của tất cả những người giáo dân hôm nay.
Nỗi buồn mất thân phụ mẫu
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
06:03 24/11/2011
Lễ tang sáng nay ngày 24.11.2011, tại Nhà thờ Thánh Mẫu, Phan thiết gieo vào lòng tôi mênh mang nổi buồn chia ly. Mới cách đây 5 ngày, lễ tang Thân Mẫu hôm nay lễ an táng Thân Phụ. Hai cái tang lớn trong đại gia đình.Thân Phụ Mẫu của linh mục Phêrô Trần Thanh Tú đã ra đi về với Chúa. Ông Bà Cố Phêrô Trần Thanh Đình – Anna Nguyễn Thị Thanh như hẹn ước với nhau cho chuyến đi đời đời. Ông lo cho Bà đi trước, Ông tiếp bước theo sau.
Xem hình ảnh
Thánh lễ an táng ngày 19.11, do ĐGM Giáo phận chủ tế cùng với 40 linh mục đồng tế. Thánh lễ an táng ngày 24.11, do cha TĐD Giáo phận chủ tế cùng với 40 linh mục đồng tế. Quý Bề Trên các Hội Dòng, Quý Nam Nữ Tu Sĩ, Chủng Sinh, Quý Hội Đồng Mục Vụ và giáo dân các giáo xứ Thánh Mẫu, Vinh An, Thuận Nghĩa, Long Hà, Vinh Thủy, thân nhân bạn hữu xa gần hiệp thông cầu nguyện và ngậm ngùi tiễn đưa.
Ông Bà Cố đã hoàn tất cuộc đời trong tuổi thọ đáng kính. Bà bước qua tuổi “thất thập cổ lai hy”. Ông sắp bước tới tuổi “bát thập như đại phúc”. Ông Bà có 8 người con. Tất cả đều thành đạt, trong đó có 2 bác sĩ và 1 linh mục.
Một cuộc sống đạo hạnh tốt lành của Ông Bà Cố được tưởng thưởng bằng một cái chết bình yên. Sách Khải huyền viết: “Ngay từ bây giờ, phúc thay những người đã chết mà được chết trong Chúa. Thần khí phán: phải, họ sẽ được nghĩ ngơi, không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo họ” (Kh 14,13). Ông Bà được chết trong Chúa, từ nay hết đau khổ nhọc nhắn, giả từ cuộc sống trần gian để về với Chúa.Trong sự tiễn đưa ấm áp của gia đình, con cháu, các linh mục, tu sĩ nam nữ, những người thân yêu, trong sự đón nhận ấm áp của đất trời. Ông Bà thật sự vui mừng về với Thiên Chúa tình yêu. Những người thân trong tang quyến, đoàn con cháu, bà con làng xóm, cộng đoàn giáo xứ lại thấy đâu đây hình bóng của Ông Bà vẫn còn hiện hữu, hình bóng lung linh như ánh sáng những ngọn nến toả vào ký ức những kỷ niệm nhập nhoà.
Cha mẹ qua đời là nổi đau mất mát lớn nhất cho con cái.
Ca dao viết :
Cây có gốc mới nở nghành sanh ngọn.
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu,
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Lòng thảo hiếu biết ơn của con cháu đối với ông bà cha mẹ rất quan trọng đối với người Việt Nam chúng ta. Tình cảm này không những được thể hiện qua cách đền ơn đáp nghĩa của con cháu đối với ông bà cha mẹ khi còn sống mà cả khi các ngài đã qua đời.
Bởi vì đối với người Việt :
Con người có tổ có tông,
như cây có cội như sông có nguồn.
Công cha như núi thái sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Con người sinh ra ở đời chẳng có ai thân yêu gần gũi bằng cha mẹ. Công ơn sinh thành, công lao dạy dỗ, tình yêu thương ấp ủ khiến con cháu lo sao cho tròn chữ hiếu. Đạo hiếu là lòng biết ơn, biết ơn trời đất, biết ơn cha mẹ. Nói đến công ơn cha mẹ người ta nói đến ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời : ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực. Con cái có bổn phận kính trọng yêu mến, hiếu thảo với đấng bậc sinh thành nuôi dưỡng.
Chết là chia ly là mất mát. Ngậm ngùi kẻ ở người đi. Nhưng dưới ánh sáng đức tin, người Kitô hữu nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, chúng ta chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò : “Thầy đi để dọn chỗ cho các con... Thầy sẽ trở lại đón các con...”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời: “Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).
Người Kitô hữu có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.
Cho đến lúc hồn ta trong hơi thở
Vẫn yên vui về cõi chết xa xôi.
Và u buồn là những đoá hoa tươi,
Và đau khổ là chiến công rực rỡ. (Chế Lan Viên)
Đối với họ, giờ chết là giờ về với Chúa, về nơi Chúa đã dọn sẵn cho mình (x. Ga 14,1-6), ngày đó không phải là ngày sầu thương tang tóc mà là một ngày vui mừng. Chính vì thế, các bổn đạo đầu tiên gọi ngày chết là Dies natalis, ngày Sinh nhật trong Nước Trời. Với ý nghĩa đó, ông Walfany Goethe đã gọi “con người chết là một vì sao lặn để mọc huy hoàng hơn ở một bán cầu khác”. Giờ chết là ngày khải hoàn sau bao năm phải chiến đấu khổ cực ở trần gian.
Con người có sinh có tử, đó là luật của Đấng Tạo hoá đã an bài, không ai biết được mình sẽ ra đi vào ngày giờ tháng năm nào và ở đâu. Con người không chọn và không định được ngày giờ ra đi. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Tạo Hoá, con người không thể làm ra sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết.
Ông Bà Cố ra đi trong lòng mến, đoàn con cháu ở lại trong lòng tin. Cái chết như một huyền nhiệm, như nhịp cầu đưa Ông Bà Cố về nhà Cha trên trời, nơi yên nghĩ muôn đời, một cõi đi về đợi ngày tái ngộ trong cõi vĩnh hằng. Luôn tin rằng Ông Bà Cố đã an giấc ngàn thu, nhưng vẫn có ngày chỗi dậy, đó là ngày Chúa quang lâm. Như thế có thể hát lên với Ông Gióp : Tôi tin rằng đấng cứu chuộc tôi hằng sống,và ngày tận thế,từ bụi đất, tôi sẽ đứng lên, một ngày kia chính trong trong thân xác này tôi sẽ được nhìn thấy Chúa, đấng cứu độ tôi.
Ông Bà Cố ra đi trong niềm hạnh phúc và hy vọng sống trong sự sống mới của Chúa Kitộ Phục Sinh. Ông Bà Cố ra đi, về với tổ tiên, về với cội nguồn của mình. Trong niềm khát vọng ấy, thi sĩ Tagore đã viết lời kinh tha thiết:
Như đàn hạc hoài hương,
Bay thẳng về tổ ấm trên đỉnh núi vút cao.
Nguyện cho đời con phiêu diêu,
Lên tận chốn huyền siêu.
Thay mặt anh em linh mục khóa 3 Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài gòn, chân thành chia buồn với người anh em trong nổi đau mất thân phụ mẫu. Nguyện xin Chúa nhân lành đoái thương đón nhận và dẫn đưa Ông Bà Cố về dự tiệc vui muôn đời.
ĐTC Gioan Phaolô II nhắn nhủ người Việt Nam trong Lễ Tôn Phong Hiển Thánh Tử Đạo Việt Nam
+ Gioan Phaolô II
08:54 24/11/2011
Nhân ngày Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 24.11 hôm nay, chúng ta cùng nhau suy tư lời của ĐTC Gioan Phaolô II trong Lễ Tôn Phong Hiển Thánh cho 117 vị Tiền Nhân Tử Đạo Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma:
“Hỡi giáo đoàn Việt Nam! Chúng tôi nói lại cho anh em rằng:
1. Máu các vị Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức Tin.
2. Giữa anh em, đức Tin của Tổ Tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
3. Đức Tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với Quê hương Đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô.
4. Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi của Phúc âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ Thiên Chúa Tình Yêu bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền cùng thể chế quốc gia (I Phêrô 2:13-17).
5. Do đó, công ích của quốc gia vẫn là điểm người công dân có đạo phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng chân lý của Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng; và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân”.
Mừng Lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta xin các ngài cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta biết nghe theo tiếng Chúa và Hội Thánh mời gọi, can đảm làm chứng cho Chúa giữa những thử thách đau thương.
“Hỡi giáo đoàn Việt Nam! Chúng tôi nói lại cho anh em rằng:
1. Máu các vị Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức Tin.
2. Giữa anh em, đức Tin của Tổ Tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
3. Đức Tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với Quê hương Đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô.
4. Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi của Phúc âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ Thiên Chúa Tình Yêu bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền cùng thể chế quốc gia (I Phêrô 2:13-17).
5. Do đó, công ích của quốc gia vẫn là điểm người công dân có đạo phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng chân lý của Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng; và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân”.
Mừng Lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta xin các ngài cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta biết nghe theo tiếng Chúa và Hội Thánh mời gọi, can đảm làm chứng cho Chúa giữa những thử thách đau thương.
GP Phan Thiết: Hội Đồng Mục Vụ mừng Lễ Bổn Mạng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Tâm Phúc
09:13 24/11/2011
PHAN THIẾT - Tự Hào, Biết Ơn và Cậy Trông là 3 tâm tình của người tín hữu Việt Nam, cách riêng quý vị trong Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV) các Giáo xứ, giáo họ của GP Phan Thiết dâng lên Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong ngày Mừng Lễ Bổn Mạng tại nhà thờ Chính Toà sáng ngày 24.11.2011.
Xem hình ảnh
Hoà với niềm vui của toàn thể Giáo hội Việt Nam và cầu nguyện cho các vị trong HĐMV của các giáo xứ, giáo họ trong ngày Bổn Mạng, Cha Tổng đại diện, Quý Cha Hạt trưởng của 5 Giáo hạt cùng với Quý Cha đã dâng thánh lễ đồng tế do Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Giám mục GP Phan Thiết chủ sự.
Hướng về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Đức Cha Giuse trong bài chia sẻ đã gợi lên 3 tâm tình: Tâm tình Tự Hào, vì là người Việt Nam nên tự hào về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong đức tin; Tâm tình Biết Ơn, chúng ta phải biết ơn Các Đấng vì Các Đấng đã gieo máu đào để hôm nay chúng ta được mùa gặt bội thu trong Đức tin; Tâm tình Cậy Trông, để nhờ lời chuyển cầu cận thân, cận lân của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà tín hữu Việt Nam hôm nay cũng vươn lên sống đức tin kiên cường mạnh mẽ.
Cách riêng với Quí vị HĐMV, Đức Cha ước mong từng vị “noi gương Các Thánh Tử Đạo VN để sống đức tin trong đời sống của mình thể hiện trong 3 chữ Thân: Sống đức tinBản Thân của mình bằng mẫu mực trong gia đình hạnh phúc giữa lòng xứ đạo; SốngDấn Thân phục vụ cộng đoàn trong tình thần vui tươi, đây cũng là trách nhiệm và sứ mạng mà Giáo hội địa phương gởi trao cho Quý vị; và sau cùng là Hiến Thân cho đạo Chúa bằng cách kiên vững cho đức tin của cộng đoàn mình được phát triển. “Nghĩa công” nặng hơn “tình riêng” để chúng ta biết hy sinh ý riêng của mình để vun bồi cho sức sống của xứ đạo, của Giáo hội được vươn lên”.
Đức Cha cũng thay mặt GP Phan Thiết cám ơn sự đóng góp của từng vị trong HĐMV cho giáo hội địa phương qua việc cộng tác với cha xứ để điều hành cộng đoàn.
Chuẩn bị tâm tình mừng Bổn Mạng, từ ngày 15 – 19/11/2011, tại 5 Giáo hạt đã lần lượt tổ chức ngày Tĩnh Huấn dành cho khoảng 900 vị trong Hội Đồng Mục Vụ của các Giáo xứ. Cha FX Phạm Quyền, Đặc trách Hội Đồng Mục Vụ đã đồng hành cùng với các giáo hạt trong suốt tuần tĩnh huấn. Quý chức HĐMV được học hỏi về hai đề tài của Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của HĐGMVN: “Mầu Nhiệm Giáo Hội” do Cha Tổng Đại Diện GB Hoàng Văn Khanh thuyết trình và “Mầu nhiệm Giáo Hội Hiệp Thông” do Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu, Thư Ký TGM Phan Thiết trình bày.
Nhờ lời bầu cử của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu chúc cho các vị trong HĐMV, được tràn đầy tình yêu Chúa hầu kiên vững trước những “cuộc tử đạo hàng ngày trong trách nhiệm” bởi “HĐMV cùng là Hội đồng phục vụ, theo cách nào đó phải chấp nhận hao mòn, chấp nhận phải hy sinh để có được niềm vui chung với Giáo hội địa phương của mình” như nhắn nhủ của Đức Cha Giuse.
Xem hình ảnh
Hoà với niềm vui của toàn thể Giáo hội Việt Nam và cầu nguyện cho các vị trong HĐMV của các giáo xứ, giáo họ trong ngày Bổn Mạng, Cha Tổng đại diện, Quý Cha Hạt trưởng của 5 Giáo hạt cùng với Quý Cha đã dâng thánh lễ đồng tế do Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Giám mục GP Phan Thiết chủ sự.
Hướng về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Đức Cha Giuse trong bài chia sẻ đã gợi lên 3 tâm tình: Tâm tình Tự Hào, vì là người Việt Nam nên tự hào về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong đức tin; Tâm tình Biết Ơn, chúng ta phải biết ơn Các Đấng vì Các Đấng đã gieo máu đào để hôm nay chúng ta được mùa gặt bội thu trong Đức tin; Tâm tình Cậy Trông, để nhờ lời chuyển cầu cận thân, cận lân của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà tín hữu Việt Nam hôm nay cũng vươn lên sống đức tin kiên cường mạnh mẽ.
Cách riêng với Quí vị HĐMV, Đức Cha ước mong từng vị “noi gương Các Thánh Tử Đạo VN để sống đức tin trong đời sống của mình thể hiện trong 3 chữ Thân: Sống đức tinBản Thân của mình bằng mẫu mực trong gia đình hạnh phúc giữa lòng xứ đạo; SốngDấn Thân phục vụ cộng đoàn trong tình thần vui tươi, đây cũng là trách nhiệm và sứ mạng mà Giáo hội địa phương gởi trao cho Quý vị; và sau cùng là Hiến Thân cho đạo Chúa bằng cách kiên vững cho đức tin của cộng đoàn mình được phát triển. “Nghĩa công” nặng hơn “tình riêng” để chúng ta biết hy sinh ý riêng của mình để vun bồi cho sức sống của xứ đạo, của Giáo hội được vươn lên”.
Đức Cha cũng thay mặt GP Phan Thiết cám ơn sự đóng góp của từng vị trong HĐMV cho giáo hội địa phương qua việc cộng tác với cha xứ để điều hành cộng đoàn.
Chuẩn bị tâm tình mừng Bổn Mạng, từ ngày 15 – 19/11/2011, tại 5 Giáo hạt đã lần lượt tổ chức ngày Tĩnh Huấn dành cho khoảng 900 vị trong Hội Đồng Mục Vụ của các Giáo xứ. Cha FX Phạm Quyền, Đặc trách Hội Đồng Mục Vụ đã đồng hành cùng với các giáo hạt trong suốt tuần tĩnh huấn. Quý chức HĐMV được học hỏi về hai đề tài của Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của HĐGMVN: “Mầu Nhiệm Giáo Hội” do Cha Tổng Đại Diện GB Hoàng Văn Khanh thuyết trình và “Mầu nhiệm Giáo Hội Hiệp Thông” do Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu, Thư Ký TGM Phan Thiết trình bày.
Nhờ lời bầu cử của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu chúc cho các vị trong HĐMV, được tràn đầy tình yêu Chúa hầu kiên vững trước những “cuộc tử đạo hàng ngày trong trách nhiệm” bởi “HĐMV cùng là Hội đồng phục vụ, theo cách nào đó phải chấp nhận hao mòn, chấp nhận phải hy sinh để có được niềm vui chung với Giáo hội địa phương của mình” như nhắn nhủ của Đức Cha Giuse.
Giáo phận Thái Bình kỷ niệm 75 năm thành lập
Phạm Huy Thông
09:35 24/11/2011
Ngày 1-12-2011, giáo phận Thái Bình sẽ tổ chức long trọng lễ kỷ niệm 75 năm thành lập (1936-2011). Giáo phận Thái Bình được tách ra từ giáo phận Bùi Chu theo Sắc chỉ ngày 9-3-1936 của Đức Pio XI. Sau khi Toà thánh thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam thì Đức cha Đa Minh Đinh Đức Trụ được đặt làm giám mục chính toà đầu tiên của Thái Bình (1960-1982). Kế vị tiếp là Đức cha Giuse Đinh Bỉnh (1982-1989). Đức cha FX Nguyễn Văn Sang được bổ nhiệm là Giám mục Thái Bình từ năm 1990 và nghỉ hưu năm 2009. Đương nhiệm là Đức cha Phê rô Nguyễn Văn Đệ.
Cũng trong dịp này, giáo phận cũng tổ chức trọng thể mừng thọ Đức cha FX. Nguyễn Văn Sang (1931-2011) và cũng là 30 năm Giám mục của Ngài. Đức cha FX. Nguyễn Văn Sang được ghi nhận là có nhiều công sức với giáo phận. Dưới thời Ngài coi sóc, giáo phận Thái Bình có thêm 38 xứ mới và 2/3 số linh mục của giáo phận hiện nay được truyền chức dưới tay Ngài. Đặc biệt công trình nhà thờ chính toà của giáo phận sau 3 năm xây dựng đ• được cung hiến ngày 13-10-2007 gắn liền với bao lo toan, vất vả của Ngài.
Cũng trong ngày lễ trọng đại này Đức cha Phê rô Nguyễn Văn Đệ sẽ truyền chức linh mục cho 9 thày: An tôn Nguyễn Văn Chuẩn, Gioakim Đặng Văn Điển, Giuse Mai Văn Duẩn, Vincent M. Nguyễn Hoà, Augustino Trần Thể Nhận, Vincent Phạm Văn Sơn, Đa minh Nguyễn Văn Thụ, Đa minh Vũ Minh Trí và Giuse Nguyễn Văn Tuyên.
Trước ngày đại lễ, chiều 30-11-2011 sẽ có rước kiệu các thánh Tử đạo Thái Bình và buổi tối sẽ có chương trình văn nghệ Hoan ca tạ ơn.
![]() |
| GM FX Nguyễn Văn Sang giảng lễ |
Cũng trong ngày lễ trọng đại này Đức cha Phê rô Nguyễn Văn Đệ sẽ truyền chức linh mục cho 9 thày: An tôn Nguyễn Văn Chuẩn, Gioakim Đặng Văn Điển, Giuse Mai Văn Duẩn, Vincent M. Nguyễn Hoà, Augustino Trần Thể Nhận, Vincent Phạm Văn Sơn, Đa minh Nguyễn Văn Thụ, Đa minh Vũ Minh Trí và Giuse Nguyễn Văn Tuyên.
Trước ngày đại lễ, chiều 30-11-2011 sẽ có rước kiệu các thánh Tử đạo Thái Bình và buổi tối sẽ có chương trình văn nghệ Hoan ca tạ ơn.
CGVN Họ Đạo Đức Mẹ La Vang mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Margarita Nguyễn Phương Lan
18:01 24/11/2011
FRESNO - Năm nay Cộng Đoàn Công Giáo thuộc Họ Đạo Đức Mẹ La Vang Fresno cử hành Lễ Thánh Anrê Dũng Lạc và Các Bạn Tử Đạo đúng ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) của Hoa Kỳ: Thứ Năm 24.11.
QUÝ VỊ PHẢI Xem hình ảnh
Là con cháu các anh hùng Tử Đạo Việt Nam, chúng ta trước hết tạ ơn Thiên Chúa đã cho máu các Ngài là hạt giống sinh ra mỗi người tín hữu trong đức tin, tiếp đến tạ ơn Chúa đã ban cho mình được diễm phúc sinh sống nơi đất nước đầy tự do và đã ban cho biết bao ân huệ trong năm qua.
Cũng trong tháng 11, Cộng Đoàn cũng không quên cầu nguyện tưởng nhớ Các Đẳng Linh Hồn. Nhớ đến những người thân yêu của chúng ta như ông bà, cha mẹ, anh chị em và bạn bè đã qua đời. Đây cũng là dịp để mỗi người hồi tâm lại và suy nghĩ về cuộc đời của mình. Sống hay chết đều có một sứ mạng đặc biệt là làm sáng danh Chúa. Và hầu như tất cả mọi người trong cộng đoàn dầu bận rộn đến đâu cũng dành một chút thời gian để đi viếng mộ và thắp một nén hương để tưởng nhớ đến người thân đã khuất của mình tại nghĩa trang Công Giáo Thánh Phêrô của Giáo Phận.
Sau cùng, xin kính chúc Cha Quản Nhiệm, Thầy Phó Tế và toàn thể Cộng Đoàn một ngày Lễ Tạ Ơn thật êm đềm. Nguyện xin Chúa và Mẹ La Vang luôn tiếp tục yêu thương và chúc lành cho Họ Đạo chúng con ngày càng đi lên trong ân nghĩa của Chúa và của Mẹ.
QUÝ VỊ PHẢI Xem hình ảnh
Là con cháu các anh hùng Tử Đạo Việt Nam, chúng ta trước hết tạ ơn Thiên Chúa đã cho máu các Ngài là hạt giống sinh ra mỗi người tín hữu trong đức tin, tiếp đến tạ ơn Chúa đã ban cho mình được diễm phúc sinh sống nơi đất nước đầy tự do và đã ban cho biết bao ân huệ trong năm qua.
Cũng trong tháng 11, Cộng Đoàn cũng không quên cầu nguyện tưởng nhớ Các Đẳng Linh Hồn. Nhớ đến những người thân yêu của chúng ta như ông bà, cha mẹ, anh chị em và bạn bè đã qua đời. Đây cũng là dịp để mỗi người hồi tâm lại và suy nghĩ về cuộc đời của mình. Sống hay chết đều có một sứ mạng đặc biệt là làm sáng danh Chúa. Và hầu như tất cả mọi người trong cộng đoàn dầu bận rộn đến đâu cũng dành một chút thời gian để đi viếng mộ và thắp một nén hương để tưởng nhớ đến người thân đã khuất của mình tại nghĩa trang Công Giáo Thánh Phêrô của Giáo Phận.
Sau cùng, xin kính chúc Cha Quản Nhiệm, Thầy Phó Tế và toàn thể Cộng Đoàn một ngày Lễ Tạ Ơn thật êm đềm. Nguyện xin Chúa và Mẹ La Vang luôn tiếp tục yêu thương và chúc lành cho Họ Đạo chúng con ngày càng đi lên trong ân nghĩa của Chúa và của Mẹ.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tiếng Chuông Thái Hà (2)
Bảo Giang
16:37 24/11/2011
Tiếng chuông Thái Hà (2)
“ Cây muốn lặng, gió chẳng ngừng”!
Tôi thức giấc sau nửa đêm vì tiếng gọi, tiếng reo của cái điện thoại. Nhưng có lẽ vào lúc ấy, không phải chỉ có một mình tôi thức dậy. Trái lại, đang có hàng vạn vạn con tim, vạn vạn bàn tay xiết chặt lấy nhau, hay có hàng triệu triệu đôi mắt vẫn đang mở lớn để nhìn về, và cùng thở chung một nhịp chờ đợi với Thái Hà. Gọi là chung một nhịp là vì Thái Hà không còn là riêng của Thái Hà. Nhưng từ cuộc trở mình đi tìm Công Lý, Thái Hà đã thành một biểu tượng, một cuộc sống, một ý chí, một bất khuất kiên cường của Việt Nam. Như thế, một cây đứng giữa trời, khả dĩ che mưa che nắng cho khách lữ hành, gặp nhiều gío lay cũng không có gỉ là lạ! Bởi vì:
Sự việc có gío lay và cây không ngừng đu đưa là lẽ thường. Đó là sự tuần hoàn, luật hữu sinh trong trời đất. Một cây muốn lớn lên rất cần phải có nắng, có mưa, có gío, đôi khi cần phải có bão nữa, cây mới sống. Hơn thế, mới khả dĩ lớn lên thành cây đại thụ, có tàng che nắng, tạm che mưa cho khách lữ hành dừng chân! Trường hợp, cây không đón nắng, không đu đưa theo gío đùa. Cây ấy là cây khô, cây chết. Cây không còn sức sống!
Cũng thế, Thái Hà không có ngoại lệ. Nếu Thái Hà can đảm đứng giữa đời nô lệ mà kiên cường gióng lên những tiếng chuông đi tìm Công Lý, Sự Thật và Hòa Bình thì mới là Thái Hà của đất Mẹ Việt Nam! Theo đó, cây Thái Hà phải gặp giống tố, phải được tôi luyện trong gió bão, gian nan, để vượt qua cơn cờ đỏ, của bạo tàn, của khủng bố của nón cối dép râu, của những dại dột thì mới khả dĩ trở thành đầu tầu, kéo theo những cái toa già ì ạch, có khi là đã trật cả đường rầy trên cả nước, cùng tiến lên. Tiến lên, vượt thắng những gì gọi là gian dối, gọi là côn đồ nhà nước, bất nhân, bạo ngược, để tạo dựng nên một bóng mát cho nhà Việt Nam. Như thế, dẫu nguy nan, Thái Hà không thể chết, không bao giờ chết, vì nó là nguồn lực sống của dân ta! Phải như thế không?
Vâng, nó cũng có nghĩa đầy oán giận nữa. Tại sao chúng không để cho dân ta được sống yên vui trong hạnh phúc, trong tự do ấm no, mà luôn tạo ra những đau thương cho dân tộc và đất nước mình? Yên thề nào được nhỉ?
Bạn có biết niềm vui của bọn trộm cướp, hải tặc là gì không? Đó là những túi tiền, vàng bạc trong tay chúng, là những xác chết của các nạn nhân nằm trên vũng máu, thay vì cuộc sống yên vui của dân lành. Cộng sản cũng thế và còn tàn bạo hơn thế. Theo đó, “Cây không thể ngừng, và gió không thể lặng”. Nó không thể dừng vì tính chủ quan là bản năng hành ác của cộng sản. Và không thể ngừng vì khách quan tính là việc ta “ tọa thủ quan chiêm”!
1. Tính chủ quan.
A. Đối với dân chúng.
Cộng sản không bao giờ nhìn dân chúng bằng ánh mắt đồng bào, đồng chủng, ngang hàng. Nhưng là một thứ nô lệ mới cho chủ nghĩa cá nhân, trong đó các đoàn đảng viên là những chủ nhân ông không thể bị thay thế, và cũng không thể bị mất quyền lợi.
Từ quan niệm này, cộng sản đã tước đoạt tất cả mọi thứ quyền thuộc về quyền sống của con người. Từ việc đi lại cho đến cư trú, hay việc tổ chức đời sống gia đình, đều bị nhà nước quản lý một cách chặt chẽ qua hệ thống công an và hộ khẩu. Ngày nay việc đi lại và cư trú tuy có dễ dàng và thả lỏng ra đôi chút. Tuy nhiên, chế độ hộ khẩu họ nắm rất chắc, và có thể vào nhà dân, bắt bớ, khám xét bất cứ lúc nào mà không cần phải có lý do, trát toà. Đã thế, Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền thì không được coi là quyền của người dân được có. Nhưng là những ân huệ được nhà nước nhỏ giọt, ban cho kẻ nô lệ. Cho nhiều thì hưởng nhiều. Cho ít thì hưởng ít. Ở dưới ché độc cộng sản, không một người nào có thể đòi lại được cái quyền này, kể cả đoàn đảng viên đang hưởng lộc đảng. Đây là quy luật chết, không thể sửa chửa. Chỉ có đạp đổ.
Không thể sửa chữa, bởi vì tư duy của chế độ đã có định nghĩa hoàn toan sai lầm về cái từ quản lý. Từ quản lý trong mắt ngưòi cộng sản không phải là thừa hành làm việc theo một quy định, theo một quy tắc hay luật lệ nào đó. Nhưng quản lý lại được định nghĩa như là sở hữu. Nghĩa là khi nói, “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý” tập thể đoàn đảng viên Việt cộng nghĩ ngay đến sự việc, đảng là lãnh đạo nhà nước. Nhà nước (chính phủ) là chủ nhân ông của đất nước chứ không phải là ngưòi quản lý của đất nước.
Vì sự sai lầm nghiêm trọng từ căn bản này, tập đoàn Việt cộng tự cho mình là chủ nhân của đất nước. Họ tự xây dựng quy chế xã hội, tự xây dựng lớp cán bộ, các đoàn đảng viên để thì hành những quyết định của họ và nắm gọn trong tay mọi cơ chế, từ hành pháp, lập pháp đến tư pháp. Và tất cả mọi cơ sở công quyền từ trung ương cho đến địa phương đều nằm trong tay các đoàn đảng viên kiểm soát, thao túng. Phần dân chúng, chiếm khoảng 95% dân số chỉ là những nô lệ, những công cụ để thi hành những sách lựợc do chủ nhân đẻ ra mà thôi. Theo đó, chủ nhân không cần phải nghe theo lời cư dân nô lệ để thay đổi điều này hay điều khác. (sự việc quản lý, sở hữu này đã được dẫn chứng qua buổi làm việc được gọi là “đối thoại” giữa lãnh đạo của quận Đống Đa và quý ban lãnh đạo nhà thờ Thái Hà ngày 24-9-2009, vụ Hồ Ba Giang, Trang NVCL còn lưu trữ video buổi đối thoại này).
Nói cách khác, trong cơ chế nhà nước gọi là: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt cộng”, đảng cộng sản tự cho mình ở trên đất nước. Nó độc quyền chi phối mọi tiến trình của đất nước. Trong khi đó, chủ nhân thực sực của đất nước bị loại ra ngoài, rồi được biến thành dân oan, thành dân nô lệ cho chế độ và được quản lý bằng một hệ thống luật lệ phi pháp, hay bằng bạo lực công quyền. Nó thách đố trực tiếp chủ quyền của tập thể nhân dân, là người, theo nguyên tắc có quyền đuổi kẻ quản lý bất trung, bất nghĩa, bất nhân ra khỏi vài trò quản lý bất kỳ lúc nào. Nó là tập hợp của một thứ phỉ quyền phi pháp. Là một hệ thống mà Tổng Thống Boris Yelsin đã công bố dứt khoát là: “ Cộng sản không thể sửa chữa, mà phải đạp bỏ”!
Kế đến, bản chất của cộng sản là bạo lực. Dùng bạo lực, khủng bố, để cướp và giữ lấy công quyền. Theo đó, tổ chức cộng sản không có khả năng và cũng không thể sống chung trong hòa bình, an lạc với dân chúng. Đơn giản hơn, với cái bản chất lấy gian dối làm lẽ sống, lấy thù hận làm phương châm đấu tranh nên cộng sản sẽ bị hủy diệt, bị đào thải trong một xã hội an bình, thịnh vượng. Nên muốn tồn sinh cộng sản buộc phải đi theo một quy luật nhất định: Bằng cách này hay cách khác, phải tạo ra những cuộc xung đột, gây hấn. Nếu không khả dĩ với láng giềng, thì sẽ nhắm vào một “ thành phần” dân chúng ở một địa phương nào đó để guồng máy công an có cơ hội thực hiện hành vi bạo lực gây tội ác, làm cho dân chúng thêm hoang mang sợ hãi, bất an. Nhờ đó, guồng máy tuyên truyền của nhà nước lại chiến thắng trong việc truyền đi những tín hiệu gian dối, lừa bịp để bảo vệ chế độ. Nhà nưóc Việt cộng tại Việt Nam ngày nay đang ở trên đỉnh cao của hệ thống này.
B. Đối với tôn giáo
1. Bản chất của Tôn Giáo là sự Thánh Thiện, và nền tảng luân lý đạo đức của tôn giáo thì đặt trên Công Lý và Sự Thật. Theo đó, ngay từ trong định nghĩa, mọi người đều thấy được sự đối đầu trực diện giữa tôn giáo và cộng sản. Một bên là Công Lý, Sự Thật, còn bên kia là một tổ chức gian dối, gây tội ác và đặt nền tảng sinh hoạt theo thuyết Tam Vô: Vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc. Theo chủ thuyết này, cộng sản không đặt nền tảng sinh hoạt cho tổ chức của mình theo nền luân lý, đạo đức của gia đình, xã hội và tôn giáo. Trái lại tìm cách triệt hạ nền luân lý đạo đức là tinh hoa nhân bản tính của con người, rồi xây dựng, thiết lập một cơ cấu xã hội dựa trên gian dối, phi nhân bản.
2. Về đời sống. Tôn giáo dựa trên tính công bằng, bác ái, độ lượng, tình yêu thưong để con người tìm đến hạnh phúc, chân lý. Trong khi đó cộng sản dựa trên căm thù đấu tranh, chia rẽ, chiếm đoạt để đi đến hận thù, tội ác và bất công. Nên người ta không lạ gì, ngay sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, ngoài việc giết ngưòi theo sách lược “ đào tận gốc trốc tận rễ” bọn trí phú địa hào” rập khuôn theo kiểu mẫu cộng sản Liên Sô, Trung cộng. Việt cộng không ngừng gây ra những xung đột với tôn gíao, khi thì trên bình diện cả nước, lúc thì ở từng địa phương.
Ai từng ở ngoài miền bắc sau năm 1954 đều biết rõ từng trường hợp cộng sản gây ra xung đột với tôn giáo như thế nào. Ở ngay Hà nội này, cha chính Vinh, cha Căn ( sau này là Hồng Y). Sau vụ không cho ủy ban liên lạc của nhà nước treo cờ của cộng sản chen lẫn với cờ của tôn giáo trong dịp Noel 1958 trong khuôn viên nhà thờ. Kết quả là bị gọi ra tòa, cha Căn bị kết án 6 tháng tù treo, cha chính Vinh bị kết án ba năm tù ( theo lời chứng của một GM). Ngài bị giam ở đâu chẳng một ai hay, Ngài bị giết chết ra sao không ai biết. Mãi bốn mươi năm sau, người ta mới tìm được và đưa hài cốt của Ngài từ trại Cổng Trời về Hà Nội! Rồi biết bao nhiêu cơ sở của Tôn Giáo nói chung, Công giáo nói riêng, như trường học, viện tế bần, viện mồ côi, nhà thương, trường học, một số những cơ sở kinh doanh của các địa phận đều lần lượt lọt vào tay nhà nước. Trước thì họ bảo là dùng vào việc chung, việc công ích, nhưng sau đó, một số các cơ sở này từ từ sang vào tay các tư nhân đảng viên, cán bộ mặc tình hưởng lợi!
Đó là những bất công xã hội. Đó là những sai lầm căn bản từ chủ thuyết Tam Vô. Đó là lý do trả lời tại sao, vào ngày 20-9-2008, Tổng GM Hà Nội, Ngô quang Kiệt đã đứng lên giữa hội đường của nhà nước tại Hà Nội mà công bố bản Tuyên Ngôn Công Lý là: “ Chúng tôi không chanh chấp với nhà nước. Bằng chứng đó là: có 95 cơ sở (của công giáo bị chiếm đoạt sau 1954). Chúng tôi có đòi cơ sở nào đâu, vì những cơ sở đó thực sự dùng vào những lợi ích chung. Chẳng hạn như cái trường Hoàn Kiếm, chúng tôi không bao giờ nói tới. Bệnh viện St Paul chúng tôi không bao giờ dám nói tới. Bệnh viện Bài Lao không bao giờ chúng tôi dám nói tới, vì sử dụng vào lợi ích chung. Nhưng khách san Láng Hạ chúng tôi sẽ nói tới, bởi vì sử dụng vào mục đích kinh doanh. Và cái Tòa Khâm Sứ đã thành cái nơi sàn nhảy, đã thành cái nơi kinh doanh buôn bán, đã có cái dấu hiệu buôn bán chia chác để làm cái trung tâm thương mại. Chúng tôi nói tới bởi vì nó rơi vào tay tư nhân..., chúng tôi không tranh chấp với nhà nước. Nhưng chúng tôi nói lên cái tiếng nói của Công Lý”
Bấy nhiêu đã là sáng tỏ cho sự việc, nhưng Ngài còn nhấn mạnh là: “Tôn giáo là cái quyền của con người, không phải là một ân huệ Xin- Cho”. Nhưng cộng sản lại không cho đó là cái quyền của con nguời, nhưng là ân huê được ban từ nhà nước. Khi nhắc lại chuyện này, không phải là tôi muốn khơi lại những vết thương không lành. Nhưng muốn nhìn hướng đi ấy như là một bài học Công Lý cần được làm cho sáng tỏ hơn, mạnh mẽ hơn. Bởi vì, Công Lý vẫn ỡ cuối đường, không được soi sáng cho mọi người. Trái lại, những quản lý bất trung, bất nghĩa với nhân dân, với tổ quốc vẫn tự cho mình là chủ nhân của đất nước. Tự nhiên, dùng bạo lực chiếm đoạt lấy tài sản của công ích là TKS, rồi linh địa Thái Hà, đến Tam Tòa, Loan Lý, Đồng Chiêm, Cồn Dâu... Nay lại là Thái Hà và chắc là sẽ còn nhiều địa danh kế tiếp? Ấy là chưa kể đến những trường hợp chiếm đất nhà của dân chúng, biến người dân thành những dân oan lang thang trên bình diện cả nước. Với cái bản chất tham tàn ấy. Có khi nào chúng muốn dừng tay?
II. Nguyên do khách quan: “ toạ thủ quan chiêm”.
Có một sự thật rất thật là, sau ba thế hệ bị dập vùi bởi những đòn hung ác của Việt cộng, người Việt Nam hôm nay đã ra khác xưa nhiều. Chuyện này thì chả ai dám trách ai, Bỏi lẽ, thế hệ đầu sau những màn bị thủ tiêu đấu tố, đã để lại cho đàn con những nối tang thương thống hận cộng sản. Cuộc sống chưa vực dậy được thì chúng phát động chiến tranh tại miền Nam, Từ đó vùi dập thêm thế hệ thứ hai và kéo cả miền Nam vào chung một lỗ tối tăm. Đến thế hệ thứ ba thì chúng khua chiêng đánh trống đưa trẻ vào một nền giáo dục phi giáo dục dựa trên căn bản vô đạo. Đẩy trẻ buông mình vào các cuộc truy hoan, phạm tội ác, trong lúc bản thân những cán cộng từ trung ương đến địa phương trở thành những chúa ngục, ngày đêm đục khoét làm ruồng, rỗng hết mọi thứ tài nguyên của quốc gia. Kết quả, nó muốn làm gì thì làm, phần mình thì ráng mà giữ lấy thân cho qua ngày!
Bỗng nhiên, vào những năm 2008, 2009, GM Kiệt, TGM Hà Nội như người ở trên trời rơi xuống đất. Một là chưa tỉnh ngủ, hai là không kiêng nể gì cái ách bạo tàn. Ông đứng dậy, công bố “ Tự do tôn giáo là cái quyền của con người chứ không phải là ân huệ xin cho”. Lời công bố ấy làm đinh tai điếc óc nhiều người. Đã thế, Ông còn đến thăm thăm viếng, an ủi thân nhân những ngưòi bị côn đồ nhà nước bắt giam khi họ tham gia các hoạt động cho công bằng xã hội, Ông sắn quần lên quá gối, lội nước bùn đi thăm dân trong những ngày mưa lũ, lụt lội tại Hà Nội. Ông đã làm cho nhiều ngưòi mở bừng con mắt ra. Tuy thế, đa phần chỉ nhìn ông bằng bằng ánh mắt kinh ngạc, thích thú.
Kinh ngạc vì việc làm của Ông khác lạ. Thích thú vì hướng đi tìm Công Lý cho dân của Ông. Nhưng thực lòng là chưa dám bước theo Ông. Ấy là không kể đến một số trường hợp lại nhìn ông bằng đôi mắt thiếu thiện cảm. Kết quả, Ông thành người cô đơn ở giữa Tòa GM Hà Nội. Ông thành ngưòi cô đơn ngay trong những cuộc gặp gỡ với những người đồng cấp, đồng trách nhiệm trong HDGM/VN. Cây đòn gánh trên vai Ông càng lúc càng cong oằn xuống vì những tiếng bấc tiếng chì như “đồng cảm không đồng thuận”, “ai không thích cộng sản thì cũng đừng buộc chúng tôi phải khích bác họ“, rồi “mang tính thói đời đối kháng“, “với lên tiếng hay là không lên tiếng”! Tất cả hợp lại đưa đến cái đáp số sau cùng, làm cho bao dòng lệ rơi, xen giữa những tiếng cuời man rợ của những kẻ chuyên sống trong bóng tối khi vị Tổng Giám Mục khả kính của thành Hà Nội về hưu vào cái tuổi 58.
Tại sao lại có thể có cái kết quả như thế nhỉ? Có phải tại nguời mình “tọa thủ quan chiêm” kỹ quá hay không? Hay hướng đi của Ông táo bạo quá, vì còn ngỡ ngàng, chưa quen, nên không mấy ai dám đi theo?
Tôi không biết vì lý do gì. Nhưng khi nhìn lại lịch sử, người ta dễ dàng nhận ra hình ảnh của ông cũng chính là hình ảnh và tinh thần của Đức Kitô khi Ngài vào đền thờ Gierusalem xưa. Khi vào thành, Ngài không tránh né, không luồn lách để tìm cách bước đi theo những khe nhỏ, hẹp, là khoảng cách nằm ở giữa những cái bàn, cái ghế, hàng quán đặt ngổn ngang trong khuôn viên Đền Thờ, nom giống như những lối đi lắt léo trong chợ tạp, do những kẻ muốn biến Đền Thờ thành khu buôn bán, chợ búa tạo thành. Trái lại, trong kinh thánh viết ” Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. 14Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền.15Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." Ga 2,13-22
Rõ ràng hướng đi của Đấng: ”Ta là Đường là Chân Lý và là Sự Sống” (Gn14,16) là rất mạnh mẽ. Mạnh mẽ trong cả lời nói và hành động. Ngài đã không ru rú ẩn mình ở trong nhà để tìm cách an thân. Không luồn lách qua những khe hẹp mà đi. Không ngụy biện vì lý do này hay lý do khác khi vào Đền Thờ. Trái lại, Ngài đã lấy giây lưng làm roi mà xua đuổi những phường buôn bán muốn biến đền thờ thành cái chợ. Rồi Ngài mở ra đường đi rộng rãi, không phải cho riêng Ngài mà cho những ai muốn vào Đền Thờ, hay đi tìm lẽ Công Chính. Sự việc này ít nhất có hai ý nghĩa: Thứ nhất, Ngài đi trước để cho các môn đệ của Ngài hãy nhìn theo cách ấy mà đi. Thứ hai, Ngài muốn bảo rằng: Công Lý không tự nhiên mà có. Nhưng có là vì sự can đảm và dũng mãnh của người đi tìm kiếm!
Dĩ nhiên, việc tìm kiếm Công Lý là không dễ dàng gì. Đức Kitô đã là một tấm gương: Ngài đã đổi cả mạng sống của Ngài vì đàn chiên. Ngài đã hy sinh chính Ngài vì Công Lý. Nếu Ngài cứ ru rú ở trong nhà, làm sao có thể truyền đi Tin Mừng, truyền đi bài giảng Tám Mối Phúc ở trên núi? Nếu Ngài không vào thành, không lấy giây lưng làm roi đánh đuổi những kẻ muốn biến Đền Thờ thành nơi chợ búa thì tìm đâu ra ra con đường “Chân Lý và Sự Thật”. Và nếu Ngài cứ quẩn quanh trong nhà, có lẽ Ngài đã không bị treo lên trên Thập Tự Giá! Khi đó, Ngài không thể để lại cho trần thế tấm gương và hiểu được gía trị cao quý đich thực của ”Người chủ chăn nhân từ hy sinh tính mạng vì đàn chiên." (Yn 10:11)! Và như thế, khéo mà Thái Hà cũng không bị vất vả vì Công Lý, vì Sự Thật! Bởi lẽ, có đâu mà đi tìm?
Nhưng không, Đức Kitô không có thái độ ”tọa thị quan chiêm”. Không viện tìm lý do, cũng không tránh né, không lách, không len lỏi qua khe hở để vào Đền Thờ hay tìm cho mình an thân. Nhưng Ngài đã đứng dậy, dùng dây lưng làm roi mà xua đuổi những kẻ muốn biến Đền thờ thành nơi chợ búa:” Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Gioan 2:16). Rồi quay lại bảo môn đồ “ai muốn theo ta thì vác thập giá mình mà theo ta” (Lc 9:18). Thái Hà muốn theo Ngài đi mở đuờng Công Lý ư? Như thế là vất vả, là gánh nặng cho Thái Hà đấy!
Bởi vì, trong ngày đầu tiên giáp mặt với đàn chiên khi về nhậm chức vụ Tổng Giám Mục Phó Hà Nội, GM Nhơn, đã đưa ra hướng đi êm ái nhẹ nhàng là: “Vâng lời để được bình an”! Dĩ nhiên, chẳng một ai có thể áp đặt hướng đi cho ngưòi khác. Nhưng xem ra hướng đi ấy rất là ”toạ thị quan chiêm” nếu như không muốn nói là cầu an hưởng lộc! Tuy thế, thái độ ấy chẳng phải là có ở nơi một vài người, trái lại, có rất rất nhiều người đồng cảm và đồng hành. Nhưng cũng không thiếu người công kích. Lý do.
1. Chủ trương ấy chỉ có thể tồn tại và áp dụng được ở trong những nơi như nhà dòng, chủng viện, trường học, nhà nội trú, nơi mà mọi ngưòi được đối sử và hưởng mọi quyền lợi như nhau. Nơi mà tất cả mọi người đều tôn trọng nhau, tôn trọng và tuân giữ mọi lệ luật một cách nghiêm nhặt, hoặc là xã hội tây phương, nơi con người rất tôn trọng luật lệ nhân bản. Nghĩa là, nó chỉ có thể áp dụng được ở những nơi mà mọi ngưòi đều cân bằng như một cái đũa trong một bó đũa mà thôi.
2. Hoặc gỉa, như ở trong nhà tù, nơi mà mọi người đang phải thi hành những bản án, tuy khác nhau, nhưng bản thân của họ là những tội phạm, là những kẻ đã tạm thời bị tước bỏ hết mọi thứ quyền lợi cá nhân. Chỉ còn được nuôi ăn và lao động, thì chủ trương này, xem ra có lợi nhất thời. Bởi lẽ, vâng lời quản giáo thì có thể được bình an, không bị giai cấp cai quản nhà tù hành hạ. Hoặc bạc nhược, làm theo lời sai khiến của những kẻ tù hung bạo thì cũng tạm được an thân! Ngoài ra, thật khó tìm ra môi trường thích hợp để áp dụng cho hướng đi này.
3. Như thế, nó chỉ có thể là cách “tính toán“ cho cá nhân, hơn là một hướng dẫn, chỉ đường. Nghĩa là nó không thể là một bài học cho tập thể ở trong một xã hội đổ đốn như xã hội cộng sản. Vì nếu có “vâng lời” chúng, sự bình an cũng chưa chắc đã đến. Trừ khi, nhắm mắt lại, phá bỏ cái nhãn quan nhân bản của con ngưòi đi và mặc lấy cái lớp gỉa dối của cộng sản, hoặc chấp nhận làm nô lệ để nhận lấy một vài cái ân huệ của chúng. Ngoài ra thật là khó lắm!
Đó là hai lý do để cho gió tiếp tục làm gió, để cho ngưòi càng lúc càng gặp khốn khó, tang thương vì cái bạo lực phi pháp của cộng sản.
Có cách nào cho gió khỏi lộng, cho ngưòi yên vui không? Tôi nghĩ là có hai cách: Cuốn theo gió hoặc làm đổi chiều gió.
a. Cuốn theo chiều gió.
Khi cuốn theo gió thì đừng than van gì hết. Gió muốn lột áo của ta ra, hãy lột cả cái quần của ta, của vợ con ta ra cho nó cuốn đi. Thân ta còn trơ trọi cái hình hài mẹ cha cho ta, có lẽ gió cũng chả muốn cuốn thêm nữa? Hoặc gỉả, ta biến thành gió, lại theo gió mà cuốn lấy quần áo tài sản của người khác, thế hệ khác. Rồi tìm vui trên những thống khổ của người khác....! Nên nhớ, ở trong trường hợp này, gió như những cơn lốc xoáy. Nó đến từ hướng này đến hướng khác. Hết đợt này đến đợt khác. Không bao giờ ngừng.
b. Đứng lên đổi chiều gió.
Ngược với hướng đi trên là hãy mạnh dạn lên, người đang ngồi hãy đứng dậy đi. Người đã đứng lên thì hãy nhìn về Thái Hà. Rồi cùng nắm lấy tay nhau. Trước là cho có bạn, sau là tạo thành một thành lũy kiên cố để làm cho gió phải xoay chiều đổi hướng. Đem thân chắn gió là chấp nhận thiệt thòi hy sinh buổi đầu. Nhưng con cháu ta, thế hệ mai sau sẽ hưởng nhờ được mưa ân, nắng ấm. Bỡi lẽ, gió sẽ trở nên cuồng bạo một lần và sau đó buộc phải thuận theo lòng sắt đá của người đi chắn gió. Gian truân sẽ đến, nhưng gian truân nào rồi cũng qua. Công Lý sẽ đến. Đến vì sự can đảm và dũng mãnh của người đi tìm kiếm!
Tạm kết, trong bài, tuy tôi viết ra vài điểm tiêu cực, nhưng không hề có chủ rương phản bác một cá nhân nào. Trái lại, chỉ muốn làm sáng tỏ hơn cái ý nghĩa của những người can đảm dấn thân đi tìm Công Lý, không phải cho riêng mình, nhưng là cho tôn giáo và cho dân tộc của mình.
Cách riêng, tôi muốn nói lên sự cảm phục đối với những tấm lòng qủa cảm của những bước chân hiên ngang vì Công Lý, vì quê hương Việt Nam, của anh chị em ở Thái Hà, của những anh chị em ở đầu sóng, ngọn gió. Rôi tôi cũng muốn viêt lên một sự thật là: Anh chị em, bằng hữu của chúng ta ở Thái Hà, Loan Lý, Cồn Dầu, Đồng Chiêm... hay ở bất cứ nơi đầu sóng ngọn gió nào, khi tìm Công Lý cho Việt Nam đều mong ước có được những bàn tay, những ánh mắt, những hành động tích cực từ mọi người. Đặc biệt là từ những vị lãnh đạo các tôn giáo. Cách riêng, các vị chủ chăn trực tiếp và của HĐGM/VN hơn là một chủ trương “vâng lời để được bình an”.!
Như thế Tiếng Chuông Thái Hà không phải chỉ là tiếng chuông cấp báo cho mọi người biết là những tên quản lý bất trung, bất nghĩa của đất nước vẫn tiếp tục bạo hành Công Lý, đàn áp Tự Do. Tệ hơn thế, chúng còn đưa côn đồ nhà nước vào tận những nơi tôn nghiêm như nhà thờ, nhà chùa để khủng bố tôn giáo. Nhưng còn là tiếng chuông réo gọi mọi người hãy tỉnh giấc, hãy chỗi dậy. Hãy thay đổi lối suy nghĩ và hành động. Hãy vì tương lai của đất nước mà đứng dậy. Nối kết chung một vòng tay. Bước chung một nhịp bước. Hát chung một bài ca. Bài ca của ngưòi đi chắn gió. Để khi chuyến tàu lịch sử đưa những bạo tàn vào dĩ vãng thì không riêng Thái Hà, Nhưng là mọi miền, mọi nhà, mọi ngưòi cùng đất nước đổi mới. Hân hoan bước vào một vận hội mới. Vận hội của Công Lý, Hòa Bình. Ở đó người người cùng nhau xây dựng một đất nước Độc Lập trong Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền, xoá đi những ngày tăm tối trong nô lệ....
Bảo Giang
“ Cây muốn lặng, gió chẳng ngừng”!
Tôi thức giấc sau nửa đêm vì tiếng gọi, tiếng reo của cái điện thoại. Nhưng có lẽ vào lúc ấy, không phải chỉ có một mình tôi thức dậy. Trái lại, đang có hàng vạn vạn con tim, vạn vạn bàn tay xiết chặt lấy nhau, hay có hàng triệu triệu đôi mắt vẫn đang mở lớn để nhìn về, và cùng thở chung một nhịp chờ đợi với Thái Hà. Gọi là chung một nhịp là vì Thái Hà không còn là riêng của Thái Hà. Nhưng từ cuộc trở mình đi tìm Công Lý, Thái Hà đã thành một biểu tượng, một cuộc sống, một ý chí, một bất khuất kiên cường của Việt Nam. Như thế, một cây đứng giữa trời, khả dĩ che mưa che nắng cho khách lữ hành, gặp nhiều gío lay cũng không có gỉ là lạ! Bởi vì:
Sự việc có gío lay và cây không ngừng đu đưa là lẽ thường. Đó là sự tuần hoàn, luật hữu sinh trong trời đất. Một cây muốn lớn lên rất cần phải có nắng, có mưa, có gío, đôi khi cần phải có bão nữa, cây mới sống. Hơn thế, mới khả dĩ lớn lên thành cây đại thụ, có tàng che nắng, tạm che mưa cho khách lữ hành dừng chân! Trường hợp, cây không đón nắng, không đu đưa theo gío đùa. Cây ấy là cây khô, cây chết. Cây không còn sức sống!
Cũng thế, Thái Hà không có ngoại lệ. Nếu Thái Hà can đảm đứng giữa đời nô lệ mà kiên cường gióng lên những tiếng chuông đi tìm Công Lý, Sự Thật và Hòa Bình thì mới là Thái Hà của đất Mẹ Việt Nam! Theo đó, cây Thái Hà phải gặp giống tố, phải được tôi luyện trong gió bão, gian nan, để vượt qua cơn cờ đỏ, của bạo tàn, của khủng bố của nón cối dép râu, của những dại dột thì mới khả dĩ trở thành đầu tầu, kéo theo những cái toa già ì ạch, có khi là đã trật cả đường rầy trên cả nước, cùng tiến lên. Tiến lên, vượt thắng những gì gọi là gian dối, gọi là côn đồ nhà nước, bất nhân, bạo ngược, để tạo dựng nên một bóng mát cho nhà Việt Nam. Như thế, dẫu nguy nan, Thái Hà không thể chết, không bao giờ chết, vì nó là nguồn lực sống của dân ta! Phải như thế không?
Vâng, nó cũng có nghĩa đầy oán giận nữa. Tại sao chúng không để cho dân ta được sống yên vui trong hạnh phúc, trong tự do ấm no, mà luôn tạo ra những đau thương cho dân tộc và đất nước mình? Yên thề nào được nhỉ?
Bạn có biết niềm vui của bọn trộm cướp, hải tặc là gì không? Đó là những túi tiền, vàng bạc trong tay chúng, là những xác chết của các nạn nhân nằm trên vũng máu, thay vì cuộc sống yên vui của dân lành. Cộng sản cũng thế và còn tàn bạo hơn thế. Theo đó, “Cây không thể ngừng, và gió không thể lặng”. Nó không thể dừng vì tính chủ quan là bản năng hành ác của cộng sản. Và không thể ngừng vì khách quan tính là việc ta “ tọa thủ quan chiêm”!
1. Tính chủ quan.
A. Đối với dân chúng.
Cộng sản không bao giờ nhìn dân chúng bằng ánh mắt đồng bào, đồng chủng, ngang hàng. Nhưng là một thứ nô lệ mới cho chủ nghĩa cá nhân, trong đó các đoàn đảng viên là những chủ nhân ông không thể bị thay thế, và cũng không thể bị mất quyền lợi.
Từ quan niệm này, cộng sản đã tước đoạt tất cả mọi thứ quyền thuộc về quyền sống của con người. Từ việc đi lại cho đến cư trú, hay việc tổ chức đời sống gia đình, đều bị nhà nước quản lý một cách chặt chẽ qua hệ thống công an và hộ khẩu. Ngày nay việc đi lại và cư trú tuy có dễ dàng và thả lỏng ra đôi chút. Tuy nhiên, chế độ hộ khẩu họ nắm rất chắc, và có thể vào nhà dân, bắt bớ, khám xét bất cứ lúc nào mà không cần phải có lý do, trát toà. Đã thế, Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền thì không được coi là quyền của người dân được có. Nhưng là những ân huệ được nhà nước nhỏ giọt, ban cho kẻ nô lệ. Cho nhiều thì hưởng nhiều. Cho ít thì hưởng ít. Ở dưới ché độc cộng sản, không một người nào có thể đòi lại được cái quyền này, kể cả đoàn đảng viên đang hưởng lộc đảng. Đây là quy luật chết, không thể sửa chửa. Chỉ có đạp đổ.
Không thể sửa chữa, bởi vì tư duy của chế độ đã có định nghĩa hoàn toan sai lầm về cái từ quản lý. Từ quản lý trong mắt ngưòi cộng sản không phải là thừa hành làm việc theo một quy định, theo một quy tắc hay luật lệ nào đó. Nhưng quản lý lại được định nghĩa như là sở hữu. Nghĩa là khi nói, “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý” tập thể đoàn đảng viên Việt cộng nghĩ ngay đến sự việc, đảng là lãnh đạo nhà nước. Nhà nước (chính phủ) là chủ nhân ông của đất nước chứ không phải là ngưòi quản lý của đất nước.
Vì sự sai lầm nghiêm trọng từ căn bản này, tập đoàn Việt cộng tự cho mình là chủ nhân của đất nước. Họ tự xây dựng quy chế xã hội, tự xây dựng lớp cán bộ, các đoàn đảng viên để thì hành những quyết định của họ và nắm gọn trong tay mọi cơ chế, từ hành pháp, lập pháp đến tư pháp. Và tất cả mọi cơ sở công quyền từ trung ương cho đến địa phương đều nằm trong tay các đoàn đảng viên kiểm soát, thao túng. Phần dân chúng, chiếm khoảng 95% dân số chỉ là những nô lệ, những công cụ để thi hành những sách lựợc do chủ nhân đẻ ra mà thôi. Theo đó, chủ nhân không cần phải nghe theo lời cư dân nô lệ để thay đổi điều này hay điều khác. (sự việc quản lý, sở hữu này đã được dẫn chứng qua buổi làm việc được gọi là “đối thoại” giữa lãnh đạo của quận Đống Đa và quý ban lãnh đạo nhà thờ Thái Hà ngày 24-9-2009, vụ Hồ Ba Giang, Trang NVCL còn lưu trữ video buổi đối thoại này).
Nói cách khác, trong cơ chế nhà nước gọi là: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt cộng”, đảng cộng sản tự cho mình ở trên đất nước. Nó độc quyền chi phối mọi tiến trình của đất nước. Trong khi đó, chủ nhân thực sực của đất nước bị loại ra ngoài, rồi được biến thành dân oan, thành dân nô lệ cho chế độ và được quản lý bằng một hệ thống luật lệ phi pháp, hay bằng bạo lực công quyền. Nó thách đố trực tiếp chủ quyền của tập thể nhân dân, là người, theo nguyên tắc có quyền đuổi kẻ quản lý bất trung, bất nghĩa, bất nhân ra khỏi vài trò quản lý bất kỳ lúc nào. Nó là tập hợp của một thứ phỉ quyền phi pháp. Là một hệ thống mà Tổng Thống Boris Yelsin đã công bố dứt khoát là: “ Cộng sản không thể sửa chữa, mà phải đạp bỏ”!
Kế đến, bản chất của cộng sản là bạo lực. Dùng bạo lực, khủng bố, để cướp và giữ lấy công quyền. Theo đó, tổ chức cộng sản không có khả năng và cũng không thể sống chung trong hòa bình, an lạc với dân chúng. Đơn giản hơn, với cái bản chất lấy gian dối làm lẽ sống, lấy thù hận làm phương châm đấu tranh nên cộng sản sẽ bị hủy diệt, bị đào thải trong một xã hội an bình, thịnh vượng. Nên muốn tồn sinh cộng sản buộc phải đi theo một quy luật nhất định: Bằng cách này hay cách khác, phải tạo ra những cuộc xung đột, gây hấn. Nếu không khả dĩ với láng giềng, thì sẽ nhắm vào một “ thành phần” dân chúng ở một địa phương nào đó để guồng máy công an có cơ hội thực hiện hành vi bạo lực gây tội ác, làm cho dân chúng thêm hoang mang sợ hãi, bất an. Nhờ đó, guồng máy tuyên truyền của nhà nước lại chiến thắng trong việc truyền đi những tín hiệu gian dối, lừa bịp để bảo vệ chế độ. Nhà nưóc Việt cộng tại Việt Nam ngày nay đang ở trên đỉnh cao của hệ thống này.
B. Đối với tôn giáo
1. Bản chất của Tôn Giáo là sự Thánh Thiện, và nền tảng luân lý đạo đức của tôn giáo thì đặt trên Công Lý và Sự Thật. Theo đó, ngay từ trong định nghĩa, mọi người đều thấy được sự đối đầu trực diện giữa tôn giáo và cộng sản. Một bên là Công Lý, Sự Thật, còn bên kia là một tổ chức gian dối, gây tội ác và đặt nền tảng sinh hoạt theo thuyết Tam Vô: Vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc. Theo chủ thuyết này, cộng sản không đặt nền tảng sinh hoạt cho tổ chức của mình theo nền luân lý, đạo đức của gia đình, xã hội và tôn giáo. Trái lại tìm cách triệt hạ nền luân lý đạo đức là tinh hoa nhân bản tính của con người, rồi xây dựng, thiết lập một cơ cấu xã hội dựa trên gian dối, phi nhân bản.
2. Về đời sống. Tôn giáo dựa trên tính công bằng, bác ái, độ lượng, tình yêu thưong để con người tìm đến hạnh phúc, chân lý. Trong khi đó cộng sản dựa trên căm thù đấu tranh, chia rẽ, chiếm đoạt để đi đến hận thù, tội ác và bất công. Nên người ta không lạ gì, ngay sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, ngoài việc giết ngưòi theo sách lược “ đào tận gốc trốc tận rễ” bọn trí phú địa hào” rập khuôn theo kiểu mẫu cộng sản Liên Sô, Trung cộng. Việt cộng không ngừng gây ra những xung đột với tôn gíao, khi thì trên bình diện cả nước, lúc thì ở từng địa phương.
Ai từng ở ngoài miền bắc sau năm 1954 đều biết rõ từng trường hợp cộng sản gây ra xung đột với tôn giáo như thế nào. Ở ngay Hà nội này, cha chính Vinh, cha Căn ( sau này là Hồng Y). Sau vụ không cho ủy ban liên lạc của nhà nước treo cờ của cộng sản chen lẫn với cờ của tôn giáo trong dịp Noel 1958 trong khuôn viên nhà thờ. Kết quả là bị gọi ra tòa, cha Căn bị kết án 6 tháng tù treo, cha chính Vinh bị kết án ba năm tù ( theo lời chứng của một GM). Ngài bị giam ở đâu chẳng một ai hay, Ngài bị giết chết ra sao không ai biết. Mãi bốn mươi năm sau, người ta mới tìm được và đưa hài cốt của Ngài từ trại Cổng Trời về Hà Nội! Rồi biết bao nhiêu cơ sở của Tôn Giáo nói chung, Công giáo nói riêng, như trường học, viện tế bần, viện mồ côi, nhà thương, trường học, một số những cơ sở kinh doanh của các địa phận đều lần lượt lọt vào tay nhà nước. Trước thì họ bảo là dùng vào việc chung, việc công ích, nhưng sau đó, một số các cơ sở này từ từ sang vào tay các tư nhân đảng viên, cán bộ mặc tình hưởng lợi!
Đó là những bất công xã hội. Đó là những sai lầm căn bản từ chủ thuyết Tam Vô. Đó là lý do trả lời tại sao, vào ngày 20-9-2008, Tổng GM Hà Nội, Ngô quang Kiệt đã đứng lên giữa hội đường của nhà nước tại Hà Nội mà công bố bản Tuyên Ngôn Công Lý là: “ Chúng tôi không chanh chấp với nhà nước. Bằng chứng đó là: có 95 cơ sở (của công giáo bị chiếm đoạt sau 1954). Chúng tôi có đòi cơ sở nào đâu, vì những cơ sở đó thực sự dùng vào những lợi ích chung. Chẳng hạn như cái trường Hoàn Kiếm, chúng tôi không bao giờ nói tới. Bệnh viện St Paul chúng tôi không bao giờ dám nói tới. Bệnh viện Bài Lao không bao giờ chúng tôi dám nói tới, vì sử dụng vào lợi ích chung. Nhưng khách san Láng Hạ chúng tôi sẽ nói tới, bởi vì sử dụng vào mục đích kinh doanh. Và cái Tòa Khâm Sứ đã thành cái nơi sàn nhảy, đã thành cái nơi kinh doanh buôn bán, đã có cái dấu hiệu buôn bán chia chác để làm cái trung tâm thương mại. Chúng tôi nói tới bởi vì nó rơi vào tay tư nhân..., chúng tôi không tranh chấp với nhà nước. Nhưng chúng tôi nói lên cái tiếng nói của Công Lý”
Bấy nhiêu đã là sáng tỏ cho sự việc, nhưng Ngài còn nhấn mạnh là: “Tôn giáo là cái quyền của con người, không phải là một ân huệ Xin- Cho”. Nhưng cộng sản lại không cho đó là cái quyền của con nguời, nhưng là ân huê được ban từ nhà nước. Khi nhắc lại chuyện này, không phải là tôi muốn khơi lại những vết thương không lành. Nhưng muốn nhìn hướng đi ấy như là một bài học Công Lý cần được làm cho sáng tỏ hơn, mạnh mẽ hơn. Bởi vì, Công Lý vẫn ỡ cuối đường, không được soi sáng cho mọi người. Trái lại, những quản lý bất trung, bất nghĩa với nhân dân, với tổ quốc vẫn tự cho mình là chủ nhân của đất nước. Tự nhiên, dùng bạo lực chiếm đoạt lấy tài sản của công ích là TKS, rồi linh địa Thái Hà, đến Tam Tòa, Loan Lý, Đồng Chiêm, Cồn Dâu... Nay lại là Thái Hà và chắc là sẽ còn nhiều địa danh kế tiếp? Ấy là chưa kể đến những trường hợp chiếm đất nhà của dân chúng, biến người dân thành những dân oan lang thang trên bình diện cả nước. Với cái bản chất tham tàn ấy. Có khi nào chúng muốn dừng tay?
II. Nguyên do khách quan: “ toạ thủ quan chiêm”.
Có một sự thật rất thật là, sau ba thế hệ bị dập vùi bởi những đòn hung ác của Việt cộng, người Việt Nam hôm nay đã ra khác xưa nhiều. Chuyện này thì chả ai dám trách ai, Bỏi lẽ, thế hệ đầu sau những màn bị thủ tiêu đấu tố, đã để lại cho đàn con những nối tang thương thống hận cộng sản. Cuộc sống chưa vực dậy được thì chúng phát động chiến tranh tại miền Nam, Từ đó vùi dập thêm thế hệ thứ hai và kéo cả miền Nam vào chung một lỗ tối tăm. Đến thế hệ thứ ba thì chúng khua chiêng đánh trống đưa trẻ vào một nền giáo dục phi giáo dục dựa trên căn bản vô đạo. Đẩy trẻ buông mình vào các cuộc truy hoan, phạm tội ác, trong lúc bản thân những cán cộng từ trung ương đến địa phương trở thành những chúa ngục, ngày đêm đục khoét làm ruồng, rỗng hết mọi thứ tài nguyên của quốc gia. Kết quả, nó muốn làm gì thì làm, phần mình thì ráng mà giữ lấy thân cho qua ngày!
Bỗng nhiên, vào những năm 2008, 2009, GM Kiệt, TGM Hà Nội như người ở trên trời rơi xuống đất. Một là chưa tỉnh ngủ, hai là không kiêng nể gì cái ách bạo tàn. Ông đứng dậy, công bố “ Tự do tôn giáo là cái quyền của con người chứ không phải là ân huệ xin cho”. Lời công bố ấy làm đinh tai điếc óc nhiều người. Đã thế, Ông còn đến thăm thăm viếng, an ủi thân nhân những ngưòi bị côn đồ nhà nước bắt giam khi họ tham gia các hoạt động cho công bằng xã hội, Ông sắn quần lên quá gối, lội nước bùn đi thăm dân trong những ngày mưa lũ, lụt lội tại Hà Nội. Ông đã làm cho nhiều ngưòi mở bừng con mắt ra. Tuy thế, đa phần chỉ nhìn ông bằng bằng ánh mắt kinh ngạc, thích thú.
Kinh ngạc vì việc làm của Ông khác lạ. Thích thú vì hướng đi tìm Công Lý cho dân của Ông. Nhưng thực lòng là chưa dám bước theo Ông. Ấy là không kể đến một số trường hợp lại nhìn ông bằng đôi mắt thiếu thiện cảm. Kết quả, Ông thành người cô đơn ở giữa Tòa GM Hà Nội. Ông thành ngưòi cô đơn ngay trong những cuộc gặp gỡ với những người đồng cấp, đồng trách nhiệm trong HDGM/VN. Cây đòn gánh trên vai Ông càng lúc càng cong oằn xuống vì những tiếng bấc tiếng chì như “đồng cảm không đồng thuận”, “ai không thích cộng sản thì cũng đừng buộc chúng tôi phải khích bác họ“, rồi “mang tính thói đời đối kháng“, “với lên tiếng hay là không lên tiếng”! Tất cả hợp lại đưa đến cái đáp số sau cùng, làm cho bao dòng lệ rơi, xen giữa những tiếng cuời man rợ của những kẻ chuyên sống trong bóng tối khi vị Tổng Giám Mục khả kính của thành Hà Nội về hưu vào cái tuổi 58.
Tại sao lại có thể có cái kết quả như thế nhỉ? Có phải tại nguời mình “tọa thủ quan chiêm” kỹ quá hay không? Hay hướng đi của Ông táo bạo quá, vì còn ngỡ ngàng, chưa quen, nên không mấy ai dám đi theo?
Tôi không biết vì lý do gì. Nhưng khi nhìn lại lịch sử, người ta dễ dàng nhận ra hình ảnh của ông cũng chính là hình ảnh và tinh thần của Đức Kitô khi Ngài vào đền thờ Gierusalem xưa. Khi vào thành, Ngài không tránh né, không luồn lách để tìm cách bước đi theo những khe nhỏ, hẹp, là khoảng cách nằm ở giữa những cái bàn, cái ghế, hàng quán đặt ngổn ngang trong khuôn viên Đền Thờ, nom giống như những lối đi lắt léo trong chợ tạp, do những kẻ muốn biến Đền Thờ thành khu buôn bán, chợ búa tạo thành. Trái lại, trong kinh thánh viết ” Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. 14Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền.15Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." Ga 2,13-22
Rõ ràng hướng đi của Đấng: ”Ta là Đường là Chân Lý và là Sự Sống” (Gn14,16) là rất mạnh mẽ. Mạnh mẽ trong cả lời nói và hành động. Ngài đã không ru rú ẩn mình ở trong nhà để tìm cách an thân. Không luồn lách qua những khe hẹp mà đi. Không ngụy biện vì lý do này hay lý do khác khi vào Đền Thờ. Trái lại, Ngài đã lấy giây lưng làm roi mà xua đuổi những phường buôn bán muốn biến đền thờ thành cái chợ. Rồi Ngài mở ra đường đi rộng rãi, không phải cho riêng Ngài mà cho những ai muốn vào Đền Thờ, hay đi tìm lẽ Công Chính. Sự việc này ít nhất có hai ý nghĩa: Thứ nhất, Ngài đi trước để cho các môn đệ của Ngài hãy nhìn theo cách ấy mà đi. Thứ hai, Ngài muốn bảo rằng: Công Lý không tự nhiên mà có. Nhưng có là vì sự can đảm và dũng mãnh của người đi tìm kiếm!
Dĩ nhiên, việc tìm kiếm Công Lý là không dễ dàng gì. Đức Kitô đã là một tấm gương: Ngài đã đổi cả mạng sống của Ngài vì đàn chiên. Ngài đã hy sinh chính Ngài vì Công Lý. Nếu Ngài cứ ru rú ở trong nhà, làm sao có thể truyền đi Tin Mừng, truyền đi bài giảng Tám Mối Phúc ở trên núi? Nếu Ngài không vào thành, không lấy giây lưng làm roi đánh đuổi những kẻ muốn biến Đền Thờ thành nơi chợ búa thì tìm đâu ra ra con đường “Chân Lý và Sự Thật”. Và nếu Ngài cứ quẩn quanh trong nhà, có lẽ Ngài đã không bị treo lên trên Thập Tự Giá! Khi đó, Ngài không thể để lại cho trần thế tấm gương và hiểu được gía trị cao quý đich thực của ”Người chủ chăn nhân từ hy sinh tính mạng vì đàn chiên." (Yn 10:11)! Và như thế, khéo mà Thái Hà cũng không bị vất vả vì Công Lý, vì Sự Thật! Bởi lẽ, có đâu mà đi tìm?
Nhưng không, Đức Kitô không có thái độ ”tọa thị quan chiêm”. Không viện tìm lý do, cũng không tránh né, không lách, không len lỏi qua khe hở để vào Đền Thờ hay tìm cho mình an thân. Nhưng Ngài đã đứng dậy, dùng dây lưng làm roi mà xua đuổi những kẻ muốn biến Đền thờ thành nơi chợ búa:” Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Gioan 2:16). Rồi quay lại bảo môn đồ “ai muốn theo ta thì vác thập giá mình mà theo ta” (Lc 9:18). Thái Hà muốn theo Ngài đi mở đuờng Công Lý ư? Như thế là vất vả, là gánh nặng cho Thái Hà đấy!
Bởi vì, trong ngày đầu tiên giáp mặt với đàn chiên khi về nhậm chức vụ Tổng Giám Mục Phó Hà Nội, GM Nhơn, đã đưa ra hướng đi êm ái nhẹ nhàng là: “Vâng lời để được bình an”! Dĩ nhiên, chẳng một ai có thể áp đặt hướng đi cho ngưòi khác. Nhưng xem ra hướng đi ấy rất là ”toạ thị quan chiêm” nếu như không muốn nói là cầu an hưởng lộc! Tuy thế, thái độ ấy chẳng phải là có ở nơi một vài người, trái lại, có rất rất nhiều người đồng cảm và đồng hành. Nhưng cũng không thiếu người công kích. Lý do.
1. Chủ trương ấy chỉ có thể tồn tại và áp dụng được ở trong những nơi như nhà dòng, chủng viện, trường học, nhà nội trú, nơi mà mọi ngưòi được đối sử và hưởng mọi quyền lợi như nhau. Nơi mà tất cả mọi người đều tôn trọng nhau, tôn trọng và tuân giữ mọi lệ luật một cách nghiêm nhặt, hoặc là xã hội tây phương, nơi con người rất tôn trọng luật lệ nhân bản. Nghĩa là, nó chỉ có thể áp dụng được ở những nơi mà mọi ngưòi đều cân bằng như một cái đũa trong một bó đũa mà thôi.
2. Hoặc gỉa, như ở trong nhà tù, nơi mà mọi người đang phải thi hành những bản án, tuy khác nhau, nhưng bản thân của họ là những tội phạm, là những kẻ đã tạm thời bị tước bỏ hết mọi thứ quyền lợi cá nhân. Chỉ còn được nuôi ăn và lao động, thì chủ trương này, xem ra có lợi nhất thời. Bởi lẽ, vâng lời quản giáo thì có thể được bình an, không bị giai cấp cai quản nhà tù hành hạ. Hoặc bạc nhược, làm theo lời sai khiến của những kẻ tù hung bạo thì cũng tạm được an thân! Ngoài ra, thật khó tìm ra môi trường thích hợp để áp dụng cho hướng đi này.
3. Như thế, nó chỉ có thể là cách “tính toán“ cho cá nhân, hơn là một hướng dẫn, chỉ đường. Nghĩa là nó không thể là một bài học cho tập thể ở trong một xã hội đổ đốn như xã hội cộng sản. Vì nếu có “vâng lời” chúng, sự bình an cũng chưa chắc đã đến. Trừ khi, nhắm mắt lại, phá bỏ cái nhãn quan nhân bản của con ngưòi đi và mặc lấy cái lớp gỉa dối của cộng sản, hoặc chấp nhận làm nô lệ để nhận lấy một vài cái ân huệ của chúng. Ngoài ra thật là khó lắm!
Đó là hai lý do để cho gió tiếp tục làm gió, để cho ngưòi càng lúc càng gặp khốn khó, tang thương vì cái bạo lực phi pháp của cộng sản.
Có cách nào cho gió khỏi lộng, cho ngưòi yên vui không? Tôi nghĩ là có hai cách: Cuốn theo gió hoặc làm đổi chiều gió.
a. Cuốn theo chiều gió.
Khi cuốn theo gió thì đừng than van gì hết. Gió muốn lột áo của ta ra, hãy lột cả cái quần của ta, của vợ con ta ra cho nó cuốn đi. Thân ta còn trơ trọi cái hình hài mẹ cha cho ta, có lẽ gió cũng chả muốn cuốn thêm nữa? Hoặc gỉả, ta biến thành gió, lại theo gió mà cuốn lấy quần áo tài sản của người khác, thế hệ khác. Rồi tìm vui trên những thống khổ của người khác....! Nên nhớ, ở trong trường hợp này, gió như những cơn lốc xoáy. Nó đến từ hướng này đến hướng khác. Hết đợt này đến đợt khác. Không bao giờ ngừng.
b. Đứng lên đổi chiều gió.
Ngược với hướng đi trên là hãy mạnh dạn lên, người đang ngồi hãy đứng dậy đi. Người đã đứng lên thì hãy nhìn về Thái Hà. Rồi cùng nắm lấy tay nhau. Trước là cho có bạn, sau là tạo thành một thành lũy kiên cố để làm cho gió phải xoay chiều đổi hướng. Đem thân chắn gió là chấp nhận thiệt thòi hy sinh buổi đầu. Nhưng con cháu ta, thế hệ mai sau sẽ hưởng nhờ được mưa ân, nắng ấm. Bỡi lẽ, gió sẽ trở nên cuồng bạo một lần và sau đó buộc phải thuận theo lòng sắt đá của người đi chắn gió. Gian truân sẽ đến, nhưng gian truân nào rồi cũng qua. Công Lý sẽ đến. Đến vì sự can đảm và dũng mãnh của người đi tìm kiếm!
Tạm kết, trong bài, tuy tôi viết ra vài điểm tiêu cực, nhưng không hề có chủ rương phản bác một cá nhân nào. Trái lại, chỉ muốn làm sáng tỏ hơn cái ý nghĩa của những người can đảm dấn thân đi tìm Công Lý, không phải cho riêng mình, nhưng là cho tôn giáo và cho dân tộc của mình.
Cách riêng, tôi muốn nói lên sự cảm phục đối với những tấm lòng qủa cảm của những bước chân hiên ngang vì Công Lý, vì quê hương Việt Nam, của anh chị em ở Thái Hà, của những anh chị em ở đầu sóng, ngọn gió. Rôi tôi cũng muốn viêt lên một sự thật là: Anh chị em, bằng hữu của chúng ta ở Thái Hà, Loan Lý, Cồn Dầu, Đồng Chiêm... hay ở bất cứ nơi đầu sóng ngọn gió nào, khi tìm Công Lý cho Việt Nam đều mong ước có được những bàn tay, những ánh mắt, những hành động tích cực từ mọi người. Đặc biệt là từ những vị lãnh đạo các tôn giáo. Cách riêng, các vị chủ chăn trực tiếp và của HĐGM/VN hơn là một chủ trương “vâng lời để được bình an”.!
Như thế Tiếng Chuông Thái Hà không phải chỉ là tiếng chuông cấp báo cho mọi người biết là những tên quản lý bất trung, bất nghĩa của đất nước vẫn tiếp tục bạo hành Công Lý, đàn áp Tự Do. Tệ hơn thế, chúng còn đưa côn đồ nhà nước vào tận những nơi tôn nghiêm như nhà thờ, nhà chùa để khủng bố tôn giáo. Nhưng còn là tiếng chuông réo gọi mọi người hãy tỉnh giấc, hãy chỗi dậy. Hãy thay đổi lối suy nghĩ và hành động. Hãy vì tương lai của đất nước mà đứng dậy. Nối kết chung một vòng tay. Bước chung một nhịp bước. Hát chung một bài ca. Bài ca của ngưòi đi chắn gió. Để khi chuyến tàu lịch sử đưa những bạo tàn vào dĩ vãng thì không riêng Thái Hà, Nhưng là mọi miền, mọi nhà, mọi ngưòi cùng đất nước đổi mới. Hân hoan bước vào một vận hội mới. Vận hội của Công Lý, Hòa Bình. Ở đó người người cùng nhau xây dựng một đất nước Độc Lập trong Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền, xoá đi những ngày tăm tối trong nô lệ....
Bảo Giang
Tài Liệu - Sưu Khảo
Vài dòng Lịch sử Tử đạo và Giáo Hội Việt Nam
Pm. Cao Huy Hoàng
17:00 24/11/2011
Trong sắc lệnh tôn phong các vị Tử Đạo Việt Nam năm 1900, ĐTC Lêô XIII đã tuyên bố các Ngài là "đội hùng binh" thuộc mọi giai cấp xã hội, đã can trường chấp nhận chịu mọi cực hình, không kém các vị Tử Đạo thời sơ khai. Lời so sánh trên đây giữa Giáo Hội tại Việt Nam và Giáo Hội Rôma không những chỉ đúng khi nói tới lòng qủa cảm của các vị Tử Đạo, mà còn đúng cả về sự thực qua qúa trình lịch sử của cả hai dân tộc. Cũng như Giáo Hội tại Rôma, chỉ ít khi năm sau hai vị Tông Đồ Cả Phêrô và Phaolô gieo rắc hạt giống Đức Tin, đã bị bách hại suốt 300 năm, Giáo Hội tại Việt Nam vừa nhận hạt giống Đức Tin vào năm 1544, đã bị những cuộc cấm đạo đẫm máu bọt nghẹt suốt ba thế kỷ. Có thể chia qua trình lịch sử Giáo Hội Việt Nam làm 4 thời kÿ chính:
1. Thời Kỳ Khai Nguyên (1533-1659)
Cuối thế kỷ XV, các nhà thám hiểm đã đặt chân tới những miền xa xăm trước đây chưa ai biết đến. Họ đi vòng quanh thế giới, theo sau là các nhà buôn với những thương thuyền hùng hậu nhất thời đó của Tây Ban Nha và Hoà Lan. Các ông chủ mặt biển này đã vượt trùng dương sang tận vùng Đông Nam Á để buôn bán hàng hoá và thương mại. Trong điều kiện giao thông này đã giúp các Thừa Sai Công Giáo thực hiện được mộng ước của họ là mang Tin Mừng đến tận chân trời xa xăm và vào Việt Nam, giữa thời kÿ Đất Nước đang bị phân hoá vì nội chiến. Đầu thế kỷ XVI Nhà Lê bắt đầu suy tàn với lớp gian thần và hôn quân như vua Lê Vi Mục và vua Lê Tương Dực. Năm 1527, lấy danh nghĩa phò vua Lê Chiêu Tông, quyền thần Mạc Đăng Dung dẹp nội loạn trong Triều rồi cướp ngôi nhà Lê, lập ra Nhà Mạc. Bấy giờ ông Nguyễn Kim (con cựu thần Nguyễn Hoàng Dụ) đang ở biên trấn, ông chiêu mộ quân binh cùng các chiêu thần nhà Lê đứng lên diệt Mạc dựng lại Nhà Lê. Không bao lâu, Nguyễn Kim lấy lại được đất Thanh Hoá trở vào Thuận Hoá, dựng lại nhà Lê. Đất nước lại chia đôi thành Nam, Bắc Triều. Họ Mạc hùng cứ từ Ninh Bình trở ra Bắc lại được Nhà Minh Trung Hoa che chở để phân hoá Đại Việt. Ít lâu sau, tướng Nguyễn Kim bị tên hàng tướng của nhà Mạc đầu độc chết, con rể ông là Trịnh Kiểm thay thế tiếp tục phò Lê, Bắc tiến. Năm 1583, Trịnh Kiểm lấy lại Thăng Long rước vua Lê về kinh đô lên ngôi chính vị. Tuy nhiên, họ Trịnh từ lâu đã có ý cướp ngôi nhà Lê. Để trừ hậu hoạ, Trịnh Kiểm mưu giết Nguyễn Uông là con Nguyễn Kim ý muốn cướp ngôi đã rõ, họ Trịnh còn cho người đến gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin vấn kế. Trạng Trình không nói gì mà chỉ đọc một câu dụ ngôn ý khuyên Trịnh nên dựa vào cái hư vị vủa Nhà Lê mà hưởng công danh phú quý đời đời. Trịnh nghe theo nên chỉ xưng Vương, buộc Vua Lê phải phong Trịnh làm Thượng Phu, Tổng Quốc Chính, nắm trọn quyền bính trong tay, lập Phủ Chúa tức Phủ Liêu với nghi vệ của bậc Đại Vương còn Vua Lê chỉ còn là hư vị, chỉ được hưởng lương bổng do Chúa Trịnh quy định. Từ đó, nước Đại Việt có Vua lại có Chúa. Kế nghiệp Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng lên ngôi Chúa, quyền huynh thiên hạ, dồn họ Mạc lên Cao Bằng. Năm 1592, bắt được Mạc Hậu Hợp đem về Thăng Long chém đầu.
Về họ Nguyễn thì sau khi anh là Nguyễn Uông bị giết, Nguyễn Hoàng dự đoán trước sau ông cũng bị hại, ông nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm xin cho em vào trấn thủ Thuận Hoá, lại ngầm sai người đến vấn kế Trạng Trình thì Trạng chỉ vào hòn non bộ, nói: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một giải Hoành Sơn dung thân muôn đời). Nguyễn Hoàng được Vua Lê thuận cho vào phương Nam trấn thủ miền địa đầu của Đất Nước, ông về Thanh Hoá đem theo các thủ hạ thân tín, đồng hương cà các đồng tộc vào Quảng Trị, lập Dinh ở Ái Tử sau gọi là Chính Dinh, thủ phủ của phương Nam.
Giai đoạn đầu, Nguyễn Hoàng vẫn giữ danh vị Trấn Thủ, được Vua Lê phong tước Công, ông củng cố Thuận Quảng, xây thành đắp luỹ sau ra mắt công khai chống Trịnh. Cuộc nội chiến Nam Bắc bùng nổ vào năm 1627, kéo dài 42 năm qua bảy trận đẫm máu, bất phân thắng bại, hai bên hưu chiến lấy sông Gianh làm giới hạn phân chia Nam Bắc. Mãi sau này vào đời Võ Vương Chúa Nguyễn mới xưng Vương lập ra triều chế riêng biệt song vẫn tôn Vua Lê và vẫn giữ quốc hiệu là Đại Việt. Từ đó, miền Bắc từ Quảng Bình trở ra gọi là Bắc Hà hay xứ Đàng Ngoài, từ Thuận Quảng trở vào Nam gọi là Nam Hà hay là Xứ Đàng Trong.
Nhà Nguyễn làm Chúa phương Nam đến đời Nguyễn Phúc Dương chạy vào Gia Định, cả họ bị tàn sát, Nam Hà trọn vẹn rơi vào tay Tây Sơn. Chỉ còn lại một hoàng hôn duy nhất sống sót là Nguyễn Phúc Ánh lúc đó 15 tuổi, nhờ các Linh Mục Thừa Sai cho trốn ở trong nhà. Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh gặp Giám Mục Bá Đa Lộc ở Hà Tiên, ông lên ngôi kế nghiệp tiên Vương năm 17 tuổi vào lúc Nam Hà đã mất trọn vào tay Tây Sơn.
Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh phù Lê; hai năm sau, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu làQuang Trung, đem quân Bắc Tiến đánh quân Thanh xâm lăng. Quang Trunng toàn thắng vào ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, Nhà Lê cáo chung sau 360 năm trị vì (1428-1788).
Giáo Hội Việt Nam cũng trầm luân trong vận nước trôi nổi bởi thảm kịch Nam Bắc phân tranh lại thêm nạn Bách Đạo mỗi ngày thêm khốc liệt.
Giáo Tỉnh Bắc Hà
Không rõ năm nào hạt giống Đức Tin được gieo mầm trên đất nước Việt Nam, ngoại trừ niên đại lịch sử 1533, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn ghi lại cho biết, giáo sĩ "Tây Dương" I-Ni-Khu đến giảng Đạo tại làng Ninh Cường, trấn Sơn Nam (nay thuộc Giáo Phận Bùi Chu). Năm 1578, Chính Sử mới thấy ghi, nhà Mạc tại Bắc Hà cho người sang tận Macao mời người Bồ Đào Nha qua cùng với các Thừa Sai. Nhưng Macao thiếu nhân sự, phải giới thiệu với Manila, xin gửi 4 Thừa Sai sang Việt Nam. Một trận bão lớn đã thổi các Ngài vào Hải Nam, sau cùng chỉ còn vị linh mục duy nhất là cha Ruitz vào giảng đạo năm 1585.
Ba năm sau, Đức Giám Mục Macao mới cử 2 Thừa Sai là Alfonso da Costa và Juan Gonsalves qua kinh đô Nhà Lê (Lam Kinh) lúc ấy còn tạm đặt ở Thanh Hoá do lời mời của Công Chúa Chiêm, bấy giờ đang thay em còn nhỏ làm Nhiếp Chính. Năm 1590, mặc dù cả Triều Đình, Hoàng Thái Hậu và Vua Trang Tôn phản đối, Công Chúa Chiêm vẫn xin rửa tội theo Đạo, tục gọi là Bà Chúa Chèm tức Mai Hoa Công Chúa, cùng với trên 70 cung nhân và nữ tÿ vào Lam Kinh nơi xuất phát Nhà Lê, lập Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đây là Dòng Nữ Tu đầu tiên ở Việt Nam, nhưng chỉ 3 năm sau các Giáo Sĩ lại bị Vua Lê trục xuất.
Năm 1626, Trịnh Tráng lại mời các mời các Thừa Sai vào. Lần này Giáo Sĩ Đắc Lộ và Marquez được gửi qua. Dân Bắc Hà theo đạo rất đông, trong 3 năm đã có 6.700 tín hữu. Chị của chúa Trịnh và 17 người trong phủ Chúa cũng xin rửa tội. Chúa xây luôn nhà thờ cho các vị Thừa Sai. Nhưng năm 1629, Trịnh Tráng thất trận, ông đổi ý, hạ lệnh trục xuất 2 Giáo Sĩ. Các ngài ra đi để lạ 3 Thầy Giảng điều khiển hơn 7.000 giáo dân. Nhưng năm sau, các Thừa Sai lại được vào tiếp tục công việc truyền đỏo. Tính đến năm 1630, Bắc Hà đã có 414 nhà thờ với 350.000 giáo dân.
Giáo tỉnh Nam Hà
Năm 1550, linh mục Thừa Sai Gaspar de Santa Cruz lập tu viện Đa Minh tại Malacca để rồi năm 1558 tu viện này gửi 2 Thừa Sai là Lopez và Azevedo qua Chân Lạp giảng đạo, được 10 năm thì bị trục xuất. Tới năm 1580 tu viện lại phái 2 cha Gregoire de la Motte và Luis de Fonseca sang. Những năm 1586, Chiêm Thành chiến thắng Nam Hà, bắt luôn 2 Thừa Sai về xử tử. Dù vậy, dòng Đa Minh tại Manila còn cố gắng 4 lần nữa gửi Giáo Sĩ vào Nam Hà, nhưng tất cả đều thất bại. Công việc truyền giáo tại đây chỉ đạt được căn bản vững chắc khi dòng Tên vào miền đất Chúa Nguyễn.
Năm 1615 dòng Tên bị trục xuất khỏi Nhật. Các vịn này trở lại cứ điểm Macao và được phái qua Nam Hà. Linh Mục Buzomi và Carvallo vào cửa Hàn và rửa tội cho 10 người tại Quảng Nam nhân dịp lễ Phục Sinh năm đó. Cuối năm, các ngài đã cất 2 nhà thờ tại Hải Phố và tại Quảng Nam cho trên 300 giáo dân đọc kinh thờ phưẼng.
Năm 1617, quan trấn Qui Nhơn có thiện cảm với Công Giáo, ông mời các Thừa Sai tới, xây cất nhà thờ cho giáo dân. Số tân tòng tăng gấp trăm và gồm đủ thành phần từ sư sãi đến trí thức, quan lại và bình dân. Người nổi tiếng nhất là bà Minh ĐỦc Vương Thái Phi, một vương phi rất sùng Phật, Bà theo Đạo và trở thành một nhà truyền giáo rất đắc lực. Tới năm 1665, Nam Hà đã có trên 50.000 giáo dân. Còn cha Đắc Lộ được mời vào Nam Hà chưa đầy 1 năm, đã bị quan trấn Quảng Nam trục xuất năm 1640. Sau 4 lần lén vào Nam Hà, Ngài đã phải gạt nước mắt vĩnh biệt giáo dân về Rôma năm 1645. Tại đây Ngài đã trình lên Đức Giáo Hoàng Innocentê X về nhu cầu cần thiết thành lập Hàng Giáo Phẩm tại Việt Nam. Chương trình này đã được Đức Giáo Hoàng Alexandro VII thực hiện ngày 29-7-1658, mở đầu cho kỷ nguyên mới của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam.
2. Thời Thành Lập (1659-1888)
Năm 1659, Đức Thánh Cha Alexandro thiết lập giáo phận Đàng Trong (Nam Hà) và giáo phận Đàng Ngoài (Bắc Hà), trao cho hai Đức Cha Francoise Pallu và Lambert de la Motte. Cả hai vị tìm cách vào Việt Nam và tổ chức cơ cở căn bản như họp Công Đồng, lập Dòng Mến Thánh Giá, Chủng Viện, và đặc biệt dồn hết tâm lực vào việc đào tạo Linh Mục Việt Nam.
Cả hai giáo phận mới thành lập phải đương đầu với cơn bách hại khủng khiếp kéo dài cho tới năm 1888. Cuộc bắt đạo lúc đầu có vẻ thất thời tuÿ theo hứng của Vua Chúa. Nhưng tới khi Vua Gia Long nằm xuống năm 1820, các vua triều Nguyễn là Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, vì tinh thần bài ngoại và lầm tưởng theo Đạo là bỏ ông bà tổ tiên, đã ra lệnh trên toàn quốc triệt hạ thánh đường, xử tử các Giáo Sĩ và tất cả những giáo dân nào bất tuân lệnh nhà Vua. Những hành động này đã đưa tới việc liên quân Pháp và Tây Ban Nha can thiệp vào nội bộ Việt Nam, ép buộc vua Tự Đức ký hoà ước nhận quyền bảo hộ của Pháp, đồng thời chấm dứt việc sát hại người Công giáo năm 1883.
Nhưng trước khi cơn bão táp ngưng hẳn, nhóm Văn Thân tại vùng Thanh Nghệ Tĩnh Bình còn tổ chức một cuộc tàn sát tập thể những người Công Giáo trong vùng bằng cách bao vây đốt từng làng. Hơn 60.000 người đã hy sinh trong hai năm 1885-1886, nâng tổng số các vị anh hùng tử đạo lên tới 130 ngàn trong suốt ba thế kỷ cấm đạo.
Mặc dù chui rúc trong hang hầm, lẩn trốn nơi rừng rú, người Công Giáo Việt Nam vẫn trung thành với Chúa, số tân tòng vẫn tiếp tục nâng cao. Trong thời kÿ này đã tăng lên 9 Giáo Phận là Sài Gòn, Qui Nhơn, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu, Vinh, Huế và Nam Vang (gồm Cao Mên và Hậu Giang). Số giáo dân còn sống sót vẫn gần 500 ngàn người.
3. Thời Phát Triển (1888-1933)
Mặc dầu Tự Đức ký hiệp ước với Pháp năm 1884, nhưng máu tử đạo chỉ thực sự ngưng khi Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888, làm cho phong trào Văn Thân sụp đổ theo, và Giáo Hội Việt Nam được hưởng thái bình để lo củng cố nội bộ và phát triển đời sống Đức Tin sâu rộng.
Cả Giáo Sĩ lẫn giáo dân một tay kiến thiết cơ sở, một tay làm việc trong cánh đồng truyền giáo. Các vị này tích cực phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa và biệt kính Đức Mẹ Maria. các thánh đường nguy nga đồ sộ theo lối kiến trúc Rôma hoặc Gothic, kể cả ngôi thánh đường kiến trúc theo kiể Á Đông tại Phát Diệm, cũng đßẼc xây cất vào thời này. Trong đó phải nói tới nhà thờ lớn Hà Nội, Phú Nhai, Kẻ Sở, Nam Định, Ninh Bình, Đà Lạt, Sài Gòn, Tân Định, Huyện Sĩ, Qui Nhơn.....
Các cơ sở bác ái và giáo dục, các bệnh viện Công Giáo được thiết lập tại nhiều thành phố, như bệnh viện Saint Paul, các chi nhánh trường Dòng Taberd, các trại Dục Anh, Tế Bần, Trại Cùi, Viện Dưỡng Lão... Các cơ sở này được điều khiển bởi các tu sĩ của rất nhiều Dòng đang thi đua du nhập và phát triển tại Việt Nam. Rất đông người theo đạo, có khi cả một làng xin trở lại. Riêng tại giáo phận Bùi Chu trong 12 năm, từ 1885-1897, đã có 83 làng theo đạo Chúa.
Một sự kiện khích lệ hơn cả làm cho lửa Tông Đồ bốc cao là việc Đức Thánh Cha Lêô XIII tôn phong Chân Phước cho 64 vị Tử Đạo vào ngày 27-5-1900, Đức Piô X phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1888 có 9 Giáo Phận với số giáo dân nửa triệu người đến măm 1933 đã tăng lên 14 giáo Phận và số giáo dân hơn 1.300.000. Số Giám Mục là 15 vị và Linh Mục là 1.429 vị. Trước sự phát triển vượt mức như trên, Đức Giáo Hoàng đã chỉ định và tấn phong vị Giám Mục tiên khởi tại Rôma năm 1933.
4. Thời Trưởng Thành (1933-1988)
Trước khi đưa ra quyết định chọn cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục. Toà Thánh đã thiết lập toà Khâm Sứ Đông Dương tại Huế ngày 20-5-1925. Hành động này chứng tỏ toà thánh đã coi Việt Nam ngang hàng với các Quốc Gia khác.
Qua các bài báo cáo của toà Khâm Sứ, ngày 6-11-1933, Đức Thánh Cha Piô IX đã đích thân tấn phong cha Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục phụ tá giáo phận Phát Diệm với quyền kế vị. Năm sau, ngày 18-11-1934 các Giám Mục Đông Dương cùng với Đức Khâm Sứ Dreyer họp Công Đồng thứ nhất tại Hà Nội. Công Đồng đã phân thành nhiều uỷ ban soạn thảo và đúc kết thành quy chế Công Đồng Đông Dương thứ nhất. Quy chế này nhằm phát triển mọi sinh hoạt của Giáo Hội tại đây, đặc biệt đào tạo hàng Giáo Sĩ Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế và thiết lập mọi tổ chức theo như Giáo Luật hiện hành.
Kể từ đây, các Giám Mục Việt Nam được lần lần tấn phong và thay thế các Giám Mục ngoại quốc, như Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn năm 1935 coi Bùi Chu, Đức Cha Ngô Đình Thục năm 1938 coi Vĩnh Long được tách rời khỏi Nam Vang, Đức Cha Phan Đình Phùng năm 1940, Đức Cha Lê Hữu Từ năm 1945.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Việt Nam. Trước tình thế này vai trò của các vị Thừa Sai ngoại quốc càng trở nên khó khăn và số linh mục Việt Nam đủ điều kiện làm Giám Mục tăng thêm nhiều. Toà thánh quyết định "Việt Nam Hoá" hệ thống lãnh đạo Giáo Hội qua việc trao cho Giám Mục bản quốc: Hà Nội cho Đức Cha Trịnh Như Khuê năm 1950, Bắc Ninh cho Đức Cha Hoàng Văn Đoàn năm 1950, Vinh cho Đức Cha Trần Hữu Đưc năm 1951, Hải phòng cho Đức Cha Trương Cao Đại năm 1953.
Năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước khiến gần 750.000 giáo dân Công Giáo miền Bắc phải di cư vào miền Nam, sự ra đi này để lại một khoảng trống lớn tại miền Bắc, chỉ khoảng 713.000 giáo dân, 7 Giám Mục cà 374 Linh Mục. Tới năm 1959 vị Thừa Sai cuối cùng trong đó có Đức Khâm Sứ Dooley, bị trục xuất khỏi miền Bắc. Giáo Hội tại đây trở thành Giáo Hội thầm lặng.
Trong khi đó, tại miền Nam tự do, với lực lượng từ miền Bắc tăng cường, Giáo Hội phát triển mau lẹ cả bề rộng lẫn bề sâu. Công viêc truyền giáo được chú trọng trước hết là vấn đề dậy tân tòng. Năm 1957 đã có 67.854 người theo học các lớp giáo lý người lớn. Riêng giới trí thức Công Giáo càng hoạt động mạnh mẽ hơn, họ tham dự vào các hoạt động quốc gia, các trường đại học, trung tiểu học công tư. Không một họ Đạo nào được thiết lập mà bên cạnh không có trường học, một vài cơ sở bác ái từ thiện, đón nhận nhiều người không Công Giáo hơn người Công Giáo. Nhiều thánh đường lớn được xây cất. Các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, các Dòng Tu nam nữ phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Đặc biệt 3 viện đại học Công Giáo đã gây được nhiều uy tín và ảnh hưởng nhất tại miền Nam.
Những bước tiến vững mạnh trên đây đưa tới quyết định của Toà Thánh thành lập phẩm trật Giáo Hội tại Việt Nam qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum do Đức Gioan XXIII ký, ban hành ngày 24-11-1960. Tông Hiến này đặt Giáo Hội Việt Nam dưới quyền điều khiển của hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Toàn quốc chia thành ba giáo tỉnh: Hà Nội với các giáo phận miền Bắc dưới quyền điều khiển của Đức Tổng Giám Mục Trịnh Như Khuê, Sài Gòn với quyền điều khiển của Đức Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Huế dưới quyền điều khiển của Đức Giám Mục Ngô Đình Thục.
Tính tới năm 1988, miền Bắc đã có một vị Hồng Y và 14 Giám Mục, chừng 350 linh mục và hơn 2 triệu giáo dân. Miền Nam có gần 3 triệu giáo dân, tên dưới 2.000 linh mục. Giáo tỉnh Huế có 12 Giám Mục và Giáo tỉnh Sài Gòn có 16 Giám Mục. Hiện nay theo Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn số giáo dân Việt Nam gần 6 triệu người với 25 Giáo Phận. Một số Giáo Phận có hai vị giám Mục.
TỈNH THỨC TRƯỚC CƠN BÁCH ĐẠO
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế. Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ. Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn. Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời. Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu. Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến tình yêu của chúng ta là chính chúng ta. Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới. Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ. Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo. Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn. Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi. Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng. Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa. Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào. Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ. Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô và chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Chỉ trong vòng một tuần lễ trước Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mà trang tin Vietcatholic đã đưa hai tin quan trọng của giáo phận Phan Thiết: đầu tuần là Tin, Ảnh về nhà thờ Sông Mao hạt Bắc Tuy bị bộ đội đập phá, cuối tuần là Tin, Ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu chảy máu tại Giáo xứ Phước An, Hạt Hàm Tân. Nơi này nơi kia Đức Mẹ khóc. Trái tim Chúa đau buồn đến đổ máu. Chuyện thật hư chưa nhất thiết phải nói đến, nhưng trước khi mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
(Nguồn: http://thieunhichinhtoaxuanloc.blogspot.com/2010/11/vai-dong-lich-su-tu-ao-giao-hoi-viet.html)
1. Thời Kỳ Khai Nguyên (1533-1659)
Cuối thế kỷ XV, các nhà thám hiểm đã đặt chân tới những miền xa xăm trước đây chưa ai biết đến. Họ đi vòng quanh thế giới, theo sau là các nhà buôn với những thương thuyền hùng hậu nhất thời đó của Tây Ban Nha và Hoà Lan. Các ông chủ mặt biển này đã vượt trùng dương sang tận vùng Đông Nam Á để buôn bán hàng hoá và thương mại. Trong điều kiện giao thông này đã giúp các Thừa Sai Công Giáo thực hiện được mộng ước của họ là mang Tin Mừng đến tận chân trời xa xăm và vào Việt Nam, giữa thời kÿ Đất Nước đang bị phân hoá vì nội chiến. Đầu thế kỷ XVI Nhà Lê bắt đầu suy tàn với lớp gian thần và hôn quân như vua Lê Vi Mục và vua Lê Tương Dực. Năm 1527, lấy danh nghĩa phò vua Lê Chiêu Tông, quyền thần Mạc Đăng Dung dẹp nội loạn trong Triều rồi cướp ngôi nhà Lê, lập ra Nhà Mạc. Bấy giờ ông Nguyễn Kim (con cựu thần Nguyễn Hoàng Dụ) đang ở biên trấn, ông chiêu mộ quân binh cùng các chiêu thần nhà Lê đứng lên diệt Mạc dựng lại Nhà Lê. Không bao lâu, Nguyễn Kim lấy lại được đất Thanh Hoá trở vào Thuận Hoá, dựng lại nhà Lê. Đất nước lại chia đôi thành Nam, Bắc Triều. Họ Mạc hùng cứ từ Ninh Bình trở ra Bắc lại được Nhà Minh Trung Hoa che chở để phân hoá Đại Việt. Ít lâu sau, tướng Nguyễn Kim bị tên hàng tướng của nhà Mạc đầu độc chết, con rể ông là Trịnh Kiểm thay thế tiếp tục phò Lê, Bắc tiến. Năm 1583, Trịnh Kiểm lấy lại Thăng Long rước vua Lê về kinh đô lên ngôi chính vị. Tuy nhiên, họ Trịnh từ lâu đã có ý cướp ngôi nhà Lê. Để trừ hậu hoạ, Trịnh Kiểm mưu giết Nguyễn Uông là con Nguyễn Kim ý muốn cướp ngôi đã rõ, họ Trịnh còn cho người đến gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin vấn kế. Trạng Trình không nói gì mà chỉ đọc một câu dụ ngôn ý khuyên Trịnh nên dựa vào cái hư vị vủa Nhà Lê mà hưởng công danh phú quý đời đời. Trịnh nghe theo nên chỉ xưng Vương, buộc Vua Lê phải phong Trịnh làm Thượng Phu, Tổng Quốc Chính, nắm trọn quyền bính trong tay, lập Phủ Chúa tức Phủ Liêu với nghi vệ của bậc Đại Vương còn Vua Lê chỉ còn là hư vị, chỉ được hưởng lương bổng do Chúa Trịnh quy định. Từ đó, nước Đại Việt có Vua lại có Chúa. Kế nghiệp Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng lên ngôi Chúa, quyền huynh thiên hạ, dồn họ Mạc lên Cao Bằng. Năm 1592, bắt được Mạc Hậu Hợp đem về Thăng Long chém đầu.
Về họ Nguyễn thì sau khi anh là Nguyễn Uông bị giết, Nguyễn Hoàng dự đoán trước sau ông cũng bị hại, ông nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm xin cho em vào trấn thủ Thuận Hoá, lại ngầm sai người đến vấn kế Trạng Trình thì Trạng chỉ vào hòn non bộ, nói: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một giải Hoành Sơn dung thân muôn đời). Nguyễn Hoàng được Vua Lê thuận cho vào phương Nam trấn thủ miền địa đầu của Đất Nước, ông về Thanh Hoá đem theo các thủ hạ thân tín, đồng hương cà các đồng tộc vào Quảng Trị, lập Dinh ở Ái Tử sau gọi là Chính Dinh, thủ phủ của phương Nam.
Giai đoạn đầu, Nguyễn Hoàng vẫn giữ danh vị Trấn Thủ, được Vua Lê phong tước Công, ông củng cố Thuận Quảng, xây thành đắp luỹ sau ra mắt công khai chống Trịnh. Cuộc nội chiến Nam Bắc bùng nổ vào năm 1627, kéo dài 42 năm qua bảy trận đẫm máu, bất phân thắng bại, hai bên hưu chiến lấy sông Gianh làm giới hạn phân chia Nam Bắc. Mãi sau này vào đời Võ Vương Chúa Nguyễn mới xưng Vương lập ra triều chế riêng biệt song vẫn tôn Vua Lê và vẫn giữ quốc hiệu là Đại Việt. Từ đó, miền Bắc từ Quảng Bình trở ra gọi là Bắc Hà hay xứ Đàng Ngoài, từ Thuận Quảng trở vào Nam gọi là Nam Hà hay là Xứ Đàng Trong.
Nhà Nguyễn làm Chúa phương Nam đến đời Nguyễn Phúc Dương chạy vào Gia Định, cả họ bị tàn sát, Nam Hà trọn vẹn rơi vào tay Tây Sơn. Chỉ còn lại một hoàng hôn duy nhất sống sót là Nguyễn Phúc Ánh lúc đó 15 tuổi, nhờ các Linh Mục Thừa Sai cho trốn ở trong nhà. Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh gặp Giám Mục Bá Đa Lộc ở Hà Tiên, ông lên ngôi kế nghiệp tiên Vương năm 17 tuổi vào lúc Nam Hà đã mất trọn vào tay Tây Sơn.
Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh phù Lê; hai năm sau, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu làQuang Trung, đem quân Bắc Tiến đánh quân Thanh xâm lăng. Quang Trunng toàn thắng vào ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, Nhà Lê cáo chung sau 360 năm trị vì (1428-1788).
Giáo Hội Việt Nam cũng trầm luân trong vận nước trôi nổi bởi thảm kịch Nam Bắc phân tranh lại thêm nạn Bách Đạo mỗi ngày thêm khốc liệt.
Giáo Tỉnh Bắc Hà
Không rõ năm nào hạt giống Đức Tin được gieo mầm trên đất nước Việt Nam, ngoại trừ niên đại lịch sử 1533, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn ghi lại cho biết, giáo sĩ "Tây Dương" I-Ni-Khu đến giảng Đạo tại làng Ninh Cường, trấn Sơn Nam (nay thuộc Giáo Phận Bùi Chu). Năm 1578, Chính Sử mới thấy ghi, nhà Mạc tại Bắc Hà cho người sang tận Macao mời người Bồ Đào Nha qua cùng với các Thừa Sai. Nhưng Macao thiếu nhân sự, phải giới thiệu với Manila, xin gửi 4 Thừa Sai sang Việt Nam. Một trận bão lớn đã thổi các Ngài vào Hải Nam, sau cùng chỉ còn vị linh mục duy nhất là cha Ruitz vào giảng đạo năm 1585.
Ba năm sau, Đức Giám Mục Macao mới cử 2 Thừa Sai là Alfonso da Costa và Juan Gonsalves qua kinh đô Nhà Lê (Lam Kinh) lúc ấy còn tạm đặt ở Thanh Hoá do lời mời của Công Chúa Chiêm, bấy giờ đang thay em còn nhỏ làm Nhiếp Chính. Năm 1590, mặc dù cả Triều Đình, Hoàng Thái Hậu và Vua Trang Tôn phản đối, Công Chúa Chiêm vẫn xin rửa tội theo Đạo, tục gọi là Bà Chúa Chèm tức Mai Hoa Công Chúa, cùng với trên 70 cung nhân và nữ tÿ vào Lam Kinh nơi xuất phát Nhà Lê, lập Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đây là Dòng Nữ Tu đầu tiên ở Việt Nam, nhưng chỉ 3 năm sau các Giáo Sĩ lại bị Vua Lê trục xuất.
Năm 1626, Trịnh Tráng lại mời các mời các Thừa Sai vào. Lần này Giáo Sĩ Đắc Lộ và Marquez được gửi qua. Dân Bắc Hà theo đạo rất đông, trong 3 năm đã có 6.700 tín hữu. Chị của chúa Trịnh và 17 người trong phủ Chúa cũng xin rửa tội. Chúa xây luôn nhà thờ cho các vị Thừa Sai. Nhưng năm 1629, Trịnh Tráng thất trận, ông đổi ý, hạ lệnh trục xuất 2 Giáo Sĩ. Các ngài ra đi để lạ 3 Thầy Giảng điều khiển hơn 7.000 giáo dân. Nhưng năm sau, các Thừa Sai lại được vào tiếp tục công việc truyền đỏo. Tính đến năm 1630, Bắc Hà đã có 414 nhà thờ với 350.000 giáo dân.
Giáo tỉnh Nam Hà
Năm 1550, linh mục Thừa Sai Gaspar de Santa Cruz lập tu viện Đa Minh tại Malacca để rồi năm 1558 tu viện này gửi 2 Thừa Sai là Lopez và Azevedo qua Chân Lạp giảng đạo, được 10 năm thì bị trục xuất. Tới năm 1580 tu viện lại phái 2 cha Gregoire de la Motte và Luis de Fonseca sang. Những năm 1586, Chiêm Thành chiến thắng Nam Hà, bắt luôn 2 Thừa Sai về xử tử. Dù vậy, dòng Đa Minh tại Manila còn cố gắng 4 lần nữa gửi Giáo Sĩ vào Nam Hà, nhưng tất cả đều thất bại. Công việc truyền giáo tại đây chỉ đạt được căn bản vững chắc khi dòng Tên vào miền đất Chúa Nguyễn.
Năm 1615 dòng Tên bị trục xuất khỏi Nhật. Các vịn này trở lại cứ điểm Macao và được phái qua Nam Hà. Linh Mục Buzomi và Carvallo vào cửa Hàn và rửa tội cho 10 người tại Quảng Nam nhân dịp lễ Phục Sinh năm đó. Cuối năm, các ngài đã cất 2 nhà thờ tại Hải Phố và tại Quảng Nam cho trên 300 giáo dân đọc kinh thờ phưẼng.
Năm 1617, quan trấn Qui Nhơn có thiện cảm với Công Giáo, ông mời các Thừa Sai tới, xây cất nhà thờ cho giáo dân. Số tân tòng tăng gấp trăm và gồm đủ thành phần từ sư sãi đến trí thức, quan lại và bình dân. Người nổi tiếng nhất là bà Minh ĐỦc Vương Thái Phi, một vương phi rất sùng Phật, Bà theo Đạo và trở thành một nhà truyền giáo rất đắc lực. Tới năm 1665, Nam Hà đã có trên 50.000 giáo dân. Còn cha Đắc Lộ được mời vào Nam Hà chưa đầy 1 năm, đã bị quan trấn Quảng Nam trục xuất năm 1640. Sau 4 lần lén vào Nam Hà, Ngài đã phải gạt nước mắt vĩnh biệt giáo dân về Rôma năm 1645. Tại đây Ngài đã trình lên Đức Giáo Hoàng Innocentê X về nhu cầu cần thiết thành lập Hàng Giáo Phẩm tại Việt Nam. Chương trình này đã được Đức Giáo Hoàng Alexandro VII thực hiện ngày 29-7-1658, mở đầu cho kỷ nguyên mới của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam.
2. Thời Thành Lập (1659-1888)
Năm 1659, Đức Thánh Cha Alexandro thiết lập giáo phận Đàng Trong (Nam Hà) và giáo phận Đàng Ngoài (Bắc Hà), trao cho hai Đức Cha Francoise Pallu và Lambert de la Motte. Cả hai vị tìm cách vào Việt Nam và tổ chức cơ cở căn bản như họp Công Đồng, lập Dòng Mến Thánh Giá, Chủng Viện, và đặc biệt dồn hết tâm lực vào việc đào tạo Linh Mục Việt Nam.
Cả hai giáo phận mới thành lập phải đương đầu với cơn bách hại khủng khiếp kéo dài cho tới năm 1888. Cuộc bắt đạo lúc đầu có vẻ thất thời tuÿ theo hứng của Vua Chúa. Nhưng tới khi Vua Gia Long nằm xuống năm 1820, các vua triều Nguyễn là Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, vì tinh thần bài ngoại và lầm tưởng theo Đạo là bỏ ông bà tổ tiên, đã ra lệnh trên toàn quốc triệt hạ thánh đường, xử tử các Giáo Sĩ và tất cả những giáo dân nào bất tuân lệnh nhà Vua. Những hành động này đã đưa tới việc liên quân Pháp và Tây Ban Nha can thiệp vào nội bộ Việt Nam, ép buộc vua Tự Đức ký hoà ước nhận quyền bảo hộ của Pháp, đồng thời chấm dứt việc sát hại người Công giáo năm 1883.
Nhưng trước khi cơn bão táp ngưng hẳn, nhóm Văn Thân tại vùng Thanh Nghệ Tĩnh Bình còn tổ chức một cuộc tàn sát tập thể những người Công Giáo trong vùng bằng cách bao vây đốt từng làng. Hơn 60.000 người đã hy sinh trong hai năm 1885-1886, nâng tổng số các vị anh hùng tử đạo lên tới 130 ngàn trong suốt ba thế kỷ cấm đạo.
Mặc dù chui rúc trong hang hầm, lẩn trốn nơi rừng rú, người Công Giáo Việt Nam vẫn trung thành với Chúa, số tân tòng vẫn tiếp tục nâng cao. Trong thời kÿ này đã tăng lên 9 Giáo Phận là Sài Gòn, Qui Nhơn, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu, Vinh, Huế và Nam Vang (gồm Cao Mên và Hậu Giang). Số giáo dân còn sống sót vẫn gần 500 ngàn người.
3. Thời Phát Triển (1888-1933)
Mặc dầu Tự Đức ký hiệp ước với Pháp năm 1884, nhưng máu tử đạo chỉ thực sự ngưng khi Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888, làm cho phong trào Văn Thân sụp đổ theo, và Giáo Hội Việt Nam được hưởng thái bình để lo củng cố nội bộ và phát triển đời sống Đức Tin sâu rộng.
Cả Giáo Sĩ lẫn giáo dân một tay kiến thiết cơ sở, một tay làm việc trong cánh đồng truyền giáo. Các vị này tích cực phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa và biệt kính Đức Mẹ Maria. các thánh đường nguy nga đồ sộ theo lối kiến trúc Rôma hoặc Gothic, kể cả ngôi thánh đường kiến trúc theo kiể Á Đông tại Phát Diệm, cũng đßẼc xây cất vào thời này. Trong đó phải nói tới nhà thờ lớn Hà Nội, Phú Nhai, Kẻ Sở, Nam Định, Ninh Bình, Đà Lạt, Sài Gòn, Tân Định, Huyện Sĩ, Qui Nhơn.....
Các cơ sở bác ái và giáo dục, các bệnh viện Công Giáo được thiết lập tại nhiều thành phố, như bệnh viện Saint Paul, các chi nhánh trường Dòng Taberd, các trại Dục Anh, Tế Bần, Trại Cùi, Viện Dưỡng Lão... Các cơ sở này được điều khiển bởi các tu sĩ của rất nhiều Dòng đang thi đua du nhập và phát triển tại Việt Nam. Rất đông người theo đạo, có khi cả một làng xin trở lại. Riêng tại giáo phận Bùi Chu trong 12 năm, từ 1885-1897, đã có 83 làng theo đạo Chúa.
Một sự kiện khích lệ hơn cả làm cho lửa Tông Đồ bốc cao là việc Đức Thánh Cha Lêô XIII tôn phong Chân Phước cho 64 vị Tử Đạo vào ngày 27-5-1900, Đức Piô X phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1888 có 9 Giáo Phận với số giáo dân nửa triệu người đến măm 1933 đã tăng lên 14 giáo Phận và số giáo dân hơn 1.300.000. Số Giám Mục là 15 vị và Linh Mục là 1.429 vị. Trước sự phát triển vượt mức như trên, Đức Giáo Hoàng đã chỉ định và tấn phong vị Giám Mục tiên khởi tại Rôma năm 1933.
4. Thời Trưởng Thành (1933-1988)
Trước khi đưa ra quyết định chọn cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục. Toà Thánh đã thiết lập toà Khâm Sứ Đông Dương tại Huế ngày 20-5-1925. Hành động này chứng tỏ toà thánh đã coi Việt Nam ngang hàng với các Quốc Gia khác.
Qua các bài báo cáo của toà Khâm Sứ, ngày 6-11-1933, Đức Thánh Cha Piô IX đã đích thân tấn phong cha Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục phụ tá giáo phận Phát Diệm với quyền kế vị. Năm sau, ngày 18-11-1934 các Giám Mục Đông Dương cùng với Đức Khâm Sứ Dreyer họp Công Đồng thứ nhất tại Hà Nội. Công Đồng đã phân thành nhiều uỷ ban soạn thảo và đúc kết thành quy chế Công Đồng Đông Dương thứ nhất. Quy chế này nhằm phát triển mọi sinh hoạt của Giáo Hội tại đây, đặc biệt đào tạo hàng Giáo Sĩ Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế và thiết lập mọi tổ chức theo như Giáo Luật hiện hành.
Kể từ đây, các Giám Mục Việt Nam được lần lần tấn phong và thay thế các Giám Mục ngoại quốc, như Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn năm 1935 coi Bùi Chu, Đức Cha Ngô Đình Thục năm 1938 coi Vĩnh Long được tách rời khỏi Nam Vang, Đức Cha Phan Đình Phùng năm 1940, Đức Cha Lê Hữu Từ năm 1945.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Việt Nam. Trước tình thế này vai trò của các vị Thừa Sai ngoại quốc càng trở nên khó khăn và số linh mục Việt Nam đủ điều kiện làm Giám Mục tăng thêm nhiều. Toà thánh quyết định "Việt Nam Hoá" hệ thống lãnh đạo Giáo Hội qua việc trao cho Giám Mục bản quốc: Hà Nội cho Đức Cha Trịnh Như Khuê năm 1950, Bắc Ninh cho Đức Cha Hoàng Văn Đoàn năm 1950, Vinh cho Đức Cha Trần Hữu Đưc năm 1951, Hải phòng cho Đức Cha Trương Cao Đại năm 1953.
Năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước khiến gần 750.000 giáo dân Công Giáo miền Bắc phải di cư vào miền Nam, sự ra đi này để lại một khoảng trống lớn tại miền Bắc, chỉ khoảng 713.000 giáo dân, 7 Giám Mục cà 374 Linh Mục. Tới năm 1959 vị Thừa Sai cuối cùng trong đó có Đức Khâm Sứ Dooley, bị trục xuất khỏi miền Bắc. Giáo Hội tại đây trở thành Giáo Hội thầm lặng.
Trong khi đó, tại miền Nam tự do, với lực lượng từ miền Bắc tăng cường, Giáo Hội phát triển mau lẹ cả bề rộng lẫn bề sâu. Công viêc truyền giáo được chú trọng trước hết là vấn đề dậy tân tòng. Năm 1957 đã có 67.854 người theo học các lớp giáo lý người lớn. Riêng giới trí thức Công Giáo càng hoạt động mạnh mẽ hơn, họ tham dự vào các hoạt động quốc gia, các trường đại học, trung tiểu học công tư. Không một họ Đạo nào được thiết lập mà bên cạnh không có trường học, một vài cơ sở bác ái từ thiện, đón nhận nhiều người không Công Giáo hơn người Công Giáo. Nhiều thánh đường lớn được xây cất. Các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, các Dòng Tu nam nữ phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Đặc biệt 3 viện đại học Công Giáo đã gây được nhiều uy tín và ảnh hưởng nhất tại miền Nam.
Những bước tiến vững mạnh trên đây đưa tới quyết định của Toà Thánh thành lập phẩm trật Giáo Hội tại Việt Nam qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum do Đức Gioan XXIII ký, ban hành ngày 24-11-1960. Tông Hiến này đặt Giáo Hội Việt Nam dưới quyền điều khiển của hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Toàn quốc chia thành ba giáo tỉnh: Hà Nội với các giáo phận miền Bắc dưới quyền điều khiển của Đức Tổng Giám Mục Trịnh Như Khuê, Sài Gòn với quyền điều khiển của Đức Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Huế dưới quyền điều khiển của Đức Giám Mục Ngô Đình Thục.
Tính tới năm 1988, miền Bắc đã có một vị Hồng Y và 14 Giám Mục, chừng 350 linh mục và hơn 2 triệu giáo dân. Miền Nam có gần 3 triệu giáo dân, tên dưới 2.000 linh mục. Giáo tỉnh Huế có 12 Giám Mục và Giáo tỉnh Sài Gòn có 16 Giám Mục. Hiện nay theo Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn số giáo dân Việt Nam gần 6 triệu người với 25 Giáo Phận. Một số Giáo Phận có hai vị giám Mục.
TỈNH THỨC TRƯỚC CƠN BÁCH ĐẠO
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế. Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ. Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn. Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời. Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu. Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến tình yêu của chúng ta là chính chúng ta. Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới. Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ. Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo. Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn. Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi. Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng. Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa. Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào. Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ. Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô và chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Chỉ trong vòng một tuần lễ trước Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mà trang tin Vietcatholic đã đưa hai tin quan trọng của giáo phận Phan Thiết: đầu tuần là Tin, Ảnh về nhà thờ Sông Mao hạt Bắc Tuy bị bộ đội đập phá, cuối tuần là Tin, Ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu chảy máu tại Giáo xứ Phước An, Hạt Hàm Tân. Nơi này nơi kia Đức Mẹ khóc. Trái tim Chúa đau buồn đến đổ máu. Chuyện thật hư chưa nhất thiết phải nói đến, nhưng trước khi mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
(Nguồn: http://thieunhichinhtoaxuanloc.blogspot.com/2010/11/vai-dong-lich-su-tu-ao-giao-hoi-viet.html)
Thông Báo
Đêm Thánh Ca Nguyện Cầu ''Thầy Là Ai''
Châu Xuân Hùng
04:48 24/11/2011
THƯ MỜI: ĐÊM THÁNH CA NGUYỆN CẦU "THẦY LÀ AI"
"Thầy là ai?” Ðó là một câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Ðiều quan trọng là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: "đối với tôi, Đức Giêsu là ai?" Ðiều gì đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?
Nhân kỷ niệm biến cố trọng đại Chúa Giêsu giáng sinh, để đem an hòa, ơn cứu độ và hạnh phúc đến với nhân loại, trân trọng kính mời quý ông bà và anh chị em đến tham dự:
ĐÊM THÁNH CA NGUYỆN CẦU "THẦY LÀ AI"
7.30pm, THỨ BẢY, 10 THÁNG 12 NĂM 2011
NHÀ THỜ THÁNH MICHAEL, ASHBURTON (Melway trang 60: E 10)
Sự tham dự của quý ông bà và anh chị em sẽ mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là khuyến khích các anh chị em ca đòan góp phần vào sinh hoạt văn hóa truyến thống của Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Melbourne bằng âm nhạc và nghệ thuật.
Trân trọng kính mời,
Linh Mục Vũ Phước Hiến 9885 2498
Ca-Trưởng Dương Hòa 8502 8707
Ca-Trưởng Thanh Tùng 0434 179 202
Ca-Trưởng Phạm Bá Lộc 0423 833 225
Trưởng BTC Châu X Hùng 0411 806 848
"Thầy là ai?” Ðó là một câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Ðiều quan trọng là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: "đối với tôi, Đức Giêsu là ai?" Ðiều gì đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?Nhân kỷ niệm biến cố trọng đại Chúa Giêsu giáng sinh, để đem an hòa, ơn cứu độ và hạnh phúc đến với nhân loại, trân trọng kính mời quý ông bà và anh chị em đến tham dự:
ĐÊM THÁNH CA NGUYỆN CẦU "THẦY LÀ AI"
7.30pm, THỨ BẢY, 10 THÁNG 12 NĂM 2011
NHÀ THỜ THÁNH MICHAEL, ASHBURTON (Melway trang 60: E 10)
Sự tham dự của quý ông bà và anh chị em sẽ mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là khuyến khích các anh chị em ca đòan góp phần vào sinh hoạt văn hóa truyến thống của Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Melbourne bằng âm nhạc và nghệ thuật.
Trân trọng kính mời,
Linh Mục Vũ Phước Hiến 9885 2498
Ca-Trưởng Dương Hòa 8502 8707
Ca-Trưởng Thanh Tùng 0434 179 202
Ca-Trưởng Phạm Bá Lộc 0423 833 225
Trưởng BTC Châu X Hùng 0411 806 848
Văn Hóa
Lễ Tạ Ơn
Thanh Sơn
05:48 24/11/2011
Ánh Sáng Ngài vẫn chiếu ở trên cao
Vào đêm đến đẹp lấp lánh trăng sao
Và sáng nay hít vào ơn Thần Khí
Tạ ơn Cha cho con đầy ý chí
Gương giống nòi mưu trí chống ngoại xâm
Thấy giặc đến không bao giờ lặng câm
Không bất khuất trước cầm quyền tàn ác
Tạ ơn Mẹ đã hy sinh hồn xác
Dạy dỗ con khao khát Đấng Nhân Lành
Đạo làm người trước, thiện, ác, lợi danh
Biết thương kẻ xung quanh người đau yếu
Tạ ơn Em những bông hồng yêu dấu
Trong Đất Nước tranh đấu cho Tự Do
Quyết hy sinh bản thân vẫn hét to
Thẳng vào mặt lũ làm trò đầu gấu
Tạ ơn Anh những Anh Hùng quyết đấu
Dẹp cho hết lũ đầu gấu lưu manh
Sắp tới đây tà quyền sẽ tan tành
Lũ bán Nước xú danh đời muôn thuở
Tạ ơn Đất đã cho ta chỗ ở
Đất Việt Nam muôn thuở mãi trong tim
Đất Cha ông xương máu đổ giữ gìn
Nay sắp mất! sao im không lên tiếng?
Tạ ơn Nước từ nguồn thiêng tinh luyện
Chảy vào tâm ta nguyện sẽ bảo toàn
Quyết một ngày Đất-Nước sẽ hân hoan
Cả Đất Nước hoàn toàn được hạnh phúc
Ngày tạ ơn xin gởi vài lời chúc
Chúc thành công hạnh phúc đến mọi người
Chúc mỗi ngày đẹp đẽ thêm thắm tươi
Chúc cuộc sống tiếng cười thay tiếng khóc.
Cảm ơn Tổ Tiên, Cha Mẹ! Cảm ơn ĐỜI ! Ngày 24.11 2011
CD hợp tuyển Thánh ca ''Chúa đến! Chúa đến!''
Pm. Cao Huy Hoàng
17:01 24/11/2011
“CHÚA ĐẾN! CHÚA ĐẾN!”
(Qùa Giáng Sinh và Năm Mới của Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh)
I. Suy nghĩ gì khi nghe một bài hát trong một CD Thánh Ca?
![]() |
+Có vài nhạc sĩ trả lời vô tình lắm, chua chát lắm, và cũng lộ liễu lắm – lộ liễu cái “tôi” tự cho mình là ngôi sao, hay ảo tưởng mình là ngôi sao trong giới nhạc sĩ công giáo:
-“Cái nào cũng vậy, bài nào cũng thế. Ai có tiền cứ làm”.
-“Tớ nghe qua một lần, rồi vất vào tủ”.
-“Tặng mình nhiều quá, có cái mình chưa nghe. Còn cả đống ở nhà”.
+Có vài nhạc sĩ “tự cho mình là bác học” hơn người, nghe và tìm những chỗ sai hơn là tìm những chỗ hay, tìm những chỗ để chê bai hơn là để có một lời công nhận những nỗ lực của anh em.
+Có vài ca trưởng trả lời có tình cảm hơn, vì có khát khao và có đón nhận, vì có nhu cầu để làm tốt ơn gọi đặc biệt là phục vụ cộng đoàn phụng vụ:
-“Em chọn được vài bài cho ca đoàn hát trong thánh lễ. Một số bài để hát trong những nhu cầu khác”
-“Mấy bài hợp xướng ca đoàn em chơi không nỗi. Tiếc lắm”
-“Có bài A, bài B ca sĩ hát nghe quá đã mà mấy em ca lẻ nhà em hát chẳng ra, hay là tại âm thanh nhà em quá tệ!”
+Câu trả lời dễ thương nhất là của các ca viên, những giáo dân là hiền mẫu, gia trưởng…
-“bài nào cũng hay, có bài hay lúc này, có bài hay lúc khác”.
+Còn bạn, còn tôi, suy nghĩ gì khi nghe một CD Thánh Ca?
Không ép bạn, nhưng tôi tha thiết mong bạn có tâm tình này khi nghe một CD Thánh Ca: “tôi thấy đang hòa mình vào một mầu nhiệm: mầu nhiệm Giáo Hội”.
Một bài thánh ca trong CD, tôi không nói là một bài thánh ca mới viết, nhưng xin nói lại là một bài thánh ca trong một CD là kết tinh của một tập thể công giáo, một dây chuyền thánh thiện.
Một bài thơ thật hay, hay một bài thơ có tâm tình cầu nguyện sốt sắng của một thi sĩ nào đó, nếu không có sự đồng cảm của nhạc sĩ để phổ nhạc, bài thơ ấy chưa thăng hoa, chưa gửi đến bạn với những giai điệu mượt mà… quyến rủ, bay bổng…
bài thơ để đọc, để ngâm phổ thành bài hát hát thầm cũng hay!
Chỉ với Thi sĩ và Nhạc sĩ, với thơ và với nhạc là đã có ít là “hai người tụ họp vì danh Thầy”.
Khi một câu Kinh Thánh, một đoạn Lời Chúa, một Thánh Thi, một lời nguyện của cả và Giáo Hội, được các nhạc sĩ dệt thành các ca khúc, mỗi nốt thăng trầm là một tâm tình sâu lắng, thì lúc ấy, nhạc sĩ đã và đang kết hợp với cả Thiên Chúa và Giáo Hội.
Ca khúc còn để mãi ở trên bàn! Tâm tình yêu mến phụng thờ còn cất trong tủ! Vâng, có thể, như thế, nếu không chuyển được cho người khác sử dụng cách này hay cách khác. Nhưng khi bài hát ấy đã là một bài trong CD gửi đến quí thính giả, có thể thấy, ngoài người nhạc sĩ, thi sĩ kia ra, còn có biết bao nhiêu người trong công trình chung này: người biên tập, người phối âm phối khí, ca đoàn, ca sĩ, phòng thu âm, mixer, người dập đĩa, người designe bìa, người vào hộp…. và cuối cùng là người nghe.
Có phải một mình bạn, một mình tôi, đang nghe? Không, chúng ta đang làm nên một Giáo Hội sống thiết thực với tâm tình của bài hát ấy. Thiết tưởng, bài hát ấy, không còn là tài sản riêng của nhạc sĩ này, nhạc sĩ kia, nhưng là tài sản của tất cả những người có lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội. Tôi đang nghe một bài thánh ca hay tôi đang sống trong một mầu nhiệm? Tôi là người nghe, là thành phần trong mầu nhiệm ấy hay tôi là khách bàng quan?
Vì sự thiêng thánh của bài thánh ca, vì mầu nhiệm Giáo Hội, tôi cũng nghĩ đến chuyện lầm lỗi trong một dây chuyền hình thành một CD. Có lầm lỗi không? Có chứ, vì thế, nếu hiểu được tính mầu nhiệm thiêng thánh này, mỗi thành phần trong dây chuyền hẳn phải làm hoàn hảo đến mức có thể, để có một tác phẩm chung hoàn hảo. Chỉ cần có một phần trong dây chuyền thánh thiện này ở trong tình trạng chưa hoàn hảo, có thể làm cho giảm đi sự thánh thiện của mầu nhiệm.
Bởi thế, mỗi một người trong dây chuyền hình thành một CD thánh ca, đều phải thể hiện hết các công việc vì lòng yêu mến của mình đến mức hoàn hảo nhất.
Tôi chỉ đơn giản từ một lỗi nhỏ của người vào hộp, không cẩn thận để đĩa trầy sướt…đến lỗi lớn hơn của người biên tập, hoặc của chính nhạc sĩ biên tập bài chưa hoàn hảo của mình. Hoặc, người phối âm phối khí không làm cho bài hát thăng hoa hơn, thánh thiện hơn, còn sử dụng nghệ thuật phối kém tính thánh thiện lại giàu chất trần tục…Có lỗi với cả một Mầu Nhiệm.
II. Suy nghĩ gì khi nghe CD “CHÚA ĐẾN! CHÚA ĐẾN!”
Đọc trên hộp CD với dòng chữ Hợp Tuyển Thánh Ca Chúa Đến Chúa Đến, và dòng chữ dưới: Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh, cảm nghĩ đầu tiên của tôi là nhớ NS Hùng Lân, Tâm Bảo, Lm. Hoài Đức, Duy Tân... nhớ Cung Thánh, Cung Thánh Tổng Hợp, Cung Thánh 15… nhớ biết bao bài thánh ca thưở tôi mới lớn, mới học đồ rê mi… Sau một thoáng hồi tưởng là phút tưởng niệm những Nhạc Sĩ tiên phong trong Thánh ca Thánh Nhạc Việt Nam, những người đã cống hiến cho giáo dân Việt Nam không chỉ là những bài thánh ca bất hủ, mà là những tâm tình yêu mến Chúa, yêu mến Giáo Hội, và đời sống đạo đức qua những dòng ca thánh thiện từ những năm 1945.
Thế là, Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh đã vượt qua bao thăng trầm để tồn tại và không chỉ khẳng định sự tồn tại mà còn chứng minh một sức sống mới, một nhiệt huyết mới, một lực lượng kế thừa đáng kể, một lời tri ân sống động đến các bậc tiền nhân. Được biết anh em đã tiếp tục âm thầm cống hiến 9 tuyển tập Cung Thánh (Bộ Mới), in ấn công phu, bài vở được imprimatur đàng hoàng, và đã phát hành ít là hai CD hợp tuyển của nhiều tác giả.
Nay, CD “Chúa đến! Chúa đến!” được phát hành trung tuần tháng 11, như một Quà tặng Giáng Sinh 2011 và Năm Mới 2012, cũng lại là một nỗ lực mang tính “nhạc đoàn” rất cao.
-Điều đầu tiên phải kể đến ngay là ban biên tập đã chọn bài của 11 tác giả, và mỗi tác giả có một đến không hơn hai bài hát trong CD. Quan tâm điểm này, cho thấy, BBT đã không vì chất lượng, số lượng hay tên tuổi của anh em nhạc đoàn nhưng nhằm đến một sinh hoạt chung rất đoàn kết nội bộ và rất đáng trân trọng. Mỗi thành viên tôn trọng nhau đúng mức, tôn trọng tác phẩm của nhau, không vì bài người này hay hơn hay bài người kia kém hơn, nhưng chỉ vì “để tất cả mọi sự làm của chung” mà phục vụ. Có thể xem đây là mẫu gương cho những tuyển tập thánh ca, những hợp tuyển thánh ca đúng nghĩa nhất.
-Vì 14 bài hát của 11 tác giả, nên các tác phẩm đã thể hiện tâm tình của 11 con người, mỗi người một vẻ, mỗi người một tấm lòng, mỗi người một sẻ chia làm thành một CD phong phú. Người nghe không bị nhàm chán bởi một giai điệu hay bởi một tâm tình quen thuộc trùng lắp của một tác giả, cũng như khi chọn bài hát trong một tuyển tập thánh ca… hay khi vào khu vườn hoa nhà ai đang nở rộ…
-Tôi ngộ ra điều này là người biên tập, Lm NS Vương Diệu, Nhạc Đoàn Trưởng hiện nay, đã có cố ý cho người nghe một trình tự suy niệm qua thứ tự các bài thánh ca để cách sắp xếp các bài thánh ca, dẫn chúng ta vào một giờ cầu nguyện rất hợp lý hợp tình từ nội dung bài ca, đến tiết tấu, đến phối âm phối khí, đến cả việc thể hiện của các ca sĩ, của ca đoàn.
Này nhé,
Mở đầu là đoàn “Mục Đồng” của Nguyễn Đức Kỳ “Ra Đi” “hối hả tìm đến Belem”, đi trong điệu nhạc tưng bừng của niềm khát khao cháy bỏng đến gặp Đấng Cứu Thế Giáng Sinh theo lời mời ngọt mịn của sứ thần Kim Thúy. Hình như theo sau đoàn mục đồng ấy có anh nông dân Hải Nguyễn, nhạc sĩ, thưở còn lao động dưới miệt ruộng miệt vườn, nên khi đến gặp Hài Nhi, là “Dâng Về Ngài” ngay những lế dâng đơn sơ của con nhà nông chân chất. Bài thánh ca dâng bỗng sốt sắng thánh thiện làm người nghe như tôi nghĩ là đến Belem mà không dâng gì thì kỳ cục quá. Ai làm vậy, phải không anh Hải Nguyễn!
Vừa dâng với Hải Nguyễn xong, chưa kịp nghe Hài Nhi Giêsu nói gì, bỗng nghe Mai Nguyên Vũ báo tin: khúc “Rộn Ràng Noel” vang vọng từ xa xa đâu đó rồi rõ dần mồn một là tiếng của Xuân Trường: “Hãy loan truyền Tin Vui cho người toàn thế giới”. Phút loan tin vui rộn ràng dừng lại, chợt thấy bóng Song Kiều đã đến tự lúc nào, nấp bên hang đá nhỏ. Hình như Song Kiều anh không nói gì, chỉ chắp đôi tay lặng quì nghe “Chúa Nói Với Con” qua giọng tình ca mượt mịn, dịu ngọt, êm ả. Không biết anh Song Kiều quì đó lòng dạ có nao nao, chứ thực tình lòng tôi ái ngại trước tình yêu quá vĩ đại quá vô biên.
Tâm tình vừa lắng xuống bỗng Hải Triều xuất hiện bên cạnh Ca Đoàn Sao Mai đang hùng hồn tuyên xưng “Chúa Là Vua”. Tôi không ngờ Hải Triều gầy còm mà mạnh mẽ thế, liễu yếu đào tơ mà hùng dũng vậy. Bài thánh ca như khúc biến tấu những tâm tình “Chúa Nói Với Con” thành lời tuyên tín vững chắc của “con nói với Chúa” rằng “Chúa là Vua”.
Sau phút hùng hồn tuyên tín, lòng tôi dịu lại, thiếp đi với Trần Thế để suy gẫm mầu nhiệm “Noel Mùa Tình Yêu” cao sang như nhung vàng, gọi là Kim Nhung mà nhẹ nhàng, tình tứ, đằm thắm từng câu chữ như từng nhịp tim yêu dịu dàng nhưng mãnh liệt. Bài ca “Noel Mùa Tình Yêu” dịu dàng kia lại dắt tôi đi vào một minh họa cụ thể nơi “Máng Cỏ Giấc Nồng” thưở tình còn trong cổ tích của William Kirkpatrick (1895) cùng với Nguyễn Đức Kỳ và đoàn thiếu nhi Seraphim, Tustin, CA. trong ngần tiếng hát của mối tình tinh khôi, thơ ngây, thánh thiện.
Thì ra Nguyễn Đức Kỳ có một tuổi thơ dài hơn mấy mươi năm cuộc đời, mãi hồn nhiên, trong trắng với “máng cỏ giấc nồng” và các em thiếu nhi. Còn Thế Thông thì có một tuổi xuân dài hơn mấy chục năm, nên định nghĩa Chúa Đến là “Tình Đã Đến”, một cuộc tình luôn luôn mới, luôn luôn trẻ trung, và luôn luôn cuốn hút kỳ diệu. “Tình đã đến” với cung nhạc căng tràn sức sống làm tôi ngây ngất say mê ở mầu nhiệm Chúa Đến vì muôn đời Chúa thương loài người, Chúa thương tôi, tình không vơi..
Giờ suy niệm chuyển từ Mầu Nhiệm Giáng Sinh đến mùa xuân Vĩnh cửu mà Chúa Cứu thế mang đến. Thật hợp lý. Với Hải Ánh, mùa Giáng Sinh cũng là Mùa “Xuân Hồng Ân”. Hồng ân cứu độ ấy phải được reo lên tưng bừng như Thanh Trúc và Sao Mai cùng ăn ý từng niềm vui bừng sáng lên, và phút tịnh lòng ngất trí. Cũng bởi phút tịnh lòng ngất trí ấy, mà Nguyên Hùng chợt nghe tiếng tha thiết của Thanh Hiền khi “Về Bên Chúa” xoa dịu ngàn nỗi đau, sưởi ấm cõi lòng lạnh giá….để cùng anh Song Kiều lại cất lên tuyên tín “Chúa Là Mùa Xuân”.
Từ ấy, Lm Vương Diệu khơi dậy cho mỗi chúng ta một niềm “Kính Nhớ Tổ Tiên” để cùng nguyện xin cho tiên tổ hưởng trọn Mùa xuân vĩnh cửu, nơi ấy, có Mẹ Maria cả hồn xác đã lên trời mà Ns.Duy Tân có thể đã đạt tới niềm vui “Một Điềm Lạ” vĩ đại đã xuất hiện trước mắt cố Nhạc Sĩ cả đời hướng tới “Trời Cao”.
Một lần nữa, có phải Thế Thông hay ý của BBT muốn kết thúc chút công trình nho nhỏ này của Nhạc đoàn bằng tâm nguyện rằng chúng con có làm gì, có hay có dở gì, thì cũng hết tâm hết lòng với mục đích là để “Ngài Phải Lớn Lên” trong chúng con và trong mọi người.
Một chi tiết không thể sót, đó là, trong khi những Studio thực hiện các CD Thánh Ca có vẻ rất e ngại thể loại Hợp Xướng, thì Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh đã thực hiện một CD gần phân nửa bài hợp xướng, xứng hợp với Thánh Ca Công Giáo. Tôi cứ như khẳng định rằng đóng góp của của người không có tên trên mặt dĩa lại là to lớn và đáng kể lắm: Nhạc Sĩ Ca Trưởng Khương Huệ. Vì nếu nơi nào có Ca Đoàn Sao Mai, thì không thể thiếu Khương Huệ, người ca trưởng và ca đoàn đã từng thực hiện nhiều bài Hợp Xướng hay và khó của những tác giả lớn. Thiết tưởng sự luyện tập công phu của Ns. Ca trưởng và Ca đoàn Sao Mai cứ như là Ban Hợp Xướng chính thức của Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh vậy!
Nghe xong CD “Chúa Đến! Chúa Đến!” tôi nhận ra CD có một trình tự suy niệm sâu sắc, cùng với nỗ lực rất sốt sắng và hiệp nhất của nhiều người, từ nghệ thuật phối khí phối âm chuyển theo giai điệu từng bài thay đổi hết rộn ràng rồi trầm lắng, đến cách thể hiện điêu luyện mà thánh thiện, cứ cuốn hút người nghe và suy gẩm cho đến hết CD.
Có thể, có người nghe không vừa ý một vài chỗ, nhưng theo tôi, hãy nhìn thấy điểm tích cực của cả CD và cả Nhạc Đoàn.
Ước gì CD Hợp Tuyển Thánh Ca Chúa Đến Chúa Đến của Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh là một giờ suy niệm mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho mỗi người nghe, và chính mỗi người nghe, lại là một lời nguyện cho Nhạc Đoàn thêm lòng sốt sắng mến yêu và chân thành cống hiến, và còn là một lời nguyện cho linh hồn các Nhạc Sĩ đã qua đời được hưởng ơn Cứu Độ và Mùa Xuân Vĩnh Cứu.
1- MỤC ĐỒNG RA ĐI – Nguyễn Đức Kỳ – Kim Thúy – Ca đoàn Sao Mai
2- DÂNG VỀ NGÀI – Hải Nguyễn – Ca đoàn Sao Mai
3- RỘN RÀNG NOEN – Mai Nguyên Vũ – Xuân Trường
4- CHÚA NÓI VỚI CON – Song Kiều – Lam Phương
5- CHÚA LÀ VUA – Hải Triều – Ca đoàn Sao Mai
6- NOEN MÙA TÌNH YÊU – Trần Thế – Kim Nhung (Phụ họa: TTKH)
7- MÁNG CỎ GIẤC NỒNG – Nhạc: William Kirkpatrick (1895) Lời Việt: Nguyễn Đức Kỳ – Ca đoàn Thiếu nhi Seraphim, Tustin, CA.
8- TÌNH ĐÃ ĐẾN – Thế Thông – Diệu Hiền (Vocal: Hoàng Hiệp – Cadilac)
9- XUÂN HỒNG ÂN – Hải Ánh – Thanh Trúc – Ca đoàn Sao Mai
10- VỀ BÊN CHÚA – Nguyên Hùng – Thanh Hiền, Ngọc Quang (Vocal: TTKH)
11- CHÚA LÀ MÙA XUÂN – Song Kiều – Ca đoàn Sao Mai
12- KÍNH NHỚ TỔ TIÊN – Vương Diệu – Thanh Trúc – Ca đoàn Sao Mai
13- MỘT ĐIỀM LẠ – Duy Tân – Lam Phương – Ca đoàn Sao Mai
14- NGÀI PHẢI LỚN LÊN – Thế Thông – Thế Thông – Ca đoàn Sao Mai
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thiên Nhiên Hùng Vĩ - Majestic Nature.
Richard Drysdale
22:39 24/11/2011
THIÊN NHIÊN HÙNG VĨ – Majestic Nature.
Ảnh của Richard Drysdale
“Mục tiêu của cuộc đời là sống hài hòa với thiên nhiên”
"The goal of life is living in agreement with nature."
(Zeno)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Richard Drysdale
“Mục tiêu của cuộc đời là sống hài hòa với thiên nhiên”"The goal of life is living in agreement with nature."
(Zeno)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền







