Phụng Vụ - Mục Vụ
Mùa Vọng của Thiên Chúa và Con người
Lm. Thái Nguyên
09:37 06/12/2010
Mùa vọng là thời gian ta chờ Chúa đến, nhưng đừng quên chính Chúa mới là Đấng đã chờ đợi ta trước khi ta chờ đợi Ngài; Đấng đã hy vọng vào ta, để nhờ đó ta biết hy vọng vào Ngài. Mọi sự đều là sáng kiến và khởi đầu của Thiên Chúa, Đấng quyền năng vô biên và yêu thương ta vô bờ. Quyền năng và tình yêu Ngài là sự bảo đảm duy nhất cho niềm hy vọng của chúng ta. Ngoài Chúa ra, mọi hy vọng vào trần thế này hay bất cứ thần tượng nào cũng sẽ là vô vọng.
I. MÙA VỌNG: THIÊN CHÚA HY VỌNG VÀO CON NGƯỜI.
1. Do hy vọng và cho hy vọng
Do hy vọng, Thiên Chúa đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài.
Cho hy vọng, Thiên Chúa đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với loài người, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Ngay từ Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán qua tiên tri Ezekiel: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”. Qua dân Israel, ta thấy Thiên Chúa không ngừng tái lập lại các Giao ước mà con người luôn phá vỡ, do sự bất trung bất tín với Thiên Chúa, và bất nhân bất nghĩa với nhau. Vì vậy, Mùa Vọng chính là thời gian, là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội, và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô Đấng đã đến viếng thăm nhân loại lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể. Ngài đã đến cách lặng lẻ và sống âm thầm giữa mọi người, đã đảm nhận lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Và Ngài hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, để đặt mỗi người đối diện với chính Ngài như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác, và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi. Ngày đó là ngày thiết lập công bình tuyệt đối, nên: “Thiện ác đối đầu chung hữu báo” = ai làm việc thiện hay việc gian ác đều có quả báo). Bởi vậy: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác”.
Lần thứ nhất do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi, và lần thứ hai cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo. Tuy nhiên, giữa hai lần đến chính thức ấy thì Đức Kitô vẫn âm thầm đến với con người, qua những biến cố xẩy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân, qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận, và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của của cuộc đời họ. Chúa đến bất ngờ không phải để bắt chợt chúng ta, nhưng mong thấy được tình yêu của chúng ta đã triển nở và đang sinh hoa kết trái. Vì vậy Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
2. Thiên Chúa – Người Cha luôn hy vọng vào con cái
Việc Thiên Chúa hy vọng vào con người được mạc khải rõ nhất qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu (Lc 15,11-32). Thiên Chúa qua hình ảnh người Cha chấp nhận cho con mình tự do ra đi, chấp nhận cho con mình từ bỏ mình, để rồi từ đó trông ngóng, chờ mong và hy vọng không ngừng ngày nó trở về…
Khi đứa con ngông cuồng dở sống dở chết trở về thì từ ở đàng xa người Cha đã thấy, và rồi ông vô cùng vui mừng chạy ra đón con... Điều này muốn nói rằng người cha đã mòn mỏi đợi con. Quả thực, Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người.
Ở đây ta thấy Thiên Chúa tự xóa mình trước con người. Ngài là Đấng quyền năng vô biên, nhưng cũng là Đấng khiêm hạ vô ngần trước con người mà Ngài đã dựng nên. Hy vọng có một danh xưng khác là sự khiêm hạ. Jean Tauler cho biết: “Sự khiêm nhường là nhân đức ẩn tàng nơi sự sâu thẳm của Thiên Chúa”.
Mặc dù là Thiên Chúa toàn năng, nhưng Ngài không muốn chiếm giữ hay chiếm hữu tình yêu của con người nếu họ không muốn. R. Tagore đã nghiệm ra chân lý này, và ông diễn đạt lời của Đấng Toàn Năng như sau: “Ta yêu người và xin người cho lại một tấm tình. Chúng ta khao khát tình yêu, vì cả hai cùng thiếu thốn. Ta là Tạo hóa, có thể tạo ra tất cả, trừ tình yêu tự nguyện, tình yêu tận hiến”. Đây không phải là điều mà Chúa Giêsu nói lên trên Thập giá sao? “TA KHÁT”. Khát cái gì? Chẳng lẽ Ngài khát một chút nước trước khi chết? Cái khát tận cùng đó không gì khác hơn là khát tình yêu của con người.
Do đâu mà chúng ta có thể nói về niềm hy vọng và sự hạ mình của Thiên Chúa? Thưa do tình yêu vô hạn của Thiên Chúa là Cha. Trong tiếng Dothái, có hai từ để chỉ tình yêu của Thiên Chúa: Hesed và Rachamim.
- Hesed nói lên một tình yêu có màu sắc nam tính, cho thấy một Thiên Chúa uy dũng và tín thành, là sự bảo đảm cho ta.
- Rachamim được Cựu Ước sử dụng, có nghĩa đen là “lòng dạ người mẹ”, nói lên một tình yêu có màu sắc nữ tính: tình yêu của một người mẹ, không phải vì công trạng nào của con, nhưng chỉ vì nó là con mình (x. Is 49,14-16; 63,16; Gr 31,20; Tv 131). Tình yêu phát xuất từ lòng dạ người mẹ là một tình yêu đầy lòng trắc ẩn (compassion). Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn nên hằng chờ mong và hy vọng nơi con cái mình. Ngài yêu thương như một người mẹ, bằng một tình yêu nhưng không, một tình yêu trung tín dù con người bất tín bất trung.
Dù mọi người đã hoàn toàn thất vọng về ta, và dù chính ta cũng đã thất vọng về chính mình, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hy vọng vào ta. Thánh Kinh và kinh nghiệm đời sống thiêng liêng của bao vị thánh, cũng như chỉ cần một chút thao thức của lòng mình đều cho ta chứng nghiệm điều đó. Chính tình yêu vô biên của Thiên Chúa làm cho Ngài hy vọng vào chúng ta, và rồi cũng chính tình yêu đó mà Ngài cho chúng ta hy vọng vào chính Ngài. Chính vì sự bở ngỡ lạ lùng trước một Thiên Chúa hy vọng vào con người, khiến con người hy vọng vào Thiên Chúa.
II. MÙA VỌNG: CON NGƯỜI HY VỌNG VÀO THIÊN CHÚA
1. Tỉnh thức trong hy vọng
Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường nẻo bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua sự tỉnh thức không ngừng.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng đời mình có một Thiên Chúa là người Cha yêu thương chí tình, nên đời mình có một vận mệnh tương lai sáng ngời. Nếu dụ ngôn người Cha nhân lành cho thấy Thiên Chúa hy vọng vào con người, thì cũng chính là dụ ngôn cho thấy con người hy vọng vào Thiên Chúa. Chính vì hy vọng và tin tưởng vào người Cha yêu thương chí tình nên người con mới quyết tâm quay về với Cha.
Tiếc thay, nó quay về trước tiên không phải vì yêu thương gì cha nó, mà chỉ vì đói rách, khốn cùng, nhục nhã, ê chề, tuyệt vọng trước thế thái nhân tình, và nhất là đứng trước một tương lai bế tắc hoàn toàn không lối thoát. Dù vậy người Cha vẫn vui mừng khôn tả để đón nhận con mình, vì nó là con, thế thôi.
Có một sự kiện rất kiêu căng, hàm hồ và ảo tưởng của con người trong đầu thế kỷ 19, đó là khi đứng trước ngưỡng cửa của văn minh tiến bộ, với nhiều thành tựu khoa học và kỹ thuật lớn lao, người ta đã trương ra khẩu hiệu: “Con người là tương lai của con người’’. Điều này có nghĩa là con người bất cần đến Thiên Chúa, hay chẳng có Thiên Chúa nào khác ngoài chính con người là chủ vận mệnh tương lai của mình. Nhưng tương lai ngay sau đó là gì? Thưa là hai cuộc thế chiến đẩm máu, đem lại tang thương khốn cùng và để lại những hậu quả thảm khốc trên đời sống con người.
Chỉ hy vọng vào con người thôi là sự hão huyền trên mọi hão huyền. Nói như thế không phải ta thất vọng về con người, nhưng phải nhận ra sự giới hạn của khả năng con người và lòng người, để mình đừng rơi vào ảo tưởng. Chẳng ai và chẳng có cơ cấu hay chế độ nào có thể bảo đảm tương lai cho loài người ngoài một mình Thiên Chúa. Đó là kinh nghiệm của nhân loại trong nhiều sự kiện lịch sử của xã hội cũng như cá nhân. Thánh Kinh cũng cho thấy: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?” (Gr 17, 9).
Trong Thánh Kinh, sự kiện sụp đổ tháp Babel cũng chính là biểu tượng sụp đổ niềm hy vọng của con người vào con người mà không cần đến Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm sống chết của người con hoang đàng trước tình cảnh bi đát bị đồng loại bỏ rơi, đến nỗi muốn ăn chút cám heo thừa thãi mà người khác cũng không cho. Bởi vậy, hy vọng cuối cùng và duy nhất của nó giờ đây chỉ còn đặt vào người cha nhân lành, vì nó biết rằng chẳng ai thương yêu mình bằng chính cha mẹ mình. Mà Thiên Chúa chính là người cha và là người mẹ yêu thương con người hơn hết mọi cha mẹ trên trần gian này (x. Rm 8, 32; 1Ga 4, 10).
Kết cục chỉ có một mình “Thiên Chúa là tương lai của con người”. Theo nghĩa này, đúng là những ai không biết đến Thiên Chúa, cho dù người ấy có bao thứ hy vọng, thì cuối cùng cũng chỉ là vô vọng (x. Eph 2,12). Niềm hy vọng vững vàng, bất chấp mọi thất vọng chỉ có thể là Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương chúng ta và yêu thương “đến cùng” (x Ga 13:1; 19, 30). Chỉ tình yêu Ngài mới ban cho chúng ta khả năng kiên vững ngày qua ngày, mà không đánh mất đi nhiệt tình của niềm hy vọng trong một thế giới không hoàn thiện tự bản chất. Chỉ tình yêu của Thiên Chúa mới bảo đảm cho sự hiện hữu đích thực, là sự sống “viên mãn” mà ta vẫn trông đợi. Bởi vậy con đường chúng ta đi hôm nay, cho dù qua bao thung lũng âm u, thì vẫn là con đường hy vọng, một niềm hy vọng tuyệt đối vào Thiên Chúa.
2. Ba tiêu chí để sống niềm hy vọng
“Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm gọi họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài” (ĐHV 964). Để sống niềm hy vọng vững vàng vào Thiên Chúa, trong Thông điệp Spe Salvi, Đức Bênêđictô đưa ra ba tiêu chí: Cầu nguyện; dám dấn thân và chịu đau khổ; hướng đến cuộc phán xét.
- Cầu nguyện như trường học của niềm hy vọng. Con người đã được dựng nên cho Thiên Chúa, nhưng tâm hồn con người lại quá hẹp hòi, nhỏ bé để đón nhận Ngài. Vì thế, cầu nguyện là tập mở rộng lòng mình ra với Thiên Chúa, và nhờ đó cũng mở rộng lòng ra với đồng loại. Nhờ cầu nguyện, ta biết thanh luyện ước muốn và hy vọng của mình. Cầu nguyện làm thức tỉnh lương tâm ta, cho ta khả năng xóa mờ cái “tôi” ảo tưởng của mình, để có thể lắng nghe chính Chúa và vững tâm hy vọng vào Ngài.
- Đau khổ như những môi trường học hỏi hy vọng. Thánh Phêrô đã nói với chúng ta: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4, 13). Nhờ kết hợp với Đức Kitô trong đau khổ mà ta được tinh luyện để sống đức tin trưởng thành hơn, góp phần làm cho thế giới này được tươi sáng và nhân bản hơn. Đau khổ vì lòng yêu mến đem lại cho ta niềm hy vọng mạnh mẽ hơn.
- Hướng đến cuộc phán xét như phương cách sống hy vọng. Từ thời xa xưa, viễn ảnh cuộc phán xét đã ảnh hưởng đến các Kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày. Họ coi cuộc phán xét như:
. Là tiêu chuẩn để tổ chức lại đời sống hiện tại của mình.
. Là một sự mời gọi hoán cải tâm hồn.
. Là niềm hy vọng vào sự công bình của Thiên Chúa.
Như vậy hy vọng vào Thiên Chúa là cách sống rất hiện sinh và cụ thể để làm đẹp cuộc sống của mỗi người hôm nay.
3. Mẹ Maria - Ngôi sao hy vọng
Bằng một thánh thi được viết vào khoảng Thế kỷ IX, Giáo Hội đã chào mừng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa như “Ngôi sao biển”: Ave maris stella.
Cuộc đời như hành trình trên đại dương lịch sử, lắm khi u tối và đầy bão táp, cần có những ngôi sao đích thực dẫn đường cho cuộc đời chúng ta. Chắc hẳn Đức Kitô là ánh sáng chính danh, là mặt trời chính ngọ bừng sáng trên mọi bóng tối của lịch sử. Nhưng để đi tới Ngài, chúng ta cần đến những điểm sáng gần gũi, là những người đang phản ảnh ánh sáng của Đức Kitô, để giúp ta dễ định hướng cho lộ trình của mình. Vậy ai có thể hơn Đức Maria, là ngôi sao hy vọng cho chúng ta.
Đức Maria là con người tuyệt vời, vì đã sống niềm hy vọng bằng hai tiếng “xin vâng”. Mẹ là người diễm phúc vì đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ điều phi thường là được cưu mang và sinh hạ Đấng là niềm hy vọng của Israel và của cả nhân loại.
Đẹp thay hình ảnh một Từ Mẫu đã vững vàng đứng dưới chân thập giá của con mình, và đã trở thành Mẹ của những kẻ tin. Lưỡi gươm đâm thâu qua trái tim Chúa Giêsu cũng là đâm thâu qua lòng Mẹ để niềm hy vọng cứu độ lan tràn tới mọi tâm hồn. Niềm hy vọng đó đã đạt tới đích điểm là niềm vui Phục Sinh của ngày thứ nhất trong tuần, để Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria quả thật là Ngôi sao hy vọng, là Mẹ của hy vọng, là mẫu mực của chúng ta, những người gieo hy vọng vào đời sống nhân loại.
III. SỐNG MÙA VỌNG, CHÚNG TA TRỞ NÊN NHỮNG NGƯỜI GIEO HY VỌNG
Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận đã xác định như sau: “Người Kitô hữu là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là một hy vọng giữa một nhân loại thất vọng”. (954). Chắc chắn câu này ngài họa lại lời Chúa Giêsu: “Chính anh em là muối cho đời” (Mt 5, 13). “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).
Phần thứ 3 của câu đó có lẽ cũng nói lên giáo huấn của thánh Phaolô. “Giữa một thế hệ gian tà và sa đọa, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 15). Bởi vậy, “Không thể quan niệm được một Kitô hữu mà không say mê đem niềm hy vọng ngập tràn thế giới.” (ĐHV 972).
Chị Chiara Lubich với kinh nghiệm nội tâm, cũng nói với chúng ta rằng: “Với hy vọng, các bạn sẽ luôn luôn hạnh phúc, và các bạn sẽ làm cho mọi người hạnh phúc”. Nên nhớ đây là kinh nghiệm sống niềm hy vọng và rắc gieo niềm hy vọng, chứ không phải chỉ là hiểu biết suông về niềm hy vọng. Chúng ta có thể hiểu biết rất nhiều khi nói về niềm hy vọng, nhưng hiểu biết đó sẽ trở thành hư không, nếu nó không được kinh nghiệm, cảm nghiệm, chứng nghiệm, để trở thành sức sống cho tâm hồn mình và cho mọi người chung quanh.
Gieo hy vọng không chỉ là gieo tư tưởng hay ý thức cho người khác, mà chính yếu là gieo hạt mầm sự sống cho một tâm hồn, nên đòi hỏi hy sinh, quên mình. Câu chuyện ngắn sau đây của O Henry cho ta thấy được tâm tình cao thượng và hy sinh cao cả của người gieo niềm hy vọng:
Có một nữ bệnh nhân chỉ còn biết đếm ngày sống thoi thóp của mình bằng những chiếc lá rụng dần từ một cành cây nhìn thấy qua khung cửa sổ. Đến khi trên cành chỉ còn chiếc lá duy nhất, thì cô nói với người thân của mình rằng: “Nếu đêm nay, chiếc lá cuối cùng không còn nữa, em sẽ chết”. Niềm hy vọng của cô gái đang tắt dần, chỉ còn lại những giây phút tuyệt vọng.
Ở phòng trọ bên dưới có một họa sĩ tình cờ nghe được. Thế là nữa đêm, giữa trời tuyết lạnh, người họa sĩ bắc thang leo lên vẽ một chiếc lá vàng ở bức tường sát cành cây khô khi chiếc lá thật đã rụng xuống. Sáng hôm sau, người bệnh thức giấc, vội nhìn ra cành cây, thấy chiếc lá vàng vẫn còn đó. Thế là cô an tâm và bảo: “Em vẫn còn có thể sống thêm ngày nữa”.
Chiếc lá vàng được vẽ đã cứu mạng sống người con gái đang thoi thóp chờ chết. Không biết cô còn sống thêm được bao nhiêu ngày, nhưng cô có ngờ đâu mạng sống của cô đã được đánh đổi bằng mạng sống của người họa sĩ, vì anh ta đã bị lạnh cóng giữa trời đêm băng giá, và đã âm thầm từ giã cõi đời.
Kitô hữu không phải là người vẽ cho đời chiếc lá hy vọng sao? Còn hơn thế nữa, vì chúng ta là hình ảnh của Đức Kitô, Đấng đã chết đi để đem lại niềm hy vọng sự sống cho con người, không chỉ là sự sống kéo dài cách tạm bợ trong trần gian này, nhưng chính là sự sống phục sinh vinh hiển ngàn đời.
Người gieo hy vọng không thể mang tính cách nào khác ngoài tính cách của Đức Kitô, tính cách của con người dấn thân phục vụ và dám hy sinh chính mình vì tha nhân. Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta mới có thể chu toàn sứ vụ của mình là người gieo hy vọng. Đó là niềm hy vọng vượt mọi biên cương của thất vọng, vì là niềm hy vọng vào Thiên Chúa toàn năng, vào nguồn lực của Chúa Thánh Thần, vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại hiển vinh vì chúng ta và cho chúng ta, để nhờ chúng ta, niềm hy vọng của con người vào Thiên Chúa được lan tràn khắp nơi trên mọi nẻo đường đời.
I. MÙA VỌNG: THIÊN CHÚA HY VỌNG VÀO CON NGƯỜI.
1. Do hy vọng và cho hy vọng
Do hy vọng, Thiên Chúa đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài.
Cho hy vọng, Thiên Chúa đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với loài người, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Ngay từ Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán qua tiên tri Ezekiel: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”. Qua dân Israel, ta thấy Thiên Chúa không ngừng tái lập lại các Giao ước mà con người luôn phá vỡ, do sự bất trung bất tín với Thiên Chúa, và bất nhân bất nghĩa với nhau. Vì vậy, Mùa Vọng chính là thời gian, là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội, và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô Đấng đã đến viếng thăm nhân loại lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể. Ngài đã đến cách lặng lẻ và sống âm thầm giữa mọi người, đã đảm nhận lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Và Ngài hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, để đặt mỗi người đối diện với chính Ngài như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác, và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi. Ngày đó là ngày thiết lập công bình tuyệt đối, nên: “Thiện ác đối đầu chung hữu báo” = ai làm việc thiện hay việc gian ác đều có quả báo). Bởi vậy: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác”.
Lần thứ nhất do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi, và lần thứ hai cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo. Tuy nhiên, giữa hai lần đến chính thức ấy thì Đức Kitô vẫn âm thầm đến với con người, qua những biến cố xẩy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân, qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận, và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của của cuộc đời họ. Chúa đến bất ngờ không phải để bắt chợt chúng ta, nhưng mong thấy được tình yêu của chúng ta đã triển nở và đang sinh hoa kết trái. Vì vậy Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
2. Thiên Chúa – Người Cha luôn hy vọng vào con cái
Việc Thiên Chúa hy vọng vào con người được mạc khải rõ nhất qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu (Lc 15,11-32). Thiên Chúa qua hình ảnh người Cha chấp nhận cho con mình tự do ra đi, chấp nhận cho con mình từ bỏ mình, để rồi từ đó trông ngóng, chờ mong và hy vọng không ngừng ngày nó trở về…
Khi đứa con ngông cuồng dở sống dở chết trở về thì từ ở đàng xa người Cha đã thấy, và rồi ông vô cùng vui mừng chạy ra đón con... Điều này muốn nói rằng người cha đã mòn mỏi đợi con. Quả thực, Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người.
Ở đây ta thấy Thiên Chúa tự xóa mình trước con người. Ngài là Đấng quyền năng vô biên, nhưng cũng là Đấng khiêm hạ vô ngần trước con người mà Ngài đã dựng nên. Hy vọng có một danh xưng khác là sự khiêm hạ. Jean Tauler cho biết: “Sự khiêm nhường là nhân đức ẩn tàng nơi sự sâu thẳm của Thiên Chúa”.
Mặc dù là Thiên Chúa toàn năng, nhưng Ngài không muốn chiếm giữ hay chiếm hữu tình yêu của con người nếu họ không muốn. R. Tagore đã nghiệm ra chân lý này, và ông diễn đạt lời của Đấng Toàn Năng như sau: “Ta yêu người và xin người cho lại một tấm tình. Chúng ta khao khát tình yêu, vì cả hai cùng thiếu thốn. Ta là Tạo hóa, có thể tạo ra tất cả, trừ tình yêu tự nguyện, tình yêu tận hiến”. Đây không phải là điều mà Chúa Giêsu nói lên trên Thập giá sao? “TA KHÁT”. Khát cái gì? Chẳng lẽ Ngài khát một chút nước trước khi chết? Cái khát tận cùng đó không gì khác hơn là khát tình yêu của con người.
Do đâu mà chúng ta có thể nói về niềm hy vọng và sự hạ mình của Thiên Chúa? Thưa do tình yêu vô hạn của Thiên Chúa là Cha. Trong tiếng Dothái, có hai từ để chỉ tình yêu của Thiên Chúa: Hesed và Rachamim.
- Hesed nói lên một tình yêu có màu sắc nam tính, cho thấy một Thiên Chúa uy dũng và tín thành, là sự bảo đảm cho ta.
- Rachamim được Cựu Ước sử dụng, có nghĩa đen là “lòng dạ người mẹ”, nói lên một tình yêu có màu sắc nữ tính: tình yêu của một người mẹ, không phải vì công trạng nào của con, nhưng chỉ vì nó là con mình (x. Is 49,14-16; 63,16; Gr 31,20; Tv 131). Tình yêu phát xuất từ lòng dạ người mẹ là một tình yêu đầy lòng trắc ẩn (compassion). Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn nên hằng chờ mong và hy vọng nơi con cái mình. Ngài yêu thương như một người mẹ, bằng một tình yêu nhưng không, một tình yêu trung tín dù con người bất tín bất trung.
Dù mọi người đã hoàn toàn thất vọng về ta, và dù chính ta cũng đã thất vọng về chính mình, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hy vọng vào ta. Thánh Kinh và kinh nghiệm đời sống thiêng liêng của bao vị thánh, cũng như chỉ cần một chút thao thức của lòng mình đều cho ta chứng nghiệm điều đó. Chính tình yêu vô biên của Thiên Chúa làm cho Ngài hy vọng vào chúng ta, và rồi cũng chính tình yêu đó mà Ngài cho chúng ta hy vọng vào chính Ngài. Chính vì sự bở ngỡ lạ lùng trước một Thiên Chúa hy vọng vào con người, khiến con người hy vọng vào Thiên Chúa.
II. MÙA VỌNG: CON NGƯỜI HY VỌNG VÀO THIÊN CHÚA
1. Tỉnh thức trong hy vọng
Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường nẻo bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua sự tỉnh thức không ngừng.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng đời mình có một Thiên Chúa là người Cha yêu thương chí tình, nên đời mình có một vận mệnh tương lai sáng ngời. Nếu dụ ngôn người Cha nhân lành cho thấy Thiên Chúa hy vọng vào con người, thì cũng chính là dụ ngôn cho thấy con người hy vọng vào Thiên Chúa. Chính vì hy vọng và tin tưởng vào người Cha yêu thương chí tình nên người con mới quyết tâm quay về với Cha.
Tiếc thay, nó quay về trước tiên không phải vì yêu thương gì cha nó, mà chỉ vì đói rách, khốn cùng, nhục nhã, ê chề, tuyệt vọng trước thế thái nhân tình, và nhất là đứng trước một tương lai bế tắc hoàn toàn không lối thoát. Dù vậy người Cha vẫn vui mừng khôn tả để đón nhận con mình, vì nó là con, thế thôi.
Có một sự kiện rất kiêu căng, hàm hồ và ảo tưởng của con người trong đầu thế kỷ 19, đó là khi đứng trước ngưỡng cửa của văn minh tiến bộ, với nhiều thành tựu khoa học và kỹ thuật lớn lao, người ta đã trương ra khẩu hiệu: “Con người là tương lai của con người’’. Điều này có nghĩa là con người bất cần đến Thiên Chúa, hay chẳng có Thiên Chúa nào khác ngoài chính con người là chủ vận mệnh tương lai của mình. Nhưng tương lai ngay sau đó là gì? Thưa là hai cuộc thế chiến đẩm máu, đem lại tang thương khốn cùng và để lại những hậu quả thảm khốc trên đời sống con người.
Chỉ hy vọng vào con người thôi là sự hão huyền trên mọi hão huyền. Nói như thế không phải ta thất vọng về con người, nhưng phải nhận ra sự giới hạn của khả năng con người và lòng người, để mình đừng rơi vào ảo tưởng. Chẳng ai và chẳng có cơ cấu hay chế độ nào có thể bảo đảm tương lai cho loài người ngoài một mình Thiên Chúa. Đó là kinh nghiệm của nhân loại trong nhiều sự kiện lịch sử của xã hội cũng như cá nhân. Thánh Kinh cũng cho thấy: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?” (Gr 17, 9).
Trong Thánh Kinh, sự kiện sụp đổ tháp Babel cũng chính là biểu tượng sụp đổ niềm hy vọng của con người vào con người mà không cần đến Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm sống chết của người con hoang đàng trước tình cảnh bi đát bị đồng loại bỏ rơi, đến nỗi muốn ăn chút cám heo thừa thãi mà người khác cũng không cho. Bởi vậy, hy vọng cuối cùng và duy nhất của nó giờ đây chỉ còn đặt vào người cha nhân lành, vì nó biết rằng chẳng ai thương yêu mình bằng chính cha mẹ mình. Mà Thiên Chúa chính là người cha và là người mẹ yêu thương con người hơn hết mọi cha mẹ trên trần gian này (x. Rm 8, 32; 1Ga 4, 10).
Kết cục chỉ có một mình “Thiên Chúa là tương lai của con người”. Theo nghĩa này, đúng là những ai không biết đến Thiên Chúa, cho dù người ấy có bao thứ hy vọng, thì cuối cùng cũng chỉ là vô vọng (x. Eph 2,12). Niềm hy vọng vững vàng, bất chấp mọi thất vọng chỉ có thể là Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương chúng ta và yêu thương “đến cùng” (x Ga 13:1; 19, 30). Chỉ tình yêu Ngài mới ban cho chúng ta khả năng kiên vững ngày qua ngày, mà không đánh mất đi nhiệt tình của niềm hy vọng trong một thế giới không hoàn thiện tự bản chất. Chỉ tình yêu của Thiên Chúa mới bảo đảm cho sự hiện hữu đích thực, là sự sống “viên mãn” mà ta vẫn trông đợi. Bởi vậy con đường chúng ta đi hôm nay, cho dù qua bao thung lũng âm u, thì vẫn là con đường hy vọng, một niềm hy vọng tuyệt đối vào Thiên Chúa.
2. Ba tiêu chí để sống niềm hy vọng
“Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm gọi họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài” (ĐHV 964). Để sống niềm hy vọng vững vàng vào Thiên Chúa, trong Thông điệp Spe Salvi, Đức Bênêđictô đưa ra ba tiêu chí: Cầu nguyện; dám dấn thân và chịu đau khổ; hướng đến cuộc phán xét.
- Cầu nguyện như trường học của niềm hy vọng. Con người đã được dựng nên cho Thiên Chúa, nhưng tâm hồn con người lại quá hẹp hòi, nhỏ bé để đón nhận Ngài. Vì thế, cầu nguyện là tập mở rộng lòng mình ra với Thiên Chúa, và nhờ đó cũng mở rộng lòng ra với đồng loại. Nhờ cầu nguyện, ta biết thanh luyện ước muốn và hy vọng của mình. Cầu nguyện làm thức tỉnh lương tâm ta, cho ta khả năng xóa mờ cái “tôi” ảo tưởng của mình, để có thể lắng nghe chính Chúa và vững tâm hy vọng vào Ngài.
- Đau khổ như những môi trường học hỏi hy vọng. Thánh Phêrô đã nói với chúng ta: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4, 13). Nhờ kết hợp với Đức Kitô trong đau khổ mà ta được tinh luyện để sống đức tin trưởng thành hơn, góp phần làm cho thế giới này được tươi sáng và nhân bản hơn. Đau khổ vì lòng yêu mến đem lại cho ta niềm hy vọng mạnh mẽ hơn.
- Hướng đến cuộc phán xét như phương cách sống hy vọng. Từ thời xa xưa, viễn ảnh cuộc phán xét đã ảnh hưởng đến các Kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày. Họ coi cuộc phán xét như:
. Là tiêu chuẩn để tổ chức lại đời sống hiện tại của mình.
. Là một sự mời gọi hoán cải tâm hồn.
. Là niềm hy vọng vào sự công bình của Thiên Chúa.
Như vậy hy vọng vào Thiên Chúa là cách sống rất hiện sinh và cụ thể để làm đẹp cuộc sống của mỗi người hôm nay.
3. Mẹ Maria - Ngôi sao hy vọng
Bằng một thánh thi được viết vào khoảng Thế kỷ IX, Giáo Hội đã chào mừng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa như “Ngôi sao biển”: Ave maris stella.
Cuộc đời như hành trình trên đại dương lịch sử, lắm khi u tối và đầy bão táp, cần có những ngôi sao đích thực dẫn đường cho cuộc đời chúng ta. Chắc hẳn Đức Kitô là ánh sáng chính danh, là mặt trời chính ngọ bừng sáng trên mọi bóng tối của lịch sử. Nhưng để đi tới Ngài, chúng ta cần đến những điểm sáng gần gũi, là những người đang phản ảnh ánh sáng của Đức Kitô, để giúp ta dễ định hướng cho lộ trình của mình. Vậy ai có thể hơn Đức Maria, là ngôi sao hy vọng cho chúng ta.
Đức Maria là con người tuyệt vời, vì đã sống niềm hy vọng bằng hai tiếng “xin vâng”. Mẹ là người diễm phúc vì đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ điều phi thường là được cưu mang và sinh hạ Đấng là niềm hy vọng của Israel và của cả nhân loại.
Đẹp thay hình ảnh một Từ Mẫu đã vững vàng đứng dưới chân thập giá của con mình, và đã trở thành Mẹ của những kẻ tin. Lưỡi gươm đâm thâu qua trái tim Chúa Giêsu cũng là đâm thâu qua lòng Mẹ để niềm hy vọng cứu độ lan tràn tới mọi tâm hồn. Niềm hy vọng đó đã đạt tới đích điểm là niềm vui Phục Sinh của ngày thứ nhất trong tuần, để Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria quả thật là Ngôi sao hy vọng, là Mẹ của hy vọng, là mẫu mực của chúng ta, những người gieo hy vọng vào đời sống nhân loại.
III. SỐNG MÙA VỌNG, CHÚNG TA TRỞ NÊN NHỮNG NGƯỜI GIEO HY VỌNG
Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận đã xác định như sau: “Người Kitô hữu là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là một hy vọng giữa một nhân loại thất vọng”. (954). Chắc chắn câu này ngài họa lại lời Chúa Giêsu: “Chính anh em là muối cho đời” (Mt 5, 13). “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).
Phần thứ 3 của câu đó có lẽ cũng nói lên giáo huấn của thánh Phaolô. “Giữa một thế hệ gian tà và sa đọa, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 15). Bởi vậy, “Không thể quan niệm được một Kitô hữu mà không say mê đem niềm hy vọng ngập tràn thế giới.” (ĐHV 972).
Chị Chiara Lubich với kinh nghiệm nội tâm, cũng nói với chúng ta rằng: “Với hy vọng, các bạn sẽ luôn luôn hạnh phúc, và các bạn sẽ làm cho mọi người hạnh phúc”. Nên nhớ đây là kinh nghiệm sống niềm hy vọng và rắc gieo niềm hy vọng, chứ không phải chỉ là hiểu biết suông về niềm hy vọng. Chúng ta có thể hiểu biết rất nhiều khi nói về niềm hy vọng, nhưng hiểu biết đó sẽ trở thành hư không, nếu nó không được kinh nghiệm, cảm nghiệm, chứng nghiệm, để trở thành sức sống cho tâm hồn mình và cho mọi người chung quanh.
Gieo hy vọng không chỉ là gieo tư tưởng hay ý thức cho người khác, mà chính yếu là gieo hạt mầm sự sống cho một tâm hồn, nên đòi hỏi hy sinh, quên mình. Câu chuyện ngắn sau đây của O Henry cho ta thấy được tâm tình cao thượng và hy sinh cao cả của người gieo niềm hy vọng:
Có một nữ bệnh nhân chỉ còn biết đếm ngày sống thoi thóp của mình bằng những chiếc lá rụng dần từ một cành cây nhìn thấy qua khung cửa sổ. Đến khi trên cành chỉ còn chiếc lá duy nhất, thì cô nói với người thân của mình rằng: “Nếu đêm nay, chiếc lá cuối cùng không còn nữa, em sẽ chết”. Niềm hy vọng của cô gái đang tắt dần, chỉ còn lại những giây phút tuyệt vọng.
Ở phòng trọ bên dưới có một họa sĩ tình cờ nghe được. Thế là nữa đêm, giữa trời tuyết lạnh, người họa sĩ bắc thang leo lên vẽ một chiếc lá vàng ở bức tường sát cành cây khô khi chiếc lá thật đã rụng xuống. Sáng hôm sau, người bệnh thức giấc, vội nhìn ra cành cây, thấy chiếc lá vàng vẫn còn đó. Thế là cô an tâm và bảo: “Em vẫn còn có thể sống thêm ngày nữa”.
Chiếc lá vàng được vẽ đã cứu mạng sống người con gái đang thoi thóp chờ chết. Không biết cô còn sống thêm được bao nhiêu ngày, nhưng cô có ngờ đâu mạng sống của cô đã được đánh đổi bằng mạng sống của người họa sĩ, vì anh ta đã bị lạnh cóng giữa trời đêm băng giá, và đã âm thầm từ giã cõi đời.
Kitô hữu không phải là người vẽ cho đời chiếc lá hy vọng sao? Còn hơn thế nữa, vì chúng ta là hình ảnh của Đức Kitô, Đấng đã chết đi để đem lại niềm hy vọng sự sống cho con người, không chỉ là sự sống kéo dài cách tạm bợ trong trần gian này, nhưng chính là sự sống phục sinh vinh hiển ngàn đời.
Người gieo hy vọng không thể mang tính cách nào khác ngoài tính cách của Đức Kitô, tính cách của con người dấn thân phục vụ và dám hy sinh chính mình vì tha nhân. Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta mới có thể chu toàn sứ vụ của mình là người gieo hy vọng. Đó là niềm hy vọng vượt mọi biên cương của thất vọng, vì là niềm hy vọng vào Thiên Chúa toàn năng, vào nguồn lực của Chúa Thánh Thần, vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại hiển vinh vì chúng ta và cho chúng ta, để nhờ chúng ta, niềm hy vọng của con người vào Thiên Chúa được lan tràn khắp nơi trên mọi nẻo đường đời.
Mẹ chẳng vướng tội truyền
Gioan Lê Quang Vinh
11:33 06/12/2010
Người bạn của tôi, rất tin tưởng vào Thiên Chúa nhưng dường như không mấy chú ý đến huấn quyền của Hội Thánh, có lần nói với tôi: “Tại sao lại phải tin Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội? Khi người ta có mẹ, thì dù người mẹ thế nào vẫn là mẹ”. Tôi im lặng không nói gì, vì khi con người đã không tin và không muốn hiểu, nhất là người trí thức, thì việc tranh luận sẽ vô ích.
Thật ra, tín điều Mẹ Vô Nhiễm cũng như các tín điều trong Hội Thánh, không phải là gánh nặng để ta phải từ chối hay kịch liệt phản đối. Chỉ nguyên việc suy ngắm mầu nhiệm này, chúng ta cũng đã thấy lòng tràn ngập an vui và hy vọng. Như vậy, các tín điều tự bản chất là hồng ân cho nhân loại.
Trong một xã hội khi mà mọi giá trị luân lý chao đảo và khi người ta muốn tự do tung hoành trong cơn lốc của mọi thứ dễ dãi phù phiếm, người ta dễ dị ứng với những giá trị vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao tôn giáo bị từ chối.
Thời học sinh, chúng tôi được học giáo lý qua cuốn “Giải Quyết Vấn Đề Nhân Sinh”. Trong ấy có một câu rất hay mà tôi không nhớ của tác giả nào, đại ý rằng đa phần người ta mất đức tin chỉ vì đời sống luân lý buông thả. Và như thế, chúng ta hiểu rằng nếu chúng ta tin và giữ những tín điều, những ràng buộc “nhẹ nhàng và êm ái” (cf. 11,30), thì Hội Thánh thật là gia đình êm ấm và bình an nhất. Trong gia đình ấy, chúng ta có người Mẹ tuyệt hảo.
Tôi đồng ý với anh bạn tôi ở chỗ khi ta có mẹ thì đã là hạnh phúc. Dù mẹ đẹp hay xấu, tốt hay không, thì mẹ vẫn là mẹ ta, và ta đã hạnh phúc. Nhưng anh ấy đã quên rằng nếu mẹ đẹp, mẹ tốt, mẹ nhân từ và mẹ tuyệt vời, thì ta bình an hơn, tin tưởng hơn, yêu mến hơn và tự hào hơn nhiều. Mẹ Vô Nhiễm chính là niềm hy vọng cho thế giới đang lung lay, niềm cậy trông cho thế giới nhiều hư hỏng, niềm khích lệ lớn lao cho những tâm hồn đang khó khăn vượt gian khó trên đời để tìm về với Đấng Tạo Thành.
Viết bài này, tôi không có ý định dùng Lời Thánh Kinh để chứng minh Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, vì chắc chắn tôi sẽ không làm cho đầy đủ được. Điều ấy các nhà thần học đã làm và đã thành công, cho nên Giáo Hội mới long trọng công bố tín điều. Thế nhưng, Lời Thiên Chúa phán cùng con rắn trong Vườn Địa Đàng ngày trước không thể nào biến khỏi tâm trí khi tôi suy nghĩ về Mẹ: “Người Phụ Nữ ấy sẽ đạp nát đầu ngươi”. Một lời tuyên hứa và cũng là lời tuyên phạt. Tuyên hứa cho ơn cứu độ và tuyên phạt phường kiêu căng giả dối.
Ngày Mẹ hiện ra với thánh nữ Benadette ở hang đá xứ Lourdre năm 1858, Mẹ tự xưng “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”, minh chứng cho tín điều Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng công bố bốn năm trước đó (ngày 8 tháng 12 năm 1854). Nhưng giả sử không đọc Kinh Thánh, giả sử không nghe tuyên bố tín điều, thì có lẽ dân Chúa qua muôn thế hệ cũng sẽ kiên trung tin vững vàng Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, bởi vì Thánh Thần Thiên Chúa luôn là ánh sáng cho tâm trí con người trước những thực tại thần linh.
Trần Ngọc Mười Hai, trong tác phẩm “Chuyện Phiếm Đạo Đời II”, trích dẫn lời một thiền sư Phật giáo: “Đạt tới Thiên Chúa ngang qua Đức Thánh Thần của Ngài, bao giờ cũng an toàn hơn đi vào thần học”. Một nhà sư còn hiểu được điều ấy, tại sao? Chính là nhờ sự hoạt động không ngừng nghỉ của Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng đã dùng quyền năng để Ngôi Lời nhập thể.
Nhạc sĩ Hải Linh thật tài tình khi khiến “bao tâm hồn thao thức”, “dân con đất Việt thao thức” khi hoà ca Kính Mừng Nữ Vương, và tất cả đều xúc động khi bản hoà ca chợt trầm và êm dịu lại: “Mẹ chẳng vướng tội truyền. Bông huệ ngát hương thiêng” (Kính Mừng Nữ Vương). Chúng ta dám quả quyết rằng tâm tình thao thức ấy và nao nức ấy sẽ mãi mãi đi cùng con của Mẹ mỗi lần họ ngắm suy hồng ân Mẹ Vô Nhiễm.
Mừng kính Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là mừng những hồng ân Chúa ban cho Mẹ, và qua Mẹ, Chúa ban cho đoàn dân lữ hành trong sa mạc cuộc đời. Ngày xưa Maisen giương cao con rắn đồng để dân Israel lữ hành được cứu. Ngày nay nhờ Đấng Vô Nhiễm chấp nhận thụ thai, sinh hạ Con Thiên Chúa làm người và chấp nhận dâng chính Con mình mà đoàn dân mới được cứu độ.
Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, không thiếu những con người muốn hạ thấp uy quyền và sự cao sang của Mẹ, không thiếu những con người dù tin Chúa Giêsu vẫn muốn coi Mẹ là người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác. Và khủng khiếp hơn, có nhiều người chống lại Mẹ, xúc phạm đến Mẹ, đập phá tượng ảnh Mẹ…
Đối với Mẹ, những điều ấy chẳng làm cho vinh quang của Mẹ vơi đi. Nhưng đối với những kẻ “giơ chân đạp mũi nhọn”, phạm tội khi quân với Nữ Vương của cả trời và đất, thì những hành vi rồ dại và ngông cuồng ấy là sự từ chối rõ ràng những ơn huệ và phúc lộc cho chính họ.
Mẹ nhân từ, nhưng sự công thẳng của Thiên Chúa chắc chắn không bỏ qua những hành vi và thái độ của loài hèn kém mà muốn đội vương miện của thần linh. Trái lại, những người con dũng cảm chấp nhận đau khổ và hàm oan trên cõi trần này ngay trong ngày của Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ ra tay nâng đỡ và bênh vực. Có sự nâng đỡ và bênh vực nào tuyệt vời hơn là sự nâng đỡ và bênh vực của Mẹ Chúa Trời?
Lạy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con ca ngợi Mẹ và cùng Mẹ, chúng con ca ngợi và tạ ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Ngài. Xin Mẹ dạy chúng con luôn “làm theo những điều Ngài chỉ bảo” (Ga. 2,5). Và xin Mẹ cứu giúp những anh chị em chúng con đang đối diện với nghèo đói, bị bỏ rơi và gặp nhiều oan trái, đau khổ hôm nay.
Thật ra, tín điều Mẹ Vô Nhiễm cũng như các tín điều trong Hội Thánh, không phải là gánh nặng để ta phải từ chối hay kịch liệt phản đối. Chỉ nguyên việc suy ngắm mầu nhiệm này, chúng ta cũng đã thấy lòng tràn ngập an vui và hy vọng. Như vậy, các tín điều tự bản chất là hồng ân cho nhân loại.
Trong một xã hội khi mà mọi giá trị luân lý chao đảo và khi người ta muốn tự do tung hoành trong cơn lốc của mọi thứ dễ dãi phù phiếm, người ta dễ dị ứng với những giá trị vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao tôn giáo bị từ chối.
Thời học sinh, chúng tôi được học giáo lý qua cuốn “Giải Quyết Vấn Đề Nhân Sinh”. Trong ấy có một câu rất hay mà tôi không nhớ của tác giả nào, đại ý rằng đa phần người ta mất đức tin chỉ vì đời sống luân lý buông thả. Và như thế, chúng ta hiểu rằng nếu chúng ta tin và giữ những tín điều, những ràng buộc “nhẹ nhàng và êm ái” (cf. 11,30), thì Hội Thánh thật là gia đình êm ấm và bình an nhất. Trong gia đình ấy, chúng ta có người Mẹ tuyệt hảo.
Tôi đồng ý với anh bạn tôi ở chỗ khi ta có mẹ thì đã là hạnh phúc. Dù mẹ đẹp hay xấu, tốt hay không, thì mẹ vẫn là mẹ ta, và ta đã hạnh phúc. Nhưng anh ấy đã quên rằng nếu mẹ đẹp, mẹ tốt, mẹ nhân từ và mẹ tuyệt vời, thì ta bình an hơn, tin tưởng hơn, yêu mến hơn và tự hào hơn nhiều. Mẹ Vô Nhiễm chính là niềm hy vọng cho thế giới đang lung lay, niềm cậy trông cho thế giới nhiều hư hỏng, niềm khích lệ lớn lao cho những tâm hồn đang khó khăn vượt gian khó trên đời để tìm về với Đấng Tạo Thành.
Viết bài này, tôi không có ý định dùng Lời Thánh Kinh để chứng minh Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, vì chắc chắn tôi sẽ không làm cho đầy đủ được. Điều ấy các nhà thần học đã làm và đã thành công, cho nên Giáo Hội mới long trọng công bố tín điều. Thế nhưng, Lời Thiên Chúa phán cùng con rắn trong Vườn Địa Đàng ngày trước không thể nào biến khỏi tâm trí khi tôi suy nghĩ về Mẹ: “Người Phụ Nữ ấy sẽ đạp nát đầu ngươi”. Một lời tuyên hứa và cũng là lời tuyên phạt. Tuyên hứa cho ơn cứu độ và tuyên phạt phường kiêu căng giả dối.
Ngày Mẹ hiện ra với thánh nữ Benadette ở hang đá xứ Lourdre năm 1858, Mẹ tự xưng “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”, minh chứng cho tín điều Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng công bố bốn năm trước đó (ngày 8 tháng 12 năm 1854). Nhưng giả sử không đọc Kinh Thánh, giả sử không nghe tuyên bố tín điều, thì có lẽ dân Chúa qua muôn thế hệ cũng sẽ kiên trung tin vững vàng Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, bởi vì Thánh Thần Thiên Chúa luôn là ánh sáng cho tâm trí con người trước những thực tại thần linh.
Trần Ngọc Mười Hai, trong tác phẩm “Chuyện Phiếm Đạo Đời II”, trích dẫn lời một thiền sư Phật giáo: “Đạt tới Thiên Chúa ngang qua Đức Thánh Thần của Ngài, bao giờ cũng an toàn hơn đi vào thần học”. Một nhà sư còn hiểu được điều ấy, tại sao? Chính là nhờ sự hoạt động không ngừng nghỉ của Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng đã dùng quyền năng để Ngôi Lời nhập thể.
Nhạc sĩ Hải Linh thật tài tình khi khiến “bao tâm hồn thao thức”, “dân con đất Việt thao thức” khi hoà ca Kính Mừng Nữ Vương, và tất cả đều xúc động khi bản hoà ca chợt trầm và êm dịu lại: “Mẹ chẳng vướng tội truyền. Bông huệ ngát hương thiêng” (Kính Mừng Nữ Vương). Chúng ta dám quả quyết rằng tâm tình thao thức ấy và nao nức ấy sẽ mãi mãi đi cùng con của Mẹ mỗi lần họ ngắm suy hồng ân Mẹ Vô Nhiễm.
Mừng kính Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là mừng những hồng ân Chúa ban cho Mẹ, và qua Mẹ, Chúa ban cho đoàn dân lữ hành trong sa mạc cuộc đời. Ngày xưa Maisen giương cao con rắn đồng để dân Israel lữ hành được cứu. Ngày nay nhờ Đấng Vô Nhiễm chấp nhận thụ thai, sinh hạ Con Thiên Chúa làm người và chấp nhận dâng chính Con mình mà đoàn dân mới được cứu độ.
Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, không thiếu những con người muốn hạ thấp uy quyền và sự cao sang của Mẹ, không thiếu những con người dù tin Chúa Giêsu vẫn muốn coi Mẹ là người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác. Và khủng khiếp hơn, có nhiều người chống lại Mẹ, xúc phạm đến Mẹ, đập phá tượng ảnh Mẹ…
Đối với Mẹ, những điều ấy chẳng làm cho vinh quang của Mẹ vơi đi. Nhưng đối với những kẻ “giơ chân đạp mũi nhọn”, phạm tội khi quân với Nữ Vương của cả trời và đất, thì những hành vi rồ dại và ngông cuồng ấy là sự từ chối rõ ràng những ơn huệ và phúc lộc cho chính họ.
Mẹ nhân từ, nhưng sự công thẳng của Thiên Chúa chắc chắn không bỏ qua những hành vi và thái độ của loài hèn kém mà muốn đội vương miện của thần linh. Trái lại, những người con dũng cảm chấp nhận đau khổ và hàm oan trên cõi trần này ngay trong ngày của Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ ra tay nâng đỡ và bênh vực. Có sự nâng đỡ và bênh vực nào tuyệt vời hơn là sự nâng đỡ và bênh vực của Mẹ Chúa Trời?
Lạy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con ca ngợi Mẹ và cùng Mẹ, chúng con ca ngợi và tạ ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Ngài. Xin Mẹ dạy chúng con luôn “làm theo những điều Ngài chỉ bảo” (Ga. 2,5). Và xin Mẹ cứu giúp những anh chị em chúng con đang đối diện với nghèo đói, bị bỏ rơi và gặp nhiều oan trái, đau khổ hôm nay.
Đổ Ngay Rác Rưới Tấm Hồn
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
17:28 06/12/2010
Sống Tỉnh Thức # 6: Hãy Giải quyết Rác của Bạn
ĐỔ NGAY RÁC RƯỞI TÂM HỒN
(Cảm nghiệm Sống theo Tin Mừng Mat 3, 1-12)
---***---
Có những đêm không ngủ được, tôi nghe tiếng người phu quyét rác bên đường: rồn rã, đều đặn! Những chiếc xe rác chở chở hàng trăm tấn rác ra vùng ngoại ô để đổ.
Có nhiều thứ rác, nếu chưa đổ được thật là ghê sợ! Rác thức ăn thừa, rác rau, trái cây, rác đồ hộp, rác lòng gà, lòng heo, xương cá, rác túi nylon, có cả xác chuột chết nữa! Rác Văn phòng thì sạch sẽ hơn; nhưng rác nhà bếp mà để quên thì hôi thối ghê sợ!
Nếu nhà bạn lúc nào cũng đầy rác: rác trên bàn, rác phòng khách, phòng ngủ,…thì đó không còn là nhà nữa. Nó là một bãi rác.!
(Chắp cánh bay cao)
* Một phút hồi tâm: Trong khi bạn lo lắng đổ các loại Rác trên bao nhiêu, thì lại tỏ ra thờ ơ với những Rác rưởi tâm hồn bấy nhiêu! Nếu rác kia làm dơ bẩn môi trường, thì Rác rưởi tích trữ trong lòng và tâm trí con người còn ô uế hơn bội phần.(x. Mt 3,7-8)
Những thứ Rác ghen tức, nóng nẩy, nói hành. Rác trả thù, rác ích kỷ, tham lam! Có cả những thứ rác tư tưởng như: Rác giả hình. Rác tự phụ, khoe khoang…; nhưng đã là Rác thì bản chất là bẩn thỉu.
Kinh Thánh gọi Rác tâm hồn là “tội lỗi”. Xưng tội có nghiã là nhìn nhận tội lỗi theo đúng như cách Chúa nhìn về tội lỗi, gớm ghê nó và quyết định từ bỏ nó. Không nên sợ hãi khi đi xưng tội, vì Ngài đã biết tất cả rồi.! Hãy cảm tạ Chúa đã cho bạn còn sống tới giờ phút này để nhờ Chúa thanh tẩy tâm hồn. Chúa đang muốn góp sức với bạn để loại bỏ những rác rưởi làm bạn bị hôi thối hiện nay. Bạn có để lòng nghe thấy những người chung quanh than phiền, kêu trách không?Hay làm ngơ!!? (x. Isaia 40, 3)
Nếu bạn còn để Rác rưởi là tội lỗi làm ứ đọng, hôi thối môi trường trong gia đình và xã hội, thì hãy đổ nó đi ngay khi thời gian còn có thể. Vì Chúa kiên nhẫn chờ đợi bạn cũng có hạn.
* Lời Chúa cảnh cáo: Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (Mt 3, 10)
Phó tế: JBM. Định-Huyền Đồng Sưu Tầm * johndvn@yahoo.com
ĐỔ NGAY RÁC RƯỞI TÂM HỒN
(Cảm nghiệm Sống theo Tin Mừng Mat 3, 1-12)
---***---
Có những đêm không ngủ được, tôi nghe tiếng người phu quyét rác bên đường: rồn rã, đều đặn! Những chiếc xe rác chở chở hàng trăm tấn rác ra vùng ngoại ô để đổ.
Có nhiều thứ rác, nếu chưa đổ được thật là ghê sợ! Rác thức ăn thừa, rác rau, trái cây, rác đồ hộp, rác lòng gà, lòng heo, xương cá, rác túi nylon, có cả xác chuột chết nữa! Rác Văn phòng thì sạch sẽ hơn; nhưng rác nhà bếp mà để quên thì hôi thối ghê sợ!
Nếu nhà bạn lúc nào cũng đầy rác: rác trên bàn, rác phòng khách, phòng ngủ,…thì đó không còn là nhà nữa. Nó là một bãi rác.!
(Chắp cánh bay cao)
* Một phút hồi tâm: Trong khi bạn lo lắng đổ các loại Rác trên bao nhiêu, thì lại tỏ ra thờ ơ với những Rác rưởi tâm hồn bấy nhiêu! Nếu rác kia làm dơ bẩn môi trường, thì Rác rưởi tích trữ trong lòng và tâm trí con người còn ô uế hơn bội phần.(x. Mt 3,7-8)
Những thứ Rác ghen tức, nóng nẩy, nói hành. Rác trả thù, rác ích kỷ, tham lam! Có cả những thứ rác tư tưởng như: Rác giả hình. Rác tự phụ, khoe khoang…; nhưng đã là Rác thì bản chất là bẩn thỉu.
Kinh Thánh gọi Rác tâm hồn là “tội lỗi”. Xưng tội có nghiã là nhìn nhận tội lỗi theo đúng như cách Chúa nhìn về tội lỗi, gớm ghê nó và quyết định từ bỏ nó. Không nên sợ hãi khi đi xưng tội, vì Ngài đã biết tất cả rồi.! Hãy cảm tạ Chúa đã cho bạn còn sống tới giờ phút này để nhờ Chúa thanh tẩy tâm hồn. Chúa đang muốn góp sức với bạn để loại bỏ những rác rưởi làm bạn bị hôi thối hiện nay. Bạn có để lòng nghe thấy những người chung quanh than phiền, kêu trách không?Hay làm ngơ!!? (x. Isaia 40, 3)
Nếu bạn còn để Rác rưởi là tội lỗi làm ứ đọng, hôi thối môi trường trong gia đình và xã hội, thì hãy đổ nó đi ngay khi thời gian còn có thể. Vì Chúa kiên nhẫn chờ đợi bạn cũng có hạn.
* Lời Chúa cảnh cáo: Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (Mt 3, 10)
Phó tế: JBM. Định-Huyền Đồng Sưu Tầm * johndvn@yahoo.com
Tặng phẩm hoàn hảo
Trầm Thiên Thu
20:32 06/12/2010
Chính tình yêu là một tặng phẩm (Jean Anouilh)
Hai tuần trước lễ giáng sinh, tôi rời khu ngoại ô với một ít bạn bè để rảo quanh các đường phố Los Angeles. Tôi vừa đi vừa hát nhỏ: “Chuông leng keng, chuông leng keng, chuông giáo đường âm vang…”. Nhưng tôi không thấy những đứa trẻ cười và người qua lại, nụ cười ẩn giấu sau nụ cười”.
Tôi gặp hàng trăm người vô gia cư, những con nghiện tụ tập chỗ này chỗ nọ. Họ xách theo những chiếc bịch ni-lông chứa các vật dụng thường, trong khi những dãy nhà, những người mua sắm tranh thủ về nhà từ các cửa tiệm.
Không có gì mang vẻ ngày nghỉ. Tôi mong chờ Chúa can thiệp và nhắc nhớ tôi về mùa lễ hội.
Qua ngày thứ hai của hành trình, người hướng dẫn mời chúng tôi nhìn ngắm khu Metro Kidz. Chúng tôi theo chiếc xe đẩy phát bữa trưa, được vẽ những hình nghệ thuật thánh graffiti, khi xe vòng quanh khu nhà nghèo. Âm nhạc âm vang từ những chiếc loa và kéo theo hàng trăm trẻ em tới một hẻm cụt tĩnh lặng. Đủ lứa tuổi, từ chập chững tới thiếu niên, chúng ùa theo. Mọi người cùng phát quà cho chúng.
– Em nào muốn chơi trò chơi?
– Con, con. – Một đứa trẻ nói với giọng tự tin.
– Để con, để con. – Cả đám đồng thanh hô theo.
Niềm vui lan tỏa và tôi mỉm cười.
– Được rồi. Chúng ta sẽ chơi và có thưởng. Tôi muốn kể chuyện Giáng sinh. Bao nhiêu người đã từng nghe chuyện về Hài nhi Giêsu?
Hầu như mọi cánh tay đều giơ lên. Tôi ngồi bắt chéo chân giữa những đứa trẻ nói cười khúc khích, có một đứa bé bò vào lòng tôi và ngủ ngon lành. Có gì đó chạm vào cạnh sườn tôi. Quay lại tôi thấy một bé gái xinh xắn có mái tóc xoăn. Bím tóc có chiếc kẹp hình cầu vồng đa sắc. Đôi mắt sáng và to. Tôi hỏi:
– Chào con. Tôi là Sandy. Con tên gì?
Nó có vẻ bẽn lẽn, mắt nhìn xuống đất, nói nhỏ:
– Con tên Erika.
– Con bao nhiêu tuổi? – Vừa hỏi tôi vừa đặt tay lên vai nó.
Erika vừa cười vừa nói:
– Con 5 tuổi.
– Con muốn chơi hả?
Nó nắm tay tôi, lắc đầu và nói:
– Không.
– Được rồi. Chúng ta ngồi xem nha.
Phần thưởng là đồ ăn, đồ chơi và sách được trao cho những em dự thi. Người thắng nhận phần thưởng và giơ cao lên cho mọi người thấy.
Chúng nói với nhau:
– Xem bạn có gì nè!
Cuối cùng, đến lúc nghe truyện Giáng sinh và học những câu kinh thánh mới.
– Nghe đây! Chúng ta có vài phần thưởng nữa. Lắng nghe cho kỹ và trả lời nha các con!
Ngồi giữa những đứa trẻ nghèo ở đường phố Los Angeles, Tôi rất vui và hạnh phúc. Tôi nghe truyện về hai cha mẹ phải ở trong chuồng bò vì không còn quán trọ cho họ. Tôi cảm thấy đứa bé ngủ trong lòng tôi như đứa trẻ được bọc trong khăn và bú mẹ.
Erika lắng nghe câu chuyện đêm vọng Giáng sinh và nhích tới một chút. Nó chăm chú nhìn và kiên nhẫn chờ phần thi.
– Hôm nay là câu kinh thánh trong thư thánh Giacôbê 1:17. Tôi sẽ đọc và các con lặp lại nha. Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha.
– Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha. – Các em đồng thanh lặp lại.
– Cảm ơn con đã lắng nghe. Con được nhận phần thưởng.
Erika giơ cao món quà gói giấy đỏ. Tôi chú ý mặt nó ngời sáng và miệng cười tươi. Các em khác mở quà của mình ra xem, nhưng Erika không mở quà. Nó nhìn đứa bé ngủ trong lòng tôi, rồi nó nói nhỏ vào tai tôi:
– Hôm nay con có quà Giáng sinh cho em con rồi.
Không biết đó là món quà gì, nó trao quà cho em nó. Tôi cảm động và rơi nước mắt. Tấm lòng của Erika như Chúa Giêsu vậy. Mới 5 tuổi nhưng nó biết yêu thương là món quà hoàn hảo, và tặng phẩm tốt nhất là biết yêu thương người khác.
(Chuyển ngữ từ Chicken Soup for the Soul)
Hai tuần trước lễ giáng sinh, tôi rời khu ngoại ô với một ít bạn bè để rảo quanh các đường phố Los Angeles. Tôi vừa đi vừa hát nhỏ: “Chuông leng keng, chuông leng keng, chuông giáo đường âm vang…”. Nhưng tôi không thấy những đứa trẻ cười và người qua lại, nụ cười ẩn giấu sau nụ cười”.
Tôi gặp hàng trăm người vô gia cư, những con nghiện tụ tập chỗ này chỗ nọ. Họ xách theo những chiếc bịch ni-lông chứa các vật dụng thường, trong khi những dãy nhà, những người mua sắm tranh thủ về nhà từ các cửa tiệm.
Không có gì mang vẻ ngày nghỉ. Tôi mong chờ Chúa can thiệp và nhắc nhớ tôi về mùa lễ hội.
Qua ngày thứ hai của hành trình, người hướng dẫn mời chúng tôi nhìn ngắm khu Metro Kidz. Chúng tôi theo chiếc xe đẩy phát bữa trưa, được vẽ những hình nghệ thuật thánh graffiti, khi xe vòng quanh khu nhà nghèo. Âm nhạc âm vang từ những chiếc loa và kéo theo hàng trăm trẻ em tới một hẻm cụt tĩnh lặng. Đủ lứa tuổi, từ chập chững tới thiếu niên, chúng ùa theo. Mọi người cùng phát quà cho chúng.
– Em nào muốn chơi trò chơi?
– Con, con. – Một đứa trẻ nói với giọng tự tin.
– Để con, để con. – Cả đám đồng thanh hô theo.
Niềm vui lan tỏa và tôi mỉm cười.
– Được rồi. Chúng ta sẽ chơi và có thưởng. Tôi muốn kể chuyện Giáng sinh. Bao nhiêu người đã từng nghe chuyện về Hài nhi Giêsu?
Hầu như mọi cánh tay đều giơ lên. Tôi ngồi bắt chéo chân giữa những đứa trẻ nói cười khúc khích, có một đứa bé bò vào lòng tôi và ngủ ngon lành. Có gì đó chạm vào cạnh sườn tôi. Quay lại tôi thấy một bé gái xinh xắn có mái tóc xoăn. Bím tóc có chiếc kẹp hình cầu vồng đa sắc. Đôi mắt sáng và to. Tôi hỏi:
– Chào con. Tôi là Sandy. Con tên gì?
Nó có vẻ bẽn lẽn, mắt nhìn xuống đất, nói nhỏ:
– Con tên Erika.
– Con bao nhiêu tuổi? – Vừa hỏi tôi vừa đặt tay lên vai nó.
Erika vừa cười vừa nói:
– Con 5 tuổi.
– Con muốn chơi hả?
Nó nắm tay tôi, lắc đầu và nói:
– Không.
– Được rồi. Chúng ta ngồi xem nha.
Phần thưởng là đồ ăn, đồ chơi và sách được trao cho những em dự thi. Người thắng nhận phần thưởng và giơ cao lên cho mọi người thấy.
Chúng nói với nhau:
– Xem bạn có gì nè!
Cuối cùng, đến lúc nghe truyện Giáng sinh và học những câu kinh thánh mới.
– Nghe đây! Chúng ta có vài phần thưởng nữa. Lắng nghe cho kỹ và trả lời nha các con!
Ngồi giữa những đứa trẻ nghèo ở đường phố Los Angeles, Tôi rất vui và hạnh phúc. Tôi nghe truyện về hai cha mẹ phải ở trong chuồng bò vì không còn quán trọ cho họ. Tôi cảm thấy đứa bé ngủ trong lòng tôi như đứa trẻ được bọc trong khăn và bú mẹ.
Erika lắng nghe câu chuyện đêm vọng Giáng sinh và nhích tới một chút. Nó chăm chú nhìn và kiên nhẫn chờ phần thi.
– Hôm nay là câu kinh thánh trong thư thánh Giacôbê 1:17. Tôi sẽ đọc và các con lặp lại nha. Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha.
– Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha. – Các em đồng thanh lặp lại.
– Cảm ơn con đã lắng nghe. Con được nhận phần thưởng.
Erika giơ cao món quà gói giấy đỏ. Tôi chú ý mặt nó ngời sáng và miệng cười tươi. Các em khác mở quà của mình ra xem, nhưng Erika không mở quà. Nó nhìn đứa bé ngủ trong lòng tôi, rồi nó nói nhỏ vào tai tôi:
– Hôm nay con có quà Giáng sinh cho em con rồi.
Không biết đó là món quà gì, nó trao quà cho em nó. Tôi cảm động và rơi nước mắt. Tấm lòng của Erika như Chúa Giêsu vậy. Mới 5 tuổi nhưng nó biết yêu thương là món quà hoàn hảo, và tặng phẩm tốt nhất là biết yêu thương người khác.
(Chuyển ngữ từ Chicken Soup for the Soul)
Suy niệm Mt 3, 1-12
Tùng Linh
07:17 06/12/2010
Suy niệm Mt 3, 1-12
Đã là con người ai cũng mang trong mình những tham, sân, si. Đã là con người ai cũng có những yếu đuối, những lỗi lầm với Chúa, có những thiếu sót với chính mình cũng như với tha nhân.Thật vậy, thánh Gioan nói: “Ai bảo mình là người vô tội là kẻ nói dối”.
Thánh vịnh 50 xác nhận:
“Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi
Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai
…Con đắc tội với Ngài…dám làm điều dữ trước mắt Ngài”.
Thiên Chúa ban cho người lý trí để suy xét đúng sai, thật giả, điều lành điều dữ. Bản thân con người cũng có xu hướng làm lành lánh dữ. Nhưng thật trớ trêu, như thánh Phaolô nói, con người lại làm những điều mà họ không muốn làm. Con người là thế. Con người hay thay lòng đổi dạ. Người ta dò được đáy biển nhưng không dò được lòng con người!
Mùa Vọng là mùa Giáo hội mời gọi con cái mình sám hối, thay đổi cuộc đời để xứng đáng đón Chúa Giêsu đến với lòng mình, với gia đình mình. Sám hối là “sửa lối cho ngay thẳng” để Chúa đến. Con đường của ta đang có là con đường đầy những ổ gà, ổ vịt là những thói hư tật xấu, như tính ghen ghét, hận thù, đố kị, cục bộ… do con người đầy tham, sân, si tạo ra. Sám hối là làm lại cuộc đời, là khởi đầu lại, làm mới lại con tim, làm mới lại tư duy, hướng đến một chân trời mới. Sám hối là “tìm một con đường, tìm một lối đi” mới, là bỏ cách sống “lạc loài niềm tin sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai”.
Hối cải không phải ăn năn một lần là xong, mà ta phải sám hối cả một đời. Thật vậy, bao nhiêu Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi trong đời ta, bao nhiêu cuộc tĩnh tâm đã qua đi, ta như thấy mình vẫn chứng nào tật đấy, ta vẫn y nguyên như cũ. Ta đã quá quen với con đường gồ ghề khúc khuỷu nên bây giờ ngại nghĩ tới con đường phẳng phiu. Nhiều khi ta có thái độ mang tính định mệnh khi ta nghĩ: “Tôi có tĩnh tâm, có xưng tội cũng vô ích vì tôi tĩnh tâm nhiều rồi mà chẳng thấy thay đổi gì cả.” Đôi khi ta có thái độ tự mãn khi ta nghĩ rằng mình sống như thế là tốt hơn khối người rồi, cần gì phải tĩnh tâm, phải xưng tội. Một khi ta không khiêm nhường nhìn nhận mình yếu đuối tội lỗi, ta không thể chừa tội, không thể bước vào một quan hệ mật thiết với Chúa. Bác sĩ không thể nào chữa khỏi bệnh nếu như bệnh nhân cứ khăng khăng nói mình không có bệnh. Để có thể đón nhận Nước Trời Chúa muốn ta phải thay đổi đời sống cũ và Chúa ban cho ta khả năng thay đổi. Sám hối chỉ xảy ra khi tôi sống khác ngày hôm qua, khi tôi buông bỏ tất cả như trẻ thơ để Chúa làm chủ cuộc đời mình, khi tôi biết được rằng dù tôi thế nào Chúa vẫn yêu thương tôi. Sám hối là khi quan hệ của tôi với anh em tôi khác đi, không còn ghen ghét, hận thù, đố kị, cục bộ. Đối với sức riêng của tôi, tôi không thể nào thay đổi được, nhưng với ơn Chúa, tôi hoàn toàn có thể.
“Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” Con người có tội nhưng hay chối tội, hay chạy tội. Con người học càng cao càng chối tội một cách tinh vi. Tuy nhiên, dù có chối tội thế nào đi nữa, người chối tội vẫn chịu những hậu quả của tội lỗi, như mất đi sự bình an, bị dằn vặt lương tâm… Người ta kinh nghiệm rằng khi phạm tội, dường như Chúa rút khả năng của mình đi: thiếu tự tin khi rao giảng, dạy dỗ sẽ ngượng ngùng và trước sau người ta cũng phát hiện ra điểm yếu nào đó xuất phát từ tội mà ra.
Lời của ông Gioan Tiền Hô trong đoạn Tin Mừng này cho ta thấy việc sám hối là khẩn thiết đối với mỗi người chúng ta để đón nhận Nước Trời. Chúa hiểu chúng ta yếu đuối. Chúa hiểu chúng ta là con người chứ không phải là thần thánh. Chúa quyền năng, Người có thể làm chúng ta thay đổi trong giây lát, nhưng Chúa muốn chúng ta nhận lỗi, chúng ta cộng tác với Người trong việc biến đổi con người chúng ta.
Đã là con người ai cũng mang trong mình những tham, sân, si. Đã là con người ai cũng có những yếu đuối, những lỗi lầm với Chúa, có những thiếu sót với chính mình cũng như với tha nhân.Thật vậy, thánh Gioan nói: “Ai bảo mình là người vô tội là kẻ nói dối”.
Thánh vịnh 50 xác nhận:
“Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi
Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai
…Con đắc tội với Ngài…dám làm điều dữ trước mắt Ngài”.
Thiên Chúa ban cho người lý trí để suy xét đúng sai, thật giả, điều lành điều dữ. Bản thân con người cũng có xu hướng làm lành lánh dữ. Nhưng thật trớ trêu, như thánh Phaolô nói, con người lại làm những điều mà họ không muốn làm. Con người là thế. Con người hay thay lòng đổi dạ. Người ta dò được đáy biển nhưng không dò được lòng con người!
Mùa Vọng là mùa Giáo hội mời gọi con cái mình sám hối, thay đổi cuộc đời để xứng đáng đón Chúa Giêsu đến với lòng mình, với gia đình mình. Sám hối là “sửa lối cho ngay thẳng” để Chúa đến. Con đường của ta đang có là con đường đầy những ổ gà, ổ vịt là những thói hư tật xấu, như tính ghen ghét, hận thù, đố kị, cục bộ… do con người đầy tham, sân, si tạo ra. Sám hối là làm lại cuộc đời, là khởi đầu lại, làm mới lại con tim, làm mới lại tư duy, hướng đến một chân trời mới. Sám hối là “tìm một con đường, tìm một lối đi” mới, là bỏ cách sống “lạc loài niềm tin sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai”.
Hối cải không phải ăn năn một lần là xong, mà ta phải sám hối cả một đời. Thật vậy, bao nhiêu Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi trong đời ta, bao nhiêu cuộc tĩnh tâm đã qua đi, ta như thấy mình vẫn chứng nào tật đấy, ta vẫn y nguyên như cũ. Ta đã quá quen với con đường gồ ghề khúc khuỷu nên bây giờ ngại nghĩ tới con đường phẳng phiu. Nhiều khi ta có thái độ mang tính định mệnh khi ta nghĩ: “Tôi có tĩnh tâm, có xưng tội cũng vô ích vì tôi tĩnh tâm nhiều rồi mà chẳng thấy thay đổi gì cả.” Đôi khi ta có thái độ tự mãn khi ta nghĩ rằng mình sống như thế là tốt hơn khối người rồi, cần gì phải tĩnh tâm, phải xưng tội. Một khi ta không khiêm nhường nhìn nhận mình yếu đuối tội lỗi, ta không thể chừa tội, không thể bước vào một quan hệ mật thiết với Chúa. Bác sĩ không thể nào chữa khỏi bệnh nếu như bệnh nhân cứ khăng khăng nói mình không có bệnh. Để có thể đón nhận Nước Trời Chúa muốn ta phải thay đổi đời sống cũ và Chúa ban cho ta khả năng thay đổi. Sám hối chỉ xảy ra khi tôi sống khác ngày hôm qua, khi tôi buông bỏ tất cả như trẻ thơ để Chúa làm chủ cuộc đời mình, khi tôi biết được rằng dù tôi thế nào Chúa vẫn yêu thương tôi. Sám hối là khi quan hệ của tôi với anh em tôi khác đi, không còn ghen ghét, hận thù, đố kị, cục bộ. Đối với sức riêng của tôi, tôi không thể nào thay đổi được, nhưng với ơn Chúa, tôi hoàn toàn có thể.
“Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” Con người có tội nhưng hay chối tội, hay chạy tội. Con người học càng cao càng chối tội một cách tinh vi. Tuy nhiên, dù có chối tội thế nào đi nữa, người chối tội vẫn chịu những hậu quả của tội lỗi, như mất đi sự bình an, bị dằn vặt lương tâm… Người ta kinh nghiệm rằng khi phạm tội, dường như Chúa rút khả năng của mình đi: thiếu tự tin khi rao giảng, dạy dỗ sẽ ngượng ngùng và trước sau người ta cũng phát hiện ra điểm yếu nào đó xuất phát từ tội mà ra.
Lời của ông Gioan Tiền Hô trong đoạn Tin Mừng này cho ta thấy việc sám hối là khẩn thiết đối với mỗi người chúng ta để đón nhận Nước Trời. Chúa hiểu chúng ta yếu đuối. Chúa hiểu chúng ta là con người chứ không phải là thần thánh. Chúa quyền năng, Người có thể làm chúng ta thay đổi trong giây lát, nhưng Chúa muốn chúng ta nhận lỗi, chúng ta cộng tác với Người trong việc biến đổi con người chúng ta.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:38 06/12/2010
BÀN TIỆC
Chỗ ngồi và chiếu, thì đều do tre nứa mà làm ra, là dụng cụ dùng để ngồi, người thời xưa khi ăn uống hay yến tiệc thì không dùng bàn ghế, mà là dùng vật liệu thô đan thành một chiếc chiếu trải lên đất, sau đó trải lên một chiếc chiếu nhỏ hơn đúng quy cách (do vật liệu sợi nhỏ).
Khi ăn thì dọn ngay trên chiếc chiếu, thức uống thì đặt trước trên chiếu hoặc sau chiếu.
Sau này người ta mới dùng bàn ghế, khi ngồi ăn cơm uống nước thì người ta cũng đem thức ăn từ dưới đất lên trên bàn. Cho đến hôm nay, mặc dù hình thức yến tiệc có thay đổi, nhưng yến tiệc vẫn được người ta gọi là “chiếu席”, chỗ ngồi vẫn được gọi là “chiếu vị席位”, ý nghĩa của chữ yến tiệc và tiệc rượu cũng là giống nhau mà thôi.
(Chu quan, Xuân quan)
Suy tư:
Từ tấm chiếu đơn sơ với những thức ăn cao lương mỹ vị bày dọn trên ấy, cho đến hôm nay văn minh khoa học người ta không còn dọn trên chiếu dưới đất nữa, mà dọn trên bàn, mà bàn thì có nhiều kiểu dáng, có cái bằng gỗ quý, có cái bằng nhựa lát-tít, lại có những cái bàn ăn được mạ vàng mạ bạc rất đẹp và quý...
Bàn thờ của người Ki-tô hữu khi cử hành thánh lễ chính là Bàn Tiệc Thánh, bởi vì thức ăn thức uống trên bàn thờ này không phải là thịt bò thịt heo hay các thứ thịt khác, cũng không phải là rượu đế Gò Công hay rượu cao lương, hoặc bia Saigon. Nhưng thức ăn thức uống trên bàn thờ chính là Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã lấy thịt máu mình để nuôi dưỡng các linh hồn của những kẻ tin vào Ngài.
Bàn thờ còn được tượng trưng Chúa Giê-su Ki-tô, cho nên mỗi lần linh mục dâng thánh lễ, việc trước tiên mà ngài phải làm là hôn bàn thờ, hoặc cúi mình sâu chào bái bàn thờ, rồi sau đó mới bắt đầu thánh lễ.
Bàn thờ còn là nơi mỗi người Ki-tô hữu đến để chia sẻ Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su Ki-tô, là bí tích hiệp nhất họ lại với nhau nên một chung quanh bàn thờ -Chúa Giê-su- đó chính là nguồn ân sủng và thần lực giúp họ sống tinh thần Phúc Âm và phục vụ tha nhân trong cuộc sống hằng ngày.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
![]() |
| N2T |
Chỗ ngồi và chiếu, thì đều do tre nứa mà làm ra, là dụng cụ dùng để ngồi, người thời xưa khi ăn uống hay yến tiệc thì không dùng bàn ghế, mà là dùng vật liệu thô đan thành một chiếc chiếu trải lên đất, sau đó trải lên một chiếc chiếu nhỏ hơn đúng quy cách (do vật liệu sợi nhỏ).
Khi ăn thì dọn ngay trên chiếc chiếu, thức uống thì đặt trước trên chiếu hoặc sau chiếu.
Sau này người ta mới dùng bàn ghế, khi ngồi ăn cơm uống nước thì người ta cũng đem thức ăn từ dưới đất lên trên bàn. Cho đến hôm nay, mặc dù hình thức yến tiệc có thay đổi, nhưng yến tiệc vẫn được người ta gọi là “chiếu席”, chỗ ngồi vẫn được gọi là “chiếu vị席位”, ý nghĩa của chữ yến tiệc và tiệc rượu cũng là giống nhau mà thôi.
(Chu quan, Xuân quan)
Suy tư:
Từ tấm chiếu đơn sơ với những thức ăn cao lương mỹ vị bày dọn trên ấy, cho đến hôm nay văn minh khoa học người ta không còn dọn trên chiếu dưới đất nữa, mà dọn trên bàn, mà bàn thì có nhiều kiểu dáng, có cái bằng gỗ quý, có cái bằng nhựa lát-tít, lại có những cái bàn ăn được mạ vàng mạ bạc rất đẹp và quý...
Bàn thờ của người Ki-tô hữu khi cử hành thánh lễ chính là Bàn Tiệc Thánh, bởi vì thức ăn thức uống trên bàn thờ này không phải là thịt bò thịt heo hay các thứ thịt khác, cũng không phải là rượu đế Gò Công hay rượu cao lương, hoặc bia Saigon. Nhưng thức ăn thức uống trên bàn thờ chính là Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã lấy thịt máu mình để nuôi dưỡng các linh hồn của những kẻ tin vào Ngài.
Bàn thờ còn được tượng trưng Chúa Giê-su Ki-tô, cho nên mỗi lần linh mục dâng thánh lễ, việc trước tiên mà ngài phải làm là hôn bàn thờ, hoặc cúi mình sâu chào bái bàn thờ, rồi sau đó mới bắt đầu thánh lễ.
Bàn thờ còn là nơi mỗi người Ki-tô hữu đến để chia sẻ Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su Ki-tô, là bí tích hiệp nhất họ lại với nhau nên một chung quanh bàn thờ -Chúa Giê-su- đó chính là nguồn ân sủng và thần lực giúp họ sống tinh thần Phúc Âm và phục vụ tha nhân trong cuộc sống hằng ngày.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
20:39 06/12/2010
![]() |
| N2T |
13. Nếu chúng ta vì để làm vui lòng người khác, thì không phải là tôi tớ trung thành của Chúa Giê-su Ki-tô.
(Thánh John Berchmans)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các quốc gia Hồi Giáo cố gắng thúc đẩy cho có quyết định hoàn vũ về việc chống phạm thượng
Bùi Hữu Thư
08:35 06/12/2010
Madrid, Tây Ban Nha, ngày 3, tháng 12, 2010 (CNA).- Tổ chức Hiệp Hội Hồi Giáo đã bảo trợ bản nháp của một quyết nghị tại Liên Hiệp Quốc lên án việc “xúc phạm đến tôn giáo” và thúc đẩy việc áp dụng một đạo luật hoàn vũ “chống phạm thượng.”
Theo đài ABC của Tây Ban Nha: bản nháp quyết nghị này được Pakistan trình bầy trên danh nghĩa của Hiệp Hội Hồi Giáo, đang chiếm đa số các ghế trong Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.
Tổ chức Hồi giáo hy vọng đạt được việc thông qua quyết nghị này tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, quyết nghị này đã gặp phải rất nhiều sự chống đối, nhất là vì quyết nghị này lên án những phê bình của giới truyền thông về nhóm Hồi giáo quá khích.
Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu đã lưu ý rằng một quyết định như vậy là một sự tấn công đối với quyền tự do phát biểu ý kiến và có thể đưa dẫn tới những sự đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số mạnh mẽ hơn. Các chuyên gia nói “việc phạm thượng” chỉ có thể bị luật pháp trừng trị khi có liên quan đến các cá nhận thay vì các quan điểm hay cảm xúc.
Theo đài ABC Tây Ban Nha, nhiều quốc gia Hồi giáo có một hệ thống pháp luật dựa trên bộ luật Sharia (Luật Hồi Giáo) và đã thiết lập các đạo luật chống phạm thượng, nhưng trên phương diện thực hành chỉ lên án các việc xúc phạm đến tiên tri Mohammed, nhưng không áp dụng cho việc chống đối các tôn giáo khác.
Theo đài ABC của Tây Ban Nha: bản nháp quyết nghị này được Pakistan trình bầy trên danh nghĩa của Hiệp Hội Hồi Giáo, đang chiếm đa số các ghế trong Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.
Tổ chức Hồi giáo hy vọng đạt được việc thông qua quyết nghị này tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, quyết nghị này đã gặp phải rất nhiều sự chống đối, nhất là vì quyết nghị này lên án những phê bình của giới truyền thông về nhóm Hồi giáo quá khích.
Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu đã lưu ý rằng một quyết định như vậy là một sự tấn công đối với quyền tự do phát biểu ý kiến và có thể đưa dẫn tới những sự đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số mạnh mẽ hơn. Các chuyên gia nói “việc phạm thượng” chỉ có thể bị luật pháp trừng trị khi có liên quan đến các cá nhận thay vì các quan điểm hay cảm xúc.
Theo đài ABC Tây Ban Nha, nhiều quốc gia Hồi giáo có một hệ thống pháp luật dựa trên bộ luật Sharia (Luật Hồi Giáo) và đã thiết lập các đạo luật chống phạm thượng, nhưng trên phương diện thực hành chỉ lên án các việc xúc phạm đến tiên tri Mohammed, nhưng không áp dụng cho việc chống đối các tôn giáo khác.
Trung Quốc: một chiến dịch cưỡng ép mới dành cho giám mục.
Tiền Hô
11:18 06/12/2010
UCANews, ngày 6 Tháng Mười Hai 2010 - Một số giáo sĩ tại tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc) báo cáo rằng, chính quyền đang ép buộc giáo sĩ tham gia vào Đại hội Đại biểu Công giáo do chính phủ tổ chức, sẽ được khai mạc ở Bắc Kinh vào ngày mai – 7 Tháng Mười Hai.
Một số nguồn tin từ các giáo phận khác nhau nằm ở phía bắc tỉnh này cho UCANews biết, các vị giám mục và linh mục của họ đã bị quan chức chính phủ bắt đi tham dự đại hội này hoặc đang phải đối mặt với áp lực phải làm như vậy.
Giáo phận Thương Châu (Hiến Huyện) đã đưa ra thông báo vào ngày 5 Tháng Mười Hai, yêu cầu Giám mục Giuse Li Liangui của họ phải liên hệ về giáo phận và quay về ngay lập tức vì có "những vấn đề bận rộn và khẩn cấp".
Các nguồn tin cho biết, quan chức chính phủ đang lùng sục Giám mục Li, có lẽ bởi vì Đại hội này. Họ đe dọa giáo phận phải tìm cho bằng được ngài hoặc là họ phát lệnh “truy nã” trên toàn quốc.
Đức giám mục Li đã không thấy xuất hiện và không ai biết ngài hiện đang ở đâu kể từ khi chính quyền “thả” ngài trở về từ vụ tấn phong giám mục bất hợp thức tại Thừa Đức hôm 20 Tháng Mười Một. Các nguồn tin cho rằng, Đức giám mục Li rất kỷ cương nghiêm khắc, có thể ngài cảm thấy khó xử khi đối diện với các linh mục và tín hữu của mình sau khi ngài tham gia vụ tấn phong này.
Chiều nay – 6 Tháng Mười Hai, tại giáo phận Hành Thủy lân cận, các linh mục đã tranh luận với quan chức chính quyền, những người này đã đến tòa giám mục để bắt Đức giám mục Feng Xinmao của họ đến Bắc Kinh.
Các linh mục và các nữ tu thì đọc kinh Mân Côi ngay trong tòa nhà, nơi mà quan chức chính quyền và xe cộ đang vây quanh. Khi công an và quan chức chính quyền cố gắng đột nhập vào tòa giám mục, họ có mâu thuẫn xô xát với các nữ tu và giáo dân khi các chị muốn bảo vệ tòa nhà.
.
"Tôi cảm thông với Đức giám mục và hiểu sự bất lực của ngài. Thực sự có quá nhiều đau khổ dành cho ngài”, một nguồn tin cho biết. UCANews không thể tiếp cận được Đức giám mục phó của Giáo phận Bảo Bình - Phanxicô An Shuxin, một giám mục từng “thầm lặng”. Điện thoại di động của ngài đã tắt.
Tại giáo phận Triệu Huyện, các linh mục đã rời khỏi Nhà thờ chính tòa Bianchun để tránh rắc rối sau khi quan chức chính quyền yêu cầu Cha quản lí giáo phận - Simon Gao Baojin – làm đại diện tại đại hội này.
Một nguồn tin thân cận tại Vatican nói với UCANews là Tòa Thánh cảnh báo các giám mục đang trong sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng không được tham dự cùng với các giám mục bất hợp thức.
Vào đêm trước diễn ra đại hội này, một nơi khác của tỉnh Hà Bắc cũng lâm vào thương cảnh.
Vài hôm trước, các quan chức đã đe dọa Đức giám mục “ngầm” Juliô Jia Zhiguo của Giáo phận Chính Định rằng, họ sẽ bắt đi 80 trẻ mồ côi sống trong địa phận của ngài và giải tán các cộng đoàn nữ tu chăm sóc cho các em. Các nguồn tin cho biết, hành vi đó là nhằm cách ly bản quyền trên giáo phận của Đức giám mục Jia, trừ khi ngài đồng ý làm việc một cách công khai theo quy định của chính phủ.
Tại Cảo Thành, các vị cao tuổi trong Trung tâm Bảo trợ Phúc Nguyên bị sốc khi thấy bức tường nhà mới được xây và phòng bảo vệ bị phá huỷ sau đêm 27 Tháng Mười Một. Một số người hàng xóm nói, rằng họ nhìn thấy hơn 100 người đàn ông và một vài xe công an vây quanh bên ngoài công trình của Công giáo, nằm gần thị xã Thạch Gia Trang. Tường nhà và phòng bảo vệ được xây dựng để bảo vệ khu vườn mà không được phép của chính phủ. Các quan chức đến kiểm tra kết cấu vào hai ngày trước nhưng không đưa ra bất kỳ chỉ dẫn rõ ràng nào về việc bất hợp pháp. Không có bộ phận nào chịu nhận trách nhiệm sau khi phá dỡ, các nguồn tin cho biết.
Trong khi đó, các cuộc biểu tình chống lại việc bổ nhiệm mang tính chính trị vào chủng viện Hà Bắc đã kết thúc. Chính quyền tỉnh này đã ban hành văn bản thông báo vào sáng ngày 4 Tháng Mười Hai rằng, họ đã thu hồi việc bổ nhiệm một quan chức ban tôn giáo làm hiệu phó chủng viện. Các chủng sinh đã kết thúc cuộc biểu tình kéo dài hai tuần và các lớp học đã tiếp tục vào ngày hôm nay – 6 Tháng Mười Hai.
Một số nguồn tin từ các giáo phận khác nhau nằm ở phía bắc tỉnh này cho UCANews biết, các vị giám mục và linh mục của họ đã bị quan chức chính phủ bắt đi tham dự đại hội này hoặc đang phải đối mặt với áp lực phải làm như vậy.
Giáo phận Thương Châu (Hiến Huyện) đã đưa ra thông báo vào ngày 5 Tháng Mười Hai, yêu cầu Giám mục Giuse Li Liangui của họ phải liên hệ về giáo phận và quay về ngay lập tức vì có "những vấn đề bận rộn và khẩn cấp".
Các nguồn tin cho biết, quan chức chính phủ đang lùng sục Giám mục Li, có lẽ bởi vì Đại hội này. Họ đe dọa giáo phận phải tìm cho bằng được ngài hoặc là họ phát lệnh “truy nã” trên toàn quốc.
Đức giám mục Li đã không thấy xuất hiện và không ai biết ngài hiện đang ở đâu kể từ khi chính quyền “thả” ngài trở về từ vụ tấn phong giám mục bất hợp thức tại Thừa Đức hôm 20 Tháng Mười Một. Các nguồn tin cho rằng, Đức giám mục Li rất kỷ cương nghiêm khắc, có thể ngài cảm thấy khó xử khi đối diện với các linh mục và tín hữu của mình sau khi ngài tham gia vụ tấn phong này.
Chiều nay – 6 Tháng Mười Hai, tại giáo phận Hành Thủy lân cận, các linh mục đã tranh luận với quan chức chính quyền, những người này đã đến tòa giám mục để bắt Đức giám mục Feng Xinmao của họ đến Bắc Kinh.
Các linh mục và các nữ tu thì đọc kinh Mân Côi ngay trong tòa nhà, nơi mà quan chức chính quyền và xe cộ đang vây quanh. Khi công an và quan chức chính quyền cố gắng đột nhập vào tòa giám mục, họ có mâu thuẫn xô xát với các nữ tu và giáo dân khi các chị muốn bảo vệ tòa nhà.
.
"Tôi cảm thông với Đức giám mục và hiểu sự bất lực của ngài. Thực sự có quá nhiều đau khổ dành cho ngài”, một nguồn tin cho biết. UCANews không thể tiếp cận được Đức giám mục phó của Giáo phận Bảo Bình - Phanxicô An Shuxin, một giám mục từng “thầm lặng”. Điện thoại di động của ngài đã tắt.
Tại giáo phận Triệu Huyện, các linh mục đã rời khỏi Nhà thờ chính tòa Bianchun để tránh rắc rối sau khi quan chức chính quyền yêu cầu Cha quản lí giáo phận - Simon Gao Baojin – làm đại diện tại đại hội này.
Một nguồn tin thân cận tại Vatican nói với UCANews là Tòa Thánh cảnh báo các giám mục đang trong sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng không được tham dự cùng với các giám mục bất hợp thức.
Vào đêm trước diễn ra đại hội này, một nơi khác của tỉnh Hà Bắc cũng lâm vào thương cảnh.
Vài hôm trước, các quan chức đã đe dọa Đức giám mục “ngầm” Juliô Jia Zhiguo của Giáo phận Chính Định rằng, họ sẽ bắt đi 80 trẻ mồ côi sống trong địa phận của ngài và giải tán các cộng đoàn nữ tu chăm sóc cho các em. Các nguồn tin cho biết, hành vi đó là nhằm cách ly bản quyền trên giáo phận của Đức giám mục Jia, trừ khi ngài đồng ý làm việc một cách công khai theo quy định của chính phủ.
Tại Cảo Thành, các vị cao tuổi trong Trung tâm Bảo trợ Phúc Nguyên bị sốc khi thấy bức tường nhà mới được xây và phòng bảo vệ bị phá huỷ sau đêm 27 Tháng Mười Một. Một số người hàng xóm nói, rằng họ nhìn thấy hơn 100 người đàn ông và một vài xe công an vây quanh bên ngoài công trình của Công giáo, nằm gần thị xã Thạch Gia Trang. Tường nhà và phòng bảo vệ được xây dựng để bảo vệ khu vườn mà không được phép của chính phủ. Các quan chức đến kiểm tra kết cấu vào hai ngày trước nhưng không đưa ra bất kỳ chỉ dẫn rõ ràng nào về việc bất hợp pháp. Không có bộ phận nào chịu nhận trách nhiệm sau khi phá dỡ, các nguồn tin cho biết.
Trong khi đó, các cuộc biểu tình chống lại việc bổ nhiệm mang tính chính trị vào chủng viện Hà Bắc đã kết thúc. Chính quyền tỉnh này đã ban hành văn bản thông báo vào sáng ngày 4 Tháng Mười Hai rằng, họ đã thu hồi việc bổ nhiệm một quan chức ban tôn giáo làm hiệu phó chủng viện. Các chủng sinh đã kết thúc cuộc biểu tình kéo dài hai tuần và các lớp học đã tiếp tục vào ngày hôm nay – 6 Tháng Mười Hai.
Hồng Kông: ĐHY Trần Nhật Quân lại lên tiếng về vụ tấn phong giám mục bất hợp thức tại Trung Quốc.
Tiền Hô
11:26 06/12/2010
UCANews, ngày 6 Tháng Mười Hai - ĐHY Giuse Trần Nhật Quân đã mạnh mẽ công khai phản đối một bài viết mô tả cuộc tấn phong bất hợp thức ở Thừa Đức, miền bắc Trung Quốc, là "một thắng lợi".
Bài viết ca tụng “thắng lợi” này là của linh mục Jeroom Heyndrickx vào Tháng Mười Hai gửi cho tờ Verbiest Update - một bản tin được phát hành bởi Tổ chức Verbiest. Trong đó, linh mục Heyndrickx mô tả các giám mục, linh mục và tín hữu ở Thừa Đức đều là nạn nhân và cũng là người chiến thắng trong vụ việc này.
“Các vị giám mục rõ ràng 'lên tiếng nói từ chối của mình trong việc cộng tác vào hành động tấn phong bất hợp thức' và họ thấy 'xấu hổ, buồn bã và tức giận' về vụ việc mà mà họ bị buộc phải làm nhân chứng”. Thầy giáo cũ của Cha Giuse Guo Jincai - vị giám mục mới thụ phong mà không có uỷ quyền của giáo hoàng đã viết như thế vào hôm 20 Tháng Mười Hai.
Linh mục Heyndrickx trách mắng phương tiện truyền thông khi đưa các tiêu đề giật gân về sự kiện nhưng không hề thể hiện sự quan tâm đến các hoạt động bên trong của Giáo Hội Trung Quốc, đó là người Công giáo Trung Quốc đã tuyên xưng đức tin của họ ra sao.
Đáp lại, Đức Hồng y nói ông nghĩ rằng, linh mục Heyndrickx đã che đậy một thực tế là các giám mục đã tham gia vào buổi tấn phong bất hợp thức sau khi phải đối mặt với áp lực nặng nề từ chính phủ. ĐHY Trần cũng không đồng ý với linh mục Heydrickx khi linh mục này gọi sự kiện trên là "một thắng lợi", bởi vì Tòa Thánh dự định thực hiện một cuộc đánh giá chi tiết về tính chất thành sự và vị thế của các giám mục tham gia trong cuộc tấn phong tại Thừa Đức.
ĐHY cũng lưu ý rằng, bản án dành cho vụ việc này phải được thực hiện với sự phân biệt rõ ràng giữa các giám mục và các linh mục với các tín hữu của họ. Sau cùng là những nạn nhân vô tội, không chỉ giới hạn trong Thừa Đức, nhưng là tất cả mọi tín hữu hầm trú lẫn công khai trong Giáo Hội tại Trung Quốc.
Gần đây, ĐHY Trần Nhật Quân cũng đã từng bất đồng với linh mục Jeroom Heyndrickx về vấn đề Giáo Hội tại Trung Quốc (xin xem bài: "Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc, đối thoại hay đối đầu với chính phủ" - VietCatholic 9/9/2010 Link: http://vietcatholic.org/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=83518 )
Bài viết ca tụng “thắng lợi” này là của linh mục Jeroom Heyndrickx vào Tháng Mười Hai gửi cho tờ Verbiest Update - một bản tin được phát hành bởi Tổ chức Verbiest. Trong đó, linh mục Heyndrickx mô tả các giám mục, linh mục và tín hữu ở Thừa Đức đều là nạn nhân và cũng là người chiến thắng trong vụ việc này.
“Các vị giám mục rõ ràng 'lên tiếng nói từ chối của mình trong việc cộng tác vào hành động tấn phong bất hợp thức' và họ thấy 'xấu hổ, buồn bã và tức giận' về vụ việc mà mà họ bị buộc phải làm nhân chứng”. Thầy giáo cũ của Cha Giuse Guo Jincai - vị giám mục mới thụ phong mà không có uỷ quyền của giáo hoàng đã viết như thế vào hôm 20 Tháng Mười Hai.
Linh mục Heyndrickx trách mắng phương tiện truyền thông khi đưa các tiêu đề giật gân về sự kiện nhưng không hề thể hiện sự quan tâm đến các hoạt động bên trong của Giáo Hội Trung Quốc, đó là người Công giáo Trung Quốc đã tuyên xưng đức tin của họ ra sao.
Đáp lại, Đức Hồng y nói ông nghĩ rằng, linh mục Heyndrickx đã che đậy một thực tế là các giám mục đã tham gia vào buổi tấn phong bất hợp thức sau khi phải đối mặt với áp lực nặng nề từ chính phủ. ĐHY Trần cũng không đồng ý với linh mục Heydrickx khi linh mục này gọi sự kiện trên là "một thắng lợi", bởi vì Tòa Thánh dự định thực hiện một cuộc đánh giá chi tiết về tính chất thành sự và vị thế của các giám mục tham gia trong cuộc tấn phong tại Thừa Đức.
ĐHY cũng lưu ý rằng, bản án dành cho vụ việc này phải được thực hiện với sự phân biệt rõ ràng giữa các giám mục và các linh mục với các tín hữu của họ. Sau cùng là những nạn nhân vô tội, không chỉ giới hạn trong Thừa Đức, nhưng là tất cả mọi tín hữu hầm trú lẫn công khai trong Giáo Hội tại Trung Quốc.
Gần đây, ĐHY Trần Nhật Quân cũng đã từng bất đồng với linh mục Jeroom Heyndrickx về vấn đề Giáo Hội tại Trung Quốc (xin xem bài: "Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc, đối thoại hay đối đầu với chính phủ" - VietCatholic 9/9/2010 Link: http://vietcatholic.org/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=83518 )
Thánh giám mục Nicolas: Vị Thánh của Thiếu Nhi
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
18:13 06/12/2010
Đức quốc, 06.12.2010 - Chiều hôm qua chủ nhật, ngày 5 tháng 12 năm 2010 tôi tạt qua một gia đình trẻ có hai cháu bé đang học lớp ba và bốn. Trước khi đi ngủ chuẩn bị cho ngày mai đầu tuần đi học hai cháu bé nói nhỏ với bố mẹ: „Chúng con đã để chiếc giày trước cửa phòng.“ Khi được nghe như vậy tôi nghĩ ngay đến một truyền thống Kitô giáo rất đẹp tại Âu Châu: Các trẻ em mong Thánh Nicolas mang quà đến, mà truyền thuyết kể rằng phải để chiếc giày trước cửa sổ và Thánh Nicolas sẽ đến vào ban đêm bỏ quà vào đấy. Ngài đến trong đêm mồng 5 rạng sang mồng 6 tháng 12.
Hầu như tất cả trẻ em tại Âu Châu được sống trong huyền thoại đẹp này của Công Giáo từ nếp sống giáo dục của bậc mẫu giáo. Cha mẹ luôn là hiện thân của Thánh Nicolas bí mật đặt quà vào chiếc giày cho các con mình khi các cháu đang ngủ và cha mẹ luôn nhắn nhủ phải ngoan thì `Thánh Nicolas´ mới tặng quà như ý các con xin (phụ huynh hầu như đều đáp ứng điều các con đã viết vào danh sách mơ ước giao cho Thánh Nicolas).
Một điều thiện hảo để cho các phụ huynh tặng quà đến con em, ngay cả các gia đình Việt Nam không công giáo tại Âu Châu (chiếm đa số dân cư) đều thực hành truyền thống tốt đẹp này, cho dù không biết nhiều về vị Thánh Nicolas.
Ngày này Thánh Nicolas biểu tượng cho một người đàn ông vui tính mang bộ râu trắng che gần hết khuôn mặt, đầu đội chiếc mũ nhọn, má đỏ hồng, mặc áo khoác màu đỏ tươi viền trắng và đeo trên vai chiếc bao to chứa đựng các món quà đem đến khắp phố phường trao tặng cho các trẻ em. Đó là Thánh Nicolas hoặc theo hiện đại gọi là Ông Già Noel. Hai danh từ xưng tên này đôi lúc làm cho người dùng lầm lẫn diễn tả cho hai nhân vật khác nhau.
Nhân vật nổi tiếng Nicolas có thật trong lịch sử nhân loại. Các nước không có truyền thống Kitô giáo như ở Việt Nam chỉ biết danh gọi Ông Già Noel, có lẽ theo tục lệ lấy từ tiếng Pháp: Père Noel và đa số người Việt không biết rõ về nguồn gốc đạo của Thánh Nicolas, nên cứ theo thời gian trở thành tên gọi trong dân gian của người Việt. Tiếng Anh gọi ngài là Santa Claus, tiếng Đức Sankt Nikolaus hoặc Weihnachtsmann, tiếng Hà Lan gọi Sinterklaas, bên Đông Phương gọi ngài là Sviatoi Nikolai…
Truyền thuyết kể rằng: Thánh Nicolas đã có một quá khứ đạo hạnh rất lâu đời trong đạo Công Giáo. Từ thế kỷ thứ 16 Thánh Nicolas đã có một huyền thoại là người hay mang quà trao tặng cho các trẻ em Âu Châu vào ngày 6 tháng 12 hàng năm.
Ngày tặng quà mồng 6 tháng 12 dựa vào ngày qua đời của Thánh Nicolas tại Myra thuộc vùng Tiểu Á, ngày nay là Demre thuộc nước Thổ Nhĩ Kỳ.
Thánh Nicolas sống trong thời Giáo Hội Kitô giáo tiên khởi tại đây vào khoảng năm 280. Năm 19 tuổi ngài được truyền chức linh mục và sau đó và trở thành Giám Mục của thành Myra. Đức cha Nicolas đã qua đời tại Myra vào ngày 6 tháng 12 năm 343. Ngài được chôn cất trong nhà thờ chính tòa Myra và nơi đây đã trở thành một địa điểm hành hương cho người Công Giáo và Tin Lành trong một nước đa số theo đạo Hồi (Thổ Nhĩ Kỳ). Ðức Giáo Hoàng Clêmentê X đã phong Đức giám mục Nicolas lên bậc Hiển Thánh vào năm 1670. Năm 1087 các thủy thủ người Ý đã đem hài cốt của Thánh Nicolas về thành phố Bari miền Nam Ý gần Neapel. Nơi đây dân Ý xây dựng một sân vận động tân tiến và đặt tên của ngài.
Thánh Nicolas sinh ra trong một gia đình giàu có và có lòng nhân từ luôn giúp những kẻ nghèo khó. Sau khi song thân qua đời ngài đã mang tất cả tài sản chia cho các gia đình nghèo trong vùng. Có truyền thuyết kể rằng ngài giúp người nghèo bằng cách bí mật ném những đồng tiền được gói trong chiếc bí tất qua cánh cửa sổ hoặc ống khói lò sưởi và ngài đã cứu được các cô gái trẻ trước hiểm họa mãi dâm.
Từ thế kỷ thứ 6 loan truyền nhiều câu chuyện hào hùng về Thánh Nicolas. Ngài đã trở thành quan thày cho các thủy thủ bởi vì ngài đã cứu một chiếc thuyền trước cảnh đắm chìm bằng cách làm cho sóng nước lặng yên. Tại Liên Sô và các nước Đông Âu đã gọi ngài là Sviatoi Nikolai và là một vị thánh nổi tiếng tại Đông Phương.
Từ thế kỷ 11 đến 16 đã có khoảng 2.200 nhà thờ đã lấy tên Thánh Nicolas làm danh gọi, nhất là trong những miền Âu Châu thuộc rặng núi Alpen. Bên giáo hội Đông Phương cũng chẳng kém, có hàng ngàn nhà thờ lấy tên của ngài.
Từ thời Trung Cổ vào ngày kính Thánh Nicolas đã có những lễ hội và diễn kịch về ngài, nhất là trong các nhà dòng của thời ấy. Mỗi học sinh được đóng vai của Thánh Nicolas vị giám mục nhân từ, người thứ hai đóng vai người giúp việc cho ngài. Theo ngày tháng vai của người giúp việc trở thành vai nhập của kẻ hung dữ để dọa nạt trẻ con nhằm đề cao lòng bác ái yêu người của thánh nhân. Tùy theo địa phương đặt tên gọi cho kẻ xấu này, thí dụ tại Đức đặt tên Knecht Ruprecht, ở Áo và Đông Âu "Krampus", tại Pháp Père Fouettard và ở Hà Lan Zwarte Piet.
Thời gian ấy Châu Mỹ được khai hóa và người Hà Lan mang truyền thống của Thánh Nicolas đến Bắc Mỹ với "Sinterklaas" và "Zwarte Piet" rồi từ đó ngài trở thành Santa Claus với một khuôn mặt tròn trĩnh, mái tóc trắng và cỡi xe trượt tuyến mang quà trao tặng trẻ em trên toàn thế giới. Người Hà Lan đến Mỹ và xây dựng một thánh đường đầu tiên tại New York rồi lấy tên Nicolas đặt tên cho nhà thờ.
Ngày nay, Santa Claus và Ông Già Noel thường được pha trộn với nhau. Trong vai vị Thánh Giám Mục truyền thống của Giáo Hội, thánh Nicolas mặc áo choàng màu đỏ, đội nón giám mục và cầm gậy mục tử, biểu tượng cho một mục tử nhân lành luôn giúp người nghèo, nhất là trẻ em.
Giới thương gia đã dùng hình ảnh đôn hậu và nổi tiếng của Thánh Nicolas làm quảng cáo cho các sản phẩm của mình, thí dụ vào năm 1900 hãng nước ngọt Coca Cola lấy hình Santa Claus làm thương hiệu trở thành nổi tiếng trên toàn cầu.
Thánh Nicolas là đấng bảo trợ cho các em thiếu nhi và cũng là một vị Thánh được biết nhiều nhất trong các quốc gia không có truyền thống Kitô giáo.
Xin Thánh giám mục Nicolas chúc lành cho các cháu Thiếu Nhi trong ngày hôm nay.
![]() |
Một điều thiện hảo để cho các phụ huynh tặng quà đến con em, ngay cả các gia đình Việt Nam không công giáo tại Âu Châu (chiếm đa số dân cư) đều thực hành truyền thống tốt đẹp này, cho dù không biết nhiều về vị Thánh Nicolas.
Ngày này Thánh Nicolas biểu tượng cho một người đàn ông vui tính mang bộ râu trắng che gần hết khuôn mặt, đầu đội chiếc mũ nhọn, má đỏ hồng, mặc áo khoác màu đỏ tươi viền trắng và đeo trên vai chiếc bao to chứa đựng các món quà đem đến khắp phố phường trao tặng cho các trẻ em. Đó là Thánh Nicolas hoặc theo hiện đại gọi là Ông Già Noel. Hai danh từ xưng tên này đôi lúc làm cho người dùng lầm lẫn diễn tả cho hai nhân vật khác nhau.
Nhân vật nổi tiếng Nicolas có thật trong lịch sử nhân loại. Các nước không có truyền thống Kitô giáo như ở Việt Nam chỉ biết danh gọi Ông Già Noel, có lẽ theo tục lệ lấy từ tiếng Pháp: Père Noel và đa số người Việt không biết rõ về nguồn gốc đạo của Thánh Nicolas, nên cứ theo thời gian trở thành tên gọi trong dân gian của người Việt. Tiếng Anh gọi ngài là Santa Claus, tiếng Đức Sankt Nikolaus hoặc Weihnachtsmann, tiếng Hà Lan gọi Sinterklaas, bên Đông Phương gọi ngài là Sviatoi Nikolai…
Truyền thuyết kể rằng: Thánh Nicolas đã có một quá khứ đạo hạnh rất lâu đời trong đạo Công Giáo. Từ thế kỷ thứ 16 Thánh Nicolas đã có một huyền thoại là người hay mang quà trao tặng cho các trẻ em Âu Châu vào ngày 6 tháng 12 hàng năm.
Ngày tặng quà mồng 6 tháng 12 dựa vào ngày qua đời của Thánh Nicolas tại Myra thuộc vùng Tiểu Á, ngày nay là Demre thuộc nước Thổ Nhĩ Kỳ.
![]() |
Thánh Nicolas sinh ra trong một gia đình giàu có và có lòng nhân từ luôn giúp những kẻ nghèo khó. Sau khi song thân qua đời ngài đã mang tất cả tài sản chia cho các gia đình nghèo trong vùng. Có truyền thuyết kể rằng ngài giúp người nghèo bằng cách bí mật ném những đồng tiền được gói trong chiếc bí tất qua cánh cửa sổ hoặc ống khói lò sưởi và ngài đã cứu được các cô gái trẻ trước hiểm họa mãi dâm.
Từ thế kỷ thứ 6 loan truyền nhiều câu chuyện hào hùng về Thánh Nicolas. Ngài đã trở thành quan thày cho các thủy thủ bởi vì ngài đã cứu một chiếc thuyền trước cảnh đắm chìm bằng cách làm cho sóng nước lặng yên. Tại Liên Sô và các nước Đông Âu đã gọi ngài là Sviatoi Nikolai và là một vị thánh nổi tiếng tại Đông Phương.
Từ thế kỷ 11 đến 16 đã có khoảng 2.200 nhà thờ đã lấy tên Thánh Nicolas làm danh gọi, nhất là trong những miền Âu Châu thuộc rặng núi Alpen. Bên giáo hội Đông Phương cũng chẳng kém, có hàng ngàn nhà thờ lấy tên của ngài.
Từ thời Trung Cổ vào ngày kính Thánh Nicolas đã có những lễ hội và diễn kịch về ngài, nhất là trong các nhà dòng của thời ấy. Mỗi học sinh được đóng vai của Thánh Nicolas vị giám mục nhân từ, người thứ hai đóng vai người giúp việc cho ngài. Theo ngày tháng vai của người giúp việc trở thành vai nhập của kẻ hung dữ để dọa nạt trẻ con nhằm đề cao lòng bác ái yêu người của thánh nhân. Tùy theo địa phương đặt tên gọi cho kẻ xấu này, thí dụ tại Đức đặt tên Knecht Ruprecht, ở Áo và Đông Âu "Krampus", tại Pháp Père Fouettard và ở Hà Lan Zwarte Piet.
Thời gian ấy Châu Mỹ được khai hóa và người Hà Lan mang truyền thống của Thánh Nicolas đến Bắc Mỹ với "Sinterklaas" và "Zwarte Piet" rồi từ đó ngài trở thành Santa Claus với một khuôn mặt tròn trĩnh, mái tóc trắng và cỡi xe trượt tuyến mang quà trao tặng trẻ em trên toàn thế giới. Người Hà Lan đến Mỹ và xây dựng một thánh đường đầu tiên tại New York rồi lấy tên Nicolas đặt tên cho nhà thờ.
Ngày nay, Santa Claus và Ông Già Noel thường được pha trộn với nhau. Trong vai vị Thánh Giám Mục truyền thống của Giáo Hội, thánh Nicolas mặc áo choàng màu đỏ, đội nón giám mục và cầm gậy mục tử, biểu tượng cho một mục tử nhân lành luôn giúp người nghèo, nhất là trẻ em.
Giới thương gia đã dùng hình ảnh đôn hậu và nổi tiếng của Thánh Nicolas làm quảng cáo cho các sản phẩm của mình, thí dụ vào năm 1900 hãng nước ngọt Coca Cola lấy hình Santa Claus làm thương hiệu trở thành nổi tiếng trên toàn cầu.
Thánh Nicolas là đấng bảo trợ cho các em thiếu nhi và cũng là một vị Thánh được biết nhiều nhất trong các quốc gia không có truyền thống Kitô giáo.
Xin Thánh giám mục Nicolas chúc lành cho các cháu Thiếu Nhi trong ngày hôm nay.
Sứ điệp về tình yêu thương của Thiên Chúa
Pt Huỳnh Mai Trác
18:25 06/12/2010
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 1 tháng 12, năm 2010, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nói về hình ảnh của thánh Julienne de Norwich, một nhà huyền bí người Anh sống vào thời kỳ 1342 dến 1430. Đời sống của thánh nhân giúp chúng ta hiểu biết về đời sống thiêng liêng chính là tình yêu của Thiên Chúa.
Bà đã sống vào một thời kỳ thật khó khăn của Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội đang bị chia rẻ ly khai tiếp theo sau cuộc dời giáo đô trở về lại thành La Mã và bởi một cuộc chiến Một Trăm Năm giũa nước Anh và nước Pháp. Vào năm 1373, bất thình lình Bà bị bịnh nặng và Bà có được 15 thị kiến về tình yêu của Thiên Chúa. “Được thúc đẩy bởi tình yêu này Bà quyết định thay đổi cuộc sống và rút lui sống ẩn dật gần nhà thờ thánh Julien ở Norwich.
“Trong đời sống ẩn dật này Bà dành tòan thì giờ để cầu nguyện, suy niệm và nghiên cứu học hỏi, cùng phát huy đời sống tu hành. Công việc của Bà đã lôi cuốn nhiều người ngưỡng mộ. Nhiều người ở mọi lớp tuổi và địa vị đã đến hỏi ý kiến và nhờ lời cầu nguyện,, , Những người nam và nữ lánh xa cuộc đời trần tục để sống tận hiện cho Chúa thường được Chúa ban cho lòng bác ái đối với những ai đau khô và những yếu đuối của những kẻ khác.
"Bầu bạn vơí Chúa, họ có được sự khôn ngoan mà những người thế gian khi xa Chúa thì không có được. Họ đem sự khôn ngoan đó chia sẻ với những người đến tham vấn họ. Với lòng ngưỡng mộ và biết ơn tôi tin tưởng là những tu viện hơn bao giờ hết là những ốc đảo của sự an bình và hy vọng, và ở đó là kho tàng cho Giáo Hội, là chổ tốt đẹp để Chúa ngự trị và nơi chốn cầu nguyện”.
Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắc nhở về sự mặc khải về tình yêu thương của Chúa của Bà Julienne ở Norwich là một sứ điệp rất tích cực dựa trên lòng xác tín là được Chúa yêu thương và che chở dưới sự quan phòng của Ngài.. Bà đã so sánh tình yêu của Thiên Chúa như tình mẫu tử, đó chính là trọng tâm thần học huyền bí của Bà.
…”Sự dịu hiền, lòng ân cần và lòng ưu ái của Chúa đối với con người làm cho chúng ta nhớ đến tình mẫu tử.”
Theo thánh Julienne thì sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa chính là đời sông thiêng liêng đối với ai lãnh nhận và là kim chỉ nam duy nhất cho cuộc sống. Mọi sự sẽ được biến đổi và có thể phát huy chung quanh mình một sự an bình và một niềm vui chân chính.”
Giáo lý của Giáo Hội đã nêu lên những lời của thánh Julienne ở Norwich khi bàn về sự ác và những đau khổ của những kẻ vô tội. Trong những dự định huyền nhiệm của Chúa Quan Phòng, Chúa cho biết nhiều khi trong sự ác lại có một sự bổ ích rất lớn lao. Tôi nhận biết Ân sủng là phải vững mạnh trong đức tin và mọi sự kết cục rất tốt đẹp. Những lời hứa của Thiên Chúa vượt ra ngoài sự chờ đợi của chúng ta.
Nếu chúng ta tin cậy vào tình yêu của Thiên Chúa, theo lời của thánh Julienne de Norwich, thì những ước muốn tinh khiết của chúng ta thì sẽ không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng. Mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp, và mọi sự đều hướng về sự thiện. Đó chính là sứ điệp của thánh nữ Julienne mà hôm nay tôi muốn gởi đến cho các bạn. (tin VIS)
Bà đã sống vào một thời kỳ thật khó khăn của Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội đang bị chia rẻ ly khai tiếp theo sau cuộc dời giáo đô trở về lại thành La Mã và bởi một cuộc chiến Một Trăm Năm giũa nước Anh và nước Pháp. Vào năm 1373, bất thình lình Bà bị bịnh nặng và Bà có được 15 thị kiến về tình yêu của Thiên Chúa. “Được thúc đẩy bởi tình yêu này Bà quyết định thay đổi cuộc sống và rút lui sống ẩn dật gần nhà thờ thánh Julien ở Norwich.
“Trong đời sống ẩn dật này Bà dành tòan thì giờ để cầu nguyện, suy niệm và nghiên cứu học hỏi, cùng phát huy đời sống tu hành. Công việc của Bà đã lôi cuốn nhiều người ngưỡng mộ. Nhiều người ở mọi lớp tuổi và địa vị đã đến hỏi ý kiến và nhờ lời cầu nguyện,, , Những người nam và nữ lánh xa cuộc đời trần tục để sống tận hiện cho Chúa thường được Chúa ban cho lòng bác ái đối với những ai đau khô và những yếu đuối của những kẻ khác.
"Bầu bạn vơí Chúa, họ có được sự khôn ngoan mà những người thế gian khi xa Chúa thì không có được. Họ đem sự khôn ngoan đó chia sẻ với những người đến tham vấn họ. Với lòng ngưỡng mộ và biết ơn tôi tin tưởng là những tu viện hơn bao giờ hết là những ốc đảo của sự an bình và hy vọng, và ở đó là kho tàng cho Giáo Hội, là chổ tốt đẹp để Chúa ngự trị và nơi chốn cầu nguyện”.
Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắc nhở về sự mặc khải về tình yêu thương của Chúa của Bà Julienne ở Norwich là một sứ điệp rất tích cực dựa trên lòng xác tín là được Chúa yêu thương và che chở dưới sự quan phòng của Ngài.. Bà đã so sánh tình yêu của Thiên Chúa như tình mẫu tử, đó chính là trọng tâm thần học huyền bí của Bà.
…”Sự dịu hiền, lòng ân cần và lòng ưu ái của Chúa đối với con người làm cho chúng ta nhớ đến tình mẫu tử.”
Theo thánh Julienne thì sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa chính là đời sông thiêng liêng đối với ai lãnh nhận và là kim chỉ nam duy nhất cho cuộc sống. Mọi sự sẽ được biến đổi và có thể phát huy chung quanh mình một sự an bình và một niềm vui chân chính.”
Giáo lý của Giáo Hội đã nêu lên những lời của thánh Julienne ở Norwich khi bàn về sự ác và những đau khổ của những kẻ vô tội. Trong những dự định huyền nhiệm của Chúa Quan Phòng, Chúa cho biết nhiều khi trong sự ác lại có một sự bổ ích rất lớn lao. Tôi nhận biết Ân sủng là phải vững mạnh trong đức tin và mọi sự kết cục rất tốt đẹp. Những lời hứa của Thiên Chúa vượt ra ngoài sự chờ đợi của chúng ta.
Nếu chúng ta tin cậy vào tình yêu của Thiên Chúa, theo lời của thánh Julienne de Norwich, thì những ước muốn tinh khiết của chúng ta thì sẽ không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng. Mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp, và mọi sự đều hướng về sự thiện. Đó chính là sứ điệp của thánh nữ Julienne mà hôm nay tôi muốn gởi đến cho các bạn. (tin VIS)
Top Stories
Inde: L’Eglise catholique se bat pour la reconnaissance des droits des femmes domestiques
Eglises d'Asie
09:03 06/12/2010
Prenant la défense des très nombreuses femmes employées de maison en Inde, l’Eglise catholique réclame du gouvernement le respect de leurs droits les plus élémentaires, parmi lesquels la protection contre les violences et le harcèlement sexuel figurent en première ligne.
Le 2 décembre, Sr Rosily Panajukarana, religieuse de la congrégation des Servantes du Saint-Esprit,. ..
... a organisé une manifestation à Indore, capitale commerciale de l’Etat du Madhya Pradesh, afin de dénoncer l’exploitation des femmes domestiques. Avec plusieurs centaines d’employés de maison de tous âges, elle réclamait du gouvernement indien qu’il étende aux domestiques, une main d’œuvre à 90 % féminine, la protection contre le harcèlement sexuel au travail telle qu’elle est définie dans une proposition de loi actuellement en cours de validation au niveau fédéral.
Cette loi, aboutissement de longues négociations sur plusieurs années, est une première tentative visant à légiférer dans un domaine particulièrement sensible, régi jusqu’ici par une jurisprudence instituée par la Cour suprême en 1997. Le projet est actuellement en passe d’être validé par le Parlement avant d’être proposé pour signature à la présidente de l’Inde.
Les employées de maison, qui représentent le plus important vivier de travailleurs du pays, étaient inclues dans le projet de loi embryonnaire présenté il y a trois ans, mais elles en ont été retirées de la version définitive.
Sr Rosily, qui est également à la tête de l’association Indore Domestic Workers’ Solidarity, s’indigne face à ce qu’elle appelle une « totale injustice », expliquant que ce sont justement les personnes les plus vulnérables qui ont été exclues de la proposition de loi contre le harcèlement sexuel.
Kamala Bai, l’une des manifestantes, déclare souhaiter seulement bénéficier du même respect et reconnaissance de son travail que les autres employés. « Nous travaillons plus d’heures qu’eux, mais pour moins de gages et sans jamais avoir de jours de congé », confirme Anita Vastole, également employée de maison. Issues de milieux pauvres et analphabètes dans leur grande majorité, les domestiques savent qu’elles ne peuvent revendiquer ou prétendre à de meilleurs gages.
Perin Homi Daji, une travailleuse sociale présente également à la manifestation, souligne qu’aucun dispositif n’a été prévu pour que les domestiques puissent porter plainte si elles subissaient un harcèlement sexuel sur leur lieu de travail, comme le prévoit pourtant la loi pour toutes les autres catégories d’employés.
L’action menée par Sr Rosily s’inscrit dans une vaste campagne de protestation menée par l’Eglise catholique depuis des mois, afin de faire reconnaître les droits des femmes domestiques et d’obtenir leur réintégration dans le projet de loi sur le harcèlement sexuel. Une série de manifestations a, entre autres, été organisées par la Commission pour le travail de la Conférence des évêques catholiques de l’Inde (CBCI) fin novembre, parallèlement à d’autres actions effectuées avec des ONG ou associations militant pour les droits des employées de maison, comme le Delhi Domestic Workers’ Forum ou encore le National Domestic Workers Movement (NDWM) (2). Ce dernier, dirigé par Sr Jeanne Devos, a soumis aux autorités un rapport sur la précarité et la vulnérabilité des employées de maison, dont le nombre est totalement sous-estimé par les statistiques officielles, la plupart d’entre elles n’étant pas déclarées, en raison notamment de la persistance de l’esclavage des enfants domestiques (3).
Le 25 novembre dernier, Mgr Vincent M. Concessao, archevêque catholique de Delhi, avait déjà exprimé sa « vive inquiétude » à ce sujet et demandé au gouvernement de rectifier « cette mesure discriminatoire avant que le projet ne devienne une loi ». Il ajoutait également: « Il est difficile de comprendre une telle indifférence vis-à-vis du secteur où il y a le plus de femmes au travail, lesquelles sont justement les plus vulnérables mais ne peuvent bénéficier d’aucune protection. »
Le P. Xavier Jeyaraj, membre de l’Indian Social Institute et militant pour les droits des travailleurs domestiques, avait aussi fait part à l’agence Ucanews de son incompréhension et de son indignation: « C’est justement dans ce secteur qu’il y a le plus de harcèlement au travail ! Tout particulièrement les jeunes filles aborigènes, qui sont fréquemment abusées et victimes de violences. »
Du côté protestant, des soutiens se sont également manifestés, notamment au sein de l’Eglise de l’Inde du Nord (CNI). Jyotsana Chatterjee, directrice du Joint Women Program de la CNI, a déclaré en effet que le combat pour les droits des femmes domestiques devait commencer par la réintroduction de leur catégorie professionnelle dans le projet de loi.
(1) Ucanews, 26 novembre, 3 décembre 2010.
(2) www.cbcisite.com, 6 décembre 2010.
(3) Sr. Jeanne Devos, représentante de l'Assemblée des évêques de l'Inde auprès des Nations Unis et de l'Unicef, a fondé le Mouvement national des employés de maison (NDWM), un réseau qui lutte contre l'esclavage des femmes et des enfants en Inde.
« J'ai [pris parti] pour les employés de maison - que ce soit des femmes ou des enfants - parce qu'ils n'avaient pas de voix, pas de droits, ce qui pour moi constitue l'esclavage. Ce qui m'a poussée à agir fut la situation inhumaine de ces femmes et de ces enfants. Cela m'a touchée et fait mal en tant que femme. L'urgence a commencé après avoir rencontré une enfant de 13 ans qui avait été violée, était enceinte et avait avorté - sans comprendre ce qui lui était arrivé. »
(Source: Eglises d'Asie, 6 décembre 2010)
Le 2 décembre, Sr Rosily Panajukarana, religieuse de la congrégation des Servantes du Saint-Esprit,. ..
... a organisé une manifestation à Indore, capitale commerciale de l’Etat du Madhya Pradesh, afin de dénoncer l’exploitation des femmes domestiques. Avec plusieurs centaines d’employés de maison de tous âges, elle réclamait du gouvernement indien qu’il étende aux domestiques, une main d’œuvre à 90 % féminine, la protection contre le harcèlement sexuel au travail telle qu’elle est définie dans une proposition de loi actuellement en cours de validation au niveau fédéral.
Cette loi, aboutissement de longues négociations sur plusieurs années, est une première tentative visant à légiférer dans un domaine particulièrement sensible, régi jusqu’ici par une jurisprudence instituée par la Cour suprême en 1997. Le projet est actuellement en passe d’être validé par le Parlement avant d’être proposé pour signature à la présidente de l’Inde.
Les employées de maison, qui représentent le plus important vivier de travailleurs du pays, étaient inclues dans le projet de loi embryonnaire présenté il y a trois ans, mais elles en ont été retirées de la version définitive.
Sr Rosily, qui est également à la tête de l’association Indore Domestic Workers’ Solidarity, s’indigne face à ce qu’elle appelle une « totale injustice », expliquant que ce sont justement les personnes les plus vulnérables qui ont été exclues de la proposition de loi contre le harcèlement sexuel.
Kamala Bai, l’une des manifestantes, déclare souhaiter seulement bénéficier du même respect et reconnaissance de son travail que les autres employés. « Nous travaillons plus d’heures qu’eux, mais pour moins de gages et sans jamais avoir de jours de congé », confirme Anita Vastole, également employée de maison. Issues de milieux pauvres et analphabètes dans leur grande majorité, les domestiques savent qu’elles ne peuvent revendiquer ou prétendre à de meilleurs gages.
Perin Homi Daji, une travailleuse sociale présente également à la manifestation, souligne qu’aucun dispositif n’a été prévu pour que les domestiques puissent porter plainte si elles subissaient un harcèlement sexuel sur leur lieu de travail, comme le prévoit pourtant la loi pour toutes les autres catégories d’employés.
L’action menée par Sr Rosily s’inscrit dans une vaste campagne de protestation menée par l’Eglise catholique depuis des mois, afin de faire reconnaître les droits des femmes domestiques et d’obtenir leur réintégration dans le projet de loi sur le harcèlement sexuel. Une série de manifestations a, entre autres, été organisées par la Commission pour le travail de la Conférence des évêques catholiques de l’Inde (CBCI) fin novembre, parallèlement à d’autres actions effectuées avec des ONG ou associations militant pour les droits des employées de maison, comme le Delhi Domestic Workers’ Forum ou encore le National Domestic Workers Movement (NDWM) (2). Ce dernier, dirigé par Sr Jeanne Devos, a soumis aux autorités un rapport sur la précarité et la vulnérabilité des employées de maison, dont le nombre est totalement sous-estimé par les statistiques officielles, la plupart d’entre elles n’étant pas déclarées, en raison notamment de la persistance de l’esclavage des enfants domestiques (3).
Le 25 novembre dernier, Mgr Vincent M. Concessao, archevêque catholique de Delhi, avait déjà exprimé sa « vive inquiétude » à ce sujet et demandé au gouvernement de rectifier « cette mesure discriminatoire avant que le projet ne devienne une loi ». Il ajoutait également: « Il est difficile de comprendre une telle indifférence vis-à-vis du secteur où il y a le plus de femmes au travail, lesquelles sont justement les plus vulnérables mais ne peuvent bénéficier d’aucune protection. »
Le P. Xavier Jeyaraj, membre de l’Indian Social Institute et militant pour les droits des travailleurs domestiques, avait aussi fait part à l’agence Ucanews de son incompréhension et de son indignation: « C’est justement dans ce secteur qu’il y a le plus de harcèlement au travail ! Tout particulièrement les jeunes filles aborigènes, qui sont fréquemment abusées et victimes de violences. »
Du côté protestant, des soutiens se sont également manifestés, notamment au sein de l’Eglise de l’Inde du Nord (CNI). Jyotsana Chatterjee, directrice du Joint Women Program de la CNI, a déclaré en effet que le combat pour les droits des femmes domestiques devait commencer par la réintroduction de leur catégorie professionnelle dans le projet de loi.
(1) Ucanews, 26 novembre, 3 décembre 2010.
(2) www.cbcisite.com, 6 décembre 2010.
(3) Sr. Jeanne Devos, représentante de l'Assemblée des évêques de l'Inde auprès des Nations Unis et de l'Unicef, a fondé le Mouvement national des employés de maison (NDWM), un réseau qui lutte contre l'esclavage des femmes et des enfants en Inde.
« J'ai [pris parti] pour les employés de maison - que ce soit des femmes ou des enfants - parce qu'ils n'avaient pas de voix, pas de droits, ce qui pour moi constitue l'esclavage. Ce qui m'a poussée à agir fut la situation inhumaine de ces femmes et de ces enfants. Cela m'a touchée et fait mal en tant que femme. L'urgence a commencé après avoir rencontré une enfant de 13 ans qui avait été violée, était enceinte et avait avorté - sans comprendre ce qui lui était arrivé. »
(Source: Eglises d'Asie, 6 décembre 2010)
Chine, Hebei: opposés au parachutage d’un haut fonctionnaire au poste de vice-recteur, les séminaristes prolongent leur grève
Eglises d'Asie
09:05 06/12/2010
En dépit des propositions de conciliation des autorités chinoises, les séminaristes du grand séminaire régional de Shijiazhuang, dans le Hebei, poursuivent leur mouvement de grève pour protester contre le récent parachutage d’un haut fonctionnaire non catholique au poste de vice-recteur. Au nombre d’une centaine, les séminaristes réclament des autorités un engagement écrit par lequel elles renonceraient à une nomination considérée comme « politique ».
En dépit du froid vif de l’hiver, les séminaristes, qui font la grève des cours depuis plusieurs semaines (1), ont choisi de descendre dans la rue et de manifester devant le bâtiment qui abrite, à Shijiazhuang, le Bureau des Affaires religieuses et ethniques du Hebei. C’est en effet cette administration qui assure la tutelle administrative du séminaire, et c’est elle qui a pris la décision, le 11 novembre dernier, de nommer au poste de vice-recteur du séminaire et professeur de politique l’un de ses hauts fonctionnaires, Tang Zhaojun, un non-catholique. En soutane noire et surplis blanc, les séminaristes ont, durant deux jours, les 2 et 3 décembre, brandi des pancartes devant les portes d’entrée du bâtiment officiel, battant pacifiquement le pavé de 7 heures du matin à 9 heures du soir. Sur les pancartes, l’on pouvait lire: « Demandons la révocation par écrit officiel du vice-directeur Tang Zhaojun du poste de vice-recteur du séminaire » ou bien encore « Tenez vos promesses ! » et « Séminaire du Hebei, séminaire catholique ».
Le jeudi 2 décembre au soir, après avoir passé la journée dehors, les séminaristes étaient retournés dans leurs dortoirs. Apprenant alors que des responsables des Affaires religieuses et des policiers en civils s’étaient présentés pour tenter de persuader l’encadrement de l’établissement de raisonner les étudiants, tous les séminaristes s’étaient alors relevés pour demander aux officiels de quitter les lieux. Le lendemain matin, les séminaristes étaient de retour dans la rue, devant l’entrée du bâtiment des Affaires religieuses.
Dès le 11 novembre, le parachutage de Tang Zhaojun avait été rejeté par les enseignants et les élèves du séminaire. En effet, si la nomination de fonctionnaires du gouvernement au poste de professeur de « classes politiques » est chose courante au sein des grands séminaires « officiels » en Chine, celle d’un haut fonctionnaire au poste de vice-recteur est inédite. Le 15 novembre, les cours étaient suspendus au séminaire dans l’attente de la convocation d’une assemblée des directeurs, seule instance habilitée à procéder à pareille nomination. Face à l’opposition rencontrée, les Affaires religieuses de Shijiazhuang ont alors accepté de négocier, promettant que la nomination de Tang Zhaojun serait retirée et obtenant en échange une reprise des cours à compter du 1er décembre. C’est, semble-t-il, cet accord que les séminaristes entendent ne pas honorer tant qu’ils n’auront pas obtenu des autorités un engagement écrit, et non seulement verbal, attestant l’annulation du parachutage du haut fonctionnaire non catholique.
Dans le contexte particulier que connaît l’Eglise en Chine actuellement, avec l’ordination illicite de l’évêque de Chengde, la convocation pour les 7, 8 et 9 décembre prochains de l’Assemblée nationale des représentants catholiques et l’appel au « courage » lancé par le pape Benoît XVI à l’adresse des catholiques chinois (2), la démarche des séminaristes de Shijiazhuang a très rapidement fait le tour de l’Internet catholique chinois. La nouvelle est abondamment commentée sur les blogs, de nombreux laïcs, religieuses et prêtres encourageant les étudiants de leurs prières et saluant ces « futurs piliers de l’Eglise » et « témoins de l’espérance ». Des internautes rappellent aussi le précédent de janvier 2000, lorsque les 150 séminaristes du Grand Séminaire national de Pékin avaient refusé d’assister à l’ordination faite sans mandat pontifical de cinq évêques « officiels » (3). Bon nombre de ces étudiants avaient été ensuite renvoyés du séminaire. Pour certains internautes aujourd’hui, les séminaristes de Shijiazhuang doivent s’attendre à payer le prix de leur audace et certains pourraient subir des sanctions, une fois que l’affaire sera close.
Selon l’un des séminaristes de Shijiazhuang, joint par l’agence Ucanews (4), les étudiants ont agi de leur propre initiative, sans en référer aux prêtres du séminaire ou aux évêques de la province. « Dans le cas contraire, les autorités auraient exercé des pressions sur le clergé. Or, nous nous devons de les protéger », a expliqué le jeune homme (5).
(1) & (2) Voir EDA 540
(3) Voir EDA 301
(4) Ucanews, 3 décembre 2010
(5) Fondé en 1984, le grand séminaire interdiocésain de Shijiazhuang a formé à ce jour plus de 400 prêtres. Rénové et agrandi en 1997, il peut accueillir un maximum théorique de 120 étudiants. En 2001-2002, le séminaire, qui accueillait des étudiants venus de tout le Hebei, avait connu une longue phase d’« évaluation politique », durant laquelle tout recrutement avait été bloqué (voir EDA 370). Depuis 2003, son recteur est Mgr Ma Yinglin, évêque « officiel » de Kunming (dans le Yunnan), non reconnu par Rome.
(Source: Eglises d'Asie, 6 décembre 2010)
En dépit du froid vif de l’hiver, les séminaristes, qui font la grève des cours depuis plusieurs semaines (1), ont choisi de descendre dans la rue et de manifester devant le bâtiment qui abrite, à Shijiazhuang, le Bureau des Affaires religieuses et ethniques du Hebei. C’est en effet cette administration qui assure la tutelle administrative du séminaire, et c’est elle qui a pris la décision, le 11 novembre dernier, de nommer au poste de vice-recteur du séminaire et professeur de politique l’un de ses hauts fonctionnaires, Tang Zhaojun, un non-catholique. En soutane noire et surplis blanc, les séminaristes ont, durant deux jours, les 2 et 3 décembre, brandi des pancartes devant les portes d’entrée du bâtiment officiel, battant pacifiquement le pavé de 7 heures du matin à 9 heures du soir. Sur les pancartes, l’on pouvait lire: « Demandons la révocation par écrit officiel du vice-directeur Tang Zhaojun du poste de vice-recteur du séminaire » ou bien encore « Tenez vos promesses ! » et « Séminaire du Hebei, séminaire catholique ».
Le jeudi 2 décembre au soir, après avoir passé la journée dehors, les séminaristes étaient retournés dans leurs dortoirs. Apprenant alors que des responsables des Affaires religieuses et des policiers en civils s’étaient présentés pour tenter de persuader l’encadrement de l’établissement de raisonner les étudiants, tous les séminaristes s’étaient alors relevés pour demander aux officiels de quitter les lieux. Le lendemain matin, les séminaristes étaient de retour dans la rue, devant l’entrée du bâtiment des Affaires religieuses.
Dès le 11 novembre, le parachutage de Tang Zhaojun avait été rejeté par les enseignants et les élèves du séminaire. En effet, si la nomination de fonctionnaires du gouvernement au poste de professeur de « classes politiques » est chose courante au sein des grands séminaires « officiels » en Chine, celle d’un haut fonctionnaire au poste de vice-recteur est inédite. Le 15 novembre, les cours étaient suspendus au séminaire dans l’attente de la convocation d’une assemblée des directeurs, seule instance habilitée à procéder à pareille nomination. Face à l’opposition rencontrée, les Affaires religieuses de Shijiazhuang ont alors accepté de négocier, promettant que la nomination de Tang Zhaojun serait retirée et obtenant en échange une reprise des cours à compter du 1er décembre. C’est, semble-t-il, cet accord que les séminaristes entendent ne pas honorer tant qu’ils n’auront pas obtenu des autorités un engagement écrit, et non seulement verbal, attestant l’annulation du parachutage du haut fonctionnaire non catholique.
Dans le contexte particulier que connaît l’Eglise en Chine actuellement, avec l’ordination illicite de l’évêque de Chengde, la convocation pour les 7, 8 et 9 décembre prochains de l’Assemblée nationale des représentants catholiques et l’appel au « courage » lancé par le pape Benoît XVI à l’adresse des catholiques chinois (2), la démarche des séminaristes de Shijiazhuang a très rapidement fait le tour de l’Internet catholique chinois. La nouvelle est abondamment commentée sur les blogs, de nombreux laïcs, religieuses et prêtres encourageant les étudiants de leurs prières et saluant ces « futurs piliers de l’Eglise » et « témoins de l’espérance ». Des internautes rappellent aussi le précédent de janvier 2000, lorsque les 150 séminaristes du Grand Séminaire national de Pékin avaient refusé d’assister à l’ordination faite sans mandat pontifical de cinq évêques « officiels » (3). Bon nombre de ces étudiants avaient été ensuite renvoyés du séminaire. Pour certains internautes aujourd’hui, les séminaristes de Shijiazhuang doivent s’attendre à payer le prix de leur audace et certains pourraient subir des sanctions, une fois que l’affaire sera close.
Selon l’un des séminaristes de Shijiazhuang, joint par l’agence Ucanews (4), les étudiants ont agi de leur propre initiative, sans en référer aux prêtres du séminaire ou aux évêques de la province. « Dans le cas contraire, les autorités auraient exercé des pressions sur le clergé. Or, nous nous devons de les protéger », a expliqué le jeune homme (5).
(1) & (2) Voir EDA 540
(3) Voir EDA 301
(4) Ucanews, 3 décembre 2010
(5) Fondé en 1984, le grand séminaire interdiocésain de Shijiazhuang a formé à ce jour plus de 400 prêtres. Rénové et agrandi en 1997, il peut accueillir un maximum théorique de 120 étudiants. En 2001-2002, le séminaire, qui accueillait des étudiants venus de tout le Hebei, avait connu une longue phase d’« évaluation politique », durant laquelle tout recrutement avait été bloqué (voir EDA 370). Depuis 2003, son recteur est Mgr Ma Yinglin, évêque « officiel » de Kunming (dans le Yunnan), non reconnu par Rome.
(Source: Eglises d'Asie, 6 décembre 2010)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh lễ An táng thân phụ một tu sĩ Dòng Tên tại giáo xứ Thanh Đức
Paul Maria
09:10 06/12/2010
ĐÀ NẴNG - Sáng nay, thứ hai ngày 06/12/2010, Cha giám Tỉnh Dòng Tên Việt Nam đã chủ tế Thánh lễ An táng Ông Cố Phê rô Trần Thọ, thân phụ Thầy Antôn Trần Thanh Tân, Tu sĩ Dòng Tên đang du học tại Boston, Hoa Kỳ. Cùng đồng tế có Cha Tổng Đại diện Giáo phận Đà Nẵng, Cha Giám Đốc Học viện Dòng Tên, Cha Phó Thanh Đức, Cha Hoài SJ và Cha Việt Phó xứ Chánh Tòa Đà Nẵng.
Xem hình ảnh
Ông Cố Phêrô được Chúa gọi về quá bất ngờ và đương tuổi đầy sức sống ( 1955 - 2010 ), nên nhận được nhiều sự thương mến và luyến tiếc của mọi thành phần Dân Chúa. Bởi vậy Thánh lễ An táng sáng nay thật đông đúc người tham dự.
Cuối Thánh lễ, đại diện tang gia đã đọc bức thư tâm tình và ngỏ lời cảm tạ của Thầy Antôn Trần Thanh Tân viết từ Hoa Kỳ:
".. . Từ phương xa, con hiệp thông cùng cộng đoàn, Quý Cha, Quý nam nữ Tu sĩ, bà con thân quyến, mẹ và hai em, cùng cầu nguyện cho ba con, linh hồn Phêrô được Chúa thương gọi về trong Vương Quốc của Ngài.
Khi nghe mẹ nói rằng ba đã ra đi, con thấy mình mất mát điều gì thật khó diễn tả. Con mất đi một người cha để có thể gọi lên: Ba ơi !, một bờ vai để dựa vào khi mỏi mệt, một người bạn để sẻ chia khi cuộc sống thiếu ý nghĩa. Ba đã nuôi con khôn lớn, giúp con trở thành một con người, dạy con hiểu thế nào là yêu thương, hy sinh và nhân ái.
Ba con không vẹn toàn như một số người cha khác. Tuy nhiên, trong tim con, ba mang hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng với mẹ, ba chở che chúng con qua những ngày tháng khó khăn, những thăng trầm của kiếp làm người... Và vui vẻ, động viên con tiếp bước cuộc hành trình của người môn đệ Chúa Kitô.
Trong niềm tin vào Đấng đã phục sinh từ cõi chết, con tin Thiên Chúa sẽ đón nhận ba vào ngôi nhà của tình thương. Người Cha Nhân Hậu sẽ đón ba về cùng Ngài sau hành trình dương thế. Cùng với mẹ và hai em, con cám ơn ba, ba của chúng con. Con không nói lời chia tay ba, vì đối với con, ba vẫn hiện diện trong tim mẹ, trong tim chúng con và trong lời kinh nguyện của cộng đoàn Dân Chúa bên ba lúc này.
Cùng với mẹ và hai em, con chân thành cám ơn Quý Cha, Quý nam nữ Tu sĩ, bà con thân thuộc, cùng tất cả ông bà, anh chị em đã đến viếng thăm, chia buồn, và hiện diện cùng gia đình con trong biến cố ra đi của ba chúng con, cả trong Thánh lễ sáng nay.
Mẹ và anh em chúng con hết lòng tri ân... "
Sau biến cố 1975, ông Cố Phêrô Trần Thọ là một trong Mười Hai anh em sáng lập Nhóm Phụ Trách và Giới Trẻ Giáo xứ Thanh Đức Đà Nẵng vào tháng 9/1979, trong giai đoạn cực kỳ khó khăn của Giáo Hội Việt Nam. Vì thế, đầy đủ các Anh em ngày ấy đã có mặt bên ông Cố Phêrô trong ngày tiễn biệt hôm nay. Anh em tham gia vào " Đội Âm công " để đưa thi hài ông về nơi yên nghỉ cuối cùng tại Sơn Gà, Hòa Vang, Đà Nẵng. Một hành động thật đẹp của tình huynh đệ trong Chúa Giêsu.
" Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho linh hồn Phêrô được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen. "
Xem hình ảnh
Ông Cố Phêrô được Chúa gọi về quá bất ngờ và đương tuổi đầy sức sống ( 1955 - 2010 ), nên nhận được nhiều sự thương mến và luyến tiếc của mọi thành phần Dân Chúa. Bởi vậy Thánh lễ An táng sáng nay thật đông đúc người tham dự.
Cuối Thánh lễ, đại diện tang gia đã đọc bức thư tâm tình và ngỏ lời cảm tạ của Thầy Antôn Trần Thanh Tân viết từ Hoa Kỳ:
".. . Từ phương xa, con hiệp thông cùng cộng đoàn, Quý Cha, Quý nam nữ Tu sĩ, bà con thân quyến, mẹ và hai em, cùng cầu nguyện cho ba con, linh hồn Phêrô được Chúa thương gọi về trong Vương Quốc của Ngài.
Khi nghe mẹ nói rằng ba đã ra đi, con thấy mình mất mát điều gì thật khó diễn tả. Con mất đi một người cha để có thể gọi lên: Ba ơi !, một bờ vai để dựa vào khi mỏi mệt, một người bạn để sẻ chia khi cuộc sống thiếu ý nghĩa. Ba đã nuôi con khôn lớn, giúp con trở thành một con người, dạy con hiểu thế nào là yêu thương, hy sinh và nhân ái.
Ba con không vẹn toàn như một số người cha khác. Tuy nhiên, trong tim con, ba mang hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng với mẹ, ba chở che chúng con qua những ngày tháng khó khăn, những thăng trầm của kiếp làm người... Và vui vẻ, động viên con tiếp bước cuộc hành trình của người môn đệ Chúa Kitô.
Trong niềm tin vào Đấng đã phục sinh từ cõi chết, con tin Thiên Chúa sẽ đón nhận ba vào ngôi nhà của tình thương. Người Cha Nhân Hậu sẽ đón ba về cùng Ngài sau hành trình dương thế. Cùng với mẹ và hai em, con cám ơn ba, ba của chúng con. Con không nói lời chia tay ba, vì đối với con, ba vẫn hiện diện trong tim mẹ, trong tim chúng con và trong lời kinh nguyện của cộng đoàn Dân Chúa bên ba lúc này.
Cùng với mẹ và hai em, con chân thành cám ơn Quý Cha, Quý nam nữ Tu sĩ, bà con thân thuộc, cùng tất cả ông bà, anh chị em đã đến viếng thăm, chia buồn, và hiện diện cùng gia đình con trong biến cố ra đi của ba chúng con, cả trong Thánh lễ sáng nay.
Mẹ và anh em chúng con hết lòng tri ân... "
Sau biến cố 1975, ông Cố Phêrô Trần Thọ là một trong Mười Hai anh em sáng lập Nhóm Phụ Trách và Giới Trẻ Giáo xứ Thanh Đức Đà Nẵng vào tháng 9/1979, trong giai đoạn cực kỳ khó khăn của Giáo Hội Việt Nam. Vì thế, đầy đủ các Anh em ngày ấy đã có mặt bên ông Cố Phêrô trong ngày tiễn biệt hôm nay. Anh em tham gia vào " Đội Âm công " để đưa thi hài ông về nơi yên nghỉ cuối cùng tại Sơn Gà, Hòa Vang, Đà Nẵng. Một hành động thật đẹp của tình huynh đệ trong Chúa Giêsu.
" Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho linh hồn Phêrô được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen. "
Tân Linh Mục dâng lễ TẠ Ơn tại Giáo Xứ Hoà Nghĩa
Thới Hòa
09:23 06/12/2010
SAIGÒN - “Này con đây, Con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,9) -- Thứ Bảy ngày 4 tháng 12 năm 2010, vào 9g00 sáng tại thánh Đường Giáo Xứ, Thánh Lễ Tạ Ơn củaw Tân Linh Mục JB Viễn được cử hành. Thánh Lễ Đồng tế với 13 linh mục trong và ngoài Giáo phận về tham dự thật long trọng, trang nghiêm và sốt sắng.
Xem hình ảnh
Đến lúc kết lễ, sau khi Tân Linh mục JB Võ Quang Viễn ban phép lành đầu tay, Cha Viễn đã nghẹn ngào xúc động nhiều lần khi đọc lời cảm ơn đến tất cà các Linh mục đã có công đào tạo và hướng dẫn Cha theo ơn gọi, Cha Nghĩa Phụ, quí Cha, Quí Sơ, Ân Nhân, Thân Nhân, Quí Đoàn Thể cùng Bà Con thân bằng quyến thuộc. Cha dâng lời lời cảm tạ đặc biệt đến Ba Mẹ... những giọt nước mắt rơi dài trên gò má Tân Linh Mục, làm ông bà cố cũng như anh chị em không sao cầm được…nước mắt.
Tiếp đến là lời cảm ơn, chúc mừng của ông Chủ tịch Hội đồng giáo xứ đại diện cho giáo dân Giáo Xứ Hòa Nghĩa.
Sau Thánh lễ Các Cha và mọi người chụp hình lưu niệm cùng Tân Linh Mục.
Sau cùng là phần liên hoan tiệc mừng, được tổ chức tại sân nhà thờ Giáo xứ thật vui vẻ và phấn khởi, với nhiều tiết mục vũ múa, hát của các anh chị em trong Giáo xứ, mặc dù ngoài trời vẫn mưa lớn. Đến lúc cơn mưa dứt cũng là lúc tan tiệc mọi người vui vẻ ra về.
Xem hình ảnh
Đến lúc kết lễ, sau khi Tân Linh mục JB Võ Quang Viễn ban phép lành đầu tay, Cha Viễn đã nghẹn ngào xúc động nhiều lần khi đọc lời cảm ơn đến tất cà các Linh mục đã có công đào tạo và hướng dẫn Cha theo ơn gọi, Cha Nghĩa Phụ, quí Cha, Quí Sơ, Ân Nhân, Thân Nhân, Quí Đoàn Thể cùng Bà Con thân bằng quyến thuộc. Cha dâng lời lời cảm tạ đặc biệt đến Ba Mẹ... những giọt nước mắt rơi dài trên gò má Tân Linh Mục, làm ông bà cố cũng như anh chị em không sao cầm được…nước mắt.
Tiếp đến là lời cảm ơn, chúc mừng của ông Chủ tịch Hội đồng giáo xứ đại diện cho giáo dân Giáo Xứ Hòa Nghĩa.
Sau Thánh lễ Các Cha và mọi người chụp hình lưu niệm cùng Tân Linh Mục.
Sau cùng là phần liên hoan tiệc mừng, được tổ chức tại sân nhà thờ Giáo xứ thật vui vẻ và phấn khởi, với nhiều tiết mục vũ múa, hát của các anh chị em trong Giáo xứ, mặc dù ngoài trời vẫn mưa lớn. Đến lúc cơn mưa dứt cũng là lúc tan tiệc mọi người vui vẻ ra về.
Tâm sự của một sinh viên Phát Diệm qua buổi chia sẻ Lời Chúa
Giuse Vũ Hoài Nam
07:02 06/12/2010
« Tìm một con đường, tìm một lối đi »: Tâm sự của một sinh viên Phát Diệm qua buổi chia sẻ Lời Chúa (Mt 3, 1-12)
« Mục tiêu trong Mùa Noel của tớ là ‘đi xưng tội’đấy ! », một câu ngắn ngủi chỉ có nửa dòng của một thành viên nick tungbin_th trên forum của trang svphatdiem.com đã đánh động tôi rất mạnh. Tôi cho rằng đó là một trong những comments ngắn nhất, đơn giản nhất trong forum svphatdiem từ trước đến nay, nhưng nó có sức bắt tôi nhìn sâu vào một góc tối của tâm hồn.
Nửa dòng chữ của tungbin_th đã làm cho tôi tự hỏi: tại sao tôi lại không có quyết tâm đi xưng tôi như tungbin_th ? Nếu tôi đi xưng tội, liệu có ảo tưởng không, khi xưng tội phải đi liền với việc chừa tội, mà làm sao tôi có thể chừa tội được trong mấy tuần Mùa Vọng ?! Hoặc, nếu tôi có đi xưng tội, liệu có vô nghĩa không, khi hết Mùa Giáng Sinh rồi, tôi lại đâu vào đó vì đã bao Mùa Giáng Sinh, Mùa Phục Sinh đi ngang qua đời tôi, từ năm này qua năm khác; vì đã biết bao kỳ tĩnh tâm ở Hà Nội, Châu Sơn, Phát Diệm, Sài Gòn; biết bao bài giảng về sám hối mà tôi đã nghe, nhưng sao tôi vẫn thế, tôi vẫn là tôi với một núi khuyết điểm ?! Hơn nữa, tôi vẫn giữ một nếp nghĩ trong đầu tôi từ lâu nay: nếu lòng mình còn nhơ nhớp thì làm sao mà đáng cho Chúa đến ngự ?! Nếu Chúa cần tôi trong sạch để xứng đáng cho Chúa đến, vậy thì Chúa đâu có cao cả, Chúa đâu có nhân hậu, vì Ngài cũng thích chi li, cân đo đong đếm lòng người, thích những điều kiện hết sức phàm trần chẳng khác nào những người tuyển lựa những thí sinh ưu tú vào học trong các trường học, hay tuyển những người ưu tú để khen thưởng ở các công ty vào dịp cuối năm!? Chúa cao cả đâu có cần một sự xưng thú lỗi lầm của tôi như một người hành khất xòe tay xin của bố thí ?!
Nhưng rồi, đêm hôm qua trước khi ngủ, những ý nghĩ đầy lý trí đó trong tôi đã chịu thua một lý luận giản đơn: bố mẹ đâu có cần đứa trẻ phải cho, biếu, tặng quà này, quà nọ thì mới yêu thương nó ? Họ yêu thương nó vô điều kiện, ngay cả khi khi nó làm cho họ phiền lòng. Bố mẹ chỉ cần đứa bé biết lỗi, biết nói lời xin lỗi, thậm chí chẳng cần nó nói gì, nhưng vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa cũng vậy. Ngài còn cao cả hơn thế nhiều vì Ngài yêu thương vô điều kiện. Chính vì Chúa yêu tôi như vậy nên tôi muốn đi xưng tội là để đáp lại tình yêu ấy. Nếu tôi nói tôi đi xưng tội để củng cố mối quan hệ của tôi với Chúa, thì cũng là tốt, nhưng nói như thế là nói theo kiểu pháp lý. Thế đấy, ý tưởng yêu thương đã thắng ý tưởng pháp lý, thắng cả con người lý trí của tôi. Bây giờ tôi có thể mạnh dạn nói với bạn mà không sợ bạn cho rằng tôi bốc đồng: tôi cũng đã lên kế hoạch như tungbin_th: tôi quyết định đi xưng tội trong Mùa Giáng Sinh này, cho dù, thú thực với các bạn, tôi rất ngại đi xưng tội. Có thể sau khi xưng tội, tôi không chừa hết, chừa ngay được các tội của tôi, nhưng tôi chắc chắn, qua Giáo Hội, Chúa tha thứ và tiếp cho tôi một nghị lực mới để tôi chừa dần dần. Nhận ra mình tội lỗi đã là một ân huệ của Chúa. Sám hối, theo tôi, là bắt đầu thay đổi những gì bình thường nhất, nhỏ nhặt nhất mà tôi xét thấy không ổn giữa tôi và Chúa hay giữa tôi và anh em tôi. Chỉ cần cử chỉ quỳ gối khi xưng tội cũng là điều kiện tối thiểu để tình yêu Chúa chạm đến con tim cứng cỏi của tôi.
Không chỉ có mình tungbin_th và tôi tìm cách sám hối. Tối hôm qua mở một CD do một người bạn vừa tặng, tôi nghe được bài « Và con tim đã vui trở lại » mà sinh viên Phát Diệm mình ở Sài Gòn đã có lần hát lúc sinh hoạt. Tôi bỗng thấy như Đức Huy trải lòng mình với tâm tình thiết tha thống hối. Không biết Đức Huy viết bài này trong hoàn cảnh nào, nhưng rõ ràng đó là tâm trạng và ngôn ngữ của một người sám hối. Đức Huy coi việc sám hối như việc « tìm một con đường, tìm một lối đi » để « tình yêu đến như ánh sáng mai xóa tan màn đêm tối cho tôi biến đổi tâm hồn thành một người mới ». Chắc rằng anh đã có những ngày « lạc loài niềm tin sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai cứ vui cho trọn hôm nay ». Chắc rằng Đức Huy cũng đã nghiệm ra nỗi cô đơn, những ê chề thất vọng sau những cuộc vui tàn: « và cuộc vui tàn mọi người bước đi, một mình tôi về nhiều lần ướt mi ». Nếu tôi không hiểu lầm thì hình như anh đã từng đi một con đường thênh thang nào đó, nhưng là con đường lạc, nên anh mới cần « tìm một con đường, tìm một lối đi » ?! Chắc rằng anh đã từng sống những ngày đen tối, nên mới cần đến Ánh Sáng (x. Ga 1) để xóa tan những đêm đen cuộc đời. Chỉ có ánh sáng Chúa Kitô mới làm anh « hy vọng được ơn cứu rỗi », và chỉ có ánh sáng Chúa Kitô mới làm cho « con tim vui trở lại » và « trọn tâm hồn nguyện yêu mãi riêng Người mà thôi ». Tiếp đó, « Dẫu như tôi phải đi qua vực sâu u tối, tôi sẽ không sợ hãi gì vì Người ở bên tôi mãi », Đức Huy đã lấy câu này từ thánh vịnh 22 như xác tín cuộc lột xác của mình để cho « tâm hồn thành một người mới ». Cảm ơn Đức Huy đã cho tôi một chân lý: không có cuộc lột xác, không « tìm một con đường, tìm một lối đi », sẽ không có « con tim sẽ vui trở lại » và « tâm hồn thành một người mới ». Và, xin lỗi Đức Huy nếu tôi hiểu lầm ý của anh.
Chiều nay (Chủ Nhật 5/12/2010) tham dự buổi chia sẻ Lời Chúa (Mt 3,1-12) với sinh viên Phát Diệm tại Sài Gòn, tôi thực sự cảm kích về sự thúc bách của Chúa về việc phải « sám hối vì Nước Trời đã gần đến ». Con người sẽ đi từ bất hạnh này đến bất hạnh khác nếu không sám hối. Giáo Hội sẽ chỉ là một tổ chức xã hội với những cơ chế phẩm trật nặng nề, những lễ nghi cồng kềnh, khó hiểu, nếu Giáo Hội không sám hối. Xã hội cũng sẽ mãi thối nát, chỉ toàn hận thù, lừa dối, tụt hậu, nếu xã hội không biết mình, không biết sám hối để vươn lên. Sám hối là một từ xa xỉ nơi một tâm hồn kiêu ngạo, nơi một xã hội bảo thủ, độc tài. Sám hối chỉ có nơi những tâm hồn khiêm nhượng biết mình tội lỗi, nơi Giáo Hội biết mình đang ôm ấp trong lòng những con người tội lỗi, nơi một xã hội biết mình còn có trái tim.
Tuần sau giới trẻ Phát Diệm sẽ tổ chức chuyến dã ngoại tại Cần Giờ. Thiết nghĩ, nếu cuộc dã ngoại chỉ có lo vui chơi rầm rộ, tổ chức lễ lạt hoành tráng với những hoạt động động trời, mà không mảy may nghĩ đến việc hoán cải, sám hối, thay đổi đời sống, thì chuyến dã ngoại cũng chỉ như một chuyến du lịch do một công ty lữ hành tổ chức không hơn không kém. Cũng thế, nếu lễ Giáng Sinh chỉ lo quà cáp, lo trang trí hang đá cho lộng lẫy, mà tâm hồn vô cảm với những nỗi khổ đau của người khác, việc Chúa xuống trần không tác động làm con người mình thay đổi, thì lễ Giáng sinh cũng là một lễ hội như bao lễ hội mà thôi.
Dường như trong lòng mỗi người đều có một góc tối. Góc tối đó cần phải có Ánh Sáng chiếu soi để « tâm hồn thành một người mới » và để « con tim sẽ vui trở lại » ngay trong Mùa Giáng Sinh 2010 này.
| Sinh viên CG Phát Diệm sinh hoạt tại Sàigòn |
Nửa dòng chữ của tungbin_th đã làm cho tôi tự hỏi: tại sao tôi lại không có quyết tâm đi xưng tôi như tungbin_th ? Nếu tôi đi xưng tội, liệu có ảo tưởng không, khi xưng tội phải đi liền với việc chừa tội, mà làm sao tôi có thể chừa tội được trong mấy tuần Mùa Vọng ?! Hoặc, nếu tôi có đi xưng tội, liệu có vô nghĩa không, khi hết Mùa Giáng Sinh rồi, tôi lại đâu vào đó vì đã bao Mùa Giáng Sinh, Mùa Phục Sinh đi ngang qua đời tôi, từ năm này qua năm khác; vì đã biết bao kỳ tĩnh tâm ở Hà Nội, Châu Sơn, Phát Diệm, Sài Gòn; biết bao bài giảng về sám hối mà tôi đã nghe, nhưng sao tôi vẫn thế, tôi vẫn là tôi với một núi khuyết điểm ?! Hơn nữa, tôi vẫn giữ một nếp nghĩ trong đầu tôi từ lâu nay: nếu lòng mình còn nhơ nhớp thì làm sao mà đáng cho Chúa đến ngự ?! Nếu Chúa cần tôi trong sạch để xứng đáng cho Chúa đến, vậy thì Chúa đâu có cao cả, Chúa đâu có nhân hậu, vì Ngài cũng thích chi li, cân đo đong đếm lòng người, thích những điều kiện hết sức phàm trần chẳng khác nào những người tuyển lựa những thí sinh ưu tú vào học trong các trường học, hay tuyển những người ưu tú để khen thưởng ở các công ty vào dịp cuối năm!? Chúa cao cả đâu có cần một sự xưng thú lỗi lầm của tôi như một người hành khất xòe tay xin của bố thí ?!
Nhưng rồi, đêm hôm qua trước khi ngủ, những ý nghĩ đầy lý trí đó trong tôi đã chịu thua một lý luận giản đơn: bố mẹ đâu có cần đứa trẻ phải cho, biếu, tặng quà này, quà nọ thì mới yêu thương nó ? Họ yêu thương nó vô điều kiện, ngay cả khi khi nó làm cho họ phiền lòng. Bố mẹ chỉ cần đứa bé biết lỗi, biết nói lời xin lỗi, thậm chí chẳng cần nó nói gì, nhưng vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa cũng vậy. Ngài còn cao cả hơn thế nhiều vì Ngài yêu thương vô điều kiện. Chính vì Chúa yêu tôi như vậy nên tôi muốn đi xưng tội là để đáp lại tình yêu ấy. Nếu tôi nói tôi đi xưng tội để củng cố mối quan hệ của tôi với Chúa, thì cũng là tốt, nhưng nói như thế là nói theo kiểu pháp lý. Thế đấy, ý tưởng yêu thương đã thắng ý tưởng pháp lý, thắng cả con người lý trí của tôi. Bây giờ tôi có thể mạnh dạn nói với bạn mà không sợ bạn cho rằng tôi bốc đồng: tôi cũng đã lên kế hoạch như tungbin_th: tôi quyết định đi xưng tội trong Mùa Giáng Sinh này, cho dù, thú thực với các bạn, tôi rất ngại đi xưng tội. Có thể sau khi xưng tội, tôi không chừa hết, chừa ngay được các tội của tôi, nhưng tôi chắc chắn, qua Giáo Hội, Chúa tha thứ và tiếp cho tôi một nghị lực mới để tôi chừa dần dần. Nhận ra mình tội lỗi đã là một ân huệ của Chúa. Sám hối, theo tôi, là bắt đầu thay đổi những gì bình thường nhất, nhỏ nhặt nhất mà tôi xét thấy không ổn giữa tôi và Chúa hay giữa tôi và anh em tôi. Chỉ cần cử chỉ quỳ gối khi xưng tội cũng là điều kiện tối thiểu để tình yêu Chúa chạm đến con tim cứng cỏi của tôi.
Không chỉ có mình tungbin_th và tôi tìm cách sám hối. Tối hôm qua mở một CD do một người bạn vừa tặng, tôi nghe được bài « Và con tim đã vui trở lại » mà sinh viên Phát Diệm mình ở Sài Gòn đã có lần hát lúc sinh hoạt. Tôi bỗng thấy như Đức Huy trải lòng mình với tâm tình thiết tha thống hối. Không biết Đức Huy viết bài này trong hoàn cảnh nào, nhưng rõ ràng đó là tâm trạng và ngôn ngữ của một người sám hối. Đức Huy coi việc sám hối như việc « tìm một con đường, tìm một lối đi » để « tình yêu đến như ánh sáng mai xóa tan màn đêm tối cho tôi biến đổi tâm hồn thành một người mới ». Chắc rằng anh đã có những ngày « lạc loài niềm tin sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai cứ vui cho trọn hôm nay ». Chắc rằng Đức Huy cũng đã nghiệm ra nỗi cô đơn, những ê chề thất vọng sau những cuộc vui tàn: « và cuộc vui tàn mọi người bước đi, một mình tôi về nhiều lần ướt mi ». Nếu tôi không hiểu lầm thì hình như anh đã từng đi một con đường thênh thang nào đó, nhưng là con đường lạc, nên anh mới cần « tìm một con đường, tìm một lối đi » ?! Chắc rằng anh đã từng sống những ngày đen tối, nên mới cần đến Ánh Sáng (x. Ga 1) để xóa tan những đêm đen cuộc đời. Chỉ có ánh sáng Chúa Kitô mới làm anh « hy vọng được ơn cứu rỗi », và chỉ có ánh sáng Chúa Kitô mới làm cho « con tim vui trở lại » và « trọn tâm hồn nguyện yêu mãi riêng Người mà thôi ». Tiếp đó, « Dẫu như tôi phải đi qua vực sâu u tối, tôi sẽ không sợ hãi gì vì Người ở bên tôi mãi », Đức Huy đã lấy câu này từ thánh vịnh 22 như xác tín cuộc lột xác của mình để cho « tâm hồn thành một người mới ». Cảm ơn Đức Huy đã cho tôi một chân lý: không có cuộc lột xác, không « tìm một con đường, tìm một lối đi », sẽ không có « con tim sẽ vui trở lại » và « tâm hồn thành một người mới ». Và, xin lỗi Đức Huy nếu tôi hiểu lầm ý của anh.
Chiều nay (Chủ Nhật 5/12/2010) tham dự buổi chia sẻ Lời Chúa (Mt 3,1-12) với sinh viên Phát Diệm tại Sài Gòn, tôi thực sự cảm kích về sự thúc bách của Chúa về việc phải « sám hối vì Nước Trời đã gần đến ». Con người sẽ đi từ bất hạnh này đến bất hạnh khác nếu không sám hối. Giáo Hội sẽ chỉ là một tổ chức xã hội với những cơ chế phẩm trật nặng nề, những lễ nghi cồng kềnh, khó hiểu, nếu Giáo Hội không sám hối. Xã hội cũng sẽ mãi thối nát, chỉ toàn hận thù, lừa dối, tụt hậu, nếu xã hội không biết mình, không biết sám hối để vươn lên. Sám hối là một từ xa xỉ nơi một tâm hồn kiêu ngạo, nơi một xã hội bảo thủ, độc tài. Sám hối chỉ có nơi những tâm hồn khiêm nhượng biết mình tội lỗi, nơi Giáo Hội biết mình đang ôm ấp trong lòng những con người tội lỗi, nơi một xã hội biết mình còn có trái tim.
Tuần sau giới trẻ Phát Diệm sẽ tổ chức chuyến dã ngoại tại Cần Giờ. Thiết nghĩ, nếu cuộc dã ngoại chỉ có lo vui chơi rầm rộ, tổ chức lễ lạt hoành tráng với những hoạt động động trời, mà không mảy may nghĩ đến việc hoán cải, sám hối, thay đổi đời sống, thì chuyến dã ngoại cũng chỉ như một chuyến du lịch do một công ty lữ hành tổ chức không hơn không kém. Cũng thế, nếu lễ Giáng Sinh chỉ lo quà cáp, lo trang trí hang đá cho lộng lẫy, mà tâm hồn vô cảm với những nỗi khổ đau của người khác, việc Chúa xuống trần không tác động làm con người mình thay đổi, thì lễ Giáng sinh cũng là một lễ hội như bao lễ hội mà thôi.
Dường như trong lòng mỗi người đều có một góc tối. Góc tối đó cần phải có Ánh Sáng chiếu soi để « tâm hồn thành một người mới » và để « con tim sẽ vui trở lại » ngay trong Mùa Giáng Sinh 2010 này.
Buổi sinh hoạt tháng 12 của Nhóm Giới Trẻ Phát Diệm tại Sài Gòn
Ban Liên Lạc
07:10 06/12/2010
Buổi sinh hoạt tháng 12 của Nhóm Giới Trẻ Phát Diệm tại Sài Gòn
Như đã quy định, Chủ nhật 5/12 là ngày những người trẻ Phát Diệm xa quê tạm bỏ lại những ồn ào náo nhiệt của thành phố, quy tụ tại An Dưỡng Viện Phát Diệm để gặp nhau và cùng nhau gặp Chúa. Họ về đây như về nhà của mình. Thật vậy, khó mà tìm được chỗ nào ở thành phố ồn ào này một chốn yên bình như ở đây, khó mà tìm được ở nơi đâu khác sự ấm áp của những người đồng hương, đồng đạo. Nhất là, họ xác tín, khi họ gặp nhau có Chúa ở giữa họ: “ Nơi nào có hai hoặc ba người họp nhau vì danh ta thì ta ở giữa họ”
Xem hình sinh hoạt
Cuộc gặp mặt ngày hôm qua của nhóm quy tụ được khoảng 100 bạn trẻ trong đó có 22 thành viên lần đầu tiên đến tham dự. Anh chị em thật cảm động được đón tiếp một vài bạn không Công giáo cũng đến sinh hoạt với nhóm. Đến đây với nhau, những ưu tư, trăn trở, những bộn bề của cuộc sống của các bạn dường như được thay thế bằng những tiếng cười vô tư, trong sáng. Các bạn đến đây không ai là người xa lạ, không ai là người bên lề vì tất cả “ chỉ có một Thiên Chúa là Cha”.
Buổi sinh hoạt của nhóm bắt đầu bằng những tiết mục văn nghệ sôi nổi, trẻ trung, hài hước dưới sự hướng dẫn của hai hoạt náo viên khá nổi tiếng của Phát Diệm: Minh Dưỡng (Mông Hưu) và Thiên Ân (gốc Khiết Kỷ). Hai anh đã cuốn hút hàng trăm bạn trẻ vào những trò chơi lý thú tạo cho các bạn hoà mình vào những kỹ năng sinh hoạt tập thể. Các bạn hãy xem hình những trò chơi có thưởng có phạt thì sẽ thấy: chúng vừa mang tính giải trí, vừa mang tính giáo dục.
Đến sinh hoạt với Nhóm Giới Trẻ Phát Diệm không chỉ để chơi, để vui cười. Nếu chỉ có mục đích đó thì e rằng các tổ chức đoàn thể bên ngoài tổ chức còn tốt hơn mình. Thật vậy, Nhóm Phát Diệm lấy việc đọc và cầu nguyện với Lời Chúa là một trong những chương trình “đinh” của buổi sinh hoạt. Đó là những giây phút tĩnh lặng để mọi người lắng đọng tâm hồn, lắng nghe Chúa nói với lòng mình cũng như để mình được Lời Chúa thấm sâu vào tâm hồn. Đoạn Tin Mừng theo thánh Mat-thêu đã đưa mọi người đến tâm tình “sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Sám hối, thay đổi đời sống là một việc tối cần đối với mọi người vì đó là điều kiện để đón nhận Nước Trời. Ánh sáng và những bài nhạc của linh mục Thành Tâm làm mọi người chìm lặng trong một cõi xa xăm, linh thiêng, lắng đọng.
Đỉnh cao của buổi gặp gỡ là Thánh lễ do cha Đaminh Trần Quốc Bảo C.Ss.R chủ sự. Bằng những hình ảnh, những câu chuyện sinh động, cha đã hướng các bạn trẻ về sự cần thiết phải sám hối, phải thay đổi. Mỗi người, mỗi nhà phải sám hối. Giáo Hội và cả xã hội nữa cũng phải sám hối để hướng đến một chân trời mới. Sám hối là thay đổi những thói hư, tật xấu, những điều làm tổn thương tới Chúa và tới anh em.
Tuần tới (ngày 11 và 12 tháng 12), nhóm Phát Diệm sẽ tổ chức đi dã ngoại ở Cần Giờ vơi chủ đề: “Dọn đường cho Chúa đến, mở lối để gặp nhau”. Trong chuyến dã ngoại này, mỗi người trẻ Phát Diệm sẽ là một món quà vô giá cho nhau. Họ sẽ gặp nhau để cùng nhau gặp Chúa. Họ cũng sẽ gặp và chia sẻ thời gian và sự hiện hữu của mình với những người nghèo ở Cần Giờ, cũng là để gặp Chúa qua người nghèo. Nhưng gặp ai thì gặp, vui đến mấy thì vui, nhưng nếu chuyến đi của họ không làm cho mỗi người biết sám hối với Chúa, không làm cho mọi người gần nhau hơn, không thay đổi lối sống cũ, thì e rằng chuyến đi dã ngoại của chúng ta chưa thực sự thành công.
Như đã quy định, Chủ nhật 5/12 là ngày những người trẻ Phát Diệm xa quê tạm bỏ lại những ồn ào náo nhiệt của thành phố, quy tụ tại An Dưỡng Viện Phát Diệm để gặp nhau và cùng nhau gặp Chúa. Họ về đây như về nhà của mình. Thật vậy, khó mà tìm được chỗ nào ở thành phố ồn ào này một chốn yên bình như ở đây, khó mà tìm được ở nơi đâu khác sự ấm áp của những người đồng hương, đồng đạo. Nhất là, họ xác tín, khi họ gặp nhau có Chúa ở giữa họ: “ Nơi nào có hai hoặc ba người họp nhau vì danh ta thì ta ở giữa họ”
Xem hình sinh hoạt
Cuộc gặp mặt ngày hôm qua của nhóm quy tụ được khoảng 100 bạn trẻ trong đó có 22 thành viên lần đầu tiên đến tham dự. Anh chị em thật cảm động được đón tiếp một vài bạn không Công giáo cũng đến sinh hoạt với nhóm. Đến đây với nhau, những ưu tư, trăn trở, những bộn bề của cuộc sống của các bạn dường như được thay thế bằng những tiếng cười vô tư, trong sáng. Các bạn đến đây không ai là người xa lạ, không ai là người bên lề vì tất cả “ chỉ có một Thiên Chúa là Cha”.
Buổi sinh hoạt của nhóm bắt đầu bằng những tiết mục văn nghệ sôi nổi, trẻ trung, hài hước dưới sự hướng dẫn của hai hoạt náo viên khá nổi tiếng của Phát Diệm: Minh Dưỡng (Mông Hưu) và Thiên Ân (gốc Khiết Kỷ). Hai anh đã cuốn hút hàng trăm bạn trẻ vào những trò chơi lý thú tạo cho các bạn hoà mình vào những kỹ năng sinh hoạt tập thể. Các bạn hãy xem hình những trò chơi có thưởng có phạt thì sẽ thấy: chúng vừa mang tính giải trí, vừa mang tính giáo dục.
Đến sinh hoạt với Nhóm Giới Trẻ Phát Diệm không chỉ để chơi, để vui cười. Nếu chỉ có mục đích đó thì e rằng các tổ chức đoàn thể bên ngoài tổ chức còn tốt hơn mình. Thật vậy, Nhóm Phát Diệm lấy việc đọc và cầu nguyện với Lời Chúa là một trong những chương trình “đinh” của buổi sinh hoạt. Đó là những giây phút tĩnh lặng để mọi người lắng đọng tâm hồn, lắng nghe Chúa nói với lòng mình cũng như để mình được Lời Chúa thấm sâu vào tâm hồn. Đoạn Tin Mừng theo thánh Mat-thêu đã đưa mọi người đến tâm tình “sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Sám hối, thay đổi đời sống là một việc tối cần đối với mọi người vì đó là điều kiện để đón nhận Nước Trời. Ánh sáng và những bài nhạc của linh mục Thành Tâm làm mọi người chìm lặng trong một cõi xa xăm, linh thiêng, lắng đọng.
Đỉnh cao của buổi gặp gỡ là Thánh lễ do cha Đaminh Trần Quốc Bảo C.Ss.R chủ sự. Bằng những hình ảnh, những câu chuyện sinh động, cha đã hướng các bạn trẻ về sự cần thiết phải sám hối, phải thay đổi. Mỗi người, mỗi nhà phải sám hối. Giáo Hội và cả xã hội nữa cũng phải sám hối để hướng đến một chân trời mới. Sám hối là thay đổi những thói hư, tật xấu, những điều làm tổn thương tới Chúa và tới anh em.
Tuần tới (ngày 11 và 12 tháng 12), nhóm Phát Diệm sẽ tổ chức đi dã ngoại ở Cần Giờ vơi chủ đề: “Dọn đường cho Chúa đến, mở lối để gặp nhau”. Trong chuyến dã ngoại này, mỗi người trẻ Phát Diệm sẽ là một món quà vô giá cho nhau. Họ sẽ gặp nhau để cùng nhau gặp Chúa. Họ cũng sẽ gặp và chia sẻ thời gian và sự hiện hữu của mình với những người nghèo ở Cần Giờ, cũng là để gặp Chúa qua người nghèo. Nhưng gặp ai thì gặp, vui đến mấy thì vui, nhưng nếu chuyến đi của họ không làm cho mỗi người biết sám hối với Chúa, không làm cho mọi người gần nhau hơn, không thay đổi lối sống cũ, thì e rằng chuyến đi dã ngoại của chúng ta chưa thực sự thành công.
Sinh viên giáo phận Bắc Ninh hành hương năm thánh
SVCG Bắc Ninh
09:33 06/12/2010
BẮC NINH - Ngày 4-5/12/2010, hơn 200 sinh viên thuộc các nhóm Sinh viên Công giáo (SVCG) Bắc Ninh đang theo học tại Hà Nội, nhóm SVCG học tại tỉnh Bắc Ninh, nhóm SVCG Nông Nghiệp, nhóm SVCG học tại tỉnh Thái Nguyên, nhóm SVCG Cẩm Giang và nhóm SVCG Hưng Yên đã hành hương năm thánh về nhà Thờ Chính Tòa Bắc Ninh với chủ đề “Về nhà Cha”.
Xem hình ảnh
Trong tâm tình hiệp thông và cảm tạ sau bữa cơm thanh đạm tối ngày 4 /12/2010, các bạn sinh viên đã ngồi bên nhau để hồi tâm lại quãng thời gian vừa qua. Sau phút hồi tâm mặc dù thời gian đã khá khuya nhưng tất cả các bạn sinh viên đã được lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải.
Sáng Chúa Nhật ngày 5/12/2010, các bạn sinh viên cùng nhau sinh hoạt để bắt đầu một ngày mới. Đúng 7g30’ phút đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt giám mục giáo phận Bắc ninh, quý cha ở tòa giám mục và một bạn đại biểu đại diện cho giới trẻ vừa đi tham dự Đại Hội Dân Chúa về đã đến để chia sẻ về Đại Hội Dân Chúa vừa diễn ra tại Trung Tâm Mục Vụ Tp. Hồ Chí Minh. Trong buổi giao lưu với bầu khí gia đình, đức cha và quý cha cũng đã chia sẻ về chủ đề cũng như công tác chuẩn bị cho Đại Hội Giới Trẻ năm 2011 của giáo tỉnh Hà Nội sẽ được tổ chức tại giáo phận Bắc ninh, đức cha cũng đã trả lời những thắc mắc và ưu tư của các bạn sinh viên, đồng thời ngài nhắn nhủ và động viên các bạn sinh viên hãy cố gắng học tập và làm chứng cho Tin Mừng và xây dựng “Văn Minh Tình Thương” nơi học đường và cho cho tất cả những người mà các bạn sinh viên gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày.
Thánh lễ cầu nguyện cho các bạn sinh viên diễn ra lúc 10g00 do Đức Cha Cosma chủ sự cùng đồng tế với ngài có một số cha trong giáo phận. Trong thánh lễ đức cha đã chia sẻ những sứ vụ và đồng trách nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa, mà các bạn các bạn sinh viên có thể làm được rất nhiều điều cho Giáo hội trong môi trường và những đặc thù riêng trong thời đại ngày hôm nay.
Cuối cùng, đức cha và tất cả các bạn sinh viên đang hiện diện trong ngày hành hương hôm nay đã cùng nhau quyết định hàng năm vào ngày Chúa Nhật II Mùa Vọng sẽ là ngày họp mặt SVCG của giáo phận Bắc ninh.
Xem hình ảnh
Trong tâm tình hiệp thông và cảm tạ sau bữa cơm thanh đạm tối ngày 4 /12/2010, các bạn sinh viên đã ngồi bên nhau để hồi tâm lại quãng thời gian vừa qua. Sau phút hồi tâm mặc dù thời gian đã khá khuya nhưng tất cả các bạn sinh viên đã được lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải.
Sáng Chúa Nhật ngày 5/12/2010, các bạn sinh viên cùng nhau sinh hoạt để bắt đầu một ngày mới. Đúng 7g30’ phút đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt giám mục giáo phận Bắc ninh, quý cha ở tòa giám mục và một bạn đại biểu đại diện cho giới trẻ vừa đi tham dự Đại Hội Dân Chúa về đã đến để chia sẻ về Đại Hội Dân Chúa vừa diễn ra tại Trung Tâm Mục Vụ Tp. Hồ Chí Minh. Trong buổi giao lưu với bầu khí gia đình, đức cha và quý cha cũng đã chia sẻ về chủ đề cũng như công tác chuẩn bị cho Đại Hội Giới Trẻ năm 2011 của giáo tỉnh Hà Nội sẽ được tổ chức tại giáo phận Bắc ninh, đức cha cũng đã trả lời những thắc mắc và ưu tư của các bạn sinh viên, đồng thời ngài nhắn nhủ và động viên các bạn sinh viên hãy cố gắng học tập và làm chứng cho Tin Mừng và xây dựng “Văn Minh Tình Thương” nơi học đường và cho cho tất cả những người mà các bạn sinh viên gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày.
Thánh lễ cầu nguyện cho các bạn sinh viên diễn ra lúc 10g00 do Đức Cha Cosma chủ sự cùng đồng tế với ngài có một số cha trong giáo phận. Trong thánh lễ đức cha đã chia sẻ những sứ vụ và đồng trách nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa, mà các bạn các bạn sinh viên có thể làm được rất nhiều điều cho Giáo hội trong môi trường và những đặc thù riêng trong thời đại ngày hôm nay.
Cuối cùng, đức cha và tất cả các bạn sinh viên đang hiện diện trong ngày hành hương hôm nay đã cùng nhau quyết định hàng năm vào ngày Chúa Nhật II Mùa Vọng sẽ là ngày họp mặt SVCG của giáo phận Bắc ninh.
Trò chuyện với Chủ Tịch Liên Đoàn về chuyến viếng thăm Việt Nam tháng 11/2010
Liên Đoàn CGVN
09:54 06/12/2010
Linh mục Chủ Tịch Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ, LM Giuse Nguyễn Thanh Liêm, vừa trở lại Hoa Kỳ ngày 3 tháng 12, 2010 sau chuyến viếng thăm Việt Nam ba tuần trong tháng 11 vừa qua. Phóng viên của Website Liên Đoàn có cuộc trò chuyện thân mật với Cha dưới đây.
Xem hình ảnh
PV: Thưa Cha, xin cho biết mục đích của chuyến đi kỳ này?
Cha Liêm : Chúng tôi về Việt Nam với các mục đích sau: Thăm viếng và tìm hiểu về tình hình lũ lụt 2010 cùng việc cứu trợ của Giáo Hội VN qua Caritas, HĐGM VN; thăm viếng và tìm hiểu về tình hình các Cha già hưu dưỡng; chào thăm HĐGM VN và tham dự Đại Hội Dân Chúa.
PV: Xin Cha cho biết về tình hình lũ lụt vừa qua và việc cứu trợ như thế nào?
Cha Liêm : Chúng tôi có đến Nha Trang, Vinh, Huế chào thăm các Đức Cha, cũng như vào Sài Gòn gặp Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Giám Đốc Caritas, Ủy Ban Bác Ái Xã Hội HĐGM VN, để tìm hiểu. Các ngài đã chia sẻ rằng, trong hai tháng 10, 11 vừa qua, lũ lụt đã tấn công vào Miền Trung nhiều đợt, đặc biệt tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Khánh Hòa, Nha Trang, Thừa Thiên-Huế, gây thiệt hại rất nặng nề về nhân mạng, tài sản, nhà cửa, ruộng vườn của dân chúng. Tính đến nay, có 159 người thiệt mạng, hơn 1,000 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn, hàng trăm ngàn ngôi nhà bị úng, ngập nước, khoảng 27,000 hecta lúa, hoa màu, cây ăn trái bị hư hại, nhiều công trình hạ tầng cơ sở, đường sá bị hư hỏng và thiệt hại vật chất lên đến nhiều tỉ đồng. Những ngày ở Việt Nam, chúng tôi được tin lũ lụt lại tấn công Huế, triều cường sông Hương dâng cao, nhiều đường phố bị ngập lụt, lưu thông gián đoạn, và cũng làm thiệt mạng thêm ít nhất 4 người. Ngay trong mùa lũ lụt, các địa phận ở Việt Nam đã kêu gọi mọi người quyên góp và giúp đỡ nạn nhân. Nhiều địa phận cùng với Caritas Trung Ương Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức các đoàn đến cứu trợ những nơi lũ lụt, phân phối thuốc men, thực phẩm, nông cụ cho đồng bào nạn nhân không phân biệt lương giáo. Tại Nha Trang, chúng tôi có gặp đoàn của một Caritas giáo phận đang trên đường đi cứu trợ, dừng chân ở Tòa Giám Mục. Hiện tại, việc trợ giúp ‘hậu lũ lụt’ là điều khẩn thiết. Người dân tại các vùng lụt cần được giúp đỡ về y tế, hạt giống, nông cụ để ổn định lại cuộc sống. Nhu cầu cần được trợ giúp quá lớn do có nhiều nạn nhân lũ lụt, trong khi khả năng thì ít, là mối lo lắng chính của các Giám Mục liên hệ và của Caritas, HĐGM VN.
PV: Đâu là nguyên nhân của các vụ lũ lụt xảy ra hằng năm ở Việt Nam?
Cha Liêm : Nhiều người cho rằng có hai nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan là việc biến đổi áp suất, khí hậu, nhiệt độ trong vùng, và nguyên nhân chủ quan: do việc phá hoại môi sinh, khai thác, chặt cây rừng bừa bãi, cũng như hậu quả của việc xây dựng, quản lý yếu kém, thiếu kiểm soát và phối hợp hoạt động giữa các công trình thủy điện với những vùng, xã, làng nằm trong khu vực, do đó đa số các vùng này bị lũ lụt nặng. Ngay cả báo chí trong nước cũng kêu lên rằng: hậu quả của lũ lụt do thiên tai thì ít mà do nhân tai thì nhiều! Một số xã, huyện bị ngập lụt cũng đã khởi tố công trình thủy điện và đòi bồi thường thiệt hại về nhân mạng và tài sản.
PV: Liên Đoàn làm gì để trợ giúp nạn nhân lũ lụt?
Cha Liêm : Ngay trong tháng 11 vừa qua, Liên Đoàn đã phát động chiến dịch lạc quyên rộng rãi trên Hoa Kỳ giúp đồng bào lũ lụt không phân biệt lương giáo. Hiện nay, có nhiều giáo xứ, cộng đoàn và ân nhân đã hưởng ứng và gởi về Liên Đoàn qua địa chỉ: Lien Doan, PO Box 1958, Flowery Branch – GA 30542, check đề: LIEN DOAN, memo: HELP LulutVN 2010. Liên Đoàn sẽ gởi các đóng góp về Caritas của HĐGM VN như thường lệ. Chiến dịch sẽ kết thúc vào ngày 30 tháng 12, 2010. Tất cả các tin tức và danh sách đóng góp đăng trên vietcatholic.org và liendoanconggiáo.net. Chúng tôi cũng gởi thư cám ơn riêng đến từng giáo xứ, cộng đoàn và ân nhân khi nhận được sự đóng góp.
PV: Tình hình sinh hoạt và việc nâng đỡ cho các Cha già hưu dưỡng tại Việt Nam như thế nào?
Cha Liêm : Chúng tôi có tiếp xúc với các Đức Cha liên hệ, cùng với việc chúng tôi và Ban Chấp Hành Hội Tương Trợ LM Hưu Dưỡng VN đến thăm viếng các Cha Già tại một số giáo phận. Qua những cuộc tiếp xúc, thăm viếng trực tiếp này, chúng tôi nhận thấy các Cha già đều được các giáo phận chăm sóc chu đáo từ đời sống đến tinh thần. Tuy nhiên nhu cầu quá bao la, khả năng lại hạn chế, cho nên vẫn rất cần sự giúp đỡ lâu dài của quý ân nhân. Đặc biệt, các Cha đều tuổi cao, bệnh tật thường xuyên, cần được chăm sóc đời sống và y tế, thuốc men. Các Đức Cha cho biết, HĐGM VN hằng năm vẫn phân phối quà cho các Cha qua sự giúp đỡ của quý ân nhân khắp nơi trên Hoa Kỳ đến Hội Tương Trợ LM Hưu Dưỡng. Danh sách các Cha già được các Giám Mục địa phận cập nhật thường xuyên. Chúng tôi cũng chân thành cám ơn sự quảng đại trợ giúp cho các Cha già VN của nhiều giáo xứ, cộng đoàn tại Hoa Kỳ cho chương trình này.
PV: Được tin Cha có ra Hà Nội, xin cho biết thêm chi tiết về chuyến đi?
Cha Liêm : Vâng, chúng tôi có ra Hà Nội trước Đại Hội Dân Chúa để chào thăm Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGM VN và Đức Cha Phụ Tá Laurenso Chu Văn Minh, được các ngài ưu ái tiếp đón. Một vài Cha ở Hà Nội cũng cho biết thêm, Đức Tổng dù mới về Hà Nội được vài tháng nay, đã cố gắng đi viếng thăm và làm mục vụ ở nhiều giáo xứ, cộng đoàn. Ngài được các Cha và giáo dân khắp nơi tỏ lòng quý trọng và yêu mến, nhất là khi thấy ngài là người cầu nguyện, đạo đức cao, nhẹ nhàng, giàu lòng nhân ái và khiêm nhường, có cuộc sống nội tâm sâu sắc và luôn quan tâm đến việc phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội và anh chị em của mình dù ở đâu, trong cương vị nào. Với ngài, ngài nói, cũng gặp ít nhiều khó khăn do còn mới, cần thời gian để nắm bắt và hiểu thêm về tình hình, nhân sự và nhu cầu của giáo phận. Ngài chân thành chia sẻ, luôn cảm nghiệm được sự Bình An trong cuộc sống hiện tại, vì đã vâng lời Đức Thánh Cha ra đây dù muôn ngàn khó khăn và phức tạp. Đức Tổng cũng cho biết, ưu tư hàng đầu của ngài là truyền giáo và mục vụ cho Giáo Phận. Đây cũng là những thao thức chung của các Giám Mục VN chúng tôi có dịp tiếp xúc.
PV: Được biết, Cha có đến thăm Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, tình hình sức khỏe của ngài hiện ra sao?
Cha Liêm : Chúng tôi có ra Nho Quan thăm ngài cùng với Ban Chấp Hành Hội Tương Trợ LM Hưu Dưỡng VN, để tường trình hoạt động giúp các Cha già của Hội và chuyển lời hỏi thăm và quan tâm đến ngài của nhiều Linh Mục và giáo dân ở Hoa Kỳ. Ngài tỏ lòng biết ơn, cũng như thay mặt cho các Cha già, ngài cám ơn tất cả quý ân nhân và Hội đã tích cực hoạt động giúp đỡ. Đức Tổng có vẻ mạnh khỏe, tươi tắn hơn trong khung cảnh thiên nhiên, đồng quê tại đây. Ngài cho biết, tình trạng mất ngủ thường xuyên vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục khả quan và cũng còn ảnh hưởng đến khả năng làm việc trí óc. Ngài có dẫn chúng tôi đi tham quan các nơi sinh hoạt của nhà dòng: vườn rau, ao cá, nhà làm nến, khu nuôi heo, thỏ v.v.. Ngài tỏ vẻ hài lòng với cuộc sống ở đây trong bầu khí cầu nguyện và lao tác của nhà dòng.
PV: Nghe nói có nhiều đoàn, người đến Nho Quan thăm ngài và nhà dòng, bản thân ngài có gặp.. . khó khăn gì không?
Cha Liêm : Vâng, nhiều người mộ mến và đến thăm ngài lắm. Ngài cho biết chưa gặp phiền hà hay khó khăn gì từ phía chính quyền. Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, địa phận Phát Diệm, cũng cho hay về phía địa phận cũng vậy.
PV: Việc ngài về đó để tĩnh dưỡng, có gây ra vấn đề hay ảnh hưởng gì đến các Giám Mục khác không?
Cha Liêm : Chúng tôi có đặt câu hỏi này với nhiều vị Giám Mục khi về tham dự Đại Hội Dân Chúa, các ngài cho biết, không có vấn đề hay ảnh hưởng gì cả, ngược lại, các ngài thấy rất thuận lợi cho Đức Tổng vì khung cảnh, bầu khí nhà dòng, và khí hậu ở Nho Quan thích hợp và tốt cho sức khỏe của ngài. Các Đức Cha cũng mong sức khỏe của ngài chóng phục hồi, để có thể tiếp tục ra phục vụ trở lại. “Ngài còn quá trẻ để nghỉ hưu”, một vị chia sẻ.
PV: Theo sự nhận định của một số người, những vụ việc xảy ra liên quan đến công bình, công bằng và sự thật ở Việt Nam trong các năm gần đây, đã ảnh hưởng ít nhiều đến uy tín của HĐGM VN và sự Hiệp Nhất trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Cha nghĩ sao?
Cha Liêm : Những nhận định trên có cơ sở và lý do riêng, tuy vậy, chúng ta cũng nên bình tâm suy xét vấn đề với con mắt khách quan để nhận định được chính xác và phù hợp hơn trong bối cảnh và tình trạng chung. Chúng ta đều thấy, ở khắp nơi trên thế giới đều luôn xảy ra những vụ việc liên quan đến công bình, công bằng và sự thật, và không ai có khả năng giải quyết vấn đề một cách triệt để và rốt ráo, do thể chế chính trị, pháp luật, quân sự, kinh tế, giáo dục, hay do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội và con người luôn tác động vào. Cũng dễ dàng nhận ra, những quốc gia nào có chính sách và pháp luật thật sự tôn trọng tự do, nhân quyền, dân chủ và nâng cao nhân phẩm thì vấn đề ít nổi cộm hơn. Trong nhiều năm qua, chính Tòa Thánh và Hội Đồng Giám Mục của các nước đã không ngừng lên tiếng với nhân loại và chính phủ các nước cần quan tâm và giải quyết các vấn đề này. Tiếng nói của các ngài được tôn trọng và lắng nghe, nhưng kết quả xem ra vẫn còn quá...khiêm nhường! Tình trạng áp bức, bất công, bất bình đẳng vẫn còn đó; tình trạng giàu-nghèo ngày càng cách biệt; quyền sống của thai nhi, nhân phẩm và tự do của con người bị chà đạp trắng trợn; những giá trị đạo đức, tôn giáo và gia đình truyền thống xuống cấp và biến thái trầm trọng; những tệ đoan xã hội: trộm cướp, lừa gạt, dối trá, xì ke, ma túy, mãi dâm, mua bán trẻ em, bóc lột lao động v.v. có chiều hướng gia tăng đến mức đáng ngại tỉ lệ thuận với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia. Tại Việt Nam, các vấn đề và tình trạng nêu trên không phải là hiện tượng cá biệt so với các quốc gia khác. Chúng ta cũng nên công tâm và khách quan nhận ra rằng, trong bối cảnh đất nước và xã hội hiện nay, HĐGM VN cũng gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại trong việc kêu gọi thực thi công lý, công bằng và sự thật. Được nghe các ngài và những người trong cuộc chia sẻ, chúng tôi mới có thể hiểu và biết thêm hơn những nỗ lực của HĐGM VN, và của từng Giám Mục giáo phận, trong những việc làm âm thầm và công khai những khi có thể được, để phục vụ Giáo Hội và Dân Chúa. Chúng tôi cũng nhận thấy, mỗi giáo phận đều có những thuận lợi lẫn khó khăn riêng, không nơi nào giống nơi nào, như ở Hoa Kỳ, tùy theo tình hình thực tế ở giáo phận, các Giám Mục trong trách nhiệm Chủ Chăn địa phương được Đức Thánh Cha trao phó, có những chương trình, phương cách riêng sao cho việc phục vụ mọi người đạt được ích lợi nhất. Cầu nguyện, cảm thông và tích cực cộng tác để cho những bất công diễn ra khắp nơi ít hơn, cũng như để cho nền công lý, hòa bình và sự thật sớm hiển trị, thiết nghĩ, là những thái độ cần thiết hiện nay của mỗi người chúng ta nên có đối với Giáo Hội Mẹ Việt Nam nói chung và với HĐGM VN nói riêng.
PV: HĐGM VN trong cuộc họp mới đây đã cho thành lập Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP, Giám Mục địa phận Vinh, được phân công trách nhiệm về Ủy Ban này. Cha có cảm tưởng gì khi gặp ngài?
Cha Liêm : Trong dịp đến địa phận Vinh để tìm hiểu về tình hình lũ lụt, chúng tôi được Đức Cha tiếp đón hết sức chu đáo và chân tình. Ngài đã chia sẻ với chúng tôi về tình hình và những nỗ lực cứu trợ nạn nhân lũ lụt, cũng như công việc của Ủy Ban và những chương trình mục vụ ở giáo phận. Cảm tưởng về ngài? Chúng tôi rất quý trọng nhân cách, tinh thần dấn thân và phục vụ của ngài, cũng như cảm phục học lực uyên bác và những tư tưởng, suy tư sâu sắc bày tỏ trong những sách báo đăng tải đó đây trong nước và ở hải ngoại. Chúng tôi nhận thấy, như các vị Giám Mục VN khác và nhiều người Việt Nam trong nước lẫn hải ngoại, ngài có lòng yêu mến thiết tha với vận mạng và tiền đồ của Đất Nước và Giáo Hội Việt Nam. Ngài có những thao thức, ưu tư về cuộc sống của người dân nghèo và những bất công xảy ra trong xã hội mà họ là những nạn nhân khốn khổ. Chúng tôi được biết, ngài đã tu học và trong một thời gian dài làm việc mục vụ ở nhiều nước khác nhau. Với kiến thức và kinh nghiệm phong phú đó, cộng thêm kinh nghiệm khi cọ sát và tiếp cận với tình hình thực tế, cảm nghiệm và chứng kiến những thực trạng xảy ra trong lòng đất nước, con người và Giáo Hội VN, chắc chắn ngài sẽ có những đóng góp hữu ích cho Đất Nước, Giáo Hội Việt Nam nói chung và cho Giáo Phận Vinh nói riêng. Hiện nay, như những Ủy Ban khác của HĐGM VN, công việc của ngài trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình rất nặng nề, phức tạp và nhiều khó khăn, khi nhân sự và phương tiện làm việc còn quá thiếu thốn. Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Giám Đốc Caritas, cũng giải thích thêm, Ủy Ban này quan tâm đến những nguyên tắc và đối tượng gây ra các bất công, trong khi Ủy Ban Bác Ái và Xã Hội lo cho các nạn nhân và giúp cải thiện đời sống của họ. Vô hình trung hai ủy ban liên quan mật thiết với nhau để phục vụ cho cùng một mục đích: thực thi Công Lý và Hòa Bình. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta: hãy cùng chung tay góp sức kiến tạo nền ‘văn hóa sự sống’ và ‘văn minh tình thương’ trên toàn thế giới theo lời mời gọi tha thiết của Tòa Thánh, đặc biệt là của các Đức Giáo Hoàng quá cố hay đương nhiệm.
PV: Cha có đến thăm các chủng viện? Ơn gọi tại Việt Nam lúc này như thế nào?
Cha Liêm : Vâng, khi ở Nha Trang chúng tôi được Cha Giám Đốc Chủng Viện Sao Biển mời đến gặp gỡ và chia sẻ với các Thầy về các sinh hoạt của Liên Đoàn, cũng như về những vui buồn trong Ơn Gọi và đời sống Linh Mục ở Hoa Kỳ. Tại Vinh, chúng tôi dâng Thánh Lễ và chia sẻ lời Chúa với các anh em tiền chủng sinh trong nhà nguyện của Tòa Giám Mục. So với các quốc gia khác, Ơn Gọi ở Việt Nam chúng ta khá dồi dào. Tuy vậy, nhân sự phục vụ, đặc biệt là Linh Mục, còn thiếu thốn nhiều ở các địa phận. Dù gặp khó khăn như vậy, chúng tôi cũng được biết, Giáo Hội chúng ta trong những năm gần đây, cũng đã quảng đại chia sẻ nhân sự với các Giáo Hội Nhật bản, Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Lào, Mã Lai, Indonesia, Campuchia và cả Hoa Kỳ.
PV: Theo Cha, trong việc huấn luyện và đào tạo chủng sinh tại Việt Nam, vấn đề gì cần nên quan tâm trong bối cảnh chung của thế giới hiện nay?
Cha Liêm : Khi trao đổi với các Giám Mục cũng như với những vị có trách nhiệm tại các chủng viện, chúng tôi được biết, các chương trình và môn học tại Việt Nam chúng ta, giống như các nước khác, đều theo sát chương trình đào tạo và huấn luyện của Tòa Thánh. Do hoàn cảnh gặp khó khăn trong quá khứ dẫn đến việc thiếu thốn nhân sự làm việc mục vụ khắp nơi trong nước, các chủng viện hiện đang nỗ lực để đáp ứng cho đủ nhu cầu hiện tại. Việc này hiện nay vẫn còn chưa xong, và chắc là cần thêm một thời gian tương đối lâu dài nữa. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa không riêng gì trong lãnh vực thông tin, truyền thông, giáo dục, kinh tế hay thương mại, theo thiển ý, các chủng viện nên khuyến khích và tạo điều kiện để chủng sinh hiểu biết hơn về tình hình, đời sống của xã hội, con người và môi trường ngay tại Việt Nam; khuyến khích họ trau giồi thêm các sinh ngữ phổ thông, và nếu có hoàn cảnh và điều kiện, nên cho họ tiếp cận với các văn hóa, phong tục, tôn giáo, tập quán và con người của các dân tộc khác, nhờ đó trước hết công việc mục vụ ngay trong nước sẽ tốt hơn, cùng với việc sẵn sàng làm việc mục vụ truyền giáo cho những dân tộc hay các quốc gia khác trong tương lai.
PV: Xin Cha chia sẻ một vài cảm nghiệm khi tham dự Đại Hội Dân Chúa ở Sài Gòn vừa qua?
Cha Liêm :Thầy Phó Tế Giuse Nguyễn Hòa Phú, Tổng Thư Ký, và chúng tôi cùng tham dự Đại Hội này. Đây là một biến cố lịch sử của Giáo Hội Việt Nam vì là lần đầu tiên Đại Hội đã quy tụ khá đầy đủ đại diện các thành phần Dân Chúa. Về mặt tổ chức, Đại Hội được Tổng Giáo Phận Sài Gòn lo lắng hết sức chu đáo dưới sự chỉ đạo của Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, Trưởng Ban Tổ Chức, cùng quý thành viên và nhân viên trong Ban Tổ Chức. Về mặt nội dung, Đại Hội diễn ra trong bầu khí cầu nguyện sốt sắng với lịch trình hằng ngày, ba Giám Mục của ba Giáo Tỉnh Hà Nội, Huế và Sài Gòn, lần lượt trình bày các tham luận chính theo chủ đề Giáo Hội: Mầu Nhiệm, Hiệp Thông và Sứ Vụ. Đại Hội sau đó cũng nghe những tham luận của các đại biểu khác. Sau đó phân chia về nhóm đóng góp thêm ý kiến trong những bài tham luận chủ lực. Chúng tôi nhận thấy nhiều ý kiến đóng góp, đáng chú ý từ các đại biểu Giáo Dân. Họ đã phản ánh những ưu tư, tâm tình cũng như đưa ra những đề nghị hữu ích, thiết thực để xây dựng và phát triển Giáo Hội. Chúng tôi cảm nghiệm được sự trưởng thành, tinh thần dấn thân, trách nhiệm và lòng nhiệt thành xây dựng Giáo Hội của anh chị em Giáo Dân. Chúng tôi nghĩ rằng, nhiều Giáo Dân sẽ hoàn thành tốt các trách nhiệm được tín nhiệm giao phó phù hợp với hoàn cảnh và khả năng của họ. Với những đóng góp trí tuệ, tiềm năng về nhân sự, tài chánh trong nước lẫn hải ngoại, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, Giáo Hội Việt Nam sẽ có một bước tiến đáng kể về mọi mặt, đặc biệt trong sứ mạng Truyền Giáo. Tưởng cũng nên nói thêm, sự hiện diện khá đông đủ quý Đức Cha trong HĐGM VN, ngoại trừ một vài vị do già yếu hay tình trạng sức khỏe không cho phép tham dự, cũng như sự hiện diện của các đại diện HĐGM các quốc gia bạn, cùng đại diện cộng đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại, đã nói lên sự Hiệp Nhất và Hiệp Thông với nhau trong cùng một Giáo Hội duy nhất do Chúa Giêsu thiết lập. Chúng tôi cũng tâm đắc với HĐGM VN về Sứ Điệp của Đại Hội Dân Chúa 2010 công bố trong ngày bế mạc 25/11/2010, đặc biệt việc HĐGM VN “đề nghị Chính quyền Việt Nam mở rộng cánh cửa cho các tôn giáo tham gia vào việc giáo dục học đường và y tế cộng đồng, vì ích lợi của người dân và của cả dân tộc”. Thiết nghĩ, đây là những đề nghị hết sức chính đáng và khẩn thiết. Giáo Hội ở đâu cũng mong góp phần mình phục vụ cho công ích và cho mọi người không kể lương giáo. Hai lãnh vực Giáo Dục và Y Tế ở những quốc gia khác đều luôn có sự đóng góp tích cực của các tôn giáo, do vậy xã hội được lành mạnh và tốt đẹp hơn.
PV: Việc Đức Cha Kontum Micae Hoàng Đức Oanh đã gặp khó khăn với một vài chính quyền địa phương, khi ngài đi thăm viếng và thi hành mục vụ cần thiết mà các Chủ Chăn cần phải làm ngay trong giáo phận của ngài trong thời gian vừa qua, Cha có nghe và nhận định gì?
Cha Liêm : Nhiều người phản ảnh, đó là việc đáng buồn và đáng tiếc xảy ra, khi vẫn còn một số địa phương đó đây gây ra những trở ngại, khó khăn không cần thiết liên quan đến tự do tôn giáo, nhất là hiện nay, Việt Nam đang cố gắng hòa nhập vào dòng sinh hoạt chung của thế giới về mọi phương diện. Những việc làm đó, hiển nhiên, làm cho bộ mặt của Việt Nam xấu đi trên trường quốc tế. Chúng tôi được nghe, Đức Cha cũng đang cố gắng đối thoại với những chính quyền địa phương đó để giải quyết những ‘lấn cấn’ trong sự cảm thông, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Hy vọng rằng, ngài sẽ đạt được kết quả tốt đẹp để tương lai không còn xảy ra những việc đáng tiếc đó nữa.
Về vấn đề tự do và cởi mở tôn giáo, xem ra Trung Quốc đang đi trước chúng ta. Đức Cha đại diện HĐGM Đài Loan tham dự Đại Hội Dân Chúa có cho chúng tôi biết, Trung Quốc đã gởi các nữ tu sang làm việc mục vụ ở Đài Loan, và hiện đang chuẩn bị gởi chủng sinh sang đó tu học nữa. Tiến Sĩ Trác Tân Bình, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo Thế Giới của Trung Quốc, ngay trong Chương I: Tôn Giáo là gì? trong tác phẩm Lý Giải Tôn Giáo, do nhà Xuất Bản Hà Nội ấn hành năm 2007, cũng chỉ rõ, do sự hiểu biết tiêu cực về tôn giáo, chính những học giả tôn giáo của Trung Quốc trong một thời gian khá dài trước đây, có những nhận định sai lạc và thành kiến về bản chất tôn giáo. Sau những phân tích khách quan, khoa học và đầy tính thuyết phục, ông khẳng định: “Tôn giáo là một bộ phận của văn hóa tinh thần các dân tộc, nếu chỉ nói đến một công năng tiêu cực nào đó của tôn giáo, thì sẽ không thấy được một cách biện chứng, lịch sử, toàn diện, phát triển những tác dụng xã hội của tôn giáo trong toàn bộ quá trình phát triển văn minh nhân loại, không có lợi cho chúng ta trong việc coi trọng lịch sử văn hóa, tư tưởng tình cảm của các dân tộc anh em trong và ngoài nước, cũng không có lợi cho sự giao lưu văn hóa thế giới và thúc đẩy sự đoàn kết giữa các dân tộc”.
Đức Cha Kontum là người hết lòng quan tâm đến tương lai của đất nước và Giáo Hội, đặc biệt là giới trẻ, rườm cột của nước nhà. Do vậy, thỉnh thoảng chúng ta nghe ngài lên tiếng hướng dẫn các sinh viên, học sinh Công Giáo để học hành và sống tốt lành hơn. Ngài cũng lên tiếng về những vấn đề liên quan đến nền Giáo Dục bất cập hiện tại, và như HĐGM VN, mong chính quyền Việt Nam xem xét lại chính sách Giáo Dục hiện tại, để cho các tôn giáo cùng cộng tác trong lãnh vực này. Phải chăng chính vì vậy, ngài bị các địa phương gây khó dễ?
PV: Cha cũng đã đại diện cho Liên Đoàn có bài tham luận và những đề nghị trong Đại Hội. Phản ứng của dư luận như thế nào?
Cha Liêm : Những phản ứng chúng tôi nhận được tại Việt Nam hay khi về lại bên này, rất tích cực. Một số vị Giám Mục, Linh Mục, Nữ Tu, Giáo Dân đã khen ngợi, nhất là các đề nghị nêu lên cụ thể và hữu ích. Cũng cần nói ngay, bài tham luận là công trình tập thể của Liên Đoàn. Chúng tôi chân thành cám ơn một số vị trong Ban Lãnh Đạo Liên Đoàn đã cùng cộng tác, đóng góp ý kiến, sửa chữa bản thảo để bài tham luận được hoàn chỉnh. Liên Đoàn chúng ta trong tình Hiệp Thông với Giáo Hội Mẹ đóng góp ý kiến trong Đại Hội, cùng với những đóng góp từ nhiều người khác, mong góp phần xây dựng Giáo Hội Mẹ mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn.
PV: Nghe đồn rằng, Đà Lạt sắp sửa có Giám Mục mới và khả năng về đó là... Đức Cha Hưng Hóa Antôn Vũ Huy Chương, Cha có nhận được thông tin gì không?
Cha Liêm : Chúng tôi có gặp ngài trong Đại Hội Dân Chúa, ngài tủm tỉm cười, nói rằng, ‘Chưa nghe Tòa Thánh gọi’. Hỏi thăm một vài đấng khác, “tin chính thức từ Tòa Thánh thì chưa, tin đồn thì... tùm lum rồi, mà tin đồn ở Việt Nam bây giờ... chắc là có...thật!”. Quay lại nói với Đức Cha: “Nghe tin đồn... tùm lum, thì chắc là thật...rồi, Đức Cha sẵn sàng đi Đà Lạt chưa?” Ngài lại cười, vui vẻ trả lời, “Luôn luôn sẵn sàng, Đức Thánh Cha kêu đi đâu thì đi đó, không bao giờ thắc mắc”. Gặp một Cha Đà Lạt về tham dự Đại Hội, than thở, “Đà Lạt đang ‘khát’ Đức Cha mới muốn chết..., ai về cũng được! Công việc ở Giáo Phận mấy tháng nay cứ trì trệ mãi, không ai có thẩm quyền quyết định việc gì trừ Đức Cha. Ai nấy đều mỏi mệt quá chừng!”
PV: Sau Đại Hội, Giáo Phận Mỹ Tho có tổ chức Thánh Lễ Tạ Ơn ngày 26/11/2010, mừng 50 năm thành lập Giáo Phận 1960-2010, Giáo Phận Mỹ Tho hiện nay thế nào?
Cha Liêm : Chúng tôi được tháp tùng Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, TGM Sàigòn, và phái đoàn về tham dự theo lời mời của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho. Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGM VN, cùng nhiều vị Giám Mục khác cũng hiện diện Hiệp Thông trong Thánh Lễ này. Trên đường vào lễ đài tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Giáo Phận, có rất nhiều giáo dân của các giáo xứ kéo về chung vui ngày hội lớn của Giáo Phận. Đức Hồng Y đã chủ tế và Đức Cha Mỹ Tho chia sẻ lời Chúa thật súc tích. Được biết, từ khi thành lập bởi Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII, Giáo Phận có 3 Giám Mục chính: Đức Cha Giuse Trần Văn Thiện, Đức Cha Anrê Nguyễn Văn Nam, và Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc đương nhiệm. Giáo dân hiện nay có 123,864, giáo xứ 84, giáo họ 24, Linh Mục 120 và chủng sinh 40. So với thời điểm năm 1960, tất cả đều tăng trưởng mạnh. Đức Cha Mỹ Tho, nổi danh là ‘thần học gia’ ở Việt Nam, luôn vui cười, bình dân, thoải mái và giản dị, đúng là phong cách của dân...miền Nam. Đức Hồng Y trước khi về Tổng Giáo Phận Sài Gòn vốn là Giám Mục Phó (1993-1998) của địa phận này, có lẽ ‘uống nước nhớ nguồn’, nên trước khi ban phép lành cuối lễ, đã kể ba chuyện vui về truyền giáo ‘đặc sệt’ miền Nam... thật dí dỏm, bình dị và dễ thương.
PV: Trong thời gian tới, Liên Đoàn hay cá nhân Cha có những chương trình và hoạt động gì?
Cha Liêm : Trước mắt, Liên Đoàn cố gắng hoàn tất chiến dịch lạc quyên giúp lũ lụt. Sang năm 2011, Liên Đoàn tiếp tục tổ chức Hành Hương Đức Mẹ La Vang tại thủ đô Washington vào tháng 6/2011, Đại Hội Phó Tế diễn ra vào tháng 7/2011 và Đại Hội Linh Mục Việt Nam- Emmaus IV, vào tháng 10/2011, cả hai Đại Hội sẽ tổ chức tại Houston, Texas. Các vị trong Ban Tổ Chức đã chuẩn bị ráo riết chương trình từ mấy tháng nay rồi. Cá nhân chúng tôi cùng Ban Lãnh Đạo Liên Đoàn sẽ làm việc chặt chẽ và hỗ trợ cho các Ban Tổ Chức liên hệ để các chương trình được thành công tốt đẹp. Ngoài ra, chúng tôi sẽ tiếp tục chương trình đến thăm viếng các Miền, giáo xứ, cộng đoàn Việt Nam trên Hoa Kỳ để nối kết tình Hiệp Thông, cũng như chia sẻ về Chương Trình Nâng Đỡ Các Cha Già Hưu Dưỡng ở Việt Nam do HĐGM VN đề ra và mời gọi Liên Đoàn cộng tác hơn 2 năm về trước. Chúng tôi cũng sẽ tham dự các phiên họp do Ủy Ban Á Châu Thái Bình Dương của HĐGM Hoa Kỳ triệu tập, và tham dự các Đại Hội, Hành Hương cấp Miền, Vùng nếu thời gian cho phép. Song song đó, chúng tôi cũng bắt đầu tiến hành các chuẩn bị cần thiết để bầu cử Chủ Tịch Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ, cũng là Chủ Tịch Liên Đoàn, cho nhiệm kỳ mới, kết quả dự kiến sẽ có vào tháng 8/2011, để ngài sẵn sàng làm việc, khi nhiệm kỳ của chúng tôi chấm dứt vào tháng 10/2011.
PV: Cảm ơn Cha đã chân thành chia sẻ.
Xem hình ảnh
PV: Thưa Cha, xin cho biết mục đích của chuyến đi kỳ này?
Cha Liêm : Chúng tôi về Việt Nam với các mục đích sau: Thăm viếng và tìm hiểu về tình hình lũ lụt 2010 cùng việc cứu trợ của Giáo Hội VN qua Caritas, HĐGM VN; thăm viếng và tìm hiểu về tình hình các Cha già hưu dưỡng; chào thăm HĐGM VN và tham dự Đại Hội Dân Chúa.
PV: Xin Cha cho biết về tình hình lũ lụt vừa qua và việc cứu trợ như thế nào?
Cha Liêm : Chúng tôi có đến Nha Trang, Vinh, Huế chào thăm các Đức Cha, cũng như vào Sài Gòn gặp Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Giám Đốc Caritas, Ủy Ban Bác Ái Xã Hội HĐGM VN, để tìm hiểu. Các ngài đã chia sẻ rằng, trong hai tháng 10, 11 vừa qua, lũ lụt đã tấn công vào Miền Trung nhiều đợt, đặc biệt tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Khánh Hòa, Nha Trang, Thừa Thiên-Huế, gây thiệt hại rất nặng nề về nhân mạng, tài sản, nhà cửa, ruộng vườn của dân chúng. Tính đến nay, có 159 người thiệt mạng, hơn 1,000 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn, hàng trăm ngàn ngôi nhà bị úng, ngập nước, khoảng 27,000 hecta lúa, hoa màu, cây ăn trái bị hư hại, nhiều công trình hạ tầng cơ sở, đường sá bị hư hỏng và thiệt hại vật chất lên đến nhiều tỉ đồng. Những ngày ở Việt Nam, chúng tôi được tin lũ lụt lại tấn công Huế, triều cường sông Hương dâng cao, nhiều đường phố bị ngập lụt, lưu thông gián đoạn, và cũng làm thiệt mạng thêm ít nhất 4 người. Ngay trong mùa lũ lụt, các địa phận ở Việt Nam đã kêu gọi mọi người quyên góp và giúp đỡ nạn nhân. Nhiều địa phận cùng với Caritas Trung Ương Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức các đoàn đến cứu trợ những nơi lũ lụt, phân phối thuốc men, thực phẩm, nông cụ cho đồng bào nạn nhân không phân biệt lương giáo. Tại Nha Trang, chúng tôi có gặp đoàn của một Caritas giáo phận đang trên đường đi cứu trợ, dừng chân ở Tòa Giám Mục. Hiện tại, việc trợ giúp ‘hậu lũ lụt’ là điều khẩn thiết. Người dân tại các vùng lụt cần được giúp đỡ về y tế, hạt giống, nông cụ để ổn định lại cuộc sống. Nhu cầu cần được trợ giúp quá lớn do có nhiều nạn nhân lũ lụt, trong khi khả năng thì ít, là mối lo lắng chính của các Giám Mục liên hệ và của Caritas, HĐGM VN.
PV: Đâu là nguyên nhân của các vụ lũ lụt xảy ra hằng năm ở Việt Nam?
Cha Liêm : Nhiều người cho rằng có hai nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan là việc biến đổi áp suất, khí hậu, nhiệt độ trong vùng, và nguyên nhân chủ quan: do việc phá hoại môi sinh, khai thác, chặt cây rừng bừa bãi, cũng như hậu quả của việc xây dựng, quản lý yếu kém, thiếu kiểm soát và phối hợp hoạt động giữa các công trình thủy điện với những vùng, xã, làng nằm trong khu vực, do đó đa số các vùng này bị lũ lụt nặng. Ngay cả báo chí trong nước cũng kêu lên rằng: hậu quả của lũ lụt do thiên tai thì ít mà do nhân tai thì nhiều! Một số xã, huyện bị ngập lụt cũng đã khởi tố công trình thủy điện và đòi bồi thường thiệt hại về nhân mạng và tài sản.
PV: Liên Đoàn làm gì để trợ giúp nạn nhân lũ lụt?
Cha Liêm : Ngay trong tháng 11 vừa qua, Liên Đoàn đã phát động chiến dịch lạc quyên rộng rãi trên Hoa Kỳ giúp đồng bào lũ lụt không phân biệt lương giáo. Hiện nay, có nhiều giáo xứ, cộng đoàn và ân nhân đã hưởng ứng và gởi về Liên Đoàn qua địa chỉ: Lien Doan, PO Box 1958, Flowery Branch – GA 30542, check đề: LIEN DOAN, memo: HELP LulutVN 2010. Liên Đoàn sẽ gởi các đóng góp về Caritas của HĐGM VN như thường lệ. Chiến dịch sẽ kết thúc vào ngày 30 tháng 12, 2010. Tất cả các tin tức và danh sách đóng góp đăng trên vietcatholic.org và liendoanconggiáo.net. Chúng tôi cũng gởi thư cám ơn riêng đến từng giáo xứ, cộng đoàn và ân nhân khi nhận được sự đóng góp.
PV: Tình hình sinh hoạt và việc nâng đỡ cho các Cha già hưu dưỡng tại Việt Nam như thế nào?
Cha Liêm : Chúng tôi có tiếp xúc với các Đức Cha liên hệ, cùng với việc chúng tôi và Ban Chấp Hành Hội Tương Trợ LM Hưu Dưỡng VN đến thăm viếng các Cha Già tại một số giáo phận. Qua những cuộc tiếp xúc, thăm viếng trực tiếp này, chúng tôi nhận thấy các Cha già đều được các giáo phận chăm sóc chu đáo từ đời sống đến tinh thần. Tuy nhiên nhu cầu quá bao la, khả năng lại hạn chế, cho nên vẫn rất cần sự giúp đỡ lâu dài của quý ân nhân. Đặc biệt, các Cha đều tuổi cao, bệnh tật thường xuyên, cần được chăm sóc đời sống và y tế, thuốc men. Các Đức Cha cho biết, HĐGM VN hằng năm vẫn phân phối quà cho các Cha qua sự giúp đỡ của quý ân nhân khắp nơi trên Hoa Kỳ đến Hội Tương Trợ LM Hưu Dưỡng. Danh sách các Cha già được các Giám Mục địa phận cập nhật thường xuyên. Chúng tôi cũng chân thành cám ơn sự quảng đại trợ giúp cho các Cha già VN của nhiều giáo xứ, cộng đoàn tại Hoa Kỳ cho chương trình này.
PV: Được tin Cha có ra Hà Nội, xin cho biết thêm chi tiết về chuyến đi?
Cha Liêm : Vâng, chúng tôi có ra Hà Nội trước Đại Hội Dân Chúa để chào thăm Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGM VN và Đức Cha Phụ Tá Laurenso Chu Văn Minh, được các ngài ưu ái tiếp đón. Một vài Cha ở Hà Nội cũng cho biết thêm, Đức Tổng dù mới về Hà Nội được vài tháng nay, đã cố gắng đi viếng thăm và làm mục vụ ở nhiều giáo xứ, cộng đoàn. Ngài được các Cha và giáo dân khắp nơi tỏ lòng quý trọng và yêu mến, nhất là khi thấy ngài là người cầu nguyện, đạo đức cao, nhẹ nhàng, giàu lòng nhân ái và khiêm nhường, có cuộc sống nội tâm sâu sắc và luôn quan tâm đến việc phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội và anh chị em của mình dù ở đâu, trong cương vị nào. Với ngài, ngài nói, cũng gặp ít nhiều khó khăn do còn mới, cần thời gian để nắm bắt và hiểu thêm về tình hình, nhân sự và nhu cầu của giáo phận. Ngài chân thành chia sẻ, luôn cảm nghiệm được sự Bình An trong cuộc sống hiện tại, vì đã vâng lời Đức Thánh Cha ra đây dù muôn ngàn khó khăn và phức tạp. Đức Tổng cũng cho biết, ưu tư hàng đầu của ngài là truyền giáo và mục vụ cho Giáo Phận. Đây cũng là những thao thức chung của các Giám Mục VN chúng tôi có dịp tiếp xúc.
PV: Được biết, Cha có đến thăm Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, tình hình sức khỏe của ngài hiện ra sao?
Cha Liêm : Chúng tôi có ra Nho Quan thăm ngài cùng với Ban Chấp Hành Hội Tương Trợ LM Hưu Dưỡng VN, để tường trình hoạt động giúp các Cha già của Hội và chuyển lời hỏi thăm và quan tâm đến ngài của nhiều Linh Mục và giáo dân ở Hoa Kỳ. Ngài tỏ lòng biết ơn, cũng như thay mặt cho các Cha già, ngài cám ơn tất cả quý ân nhân và Hội đã tích cực hoạt động giúp đỡ. Đức Tổng có vẻ mạnh khỏe, tươi tắn hơn trong khung cảnh thiên nhiên, đồng quê tại đây. Ngài cho biết, tình trạng mất ngủ thường xuyên vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục khả quan và cũng còn ảnh hưởng đến khả năng làm việc trí óc. Ngài có dẫn chúng tôi đi tham quan các nơi sinh hoạt của nhà dòng: vườn rau, ao cá, nhà làm nến, khu nuôi heo, thỏ v.v.. Ngài tỏ vẻ hài lòng với cuộc sống ở đây trong bầu khí cầu nguyện và lao tác của nhà dòng.
PV: Nghe nói có nhiều đoàn, người đến Nho Quan thăm ngài và nhà dòng, bản thân ngài có gặp.. . khó khăn gì không?
Cha Liêm : Vâng, nhiều người mộ mến và đến thăm ngài lắm. Ngài cho biết chưa gặp phiền hà hay khó khăn gì từ phía chính quyền. Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, địa phận Phát Diệm, cũng cho hay về phía địa phận cũng vậy.
PV: Việc ngài về đó để tĩnh dưỡng, có gây ra vấn đề hay ảnh hưởng gì đến các Giám Mục khác không?
Cha Liêm : Chúng tôi có đặt câu hỏi này với nhiều vị Giám Mục khi về tham dự Đại Hội Dân Chúa, các ngài cho biết, không có vấn đề hay ảnh hưởng gì cả, ngược lại, các ngài thấy rất thuận lợi cho Đức Tổng vì khung cảnh, bầu khí nhà dòng, và khí hậu ở Nho Quan thích hợp và tốt cho sức khỏe của ngài. Các Đức Cha cũng mong sức khỏe của ngài chóng phục hồi, để có thể tiếp tục ra phục vụ trở lại. “Ngài còn quá trẻ để nghỉ hưu”, một vị chia sẻ.
PV: Theo sự nhận định của một số người, những vụ việc xảy ra liên quan đến công bình, công bằng và sự thật ở Việt Nam trong các năm gần đây, đã ảnh hưởng ít nhiều đến uy tín của HĐGM VN và sự Hiệp Nhất trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Cha nghĩ sao?
Cha Liêm : Những nhận định trên có cơ sở và lý do riêng, tuy vậy, chúng ta cũng nên bình tâm suy xét vấn đề với con mắt khách quan để nhận định được chính xác và phù hợp hơn trong bối cảnh và tình trạng chung. Chúng ta đều thấy, ở khắp nơi trên thế giới đều luôn xảy ra những vụ việc liên quan đến công bình, công bằng và sự thật, và không ai có khả năng giải quyết vấn đề một cách triệt để và rốt ráo, do thể chế chính trị, pháp luật, quân sự, kinh tế, giáo dục, hay do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội và con người luôn tác động vào. Cũng dễ dàng nhận ra, những quốc gia nào có chính sách và pháp luật thật sự tôn trọng tự do, nhân quyền, dân chủ và nâng cao nhân phẩm thì vấn đề ít nổi cộm hơn. Trong nhiều năm qua, chính Tòa Thánh và Hội Đồng Giám Mục của các nước đã không ngừng lên tiếng với nhân loại và chính phủ các nước cần quan tâm và giải quyết các vấn đề này. Tiếng nói của các ngài được tôn trọng và lắng nghe, nhưng kết quả xem ra vẫn còn quá...khiêm nhường! Tình trạng áp bức, bất công, bất bình đẳng vẫn còn đó; tình trạng giàu-nghèo ngày càng cách biệt; quyền sống của thai nhi, nhân phẩm và tự do của con người bị chà đạp trắng trợn; những giá trị đạo đức, tôn giáo và gia đình truyền thống xuống cấp và biến thái trầm trọng; những tệ đoan xã hội: trộm cướp, lừa gạt, dối trá, xì ke, ma túy, mãi dâm, mua bán trẻ em, bóc lột lao động v.v. có chiều hướng gia tăng đến mức đáng ngại tỉ lệ thuận với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia. Tại Việt Nam, các vấn đề và tình trạng nêu trên không phải là hiện tượng cá biệt so với các quốc gia khác. Chúng ta cũng nên công tâm và khách quan nhận ra rằng, trong bối cảnh đất nước và xã hội hiện nay, HĐGM VN cũng gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại trong việc kêu gọi thực thi công lý, công bằng và sự thật. Được nghe các ngài và những người trong cuộc chia sẻ, chúng tôi mới có thể hiểu và biết thêm hơn những nỗ lực của HĐGM VN, và của từng Giám Mục giáo phận, trong những việc làm âm thầm và công khai những khi có thể được, để phục vụ Giáo Hội và Dân Chúa. Chúng tôi cũng nhận thấy, mỗi giáo phận đều có những thuận lợi lẫn khó khăn riêng, không nơi nào giống nơi nào, như ở Hoa Kỳ, tùy theo tình hình thực tế ở giáo phận, các Giám Mục trong trách nhiệm Chủ Chăn địa phương được Đức Thánh Cha trao phó, có những chương trình, phương cách riêng sao cho việc phục vụ mọi người đạt được ích lợi nhất. Cầu nguyện, cảm thông và tích cực cộng tác để cho những bất công diễn ra khắp nơi ít hơn, cũng như để cho nền công lý, hòa bình và sự thật sớm hiển trị, thiết nghĩ, là những thái độ cần thiết hiện nay của mỗi người chúng ta nên có đối với Giáo Hội Mẹ Việt Nam nói chung và với HĐGM VN nói riêng.
PV: HĐGM VN trong cuộc họp mới đây đã cho thành lập Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP, Giám Mục địa phận Vinh, được phân công trách nhiệm về Ủy Ban này. Cha có cảm tưởng gì khi gặp ngài?
Cha Liêm : Trong dịp đến địa phận Vinh để tìm hiểu về tình hình lũ lụt, chúng tôi được Đức Cha tiếp đón hết sức chu đáo và chân tình. Ngài đã chia sẻ với chúng tôi về tình hình và những nỗ lực cứu trợ nạn nhân lũ lụt, cũng như công việc của Ủy Ban và những chương trình mục vụ ở giáo phận. Cảm tưởng về ngài? Chúng tôi rất quý trọng nhân cách, tinh thần dấn thân và phục vụ của ngài, cũng như cảm phục học lực uyên bác và những tư tưởng, suy tư sâu sắc bày tỏ trong những sách báo đăng tải đó đây trong nước và ở hải ngoại. Chúng tôi nhận thấy, như các vị Giám Mục VN khác và nhiều người Việt Nam trong nước lẫn hải ngoại, ngài có lòng yêu mến thiết tha với vận mạng và tiền đồ của Đất Nước và Giáo Hội Việt Nam. Ngài có những thao thức, ưu tư về cuộc sống của người dân nghèo và những bất công xảy ra trong xã hội mà họ là những nạn nhân khốn khổ. Chúng tôi được biết, ngài đã tu học và trong một thời gian dài làm việc mục vụ ở nhiều nước khác nhau. Với kiến thức và kinh nghiệm phong phú đó, cộng thêm kinh nghiệm khi cọ sát và tiếp cận với tình hình thực tế, cảm nghiệm và chứng kiến những thực trạng xảy ra trong lòng đất nước, con người và Giáo Hội VN, chắc chắn ngài sẽ có những đóng góp hữu ích cho Đất Nước, Giáo Hội Việt Nam nói chung và cho Giáo Phận Vinh nói riêng. Hiện nay, như những Ủy Ban khác của HĐGM VN, công việc của ngài trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình rất nặng nề, phức tạp và nhiều khó khăn, khi nhân sự và phương tiện làm việc còn quá thiếu thốn. Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Giám Đốc Caritas, cũng giải thích thêm, Ủy Ban này quan tâm đến những nguyên tắc và đối tượng gây ra các bất công, trong khi Ủy Ban Bác Ái và Xã Hội lo cho các nạn nhân và giúp cải thiện đời sống của họ. Vô hình trung hai ủy ban liên quan mật thiết với nhau để phục vụ cho cùng một mục đích: thực thi Công Lý và Hòa Bình. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta: hãy cùng chung tay góp sức kiến tạo nền ‘văn hóa sự sống’ và ‘văn minh tình thương’ trên toàn thế giới theo lời mời gọi tha thiết của Tòa Thánh, đặc biệt là của các Đức Giáo Hoàng quá cố hay đương nhiệm.
PV: Cha có đến thăm các chủng viện? Ơn gọi tại Việt Nam lúc này như thế nào?
Cha Liêm : Vâng, khi ở Nha Trang chúng tôi được Cha Giám Đốc Chủng Viện Sao Biển mời đến gặp gỡ và chia sẻ với các Thầy về các sinh hoạt của Liên Đoàn, cũng như về những vui buồn trong Ơn Gọi và đời sống Linh Mục ở Hoa Kỳ. Tại Vinh, chúng tôi dâng Thánh Lễ và chia sẻ lời Chúa với các anh em tiền chủng sinh trong nhà nguyện của Tòa Giám Mục. So với các quốc gia khác, Ơn Gọi ở Việt Nam chúng ta khá dồi dào. Tuy vậy, nhân sự phục vụ, đặc biệt là Linh Mục, còn thiếu thốn nhiều ở các địa phận. Dù gặp khó khăn như vậy, chúng tôi cũng được biết, Giáo Hội chúng ta trong những năm gần đây, cũng đã quảng đại chia sẻ nhân sự với các Giáo Hội Nhật bản, Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Lào, Mã Lai, Indonesia, Campuchia và cả Hoa Kỳ.
PV: Theo Cha, trong việc huấn luyện và đào tạo chủng sinh tại Việt Nam, vấn đề gì cần nên quan tâm trong bối cảnh chung của thế giới hiện nay?
Cha Liêm : Khi trao đổi với các Giám Mục cũng như với những vị có trách nhiệm tại các chủng viện, chúng tôi được biết, các chương trình và môn học tại Việt Nam chúng ta, giống như các nước khác, đều theo sát chương trình đào tạo và huấn luyện của Tòa Thánh. Do hoàn cảnh gặp khó khăn trong quá khứ dẫn đến việc thiếu thốn nhân sự làm việc mục vụ khắp nơi trong nước, các chủng viện hiện đang nỗ lực để đáp ứng cho đủ nhu cầu hiện tại. Việc này hiện nay vẫn còn chưa xong, và chắc là cần thêm một thời gian tương đối lâu dài nữa. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa không riêng gì trong lãnh vực thông tin, truyền thông, giáo dục, kinh tế hay thương mại, theo thiển ý, các chủng viện nên khuyến khích và tạo điều kiện để chủng sinh hiểu biết hơn về tình hình, đời sống của xã hội, con người và môi trường ngay tại Việt Nam; khuyến khích họ trau giồi thêm các sinh ngữ phổ thông, và nếu có hoàn cảnh và điều kiện, nên cho họ tiếp cận với các văn hóa, phong tục, tôn giáo, tập quán và con người của các dân tộc khác, nhờ đó trước hết công việc mục vụ ngay trong nước sẽ tốt hơn, cùng với việc sẵn sàng làm việc mục vụ truyền giáo cho những dân tộc hay các quốc gia khác trong tương lai.
PV: Xin Cha chia sẻ một vài cảm nghiệm khi tham dự Đại Hội Dân Chúa ở Sài Gòn vừa qua?
Cha Liêm :Thầy Phó Tế Giuse Nguyễn Hòa Phú, Tổng Thư Ký, và chúng tôi cùng tham dự Đại Hội này. Đây là một biến cố lịch sử của Giáo Hội Việt Nam vì là lần đầu tiên Đại Hội đã quy tụ khá đầy đủ đại diện các thành phần Dân Chúa. Về mặt tổ chức, Đại Hội được Tổng Giáo Phận Sài Gòn lo lắng hết sức chu đáo dưới sự chỉ đạo của Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, Trưởng Ban Tổ Chức, cùng quý thành viên và nhân viên trong Ban Tổ Chức. Về mặt nội dung, Đại Hội diễn ra trong bầu khí cầu nguyện sốt sắng với lịch trình hằng ngày, ba Giám Mục của ba Giáo Tỉnh Hà Nội, Huế và Sài Gòn, lần lượt trình bày các tham luận chính theo chủ đề Giáo Hội: Mầu Nhiệm, Hiệp Thông và Sứ Vụ. Đại Hội sau đó cũng nghe những tham luận của các đại biểu khác. Sau đó phân chia về nhóm đóng góp thêm ý kiến trong những bài tham luận chủ lực. Chúng tôi nhận thấy nhiều ý kiến đóng góp, đáng chú ý từ các đại biểu Giáo Dân. Họ đã phản ánh những ưu tư, tâm tình cũng như đưa ra những đề nghị hữu ích, thiết thực để xây dựng và phát triển Giáo Hội. Chúng tôi cảm nghiệm được sự trưởng thành, tinh thần dấn thân, trách nhiệm và lòng nhiệt thành xây dựng Giáo Hội của anh chị em Giáo Dân. Chúng tôi nghĩ rằng, nhiều Giáo Dân sẽ hoàn thành tốt các trách nhiệm được tín nhiệm giao phó phù hợp với hoàn cảnh và khả năng của họ. Với những đóng góp trí tuệ, tiềm năng về nhân sự, tài chánh trong nước lẫn hải ngoại, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, Giáo Hội Việt Nam sẽ có một bước tiến đáng kể về mọi mặt, đặc biệt trong sứ mạng Truyền Giáo. Tưởng cũng nên nói thêm, sự hiện diện khá đông đủ quý Đức Cha trong HĐGM VN, ngoại trừ một vài vị do già yếu hay tình trạng sức khỏe không cho phép tham dự, cũng như sự hiện diện của các đại diện HĐGM các quốc gia bạn, cùng đại diện cộng đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại, đã nói lên sự Hiệp Nhất và Hiệp Thông với nhau trong cùng một Giáo Hội duy nhất do Chúa Giêsu thiết lập. Chúng tôi cũng tâm đắc với HĐGM VN về Sứ Điệp của Đại Hội Dân Chúa 2010 công bố trong ngày bế mạc 25/11/2010, đặc biệt việc HĐGM VN “đề nghị Chính quyền Việt Nam mở rộng cánh cửa cho các tôn giáo tham gia vào việc giáo dục học đường và y tế cộng đồng, vì ích lợi của người dân và của cả dân tộc”. Thiết nghĩ, đây là những đề nghị hết sức chính đáng và khẩn thiết. Giáo Hội ở đâu cũng mong góp phần mình phục vụ cho công ích và cho mọi người không kể lương giáo. Hai lãnh vực Giáo Dục và Y Tế ở những quốc gia khác đều luôn có sự đóng góp tích cực của các tôn giáo, do vậy xã hội được lành mạnh và tốt đẹp hơn.
PV: Việc Đức Cha Kontum Micae Hoàng Đức Oanh đã gặp khó khăn với một vài chính quyền địa phương, khi ngài đi thăm viếng và thi hành mục vụ cần thiết mà các Chủ Chăn cần phải làm ngay trong giáo phận của ngài trong thời gian vừa qua, Cha có nghe và nhận định gì?
Cha Liêm : Nhiều người phản ảnh, đó là việc đáng buồn và đáng tiếc xảy ra, khi vẫn còn một số địa phương đó đây gây ra những trở ngại, khó khăn không cần thiết liên quan đến tự do tôn giáo, nhất là hiện nay, Việt Nam đang cố gắng hòa nhập vào dòng sinh hoạt chung của thế giới về mọi phương diện. Những việc làm đó, hiển nhiên, làm cho bộ mặt của Việt Nam xấu đi trên trường quốc tế. Chúng tôi được nghe, Đức Cha cũng đang cố gắng đối thoại với những chính quyền địa phương đó để giải quyết những ‘lấn cấn’ trong sự cảm thông, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Hy vọng rằng, ngài sẽ đạt được kết quả tốt đẹp để tương lai không còn xảy ra những việc đáng tiếc đó nữa.
Về vấn đề tự do và cởi mở tôn giáo, xem ra Trung Quốc đang đi trước chúng ta. Đức Cha đại diện HĐGM Đài Loan tham dự Đại Hội Dân Chúa có cho chúng tôi biết, Trung Quốc đã gởi các nữ tu sang làm việc mục vụ ở Đài Loan, và hiện đang chuẩn bị gởi chủng sinh sang đó tu học nữa. Tiến Sĩ Trác Tân Bình, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo Thế Giới của Trung Quốc, ngay trong Chương I: Tôn Giáo là gì? trong tác phẩm Lý Giải Tôn Giáo, do nhà Xuất Bản Hà Nội ấn hành năm 2007, cũng chỉ rõ, do sự hiểu biết tiêu cực về tôn giáo, chính những học giả tôn giáo của Trung Quốc trong một thời gian khá dài trước đây, có những nhận định sai lạc và thành kiến về bản chất tôn giáo. Sau những phân tích khách quan, khoa học và đầy tính thuyết phục, ông khẳng định: “Tôn giáo là một bộ phận của văn hóa tinh thần các dân tộc, nếu chỉ nói đến một công năng tiêu cực nào đó của tôn giáo, thì sẽ không thấy được một cách biện chứng, lịch sử, toàn diện, phát triển những tác dụng xã hội của tôn giáo trong toàn bộ quá trình phát triển văn minh nhân loại, không có lợi cho chúng ta trong việc coi trọng lịch sử văn hóa, tư tưởng tình cảm của các dân tộc anh em trong và ngoài nước, cũng không có lợi cho sự giao lưu văn hóa thế giới và thúc đẩy sự đoàn kết giữa các dân tộc”.
Đức Cha Kontum là người hết lòng quan tâm đến tương lai của đất nước và Giáo Hội, đặc biệt là giới trẻ, rườm cột của nước nhà. Do vậy, thỉnh thoảng chúng ta nghe ngài lên tiếng hướng dẫn các sinh viên, học sinh Công Giáo để học hành và sống tốt lành hơn. Ngài cũng lên tiếng về những vấn đề liên quan đến nền Giáo Dục bất cập hiện tại, và như HĐGM VN, mong chính quyền Việt Nam xem xét lại chính sách Giáo Dục hiện tại, để cho các tôn giáo cùng cộng tác trong lãnh vực này. Phải chăng chính vì vậy, ngài bị các địa phương gây khó dễ?
PV: Cha cũng đã đại diện cho Liên Đoàn có bài tham luận và những đề nghị trong Đại Hội. Phản ứng của dư luận như thế nào?
Cha Liêm : Những phản ứng chúng tôi nhận được tại Việt Nam hay khi về lại bên này, rất tích cực. Một số vị Giám Mục, Linh Mục, Nữ Tu, Giáo Dân đã khen ngợi, nhất là các đề nghị nêu lên cụ thể và hữu ích. Cũng cần nói ngay, bài tham luận là công trình tập thể của Liên Đoàn. Chúng tôi chân thành cám ơn một số vị trong Ban Lãnh Đạo Liên Đoàn đã cùng cộng tác, đóng góp ý kiến, sửa chữa bản thảo để bài tham luận được hoàn chỉnh. Liên Đoàn chúng ta trong tình Hiệp Thông với Giáo Hội Mẹ đóng góp ý kiến trong Đại Hội, cùng với những đóng góp từ nhiều người khác, mong góp phần xây dựng Giáo Hội Mẹ mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn.
PV: Nghe đồn rằng, Đà Lạt sắp sửa có Giám Mục mới và khả năng về đó là... Đức Cha Hưng Hóa Antôn Vũ Huy Chương, Cha có nhận được thông tin gì không?
Cha Liêm : Chúng tôi có gặp ngài trong Đại Hội Dân Chúa, ngài tủm tỉm cười, nói rằng, ‘Chưa nghe Tòa Thánh gọi’. Hỏi thăm một vài đấng khác, “tin chính thức từ Tòa Thánh thì chưa, tin đồn thì... tùm lum rồi, mà tin đồn ở Việt Nam bây giờ... chắc là có...thật!”. Quay lại nói với Đức Cha: “Nghe tin đồn... tùm lum, thì chắc là thật...rồi, Đức Cha sẵn sàng đi Đà Lạt chưa?” Ngài lại cười, vui vẻ trả lời, “Luôn luôn sẵn sàng, Đức Thánh Cha kêu đi đâu thì đi đó, không bao giờ thắc mắc”. Gặp một Cha Đà Lạt về tham dự Đại Hội, than thở, “Đà Lạt đang ‘khát’ Đức Cha mới muốn chết..., ai về cũng được! Công việc ở Giáo Phận mấy tháng nay cứ trì trệ mãi, không ai có thẩm quyền quyết định việc gì trừ Đức Cha. Ai nấy đều mỏi mệt quá chừng!”
PV: Sau Đại Hội, Giáo Phận Mỹ Tho có tổ chức Thánh Lễ Tạ Ơn ngày 26/11/2010, mừng 50 năm thành lập Giáo Phận 1960-2010, Giáo Phận Mỹ Tho hiện nay thế nào?
Cha Liêm : Chúng tôi được tháp tùng Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, TGM Sàigòn, và phái đoàn về tham dự theo lời mời của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho. Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGM VN, cùng nhiều vị Giám Mục khác cũng hiện diện Hiệp Thông trong Thánh Lễ này. Trên đường vào lễ đài tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Giáo Phận, có rất nhiều giáo dân của các giáo xứ kéo về chung vui ngày hội lớn của Giáo Phận. Đức Hồng Y đã chủ tế và Đức Cha Mỹ Tho chia sẻ lời Chúa thật súc tích. Được biết, từ khi thành lập bởi Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII, Giáo Phận có 3 Giám Mục chính: Đức Cha Giuse Trần Văn Thiện, Đức Cha Anrê Nguyễn Văn Nam, và Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc đương nhiệm. Giáo dân hiện nay có 123,864, giáo xứ 84, giáo họ 24, Linh Mục 120 và chủng sinh 40. So với thời điểm năm 1960, tất cả đều tăng trưởng mạnh. Đức Cha Mỹ Tho, nổi danh là ‘thần học gia’ ở Việt Nam, luôn vui cười, bình dân, thoải mái và giản dị, đúng là phong cách của dân...miền Nam. Đức Hồng Y trước khi về Tổng Giáo Phận Sài Gòn vốn là Giám Mục Phó (1993-1998) của địa phận này, có lẽ ‘uống nước nhớ nguồn’, nên trước khi ban phép lành cuối lễ, đã kể ba chuyện vui về truyền giáo ‘đặc sệt’ miền Nam... thật dí dỏm, bình dị và dễ thương.
PV: Trong thời gian tới, Liên Đoàn hay cá nhân Cha có những chương trình và hoạt động gì?
Cha Liêm : Trước mắt, Liên Đoàn cố gắng hoàn tất chiến dịch lạc quyên giúp lũ lụt. Sang năm 2011, Liên Đoàn tiếp tục tổ chức Hành Hương Đức Mẹ La Vang tại thủ đô Washington vào tháng 6/2011, Đại Hội Phó Tế diễn ra vào tháng 7/2011 và Đại Hội Linh Mục Việt Nam- Emmaus IV, vào tháng 10/2011, cả hai Đại Hội sẽ tổ chức tại Houston, Texas. Các vị trong Ban Tổ Chức đã chuẩn bị ráo riết chương trình từ mấy tháng nay rồi. Cá nhân chúng tôi cùng Ban Lãnh Đạo Liên Đoàn sẽ làm việc chặt chẽ và hỗ trợ cho các Ban Tổ Chức liên hệ để các chương trình được thành công tốt đẹp. Ngoài ra, chúng tôi sẽ tiếp tục chương trình đến thăm viếng các Miền, giáo xứ, cộng đoàn Việt Nam trên Hoa Kỳ để nối kết tình Hiệp Thông, cũng như chia sẻ về Chương Trình Nâng Đỡ Các Cha Già Hưu Dưỡng ở Việt Nam do HĐGM VN đề ra và mời gọi Liên Đoàn cộng tác hơn 2 năm về trước. Chúng tôi cũng sẽ tham dự các phiên họp do Ủy Ban Á Châu Thái Bình Dương của HĐGM Hoa Kỳ triệu tập, và tham dự các Đại Hội, Hành Hương cấp Miền, Vùng nếu thời gian cho phép. Song song đó, chúng tôi cũng bắt đầu tiến hành các chuẩn bị cần thiết để bầu cử Chủ Tịch Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ, cũng là Chủ Tịch Liên Đoàn, cho nhiệm kỳ mới, kết quả dự kiến sẽ có vào tháng 8/2011, để ngài sẵn sàng làm việc, khi nhiệm kỳ của chúng tôi chấm dứt vào tháng 10/2011.
PV: Cảm ơn Cha đã chân thành chia sẻ.
Cộng đoàn di dân Trà Vy mừng lễ thánh tổ Giuse Khang
Đam Nguyên
10:56 06/12/2010
SÀI GÒN, Việt Nam -- Những giáo dân đồng hương với Thánh Tử đạo Giuse Nguyễn Duy Khang của giáo xứ Trà Vy – Giáo phận Thái Bình – đã quy tụ nhau tại một nhà thờ ở một thành phố lớn nhất Việt Nam để mừng lễ nhân dịp kỷ niệm ngày vị thánh quê hương của họ chịu phúc Tử đạo.
Xem hình ảnh
Khoảng hơn 400 người là những ông bố bà mẹ và con cháu của họ đã tham dự Thánh lễ Chúa Nhật II Mùa Vọng hôm 5-12 tại nhà thờ giáo xứ Tân Đông thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn. Thánh lễ do Cha giáo Thuật của dòng Đa Minh chủ sự, có sự hiện diện của Thầy phó tế và Thầy Giuse Nguyễn Văn Tuy cũng thuộc dòng Đa Minh đồng thời là những Linh mục tương lai gần của quê hương Trà Vy. Ngoài ra còn có sự hiện diện và cộng tác phục vụ của hai Thầy dòng Thánh Tâm, nghĩa tử của Cha xứ Trà Vy, Giuse Maria Mai Trần Huynh.
Trước Thánh lễ, họ rước hài cốt và tượng Thánh Giuse Khang từ sân cuối nhà thờ lên gian cung thánh. Sau Thánh lễ, tất cả mọi người hiện diện đã sắp hàng lần lượt tiến lên hôn kính một phần rất nhỏ hài cốt mà họ được phép lưu giữ. Trong khi đó, ca đoàn và ban kèn đã thay nhau xướng lên những bài ca kính mừng Thánh Tử đạo Việt Nam.
Kết thúc các nghi thức tại Nhà thờ, họ rước tượng Thánh Tổ về nơi mà họ đã chuẩn bị cho bữa cơm thân mật, đó là nơi sinh sống của một số gia đình người Trà Vy ở quận 12, cách Nhà thờ (thuộc địa bàn huyện Hooc Môn) khoảng 2 kilomet. Ban tổ chức đã chuẩn bị trước phông bạt và cỗ bàn rất chu đáo, tuy nhiên số người về tham dự ngoài dự đoán đã khiến cho khuôn viên hơi chật và nóng. Dù vậy, mọi người đã đặt sự hy sinh và cảm thông lên trên hết, lấy bác ái và niềm vui họp mặt làm tiêu chí. Và theo như ban tổ chức cho biết, mọi sự đều an toàn tốt đẹp!
Để tổ chức được ngày gặp mặt này, những người đại diện đã phải chuẩn bị từ rất sớm, liên lạc và liên hệ, bàn thảo để quyết định. Thật ấn tượng với 3 buổi tối tập hát tại một gian phòng trọ, diện tích khoảng 4 mét vuông, chật cứng anh chị em ca viên quy tụ từ khắp nơi đến để luyện tập cho việc hát lễ. Tiếng tập hát thánh ca vang lên giữa khu nhà ở và nhà trọ nơi những ngõ hẻm tĩnh lặng, cứ ngỡ như là buổi tập hát tại nhà thờ quê hương hồi nào, với những con người ấy và tinh thần ấy.
Ngày gặp mặt hàng năm này không chỉ mang ý nghĩa ôn lại tinh thần hy sinh anh dũng để bảo vệ đức tin cho mỗi người theo gương Thánh Tử đạo Giuse Khang, mà còn là cơ hội để mọi người gặp gỡ nhau, chia sẻ, nâng đỡ và động viên nhau khi phải sinh sống tản mác mọi nơi vì công ăn việc làm. Môi trường thành phố đang gây nên những lo ngại cho giới trẻ trước những cám dỗ lôi cuốn của sự tội và sự ác; qua dịp lễ này, thế hệ con cháu Trà Vy được thấm nhuần tinh thần đoàn kết, trung thành với Chúa và giữ luật Chúa, tiếp nối cha ông duy trì truyền thống tốt đẹp này.
Cộng đoàn Di dân Trà Vy là những người rời quê hương của mình ở làng Trà Vy - Vũ Công - Kiến Xương - Thái Bình, vào Sài Gòn và các tỉnh lân cận để làm ăn sinh sống. Họ không phải là thành phần dân di cư năm 1954 hoặc những thập niên 80, mà là những người giáo dân lao động đi tìm công ăn việc làm tại thành phố, khi mức thu nhập đồng ruộng của họ ở quê không đủ nhu cầu sinh hoạt.
Không chỉ tự hào vì cùng dòng máu với một vị Thánh quê hương, người dân Trà Vy tự hào vì còn là con cháu của 14 chứng nhân Tử đạo khác của quê hương đang chờ Tòa Thánh điều tra hồ sơ phong thánh. Giáo xứ hàng năm vẫn tổ chức mừng lễ cách long trọng vào ngày 6-12 tại làng quê. Và thói quen về ngày “giỗ tổ” đã ăn sâu vào tâm thức từng thế hệ con cháu, cho dù họ có đi đâu xa. Từ đó dần hình thành nên cuộc gặp gỡ hàng năm tại miền nam do những người di dân lao động tự tổ chức lên.
Dưới đây là một vài hình ảnh của ngày gặp gỡ năm 2010.
Xem hình ảnh
Khoảng hơn 400 người là những ông bố bà mẹ và con cháu của họ đã tham dự Thánh lễ Chúa Nhật II Mùa Vọng hôm 5-12 tại nhà thờ giáo xứ Tân Đông thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn. Thánh lễ do Cha giáo Thuật của dòng Đa Minh chủ sự, có sự hiện diện của Thầy phó tế và Thầy Giuse Nguyễn Văn Tuy cũng thuộc dòng Đa Minh đồng thời là những Linh mục tương lai gần của quê hương Trà Vy. Ngoài ra còn có sự hiện diện và cộng tác phục vụ của hai Thầy dòng Thánh Tâm, nghĩa tử của Cha xứ Trà Vy, Giuse Maria Mai Trần Huynh.
Trước Thánh lễ, họ rước hài cốt và tượng Thánh Giuse Khang từ sân cuối nhà thờ lên gian cung thánh. Sau Thánh lễ, tất cả mọi người hiện diện đã sắp hàng lần lượt tiến lên hôn kính một phần rất nhỏ hài cốt mà họ được phép lưu giữ. Trong khi đó, ca đoàn và ban kèn đã thay nhau xướng lên những bài ca kính mừng Thánh Tử đạo Việt Nam.
Kết thúc các nghi thức tại Nhà thờ, họ rước tượng Thánh Tổ về nơi mà họ đã chuẩn bị cho bữa cơm thân mật, đó là nơi sinh sống của một số gia đình người Trà Vy ở quận 12, cách Nhà thờ (thuộc địa bàn huyện Hooc Môn) khoảng 2 kilomet. Ban tổ chức đã chuẩn bị trước phông bạt và cỗ bàn rất chu đáo, tuy nhiên số người về tham dự ngoài dự đoán đã khiến cho khuôn viên hơi chật và nóng. Dù vậy, mọi người đã đặt sự hy sinh và cảm thông lên trên hết, lấy bác ái và niềm vui họp mặt làm tiêu chí. Và theo như ban tổ chức cho biết, mọi sự đều an toàn tốt đẹp!
Để tổ chức được ngày gặp mặt này, những người đại diện đã phải chuẩn bị từ rất sớm, liên lạc và liên hệ, bàn thảo để quyết định. Thật ấn tượng với 3 buổi tối tập hát tại một gian phòng trọ, diện tích khoảng 4 mét vuông, chật cứng anh chị em ca viên quy tụ từ khắp nơi đến để luyện tập cho việc hát lễ. Tiếng tập hát thánh ca vang lên giữa khu nhà ở và nhà trọ nơi những ngõ hẻm tĩnh lặng, cứ ngỡ như là buổi tập hát tại nhà thờ quê hương hồi nào, với những con người ấy và tinh thần ấy.
Ngày gặp mặt hàng năm này không chỉ mang ý nghĩa ôn lại tinh thần hy sinh anh dũng để bảo vệ đức tin cho mỗi người theo gương Thánh Tử đạo Giuse Khang, mà còn là cơ hội để mọi người gặp gỡ nhau, chia sẻ, nâng đỡ và động viên nhau khi phải sinh sống tản mác mọi nơi vì công ăn việc làm. Môi trường thành phố đang gây nên những lo ngại cho giới trẻ trước những cám dỗ lôi cuốn của sự tội và sự ác; qua dịp lễ này, thế hệ con cháu Trà Vy được thấm nhuần tinh thần đoàn kết, trung thành với Chúa và giữ luật Chúa, tiếp nối cha ông duy trì truyền thống tốt đẹp này.
Cộng đoàn Di dân Trà Vy là những người rời quê hương của mình ở làng Trà Vy - Vũ Công - Kiến Xương - Thái Bình, vào Sài Gòn và các tỉnh lân cận để làm ăn sinh sống. Họ không phải là thành phần dân di cư năm 1954 hoặc những thập niên 80, mà là những người giáo dân lao động đi tìm công ăn việc làm tại thành phố, khi mức thu nhập đồng ruộng của họ ở quê không đủ nhu cầu sinh hoạt.
Không chỉ tự hào vì cùng dòng máu với một vị Thánh quê hương, người dân Trà Vy tự hào vì còn là con cháu của 14 chứng nhân Tử đạo khác của quê hương đang chờ Tòa Thánh điều tra hồ sơ phong thánh. Giáo xứ hàng năm vẫn tổ chức mừng lễ cách long trọng vào ngày 6-12 tại làng quê. Và thói quen về ngày “giỗ tổ” đã ăn sâu vào tâm thức từng thế hệ con cháu, cho dù họ có đi đâu xa. Từ đó dần hình thành nên cuộc gặp gỡ hàng năm tại miền nam do những người di dân lao động tự tổ chức lên.
Dưới đây là một vài hình ảnh của ngày gặp gỡ năm 2010.
Ta làm gì cho chính Chúa ?: Một góc suy tư của Nhóm sinh viên Phát Diệm tại Sàigòn
Tùng Linh tổng hợp
07:14 06/12/2010
Ta làm gì cho chính Chúa ?: Một góc suy tư của Nhóm sinh viên Phát Diệm tại Sàigòn
Từ xưa đến nay ta chỉ quen gặp Chúa ở nhà thờ mà không quen gặp Chúa ở ngoài xã hội, ở đầu đường xó chợ, nơi có những con người đang bươn chải với cuộc sống cơm áo gạo tiền. Từ xưa đến nay ta cũng chỉ nghĩ làm những công việc lớn lao, tham gia hay tổ chức những cuộc rước xách hoành tráng hay thực hiện những công trình để đời cho xứ nọ, cho cha kia mới là làm cho Chúa, mà ta không ngờ được rằng khi ta làm một cái gì đó cho một trong những người bé mọn nhất là làm cho chính Chúa. Quan điểm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mt 25, 31-46 làm đảo lộn hoàn toàn tư duy hành động, cũng như những giá trị mà xưa đến nay ta tâm đắc. Đoạn Tin Mừng trong buổi chia sẻ Lời Chúa hôm nay giúp cho nhóm giới trẻ Phát Diệm tại Sài Gòn khám phá và đào sâu, suy tư về một lối tiếp cận mới của con người với Thiên Chúa.
Thực ra, liên quan đến đoạn TM này, từ khi còn rất nhỏ ta được các ông bà quản dạy thuộc lòng kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối, Thương Xót Bảy Mối: « thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống, thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc... ». Nhưng dường như những kinh đó chỉ đọc để biết vậy, chứ ít khi ta nghĩ sâu xa hơn, nhất là đó lại là tiêu chuẩn để được Chúa thưởng công trong ngày phán xét.
Mt 25, 31-46 cho ta thấy một dung mạo của Đức Giêsu: một người rất thực tế. Người để ý đến những nhu cầu nhỏ nhất của con người như cái đói, cái khát, cái ăn cái mặc và cao hơn nữa, cái tự do của người bị giam cầm. Điều đó cho thấy nhân cách của Đức Giêsu đối với con người, đối với cuộc đời luôn vượt lên bên trên mọi thứ, thậm chí trên cả Luật. Cả cuộc đời Đức Giêsu như luôn đau đáu với những nỗi bần cùng của kiếp người. Người luôn động lòng trắc ẩn trước những mảnh đời bất hạnh của những con người bé nhỏ. Còn ta ngày nay, ta có xu hướng giảm đi hoặc mất đi tính nhạy cảm, lòng thương xót của ta trước những đau khổ của anh em mình. Qua các clip trên các trang web thời gian vừa qua ở Việt Nam, thật đáng báo động về lương tâm con người đang bị chai sạn khi người ta không mảy may xót xa đứng nhìn những em học sinh nữ yếu ớt bị đánh hội đồng, khi thì ở Cẩm Phả, khi thì ngay ở thủ đô Hà Nội, ở Nghệ An…Ta sống khác với Chúa Giêsu vì ta quen nghĩ đến những chuyện lớn lao, những vấn đề vĩ đại, vĩ mô, mà, có thể do bị ảnh hưởng của văn hóa, của cách truyền giáo cũng như tầm quan trọng của phẩm trật, quyền bính trong Giáo hội, ta xem nhẹ hoặc quên đi những chuyện bình thường của những người bé mọn quanh ta. Tính ích kỷ, tính vụ hình thức, vụ chức quyền làm ta như xa rời lý tưởng và những ưu tư của Đức Giêsu về con người về cuộc sống.
Trong Mt 25, 31-46, Chúa Giêsu dạy ta làm những việc bác ái một rất cụ thể, chứ không phải là những khẩu hiệu thật kêu, những lời nói suông: cho người đói ăn, cho người khát uống, cho người rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù đầy. Cho họ ăn, uống, mặc và thăm họ khi họ bị tù đầy là cho chính Chúa ăn, uống, mặc và thăm chính Chúa. Thật lạ lùng khi Chúa Giêsu đồng hóa mình với những người bé mọn. Ta lại có một lối nghĩ khác: ta thường quan tâm nhiều đến những ai sang trọng, lịch sự, giầu có, trí thức và ta dường như chỉ thích giao du với những người cùng đẳng cấp, cùng sở thích, cùng chính kiến với mình. Dường như chỉ khi nào những mối tương giao đó mang lại một mối lợi nào đó thì ta mới bước vào ! ?
Nhân cách của Chúa Giêsu buộc ta nghĩ lại thái độ của ta như thế nào khi phải tiếp xúc, phải sống cùng, làm việc cùng với những người ít học hơn ta, ăn mặc không sành điệu như ta, chưa nói đến với những người đói, rách, thiếu thốn đủ mọi thứ. Ta cũng xem lại cả cách ta làm bác ái. Nhiều khi ta làm một cái gì đó cho anh em đồng loại, nhưng ta lại thích phô trương, thích đăng hình, thích được nêu tên trên mặt báo, thích được vỗ tay, được tung hô, được khen ngợi. Nhiều khi ta làm vì vinh danh ta chứ không phải vì vinh danh Chúa.Ta quên lời Chúa dạy: « việc tay phải làm đừng cho tay trái biết ». Người nghèo, những người đau khổ, bất hạnh là những người nhạy cảm nhất: nhiều khi họ không cần tiền, cần đồ của ta cho mà cần ta một tấm lòng, như một câu hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: « sống trên đời cần có một tấm lòng để gió cuốn đi ». Người nghèo nhiều khi chỉ cần ta hiện diện với họ, nói chuyện với họ, dành một chút thời gian cho họ …tức là họ cần một cái gì đó để họ biết họ được tôn trọng, họ đang hiện hữu, họ không vô dụng. Người nghèo không hẳn là không có tiền, có gạo, có đồ, mà có thể họ nghèo về chữ nghĩa, nghèo văn hóa, nghèo nhân bản, nghèo tình thương yêu. Còn ta, nhiều khi ta đến với họ với tư thể là người có học vấn cao hơn họ, có tiền, chứng tỏ ta không cùng đẳng cấp với họ. Ta cho họ một cái gì đó nhưng với thái độ cuả người ban ơn với người chịu ơn. Ta đến với họ nhưng ta vẫn là những người nghèo, không nghèo mặt này thì nghèo mặt khác. Người nghèo có thể dạy ta, cho ta biết ta nghèo ở điểm nào.
Như vậy, kiến thức uyên bác, những chuyện động trời không phải là trọng tâm giáo lý của Đức Kitô mà chính bác ái yêu thương mới là trọng tâm của Đạo Chúa, là tiêu chuẩn để phân biệt « chiên với dê », cũng là điều kiện để được vào Nước Trời. Ngày phán xét, Chúa không hỏi ta có bằng cấp nào, có chức vụ gì trên trần gian, là linh mục hay giáo dân, nghèo hay giầu, trình độ văn hóa đến đâu, mà Chúa sẽ hỏi ta: con đã làm gì cho người khác. Không chắc Chúa có hỏi con đã xây được bao nhiêu nhà thờ, đọc được bao nhiêu kinh, nhưng qua Mt 25, 31-46, chắc chắn Chúa sẽ hỏi: con đã làm gì cho anh em đồng loại ?
(tổng hợp ý kiến chia sẻ của các tổ qua buổi Chia sẻ Lời Chúa chiều 07/11/2010 tại Trụ sở Phát Diệm 212, Lê Đức Thọ, P.15, Q.Gò Vấp)
Từ xưa đến nay ta chỉ quen gặp Chúa ở nhà thờ mà không quen gặp Chúa ở ngoài xã hội, ở đầu đường xó chợ, nơi có những con người đang bươn chải với cuộc sống cơm áo gạo tiền. Từ xưa đến nay ta cũng chỉ nghĩ làm những công việc lớn lao, tham gia hay tổ chức những cuộc rước xách hoành tráng hay thực hiện những công trình để đời cho xứ nọ, cho cha kia mới là làm cho Chúa, mà ta không ngờ được rằng khi ta làm một cái gì đó cho một trong những người bé mọn nhất là làm cho chính Chúa. Quan điểm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mt 25, 31-46 làm đảo lộn hoàn toàn tư duy hành động, cũng như những giá trị mà xưa đến nay ta tâm đắc. Đoạn Tin Mừng trong buổi chia sẻ Lời Chúa hôm nay giúp cho nhóm giới trẻ Phát Diệm tại Sài Gòn khám phá và đào sâu, suy tư về một lối tiếp cận mới của con người với Thiên Chúa.
Thực ra, liên quan đến đoạn TM này, từ khi còn rất nhỏ ta được các ông bà quản dạy thuộc lòng kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối, Thương Xót Bảy Mối: « thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống, thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc... ». Nhưng dường như những kinh đó chỉ đọc để biết vậy, chứ ít khi ta nghĩ sâu xa hơn, nhất là đó lại là tiêu chuẩn để được Chúa thưởng công trong ngày phán xét.
Mt 25, 31-46 cho ta thấy một dung mạo của Đức Giêsu: một người rất thực tế. Người để ý đến những nhu cầu nhỏ nhất của con người như cái đói, cái khát, cái ăn cái mặc và cao hơn nữa, cái tự do của người bị giam cầm. Điều đó cho thấy nhân cách của Đức Giêsu đối với con người, đối với cuộc đời luôn vượt lên bên trên mọi thứ, thậm chí trên cả Luật. Cả cuộc đời Đức Giêsu như luôn đau đáu với những nỗi bần cùng của kiếp người. Người luôn động lòng trắc ẩn trước những mảnh đời bất hạnh của những con người bé nhỏ. Còn ta ngày nay, ta có xu hướng giảm đi hoặc mất đi tính nhạy cảm, lòng thương xót của ta trước những đau khổ của anh em mình. Qua các clip trên các trang web thời gian vừa qua ở Việt Nam, thật đáng báo động về lương tâm con người đang bị chai sạn khi người ta không mảy may xót xa đứng nhìn những em học sinh nữ yếu ớt bị đánh hội đồng, khi thì ở Cẩm Phả, khi thì ngay ở thủ đô Hà Nội, ở Nghệ An…Ta sống khác với Chúa Giêsu vì ta quen nghĩ đến những chuyện lớn lao, những vấn đề vĩ đại, vĩ mô, mà, có thể do bị ảnh hưởng của văn hóa, của cách truyền giáo cũng như tầm quan trọng của phẩm trật, quyền bính trong Giáo hội, ta xem nhẹ hoặc quên đi những chuyện bình thường của những người bé mọn quanh ta. Tính ích kỷ, tính vụ hình thức, vụ chức quyền làm ta như xa rời lý tưởng và những ưu tư của Đức Giêsu về con người về cuộc sống.
Trong Mt 25, 31-46, Chúa Giêsu dạy ta làm những việc bác ái một rất cụ thể, chứ không phải là những khẩu hiệu thật kêu, những lời nói suông: cho người đói ăn, cho người khát uống, cho người rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù đầy. Cho họ ăn, uống, mặc và thăm họ khi họ bị tù đầy là cho chính Chúa ăn, uống, mặc và thăm chính Chúa. Thật lạ lùng khi Chúa Giêsu đồng hóa mình với những người bé mọn. Ta lại có một lối nghĩ khác: ta thường quan tâm nhiều đến những ai sang trọng, lịch sự, giầu có, trí thức và ta dường như chỉ thích giao du với những người cùng đẳng cấp, cùng sở thích, cùng chính kiến với mình. Dường như chỉ khi nào những mối tương giao đó mang lại một mối lợi nào đó thì ta mới bước vào ! ?
Nhân cách của Chúa Giêsu buộc ta nghĩ lại thái độ của ta như thế nào khi phải tiếp xúc, phải sống cùng, làm việc cùng với những người ít học hơn ta, ăn mặc không sành điệu như ta, chưa nói đến với những người đói, rách, thiếu thốn đủ mọi thứ. Ta cũng xem lại cả cách ta làm bác ái. Nhiều khi ta làm một cái gì đó cho anh em đồng loại, nhưng ta lại thích phô trương, thích đăng hình, thích được nêu tên trên mặt báo, thích được vỗ tay, được tung hô, được khen ngợi. Nhiều khi ta làm vì vinh danh ta chứ không phải vì vinh danh Chúa.Ta quên lời Chúa dạy: « việc tay phải làm đừng cho tay trái biết ». Người nghèo, những người đau khổ, bất hạnh là những người nhạy cảm nhất: nhiều khi họ không cần tiền, cần đồ của ta cho mà cần ta một tấm lòng, như một câu hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: « sống trên đời cần có một tấm lòng để gió cuốn đi ». Người nghèo nhiều khi chỉ cần ta hiện diện với họ, nói chuyện với họ, dành một chút thời gian cho họ …tức là họ cần một cái gì đó để họ biết họ được tôn trọng, họ đang hiện hữu, họ không vô dụng. Người nghèo không hẳn là không có tiền, có gạo, có đồ, mà có thể họ nghèo về chữ nghĩa, nghèo văn hóa, nghèo nhân bản, nghèo tình thương yêu. Còn ta, nhiều khi ta đến với họ với tư thể là người có học vấn cao hơn họ, có tiền, chứng tỏ ta không cùng đẳng cấp với họ. Ta cho họ một cái gì đó nhưng với thái độ cuả người ban ơn với người chịu ơn. Ta đến với họ nhưng ta vẫn là những người nghèo, không nghèo mặt này thì nghèo mặt khác. Người nghèo có thể dạy ta, cho ta biết ta nghèo ở điểm nào.
Như vậy, kiến thức uyên bác, những chuyện động trời không phải là trọng tâm giáo lý của Đức Kitô mà chính bác ái yêu thương mới là trọng tâm của Đạo Chúa, là tiêu chuẩn để phân biệt « chiên với dê », cũng là điều kiện để được vào Nước Trời. Ngày phán xét, Chúa không hỏi ta có bằng cấp nào, có chức vụ gì trên trần gian, là linh mục hay giáo dân, nghèo hay giầu, trình độ văn hóa đến đâu, mà Chúa sẽ hỏi ta: con đã làm gì cho người khác. Không chắc Chúa có hỏi con đã xây được bao nhiêu nhà thờ, đọc được bao nhiêu kinh, nhưng qua Mt 25, 31-46, chắc chắn Chúa sẽ hỏi: con đã làm gì cho anh em đồng loại ?
(tổng hợp ý kiến chia sẻ của các tổ qua buổi Chia sẻ Lời Chúa chiều 07/11/2010 tại Trụ sở Phát Diệm 212, Lê Đức Thọ, P.15, Q.Gò Vấp)
Giải pháp bền vững cho hoạt động bác ái xã hội tại Hải Phòng
Lien Nguyen
23:49 06/12/2010
![]() |
Hưởng ứng ngày sáng tạo phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam do ngân Hàng Thế giới và Cục Phòng Chống HIV/AIDS tổ chức, Ban Từ Thiện Bác Ái đã cùng viết chung một dự án tham gia cuộc thi.
Ngày 1 đến 3.12.2010. nhóm viết dự án đã tham dự vòng chung khảo của cuộc thi “ hưởng ứng ngày sáng tạo phòng chống HIV/AIDS” tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia Mỹ Đình, với dự án “giải pháp tạo nguồn quỹ bền vững dựa vào cộng đồng cho hoạt động phòng chống HIV/AIDS của Phật giáo và Công giáo Hải Phòng”. Sau 3 ngày tham gia triển lãm về các hoạt động đã và đang làm cùng với dự án được trình bày “Ban Từ Thiện Bác Ái” đã đạt được giải xuất sắc với những ý tưởng sáng tạo mới mẻ và đầy thực tế mang tính bền vững cao khi dự án thể hiện được những kế hoạch cụ thể, rõ ràng để huy động cộng đồng tham gia phòng chống HIV/AIDS. Đây là một điểm nhấn trong công tác bác ái xã hội đã được hội đồng ban giám khảo và mọi người tham dự cuộc triển lãm đánh giá rất cao bởi từ trước tới nay chưa thấy sự liên kết giữa các Tôn giáo với nhau trong công tác từ bi - bác ái (bác ái xã hội), mà chỉ hoạt động riêng lẻ, vấn đề cùng hoạt động chung với nhau như hai bên Phật giáo và Công giáo đang làm được mọi người đồng tình ủng hộ.
Hy vọng, trong tương lai sẽ còn nhiều hoạt động khác trong công tác từ bi – bác ái ( bác ái xã hội) của hai Tôn giáo tiếp tục liên kết với nhau để xoa dịu nỗi đau của những người bất hạnh, kém may mắn, để đem Tình yêu của con người đến với con người được tỏ hiện, như lời Chúa Giêsu đã dạy “anh em hãy yêu thương nhau như thầy hằng yêu thương anh em" hay như lời Đức Phật dạy “Phục vụ chúng sinh là cúng dàn chư Phật”.
Văn Hóa
Lời nguyện Giáng Sinh
Trâm Thiên Thu
23:53 06/12/2010
Đêm nay Con Thiên Chúa
Giáng thế mặc xác phàm
Đem Hồng ân Cứu độ
Trao ban cho nhân trần
.
Đêm giao hòa trời đất
Nối kết sợi yêu thương
Cho muôn lòng bừng nở
Tươi rạng rỡ đóa hồng
.
Xin cho người lữ khách
Về kịp chuyến quê nhà
Tâm hồn ai cô độc
Gặp được bến mong chờ
.
Xin cho bao trẻ nhỏ
Lang thang sớm vào đời
Kiếp khổ được nâng đỡ
Cho hết nỗi chơi vơi
.
Xin rộng tay bác ái
Mở thoáng lối trái tim
Cho tình người thắm lại
Không nhìn nhau vô tình
.
Dẫu mối thù truyền kiếp
Cũng hóa thành tình yêu
Niềm tin và tha thứ
Như Thánh ca vút cao
Giáng thế mặc xác phàm
Đem Hồng ân Cứu độ
Trao ban cho nhân trần
.
Đêm giao hòa trời đất
Nối kết sợi yêu thương
Cho muôn lòng bừng nở
Tươi rạng rỡ đóa hồng
.
Xin cho người lữ khách
Về kịp chuyến quê nhà
Tâm hồn ai cô độc
Gặp được bến mong chờ
.
Xin cho bao trẻ nhỏ
Lang thang sớm vào đời
Kiếp khổ được nâng đỡ
Cho hết nỗi chơi vơi
.
Xin rộng tay bác ái
Mở thoáng lối trái tim
Cho tình người thắm lại
Không nhìn nhau vô tình
.
Dẫu mối thù truyền kiếp
Cũng hóa thành tình yêu
Niềm tin và tha thứ
Như Thánh ca vút cao




