Ngày 05-12-2021
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 6/12: Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng. Lm. Giuse Trần Châu Đông
Giáo Hội Năm Châu
04:53 05/12/2021
PHÚC ÂM: Lc 5, 17-26

“Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: “Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!”

Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: “Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?” Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: “Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: ‘Các tội của ngươi đã được tha’, hay nói: ‘Ngươi hãy đứng dậy mà đi’, đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất”. Người nói với người bất toại rằng: “Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà”. Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: “Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng”.

Đó là lời Chúa.
 
Chân Dung Đấng Toàn Năng
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10:11 05/12/2021
Chân Dung Đấng Toàn Năng

(Thứ Ba sau Chúa Nhật II Mùa Vọng – Is 40,1-11; Mt 18,12-14)

Biết tầm nguyên, truy nguồn là một phẩm tính ưu việt của loài người, loài có trí khôn. Loài vật bậc thấp khi càng lớn thì càng xa nguồn sinh dưỡng, trái lại đã là con người thì không chỉ không quên mà còn nỗ lực tìm kiếm cội nguồn, các đấng bậc sinh thành dưỡng dục nên mình. Và từ đó con ngưởi từ cổ chí kim vẫn có thao thức kiếm tìm cội nguồn của mọi vật mọi loài, tức là Đấng Toàn Năng, Đấng dựng nên vũ trụ đất trời. Kitô hữu gọi Danh Người là Thiên Chúa. Đến thế gian này sứ mạng chủ yếu của Đức Kitô là mạc khải chân lý và chân lý nền tảng đó là chân dung của Đấng Tối Cao.

Ngôn sứ Isaia xưa đã loan báo về ngày giải thoát dân Chúa khỏi ách nô lệ: “Thiên Chúa của anh em phán: “Hãy an ủi, an ủi dân Ta…Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền…Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,1-11).

Bài Tin Mừng ngày thứ Ba sau Chúa Nhật II Mùa Vọng tường thuật những lời của Chúa Giêsu về chân lý này. Sau khi kể dụ ngôn “một người chủ sẵn sàng bỏ lại 99 con chiên trên núi để đi tìm cho được một con lạc đàn” thì Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Cha anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14).

Kẻ bé mọn mà Chúa Giêsu nói không chỉ là người nghèo hèn, trẻ thơ, mẹ góa, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều, người bị áp bức bóc lột mà cả những người tội lỗi. Thiên Chúa không hề muốn bất cứ ai phải hư mất đời đời và Người làm mọi cách để mọi người được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Chính Chúa Giêsu đã từng khẳng định là mọi thứ tội đều được tha chỉ trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Đây là thứ tội cố chấp, từ chối tình yêu Thiên Chúa. Thánh giáo phụ Âugustinô nói: “Thiên Chúa tạo dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu chuộc tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ muốn nói đến quà tặng cao quý mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người đó là sự tự do. Nếu con người sử dụng tự do cách sai lạc để từ chối tình yêu Thiên Chúa thì Người đành tôn trọng.

Thiên Chúa là Cha Toàn Năng đầy lòng thương xót. Chúa Giêsu đã nói rằng nếu chúng ta là cha thế trần nhiều thiếu sót và bất toàn thế mà chúng ta vẫn tìm kiếm sự tốt lành để trao cho con cái thì huống là Cha trên trời là Đấng Toàn Hảo, Người rộng ban sự tốt lành nhất cho chúng ta là Thánh Thần, nguồn tình yêu bản vị giữa hai Ngôi Cực Thánh (x.Lc 11,9-13). Năm xưa trên đỉnh đồi Gôngôta, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời cho người bị treo bên phải ngay hôm ấy. Và thiết tưởng rằng người bị treo bên trái cũng được Chúa Giêsu đoái thương cách nào đó vì anh ta cũng nằm trong số những người đang hành hình Chúa Giêsu mà đã được Người khẩn xin Cha trên trời thứ tha vì họ lầm chẳng biết (x.Lc 23,33-43).

Chân dung Đấng Toàn Năng đã được mạc khải là Cha đầy lòng thương xót. Người không chỉ muốn mà còn tìm đủ cách thế để mọi người được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Là con cái trong nhà, khi hiểu được lòng của Cha trên trời thì chúng ta sẽ biết cách sống liên đới với tha nhân, nhất là với anh chị em bé mọn cách thiết thực và hữu hiệu. Cha trên trời nhận đây là cách thế thảo hiếu của chúng ta làm đẹp lòng Người hơn hết và chắc chắn đến ngày sau hết chúng ta sẽ được mời vào hưởng hạnh phúc đã dành sẵn cho chúng ta (x.Mt 25,31-46).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:45 05/12/2021

4. Tôi không muốn sớm lên thiên đàng theo tình ý riêng của tôi. Ở trên thế gian này, hạnh phúc duy nhất của chúng ta chính là chuyên lo việc mà Đức Chúa Giê-su đã an bài, và thường coi đó là sự tuyệt hảo đẹp nhất.

(Thánh Terese of Lisieux)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:48 05/12/2021
29. ĐỒNG SINH NHỔ RÂU

Có một đồng (1) đã già, đi thi nhiều lần mà không đỗ, năm nay lại khăn gói đi thi.

Vì để cho dung mạo trẻ trung nên ông ta nhổ sạch chòm râu trắng của mình, lại còn soi kiếng chỉ từng sợi râu của mình mà nói:

- “Mày suốt ngày không để tao vào thi đỗ, thì tao suốt ngày cũng không để mày mọc ra !”

(Tiếu Đảo)

Suy tư 29:

Trước trào lưu hưởng thụ vật chất của các thanh niên thời nay, và sự tục hóa nơi cách sống của một vài linh mục tu sĩ, mà có nhiều bạn trẻ hoang mang không biết đức tin của mình có “bền đỗ” không? Hoang mang này thật đúng, nhưng nó sẽ không nhằm nhò gì với người luôn suy gẫm Lời Chúa và có lòng yêu mến Chúa Giê-su Thánh Thể, bởi vì họ biết rằng, gương mù gương xấu thì luôn luôn có trước mặt, nhưng ân sủng của Thiên Chúa thì càng dồi dào hơn, cái quan trọng là mình có chiều theo không mà thôi...

Râu trắng hay râu đen, râu dài hay râu ngắn, râu mọc nhanh mọc chậm thì không liên quan gì đến chuyện thi cử cả, nhưng ảnh hưởng đến chuyện thi cử là do quá trình học tập mà ra.

Tội lỗi, gương xấu, cám dỗ bày ra đầy trước mắt đó, nhưng ơn cứu độ không phải ở những nơi đó, mà là ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

(1) Học trò chưa đỗ tú tài thời nhà Minh, nhà Thanh bên Trung quốc.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Trở nên một người bạn
Lm. Minh Anh
22:46 05/12/2021

TRỞ NÊN MỘT NGƯỜI BẠN
“Họ liền trèo lên mái nhà, chọc thủng mái, và thả người bất toại xuống trước mặt Chúa Giêsu”.

Phillips Brooks, một giáo sĩ rất bận rộn, nhưng luôn tỏ ra sẵn sàng dành thời gian cho bất cứ ai cần. Trước khi Brooks qua đời, một bạn trẻ viết thư hỏi bí quyết về sức mạnh và sự thanh thản của ông. Chân thành, Brooks viết, “Càng ngẫm nghĩ, tôi càng xác tín, những năm tháng cuối cùng là những ngày bình an, viên mãn nhất trước đây tôi không hề có. Đó là một sự hiểu biết sâu sắc hơn, một tình yêu chân thật hơn đối với Chúa Giêsu. Tôi không thể diễn tả cho bạn điều này phát triển trong tôi thế nào; nhưng Ngài đang ở đây, Ngài biết tôi, tôi biết Ngài! Đó là điều thực nhất trên thế giới, và mỗi ngày, nó càng thực hơn. Tôi hoan hỷ tự hỏi, nó sẽ phát triển đến mức nào nếu những ngày cuối đời của tôi cứ mãi kéo dài? Vì Ngài đã thực sự ‘trở nên một người bạn’ của tôi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Ngài đã thực sự ‘trở nên một người bạn’ của tôi!”. Sẽ khá trùng hợp với ý tưởng của Brooks khi Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm ‘những người bạn!’. Đó là một người bạn có tên Giêsu, đó còn là những người bạn của một người bất toại. Không chỉ việc Ngài chữa lành người bất toại là phép lạ, nhưng ‘trở nên một người bạn’ cao quý còn là phép lạ thực sự của Mùa Vọng!

Tin Mừng nói, “Họ không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông”; vì thế, họ đã ‘hiệp hành’ đưa ra một quyết định không thể táo bạo hơn để có thể đặt được người bạn yếu nhược của mình trước Chúa Giêsu. Có thể nói, những người bạn của người bất toại là một phần của phép lạ; vì nếu không có họ, phép lạ chữa lành đã không xảy ra. Đó là những người bạn đầy lòng tin; nếu không tin, làm sao họ có thể tạo nên ‘một màn diễn’ ngoạn mục có một không hai đến thế! Chúa Giêsu không thể lờ đi những gì đã ‘đong đưa’ trên đầu Ngài, đang xảy ra trước mặt Ngài; Tin Mừng nói, “Thấy lòng tin của họ”. Phải, Ngài đánh giá cao cái họ đang có, lòng tin; lòng tin của những người bạn cũng như lòng tin của chính bệnh nhân. Mùa Vọng, mùa ‘trở nên một người bạn’ đầy lòng tin!

Bài đọc thứ nhất hôm nay nói, “Hãy nâng đỡ những bàn tay mỏi mệt, và làm vững mạnh những đầu gối rã rời. Hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến!”. Những lời đầy khích lệ của Isaia một lần nữa được lặp lại trong Thánh Vịnh đáp ca, “Kìa Thiên Chúa chúng ta đến cứu chúng ta!”. Mùa Vọng, mùa mời gọi chúng ta ‘trở nên một người bạn’ sẵn sàng nâng đỡ những bàn tay mỏi mệt, làm mạnh những đầu gối rã rời; mùa mà chúng ta nói với những tâm hồn xao xuyến, “Can đảm lên, Chúa đang đến!”. Và cách tốt nhất để làm vững mạnh các tâm hồn là đưa họ đến với Chúa Giêsu, Ngài là “Thánh Lộ” như cách nói của Isaia. Có Ngài, sa mạc và hoang địa sẽ vui mừng, đồng khô sẽ hoan hỷ nở hoa và tràn đầy hân hoan. Chúa Giêsu là mạch suối vọt lên nơi hoang địa linh hồn, dòng sông nơi đồng vắng lòng người; với Ngài, người mù sẽ thấy, người điếc sẽ nghe, và người què sẽ nhảy nhót như nai rừng!

Anh Chị em,

Câu chuyện những người bạn táo bạo của anh bại liệt khiến chúng ta suy nghĩ. Sự táo bạo của họ bắt nguồn từ niềm tin Chúa Giêsu là Đấng giải thoát; hơn thế nữa, họ xem Ngài như một người bạn mà họ có thể tiếp cận dễ dàng bất cứ cách nào, lúc nào, miễn sao họ đến được với Ngài. Mùa Vọng, mùa nhắc nhở chúng ta, Ngài là Đấng Cứu Độ, cũng là một người bạn thật gần gũi, thật dễ thương. Có được cảm thức đó, chúng ta sẽ rất mong mỏi để gặp Ngài và dẫn đưa những người khác đến với Ngài. Chúa Giêsu đã ‘trở nên một người bạn’ lý tưởng cho tất cả những ai muốn ‘trở thành một người bạn’. Giáng Sinh là lễ kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa ‘trở nên một người bạn’, một người bạn sẽ “hiến mình cho kẻ mình yêu”. Hôm nay, trên các bàn thờ, Ngài đang tiếp tục hiến mình, cách riêng cho những ai muốn bắt chước Ngài để hiến mình cho tha nhân. Dịch bệnh ngày càng khốc liệt, và hậu quả của nó thật khôn lường. Biết bao con người đang xao xuyến, mỏi mệt và rã rời. Hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi để trở nên những người bạn, những ‘Giêsu khác’ cho tha nhân trong môi trường sống cụ thể của mình bằng những việc làm bác ái cụ thể.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Giêsu, xin chữa lành con, để con thuộc trọn về Chúa, hầu ‘trở nên một người bạn’ thiết thân của Chúa; để từ đó, con có thể ‘trở nên một người bạn’ của bất cứ ai!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tại Hy Lạp, Đức Phanxicô vượt bức tường chia rẽ
Vũ Văn An
01:14 05/12/2021

Dù người Công Giáo ở Síp xưa nay vẫn là nhóm tôn giáo thiểu số so với đa số theo Chính thống, Đức Phanxicô đã kết thúc chuyến đi hết sức thành công ở đó, không một gợn sóng chia rẽ, dù nhỏ nhoi nhất, đã xuất hiện trong chuyến tông du này.

Bầu khí hơi khác khi ngài đặt chân lên đất Hy Lạp, dù có lần (năm 2016) ngài đã tới một trong các hòn đảo của đất nước này, đó là Đảo Lesbos, nơi đến đầu tiên của rất nhiều di dân trong nhiều năm qua.



Thực vậy, theo Hannah Brockhaus của CNA, ngày 4 tháng 12, khi Đức Phanxicô tới Tòa Tổng Giám Mục Chính Thống Hy Lạp tại Athens, một giáo sĩ Chính Thống phản đối, hô to “Hỡi Giáo Hoàng, ông là kẻ lạc giáo! Hỡi Giáo Hoàng, ông là kẻ lạc giáo!” trước khi bị cảnh sát lôi đi.

Tháng trước, một giám mục Chính thống Hy Lạp, Andreas of Konitsa, cũng đã lên tiếng phản đối chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô và gọi ngài là kẻ lạc giáo.

Hai biến cố ấy phản ảnh thái độ nghi ngại lâu đời của một số giới trong Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp đối với vị Giáo Hoàng. Chính Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong chuyến viếng thăm Hy Lạp năm 2001 cũng đã gặp một thái độ nghi kỵ tương tự. Theo Elise Ann Allen của Crux, trước khi Thánh Giáo Hoàng tới thăm Hy Lạp, nhiều cuộc biểu tình chống đối đã được tổ chức mà nổi nhất là các đan sĩ Chính Thống tại Núi Athos đã tổ chức cả một buổi canh thức cầu nguyện để phản đối chuyến viếng thăm này.

Biết thế và noi gương vị tiền nhiệm của mình, khi gặp vị đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp, Đức Ieronymos II, Tổng Giám Mục Athens và Toàn Hy Lạp, việc đầu tiên của Đức Phanxicô là lên tiếng xin lỗi về cung cách người Công Giáo đã góp phần vào việc chia rẽ với các Kitô hữu Chính thống.

Ngài nói nguyên văn như sau: “Thưa Đức Thượng phụ, một cách đầy xấu hổ, tôi nhân danh Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận các hành động và quyết định vốn không ăn nhằm chi với Chúa Giêsu và Tin Mừng, nhưng thay vào đó đầy dấu ấn thèm khát ưu thế và quyền lực, làm suy yếu tình hiệp thông của chúng ta một cách trầm trọng”.

“Bằng cách đó, chúng tôi đã để cho tính sinh hoa trái bị xâm phạm bởi chia rẽ. Lịch sử đè nặng lên chúng tôi và ở đây, tôi cảm thấy việc cần phải xin sự tha thứ của Thiên Chúa và của các anh chị em chúng tôi vì các lầm lỗi do nhiều người Công Giáo sa phạm”.

Nói thế rồi, Đức Phanxicô nhấn mạnh, bất chấp sự chia rẽ sâu xa đó, “chúng ta được an ủi khi biết chắc rằng gốc rễ của chúng ta là tông truyền và, bất chấp các thăng trầm vẹo vọ của thời gian, điều Tin Mừng đã trồng tỉa nay vẫn đang lớn mạnh và sinh hoa trái trong cùng một Chúa Thánh Thần”.

Ngài nói thêm, “Ơn sủng là biết thừa nhận thành quả tốt đẹp của nhau và cùng nhau cảm tạ Chúa vì ơn sủng này”.

Đức Phanxicô suy gẫm về những cây ôliu mọc cả ở Ý lẫn Hy Lạp và nhận định rằng chúng “hợp nhất chúng ta” và nhắc ngài nhớ đến gốc rễ chung của người Công Giáo và người Chính thống là cơ sở tông truyền, trước việc chia rẽ do cuộc Đại Ly Giáo năm 1054 gây ra.

Ngài nói “Nằm sâu dưới đất, dấu kín, thường bị làm ngơ, những rễ cây này tuy thế vẫn ở đó và chúng nâng đỡ mọi sự. Thánh Phaolô nói về chúng khi nhấn mạnh tới việc ‘được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ’” (Ep. 2:20).

Bất hạnh thay, sau mấy thế kỷ đầu tiên mang hoa trái tốt tươi, nhất là trong nền văn hóa Hy Lạp, “các quan tâm thế gian đã đầu độc chúng ta, cỏ dại ngờ vực đã gia tăng khoảng cách của chúng ta và chúng ta đã ngưng không nuôi dưỡng hiệp thông nữa”. Đức Phanxicô nhấn mạnh như thế và trích dẫn lời Thánh Basil nói rằng “các môn đệ đích thực của Chúa Kitô ‘chỉ nên mô phỏng những điều họ thấy ở nơi Người’”.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nài xin Chúa Thánh Thần ban ơn hiệp thông, khôn ngoan và an ủi. Ngài nói “Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần tình yêu vượt thắng mọi hình thức đề kháng và biến chúng ta thành những người xây đắp tình hiệp thông”.

Trích bài giảng của Thánh Grêgôriô thành Nyssa về sách Diễm Ca, Đức Phanxicô nói thêm rằng “Quả thế, ‘nếu tình yêu làm ta hết sợ hãi và sợ hãi biến thành tình yêu, thì chúng ta sẽ thấy điều cứu chúng ta là sự hợp nhất’”.

Ngài đặt câu hỏi, “Mặt khác, làm sao ta có thể chứng minh với thế giới tính hòa hợp của Tin Mừng, nếu các Kitô hữu chúng ta vẫn cứ phân rẽ? Làm sao chúng ta có thể công bố tình yêu của Chúa Kitô Đấng vốn tụ tập mọi quốc gia, nếu chính chúng ta cứ chia rẽ nhau?”

Công Giáo thiểu số Hy Lạp bị phân biệt đối xử

Theo Elise Ann Allen của Crux, các Giáo Hội thiểu số ở Hy Lạp như Công Giáo không được hưởng các miễn trừ và phải chịu thuế trên mọi tặng dữ và tiền quyên Chúa Nhật, cũng như lương bổng của giáo sĩ. Giáo Hội Công Giáo rất khó nhận được tài trợ công và hàng giáo sĩ Công Giáo trong quá khứ bị từ chối việc chăm sóc sức khỏe trong khi các cơ cấu Giáo Hội khó khăn lắm mới được tiến hành các việc bảo trì căn bản.

Nhiều dự án bác ái của Công Giáo buộc phải đóng cửa sau khi tăng thuế tới 48 phần trăm vào năm 2013 và mặc dầu tình huống đã được cải thiện đôi chút, các vấn đề nằm ở bên dưới vẫn còn lâu mới được giải quyết.

Giữa người Công Giáo và Chính Thống vốn có căng thẳng từ cuộc Đại Ly Giáo năm 1054, dù các liên hệ hiện nay giữa hai khối người này nói chung tốt đẹp, nhiều người Chính Thống vẫn đổ lỗi cho Vatican đã gây ra những việc làm xấu xa chống lại cộng đồng họ, từ việc cướp phá Constantinople năm 1204 (thời Thập tự quân) tới vụ ném bom Serbia năm 1999.

Dưới thời Stalin, người Công Giáo bị coi là thành phần của Giáo Hội Chính Thống. Khi chế độ cộng sản tan rã, Giáo Hội Công Giáo đòi lại các tài sản từng bị nhà nước trưng dụng và bắt đầu tổ chức các nghi lễ riêng của mình, nhiều người Chính Thống coi việc này như phản bội và là chủ nghĩa cải đạo của Công Giáo.

Chính vì vậy, Đức Phanxicô nài nỉ xin người Công Giáo và Chính thống thi hành các hành vi bác ái chung hướng về những người đang đau khổ, nhất là những người chịu tác dụng nhiều nhất bởi nghèo khó và cuộc khủng hoảng kinh tế của Hy Lạp và cầu nguyện cho nhau.

Ngài nói, "chúng ta cần cầu nguyện cho nhau để đem lại sự an ủi của Thiên Chúa cho thế giới và hàn gắn các liên hệ bị thương tích của chúng ta”, một việc cầu nguyện “sẽ giúp chúng ta không bị tê liệt bởi các trải nghiệm và thiên kiến tiêu cực của quá khứ, nhưng thay vào đó biết nhìn thực tại bằng đôi mắt mới”.

“Bằng cách trên, các thử thách quá khứ sẽ nhường chỗ cho các an ủi hiện nay, và chúng ta sẽ được an ủi bằng kho tàng ơn thánh mà chúng ta sẽ tái khám phá nơi anh chị em của chúng ta”.

Sau khi gặp Đức Hieronymos, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tới Nhà thờ Chính tòa Công Giáo Thánh Dionysius ở Athens, để gặp gỡ các đại diện của Giáo Hội Công Giáo, gồm các giám mục, linh mục, tu sĩ, người thánh hiến, chủng sinh và giáo lý viên.

Nhấn mạnh tới sự kiện người Công Giáo ở Hy Lạp là nhóm thiểu số, ngài so sánh với thánh Phaolô, người, theo ngài, “cô đơn, thiểu số, không được chào đón và rất ít cơ may thành công” khi lần đầu tiên tới Athens, “nhưng không để mình bị trấn áp bởi thất vọng”.

Thay vào đó, Thánh Phaolô nhất định không thoái lui hay ta thán. Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng đó “là thái độ của một tông đồ đích thực: tiến về phía trước một cách tin tưởng, thích sự bất trắc của các tình huống bất ngờ hơn là tự mãn theo thói quen. Thánh Phaolô có sự can đảm đó”.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi người Công Giáo Hy Lạp phấn đấu đạt được niềm tín thác giống như Thánh Phaolô, “vì làm một Giáo hội nhỏ bé khiến chúng ta trở thành một dấu chỉ hùng hồn của Tin Mừng, của Thiên Chúa được Chúa Giêsu công bố, Đấng chọn người nghèo và kẻ hèn mọn, Đấng thay đổi lịch sử bằng các hành động đơn giản của những người bình thường”.

Ngài nói, Giáo hội không nên phấn đấu dành những con số trong tinh thần chinh phục, điều mà ngài nói là nguy hiểm và “có thể cám dỗ chúng ta đến chủ nghĩa háo thắng. Chúng ta được yêu cầu lấy cảm hứng từ hạt cải, loại hạt có vẻ không đáng kể, nhưng phát triển chậm và lặng lẽ”.

Ngài nói, “Hãy coi sự nhỏ bé của anh chị em như một phước lành và sẵn lòng chấp nhận nó”. Ngài bảo điều này “làm anh chị em có thiên hứơng tín thác vào Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi”.

Ngài nói thêm: “Làm thiểu số - và đừng quên rằng Giáo hội trên toàn thế giới là một thiểu số - không có nghĩa là tầm thường, mà là gần hơn với con đường được Chúa yêu thương, đó là con đường của sự nhỏ bé”.

Đức Phanxicô cũng nói với các giám mục và tu sĩ ở Hy Lạp rằng có được thái độ chấp nhận là điều chủ chốt đối với công việc truyền giảng tin mừng của họ.

Ngài nói, thái độ chấp nhận “không cố gắng chiếm không gian và sự sống của người khác,” nhưng cố gắng gieo những hạt giống Tin Mừng vào đời sống họ và có thể nhận ra những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo trồng.

Theo Đức Giáo Hoàng, Thánh Phaolô tôn trọng người nghe của ngài và “hoan nghênh tinh thần đạo của họ… Ngài không áp đặt; ngài đề nghị. Phong cách của ngài không dựa trên việc tuyên truyền cải đạo, mà dựa trên sự hiền lành của Chúa Giêsu".

Ngài nói: “Ngày nay, chúng ta cũng được yêu cầu trau dồi thái độ chào đón, phong cách hiếu khách, trái tim mong muốn tạo ra sự hiệp thông giữa những khác biệt nhân bản, văn hóa và tôn giáo”. Ngài nhấn mạnh rằng thách thức là “phát triển niềm đam mê đối với toàn thể, một điều sẽ dẫn chúng ta - người Công Giáo, người Chính thống, anh chị em theo các tuyên tín khác - lắng nghe nhau, cùng nhau ước mơ và làm việc, vun đắp nền huyền nhiệm huynh đệ".

Ngài nói, các vết thương trong quá khứ vẫn còn hiện diện và nẻo đường đối thoại, một nẻo đường có thể hàn gắn các vết thương này, là một diễn trình chậm chạp, nhưng khuyến khích người Công Giáo “can đảm đón nhận thử thách ngày nay”.

Nhận định rằng phần lớn những người nghe Thánh Phaolô giảng đã bỏ đi, chỉ còn một số nhỏ ở lại để theo ngài, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng “Thiên Chúa vẫn dệt các sợi chỉ lịch sử, từ những ngày đó cho tới tận ngày nay của chúng ta”.

Ngài bảo, “Mong muốn nhiệt thành của tôi là anh chị em tiếp tục công việc trong phòng thí nghiệm đức tin lịch sử của anh chị em và làm điều đó với sự giúp đỡ của hai thành tố này, tin tưởng tín thác và chấp nhận, để thưởng thức Tin Mừng như một trải nghiệm niềm vui và tình huynh đệ”.
 
Diễn từ của Đức Thánh Cha với cộng đoàn Công Giáo tại Athens
J.B. Đặng Minh An dịch
04:48 05/12/2021


Chiều Thứ Bảy, 4 tháng 12, Đức Thánh Cha đã có một chuyến thăm xã giao đến Đức Tổng Giám Mục Hieronymos II, của Athens và Toàn Hy Lạp, tại Tòa Tổng Giám mục Chính thống giáo. Tiếp theo đó là cuộc gặp gỡ của phái đoàn Tòa Thánh và hàng giáo phẩm Chính Thống Giáo Hy Lạp tại “Phòng ngai vàng”.

Cuối ngày hôm đó, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, những người thánh hiến, chủng sinh và giáo lý viên của cộng đồng Giáo hội địa phương tại Nhà thờ Thánh Dionysius ở Athens.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:


Các chư huynh đệ Giám mục thân mến,

Quý Linh mục, Tu sĩ và các Chủng sinh thân mến,

Anh chị em thân mến, kalispera sas! (Chào buổi tối!)


Tôi cảm ơn từ thâm tâm mình trước sự chào đón nồng nhiệt của anh chị em và những lời chào thân ái mà Đức Tổng Giám Mục Rossolatos đã gửi đến tôi. Xin cám ơn Chị Maria về chứng từ của chị: điều quan trọng là các tu sĩ nam nữ phải thi hành công việc phục vụ của mình trong tinh thần này, với một tình yêu nồng nhiệt là trở thành một ân sủng cho các cộng đồng mà họ được sai đến. Cảm ơn! Cảm ơn anh, Rokos, vì lời chứng đức tin tốt đẹp mà anh đã sống trong gia đình, trong cuộc sống hàng ngày, cùng với những đứa trẻ, giống như rất nhiều người trẻ, đến một lúc nào đó bắt đầu thắc mắc, tự hỏi và trở nên hơi chỉ trích về một số điều nhất định. Nhưng điều đó cũng không phải là xấu, vì nó giúp chúng ta với tư cách là một Giáo Hội biết suy tư và thay đổi.

Tôi rất vui được gặp anh chị em ở một vùng đất là ân sủng, là tài sản của nhân loại, nơi nền tảng của phương Tây đã được hình thành. Tất cả chúng ta đều là con cái của đất nước anh chị em, và mắc nợ đất nước này: nếu không có thơ ca, văn học, triết học và nghệ thuật phát triển ở đây, chúng ta sẽ không thể quen thuộc với nhiều khía cạnh của hiện sinh con người, hoặc không thể trả lời nhiều câu hỏi sâu sắc liên quan đến cuộc sống, tình yêu, đau khổ và cả cái chết.

Vào buổi bình minh của Kitô Giáo, di sản phong phú này đã làm phát sinh sự hội nhập văn hóa của đức tin, được thực hiện, như thể trong một “phòng thí nghiệm”, nhờ vào sự khôn ngoan của nhiều Giáo phụ trong đức tin của chúng ta, những người qua sự thánh thiện trong cuộc sống và các tác phẩm của các ngài vẫn là một ngọn hải đăng ánh sáng cho các tín hữu ở mọi thời đại. Nhưng nếu tự hỏi ai là người đã khởi đầu cuộc gặp gỡ này giữa Kitô Giáo sơ khai và văn hóa Hy Lạp, chúng ta phải nghĩ ngay đến Tông đồ Phaolô. Thánh nhân đã bắt đầu công việc tổng hợp hai thế giới đó. Ngài đã làm điều đó tại chính nơi này, như chúng ta đọc trong sách Tông Đồ Công Vụ. Ngài đến Athens, bắt đầu rao giảng tại các quảng trường thành phố và được một số triết gia đưa đến Arêôpagô (xem Cv 17: 16-34), nơi hội họp của các trưởng lão và những người uyên bác có nhiệm vụ đưa ra các phán đoán về những vấn đề được công chúng quan tâm. Chúng ta hãy dừng lại và suy ngẫm về tình tiết này. Chúng ta có thể được hướng dẫn trong cuộc hành trình của mình với tư cách là Giáo hội bằng hai thái độ được Tông đồ Phaolô thể hiện, có thể rất hữu ích cho những nỗ lực hiện đại của chúng ta nhằm phổ biến đức tin.

Thái độ đầu tiên là lòng tín thác tự tin. Khi Phaolô giảng, một số triết gia bắt đầu tự hỏi “lang băm” này đang muốn nói gì (câu 18). Họ gọi ngài là lang băm: một kẻ bịa chuyện, lợi dụng lòng tin của người nghe. Vì vậy, họ đã đưa ngài đến Arêôpagô. Chúng ta không nên tưởng tượng rằng họ chỉ đơn giản là cho vị Tông đồ của chúng ta một diễn đàn. Ngược lại, họ đưa ngài đến đó để tra hỏi: “Chúng tôi có thể biết ông đang trình bày giáo lý mới này là gì không? Vì ông mang một số điều kỳ lạ đến tai chúng tôi; Do đó, chúng tôi muốn biết những điều này có ý nghĩa gì”(câu 19-20). Nói một cách dễ hiểu, Thánh Phaolô đã bị đưa vào những thử thách.

Phần sứ mệnh này của Thánh Phaolô tại Hy Lạp có thể dạy cho chúng ta một bài học quan trọng ngày nay. Vị Tông Đồ đã bị áp lực lớn. Trước đó không lâu, tại Thêsalônica, ngài đã bị ngăn cản không cho rao giảng; do tình trạng hỗn loạn khuấy động bởi các đối thủ, ngài phải bỏ trốn khỏi thành phố vào ban đêm. Giờ đây, khi đến Athens, ngài đã bị xem là một lang băm và bị điệu đến Arêôpagô như một vị khách không mời mà đến. Đây không phải là khoảnh khắc chiến thắng đối với Thánh Phaolô. Ngài đang thực hiện sứ vụ của mình trong một hoàn cảnh khó khăn. Có lẽ, nhiều khi trên đường đi, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và thậm chí thất vọng vì là một cộng đồng nhỏ bé, một Giáo hội với ít tài nguyên hoạt động trong một môi trường không phải lúc nào cũng thuận lợi. Hãy nghĩ về Thánh Phaolô ở Athens. Ngài đơn độc, thuộc nhóm thiểu số, không được chào đón và có rất ít cơ hội thành công. Nhưng ngài không cho phép mình khuất phục trước sự nản lòng. Ngài đã không từ bỏ sứ vụ của mình. Ngài cũng không chịu thua trước cám dỗ đưa ra những lời phàn nàn. Điều này rất quan trọng: hãy cảnh giác về thói phàn nàn. Thái độ của một tông đồ chân chính phải là tự tin tiến về phía trước, thích sự không chắc chắn của những tình huống bất ngờ hơn là sức mạnh của thói quen và sự lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô đã có dũng khí đó. Nó đến từ đâu? Thưa: Từ sự tin tưởng vững chắc vào Chúa. Lòng can đảm của thánh nhân là lòng can đảm phát sinh từ sự tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thích hoàn thành những điều vĩ đại thông qua sự thấp hèn của chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy có cùng niềm tin tưởng vững vàng ấy, bởi vì điều này: là một Giáo hội nhỏ bé, khiến chúng ta trở thành dấu chỉ hùng hồn của Tin Mừng, về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng, Đấng đã chọn những người nghèo và những kẻ hèn mọn, Đấng thay đổi lịch sử bằng những hành động đơn sơ của những người tầm thường. Là Giáo hội, chúng ta không được kêu gọi để có tinh thần chinh phục và chiến thắng, những con số ấn tượng hay sự vĩ đại của thế gian. Tất cả điều này là nguy hiểm. Nó có thể cám dỗ chúng ta đến não trạng vênh vang. Chúng ta được yêu cầu lấy cảm hứng từ hạt cải, loại hạt có vẻ không đáng kể, phát triển chậm và lặng lẽ. “Nó là hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” - Chúa Giêsu nói với chúng ta - “nhưng khi đã lớn nó là hạt lớn nhất trong các bụi cây và trở thành cây to” (Mt 13,32). Chúng ta được yêu cầu trở thành men làm dậy bột một cách kiên nhẫn và âm thầm, ẩn mình trong bột thế gian, nhờ hoạt động không ngừng của Chúa Thánh Thần (x. Mt 13,33). Bí mật của Nước Thiên Chúa nằm trong những điều nhỏ bé, thường lặng lẽ và không ai nhìn thấy. Tông đồ Phaolô, tên ngài có nghĩa là “bé nhỏ”, đã sống trong sự tin cậy vững chắc, vì ngài đã đón nhận những lời Phúc Âm đó vào lòng và biến chúng thành bài học cho các tín hữu ở Côrinhtô: “Sự yếu đuối của Thiên Chúa mạnh hơn loài người”; “Thiên Chúa đã chọn những gì yếu đuối trên thế gian để làm xấu hổ những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1:25, 27).

Vì vậy, anh chị em thân mến, tôi xin nói với anh chị em điều này: hãy coi sự nhỏ bé của mình là một may mắn và sẵn sàng chấp nhận nó. Nó buộc anh chị em phải tin cậy vào Chúa và chỉ một mình Chúa. Đừng quên rằng Giáo hội trên khắp thế giới là một thiểu số, nhưng là một thiểu số không có nghĩa là tầm thường, mà là tiến gần hơn đến con đường mà Chúa yêu thích, đó là con đường của sự bé nhỏ: trút bỏ chính mình, khiêm nhường, hiền lành, con đường tự hạ mình của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã xuống thế để ẩn mình trong sự yếu đuối của con người chúng ta và trong những vết thương xác thịt chúng ta. Ngài đã cứu chúng ta bằng cách phục vụ chúng ta. Như Thánh Phaolô đã nói với chúng ta, “Ngài đã trút bỏ chính mình, mang hình dáng của một người đầy tớ” (Philíp 2: 7). Quá thường là chúng ta bị ám ảnh bởi những hình thức và hình ảnh bên ngoài, nhưng “Nước Thiên Chúa không đến với những dấu chỉ có thể quan sát được” (Lc 17:20). Nước Thiên Chúa đến một cách lặng lẽ, chậm rãi như mưa rơi trên mặt đất. Chúng ta hãy giúp nhau củng cố lòng tin cậy nơi công việc của Thiên Chúa, và đừng đánh mất lòng nhiệt thành phục vụ. Hãy can đảm, kiên trì trên con đường khiêm nhường và nhỏ bé này!

Bây giờ tôi muốn làm nổi bật một thái độ thứ hai được Thánh Phaolô thể hiện trước Arêôpagô, và đó là sự chấp nhận, một tính cách nội tâm cần thiết cho việc truyền giáo. Thái độ chấp nhận không cố gắng chiếm không gian và cuộc sống của người khác, nhưng là để gieo tin tốt vào đất cuộc sống của họ; đó là học cách nhận biết và đánh giá cao những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng họ trước khi chúng ta bắt tay vào việc. Chúng ta hãy nhớ rằng Chúa luôn đi trước chúng ta, Chúa luôn gieo trước chúng ta. Truyền giáo không phải là đổ đầy một thùng rỗng; nhưng tối hậu là đưa ra ánh sáng những gì Thiên Chúa đã bắt đầu hoàn thành. Và đây là phương pháp sư phạm đáng chú ý mà vị Tông đồ đã áp dụng với người Athen. Ngài đã không nói với họ: “Các ông đã sai hết trơn hết trọi”, hoặc “Bây giờ tôi sẽ dạy các ông sự thật”. Thay vào đó, ngài bắt đầu bằng việc chấp nhận tinh thần tôn giáo của họ: “Thưa quý vị người Athen, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ‘Kính thần vô danh’” (Cv 17: 22-23). Thánh nhân đã rút ra điều này từ di sản phong phú của người Athen. Vị Tông đồ tôn trọng những thính giả của mình và hoan nghênh lòng sùng đạo của họ. Mặc dù các đường phố ở Athens đầy rẫy những thần tượng, là điều đã khiến ngài “vô cùng đau khổ” (câu 16), Phaolô thừa nhận lòng khao khát đối với Thiên Chúa tiềm ẩn trong trái tim của những người đó, và muốn nhẹ nhàng chia sẻ với họ món quà tuyệt vời là đức tin. Ngài đã không áp đặt; nhưng đã đề nghị. “Phong cách” của ngài không bao giờ dựa trên việc chiêu dụ tín đồ, nhưng dựa trên sự hiền lành của Chúa Giêsu. Điều này có thể thực hiện được vì Phaolô có cái nhìn thiêng liêng về thực tại. Ngài tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong trái tim con người, vượt trên nhãn giới tôn giáo. Chúng ta đã nghe thấy điều này trong chứng tá do Rokos đưa ra. Tại một thời điểm nào đó, trẻ em rời xa việc thực hành tôn giáo, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục làm công việc của mình, và do đó chúng vẫn tin vào sự hiệp nhất, vào tình huynh đệ với những người khác. Chúa Thánh Thần luôn làm nhiều hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy từ bên ngoài. Chúng ta đừng quên điều này. Trong mọi thời đại, thái độ của người tông đồ bắt đầu bằng việc chấp nhận người khác. Vì “ân sủng giả định nền văn hóa, và ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong nền văn hóa của những người nhận được nó” (Evangelii Gaudium, 115). Không có ân sủng trừu tượng nào bay trên đầu chúng ta; ân sủng luôn luôn nhập thể trong một nền văn hóa.

Khi suy ngẫm về chuyến thăm của Thánh Phaolô đến Arêôpagô, Đức Bênêđíctô XVI lưu ý rằng chúng ta phải nhớ đến những người theo thuyết bất khả tri và những người vô thần, nhưng hãy lưu ý rằng, khi chúng ta nói về một cuộc truyền giáo mới, đừng làm họ nản. “Họ không muốn bị coi là mục tiêu của sứ vụ truyền giáo, cũng không muốn từ bỏ quyền tự do tư tưởng và ý chí của mình” (Diễn văn trước Giáo triều Rôma, ngày 21 tháng 12 năm 2009). Ngày nay, chúng ta cũng được yêu cầu trau dồi một thái độ chào đón, một phong cách hiếu khách, một trái tim mong muốn tạo ra sự hiệp thông giữa những khác biệt về con người, văn hóa hoặc tôn giáo. Thách đố là chúng ta phải phát triển lòng nhiệt thành của mọi người, điều này có thể dẫn chúng ta - người Công Giáo, Chính thống giáo, anh chị em theo các hệ phái khác, và cả những anh chị em bất khả tri của chúng ta, tất cả mọi người – đến chỗ lắng nghe nhau, ước mơ và làm việc cùng nhau, để nuôi dưỡng “mầu nhiệm” của tình huynh đệ (xem Evangelii Gaudium, 87). Những nỗi đau trong quá khứ vẫn còn trên con đường hướng tới một cuộc đối thoại đáng hoan nghênh như vậy, nhưng chúng ta hãy can đảm đón nhận thử thách hôm nay!

Anh chị em thân mến, tại đây trên mảnh đất Hy Lạp này, Thánh Phaolô đã thể hiện sự tin cậy thanh thản của mình vào Thiên Chúa và điều này khiến ngài cởi mở và chấp nhận đối với những người Arêôpagô đang nghi ngờ ngài. Với tinh thần này, Phaolô đã công bố Thiên Chúa mà những người nghe ngài chưa hề biết đến. Do đó, ngài đã có thể trình bày khuôn mặt của một Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu Kitô đã gieo vào lòng thế giới hạt giống của sự phục sinh, quyền hy vọng phổ quát, là một nhân quyền - quyền được hy vọng. Khi Thánh Phaolô công bố tin vui này, hầu hết họ đều cười nhạo ngài và đi theo ý riêng của họ. Tuy nhiên, “một số gia nhập với ngài và trở thành tín đồ: trong số này có Dionysius, một thành viên của Arêôpagô, một phụ nữ tên là Damaris và những người khác” (Công vụ 17:34). Đa số bỏ đi; một thiểu số còn lại gia nhập với Thánh Phaolô, bao gồm cả Dionysius, người mà Nhà thờ này được đặt tên. Một phần nhỏ còn sót lại, nhưng đó là cách Thiên Chúa dệt nên những sợi chỉ của lịch sử, từ những ngày đó cho đến ngày của chúng ta. Mong muốn nhiệt thành của tôi là anh chị em tiếp tục công việc trong “phòng thí nghiệm” đức tin lịch sử của anh chị em, và làm điều đó với sự giúp đỡ của hai thành phần này, là sự tin tưởng và chấp nhận một cách tự tin, để cảm nghiệm Phúc âm như một kinh nghiệm của niềm vui, cũng như một kinh nghiệm của tình huynh đệ. Tôi gần gũi với anh chị em trong tình cảm và lời cầu nguyện. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. [Bằng tiếng Hy Lạp] Xin Chúa phù hộ cho anh chị em!
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Phụ nữ tấn công vào nhà thờ chính tòa đánh đập tàn tệ giáo dân
Đặng Tự Do
15:59 05/12/2021


Đức Cha Sergio Alfredo Gualberti Calandrina của Tổng giáo phận Santa Cruz de la Sierra đã lên án bạo lực do những người biểu tình ủng hộ nữ quyền gây ra bên ngoài nhà thờ chính tòa vào ngày 25 tháng 11, Ngày Quốc tế Xóa bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ.

Trong một tuyên bố ngày 27 tháng 11, Đức Cha đã mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực và lăng mạ gần đây của một nhóm nữ quyền đã tấn công và đánh đập một phụ nữ bên ngoài nhà thờ một cách “tàn nhẫn và bạo lực”.

Đức Tổng Giám Mục nói: “Thật đáng kinh ngạc khi những người tự xưng là bảo vệ phụ nữ lại có hành động bạo lực chống lại chính phụ nữ.” Ngài cho biết thêm rằng “thái độ bất khoan dung và hung hăng của họ phơi bày thực trạng chiêu bài của họ”.

Tại nhiều thành phố khác nhau ở Bolivia và các khu vực khác của Mỹ Châu, các nhóm nữ quyền biểu tình bạo lực, phá hoại các tòa nhà công cộng và tư nhân, đồng thời tấn công các nhà thờ Công Giáo.

Đức Tổng Giám Mục của Santa Cruz cũng bày tỏ lo ngại của mình về “sự vắng mặt của các lực lượng thực thi pháp luật, có nhiệm vụ ngăn cản đụng độ, bảo vệ sự an toàn và tính mạng của nhân dân, cũng như duy trì hòa bình cho các công dân và các di sản lịch sử, văn hóa và tôn giáo của thành phố của chúng ta.”

Tại La Paz, đoạn video giám sát cho thấy một người không rõ danh tính đã đặt một thiết bị nổ vào khoảng 4:30 sáng ngày 24 tháng 11 bên ngoài cửa văn phòng Hội Đồng Giám Mục Bolivia.

Thiết bị phát nổ ngay sau đó và truyền thông địa phương đưa tin rằng vụ nổ đã làm hỏng một bậc thềm và một phần của cánh cửa.

Cũng tại La Paz, vào lúc chạng vạng ngày 25 tháng 11, một đám đông phụ nữ tiến đến nhà thờ Đức Bà Phù Hộ Các Tín Hữu nơi một nhóm phụ nữ Công Giáo đang đứng trên bậc thềm cùng với một số nam giới để bảo vệ nhà thờ.

Khi anh chị em giáo dân đang cầu nguyện lần chuỗi Mân Côi, những người biểu tình bắt đầu hô vang các khẩu hiệu ủng hộ phá thai và đòi tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước. Những người biểu tình ném sơn đỏ, phân, chai lọ và các đồ vật khác vào những người bảo vệ nhà thờ.

Đức Tổng Giám Mục của Santa Cruz đã kết luận tuyên bố của mình như sau:

“Chúng tôi yêu cầu tác giả của những tác phẩm quá đáng này và mọi người chấp nhận lời kêu gọi của Chúa và làm việc cho hòa bình và cuộc sống” và không kích động “hận thù và bạo lực”,
Source:Catholic News Agency
 
Vatican chỉ trích lời khuyên tránh từ ngữ Giáng Sinh trong hướng dẫn truyền thông của ủy ban Liên Hiệp Âu Châu
Đặng Tự Do
16:04 05/12/2021


Hôm thứ Ba, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đã chỉ trích một hướng dẫn truyền thông của Liên Hiệp Âu Châu yêu cầu các nhân viên phải tránh sử dụng từ ngữ “Giáng sinh”.

Trong một cuộc phỏng vấn được Vatican News công bố vào ngày 30 tháng 11, Hồng Y Pietro Parolin cho rằng tài liệu này đang “đi ngược lại thực tế” bằng cách hạ thấp nguồn gốc Kitô Giáo của Âu Châu.

Đức Hồng Y đã đưa ra những lời bình luận liên quan đến một tài liệu nội bộ dài 32 trang có tên “#UnionOfEquality. Hướng dẫn của Liên Hiệp Âu Châu về Truyền thông Hòa nhập”, do Cao ủy trưởng Liên minh Âu Châu về Bình đẳng Helena Dalli đưa ra vào ngày 26 tháng 10.

Dalli thông báo vào ngày 30 tháng 11 rằng bà ta sẽ rút lại các hướng dẫn, vì các hướng dẫn này “rõ ràng cần nhiều việc phải làm hơn”.

Tờ Il Giornale của Ý đưa tin vào ngày 28 tháng 11 rằng hướng dẫn đã kêu gọi các nhân viên tại Ủy ban Âu Châu, cơ quan điều hành của Liên Hiệp Âu Châu, “tránh nghĩ rằng mọi người đều theo Kitô Giáo”.

Tài liệu cho biết: “Không phải tất cả mọi người đều kỷ niệm các ngày lễ của Kitô Giáo, và không phải tất cả các Kitô Hữu đều kỷ niệm các ngày lễ này vào những ngày giống nhau”.

Hướng dẫn đã khuyến khích các quan chức có trụ sở tại thủ đô Brussels của Bỉ và Luxembourg tránh dùng những cụm từ như “Thời gian Giáng sinh” và thay vào đó nói “Thời gian nghỉ lễ.”

Nó cũng khuyến nghị sử dụng các thuật ngữ loại bỏ mầu sắc Kitô Giáo.

Đức Hồng Y Parolin nói với Vatican News rằng ý định tránh phân biệt đối xử là đáng khen ngợi.

“Nhưng theo tôi, đây chắc chắn không phải là cách để đạt được mục tiêu này. Bởi vì cuối cùng, nó có nguy cơ tiêu diệt, hủy diệt con người, theo hai hướng chính yếu. Đầu tiên là sự đa dạng đặc trưng cho thế giới của chúng ta. Thật không may, ngày nay người ta có khuynh hướng đồng nhất hóa mọi thứ, không biết tôn trọng những khác biệt chính đáng. Những khác biệt đương nhiên không được trở thành vấn đề đối nghịch hoặc nguồn gốc của sự phân biệt, nhưng phải được hòa nhập để xây dựng một nhân loại toàn vẹn và đa dạng”.

“Thứ hai là người ta đang quên đi thực tế là gì. Và bất cứ ai đi ngược lại thực tế sẽ tự đặt mình vào tình thế nguy hiểm. Và sau đó là sự hủy bỏ nguồn gốc của chúng ta, đặc biệt là liên quan đến các ngày lễ của Kitô Giáo, và chiều kích Kitô Giáo của Âu Châu chúng ta”.

“Tất nhiên, chúng ta biết rằng Âu Châu có nhiều đóng góp cho sự tồn tại và bản sắc của mình, nhưng chúng ta chắc chắn không thể quên rằng một trong những đóng góp chính, nếu không muốn nói là chủ yếu, là chính Kitô Giáo. Vì vậy, tiêu diệt sự đa dạng và phá hủy gốc rễ chính xác là tiêu diệt con người”.

Lời khuyên liên quan đến từ “Giáng sinh” xuất hiện trong một phần của tài liệu có tên “Văn hóa, lối sống hoặc tín ngưỡng.”
Source:Catholic News Agency
 
Bài giảng trong Thánh lễ Chúa nhật, ngày 5 tháng 12, của Đức Phanxicô tại Phòng hòa nhạc Megaron ở Athens
Vũ Văn An
16:37 05/12/2021

Trong Chúa Nhật thứ hai của Mùa Vọng này, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta nhân vật Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin Mừng nhấn mạnh hai khía cạnh của nhân vật này: nơi nhân vật này hiện diện, tức sa mạc, và nội dung sứ điệp của nhân vật này, tức việc hoán cải. Sa mạc và hoán cải: Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh về những điều này và việc nhấn mạnh nhiều này giúp chúng ta hiểu rằng những lời này liên quan trực tiếp đến chúng ta. Chúng ta hãy chào đón cả hai.



Sa mạc. Thánh sử Luca giới thiệu địa danh này một cách đặc biệt. Thực vậy, ngài nói đến những hoàn cảnh long trọng và những nhân vật vĩ đại của thời đó: ngài đề cập đến năm thứ mười lăm triều Hoàng đế Tiberius Caesar, thống đốc Pontius Pilate, vua Herod và các "nhà lãnh đạo chính trị" khác của thời đó; rồi ngài nhắc đến các nhà lãnh đạo tôn giáo như Anna và Caipha, những người ở gần Đền thờ Giêrusalem (x. Lc 3: 1-2). Đến đây, ngài tuyên bố: "có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa" (Lc 3: 2). Nhưng như thế nào? Chúng ta thường nghĩ rằng Lời Thiên Chúa ngỏ với một trong những con người vĩ đại vừa được liệt kê. Nhưng không. Một sự nghịch lý tinh tế xuất hiện trong các dòng chữ của Tin Mừng: từ những thượng tầng nơi những người nắm giữ quyền lực sinh sống, người ta đột nhiên bước vào sa mạc, gặp một người đàn ông vô danh và cô đơn. Thiên Chúa làm ta ngạc nhiên, sự lựa chọn của Người làm người ta ngạc nhiên: chúng không nằm trong dự đoán của con người, chúng không tuân theo quyền năng và sự vĩ đại mà con người thường liên kết với. Chúa thích sự nhỏ bé và khiêm nhường. Ơn cứu chuộc không bắt đầu ở Jerusalem, Athens hay Rome, nhưng trong sa mạc. Chiến lược nghịch lý này mang đến cho chúng ta một thông điệp rất đẹp: có thẩm quyền, có văn hóa và tiếng tăm không phải là một bảo đảm sẽ làm vui lòng Chúa; trái lại, nó có thể dẫn đến kiêu căng và bác bỏ việc này. Thay vào đó, cần phải nghèo khó bên trong, nghèo như sa mạc.

Chúng ta hãy tiếp tục ở lại nghịch lý sa mạc. Vị Tiền Hô chuẩn bị cho sự xuất hiện của Chúa Kitô đến một nơi khó tiếp cận và không chiều khách, đầy nguy hiểm này. Bây giờ, nếu ai muốn có một thông báo quan trọng, họ thường đến những nơi đẹp đẽ, nơi có nhiều người, nơi ai cũng thấy. Ngược lại, Thánh Gioan lại rao giảng trong sa mạc. Chính ở nơi đó, nơi khô cằn, nơi không gian trống trải dài đến độ mắt có thể nhìn thấy và là nơi hầu như không có sự sống, ở đó vinh quang của Chúa được tỏ bày, vinh quang mà - như lời Thánh Kinh đã tiên báo (x. Is 40 : 3 -4) - biến sa mạc thành hồ ao, đất khô cằn thành suối nước (x. Is 41:18). Đây là một thông điệp đáng khích lệ khác: Thiên Chúa, bây giờ cũng như hồi ấy, hướng ánh mắt của Người tới những nơi nỗi buồn và sự cô đơn ngự trị. Chúng ta có thể trải nghiệm điều đó trong cuộc sống: Người thường không đến với chúng ta khi chúng ta đang ở giữa những tiếng vỗ tay và chỉ nghĩ đến bản thân mình; Người thành công, trước hết, trong những giờ phút thử thách. Người đến thăm chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn, trong những khoảng trống trải của chúng ta vốn dành chỗ cho Người, trong những sa mạc hiện sinh của chúng ta. Ở đó, Chúa đến thăm.

Anh chị em thân mến, trong cuộc đời của con người không thể thiếu những giây phút mà người ta có ấn tượng như đang ở trong sa mạc. Và đây chính là nơi mà Chúa làm cho Người hiện diện, Đấng thường không được chào đón bởi những người cảm thấy mình thành công, mà bởi những người cảm thấy họ không thể thành công. Và Người đến với những lời gần gũi, từ bi và dịu dàng: «Đừng sợ, vì ta ở cùng ngươi; đừng mất hướng, bởi vì ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta làm cho ngươi trở nên mạnh mẽ và giúp đỡ ngươi "(câu 10). Rao giảng trong sa mạc, Thánh Gioan bảo đảm với chúng ta rằng Chúa đến để giải thoát chúng ta và đem lại sự sống cho chúng ta trong những tình huống tưởng như không thể cứu vãn, không có lối thoát: Người đến đó. Do đó, không có nơi nào mà Thiên Chúa không muốn đến thăm. Và hôm nay chúng ta chỉ có thể cảm thấy vui mừng khi thấy Người chọn sa mạc, để đến với chúng ta trong sự nhỏ bé của chúng ta, sự nhỏ bé mà Người yêu thương và trong sự khô cằn của chúng ta, sự khô cằn mà Người muốn làm dịu cơn khát của chúng ta! Vì vậy, anh chị em thân mến, anh chị em đừng sợ sự nhỏ bé, vì vấn đề không phải là nhỏ bé và ít oi, nhưng là mở lòng ra với Thiên Chúa và với tha nhân, và đừng sợ sự khô khan, vì Thiên Chúa không sợ những điều này, Đấng đến đó để thăm viếng chúng ta!

Chúng ta hãy chuyển sang khía cạnh thứ hai, khía cạnh hoán cải. Thánh Tẩy Giả đã rao giảng điều đó không ngừng và với giọng điệu mãnh liệt (x. Lc 3: 7). Đây cũng là một vấn đề "không thoải mái". Sa mạc không phải là nơi đầu tiên chúng ta muốn đến thế nào, thì lời mời hoán cải chắc chắn cũng không phải là lời đề nghị đầu tiên được chúng ta muốn nghe như vậy. Nói về sự hoán cải có thể khơi dậy nỗi buồn; nó dường như khó hòa hợp với Tin Mừng của niềm vui. Nhưng điều này xảy ra khi việc hóan cải bị giản lược vào nỗ lực luân lý, như thể đó chỉ là kết quả của việc chúng ta cam kết. Vấn đề nằm chính ở đây, dựa mọi sự vào sức mạnh của chúng ta. Điều này sai! Ở đây nỗi buồn và sự thất vọng về tinh thần đang rình rập: chúng ta muốn hoán cải, trở nên tốt hơn, khắc phục các khiếm khuyết của mình, thay đổi, nhưng chúng ta cảm thấy mình không đủ khả năng và mặc dù có thiện chí, chúng ta luôn thụt lùi. Chúng ta có cùng kinh nghiệm như Thánh Phaolô, người từ chính những vùng đất này, đã viết: " Tôi muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:18 -19). Vì vậy, nếu tự mình, chúng ta không có khả năng làm điều tốt mà chúng ta muốn, thì việc chúng ta phải hoán cải có nghĩa gì?

Ngôn ngữ của anh chị em, tiếng Hy Lạp, đẹp đẽ lắm, nó có thể giúp chúng ta với từ nguyên của động từ "hóan cải", metanoéin trong Tin Mừng. Nó bao gồm giới từ metá, ở đây có nghĩa là vượt ra ngoài, và động từ noéin, có nghĩa là suy nghĩ. Như thế, hoán cải là suy nghĩ xa hơn, nghĩa là vượt ra khỏi cách suy nghĩ thông thường, vượt ra ngoài các kế hoạch tinh thần thông thường của chúng ta. Tôi đang nghĩ tới chính các kế hoạch giản lược mọi sự vào bản thân của chúng ta, vào việc chúng ta đòi được tự cung tự cấp. Hoặc vào các kế sách khép kín bởi sự cứng ngắc và nỗi sợ hãi làm tê liệt, bởi cơn cám dỗ "sự việc luôn được làm cách này, tại sao lại thay đổi?", bởi ý nghĩ cho rằng sa mạc của cuộc sống là nơi chết chóc và không có sự hiện diện của Thiên Chúa.

Bằng cách khuyến khích chúng ta hoán cải, Thánh Gioan mời gọi chúng ta đi xa hơn và không dừng lại ở đây; vượt xa những gì bản năng mách bảo và suy nghĩ của chúng ta ghi nhận, bởi vì thực tại luôn vĩ đại hơn: nó lớn hơn bản năng của chúng ta, những suy nghĩ của chúng ta. Thực tại là Thiên Chúa vĩ đại hơn. Vì vậy, hoán cải có nghĩa là không lắng nghe những điều phá hoại hy vọng, không lắng nghe những người lặp đi lặp lại rằng không có gì thay đổi trong cuộc sống – quả là những người bi quan mọi thời. Hoán cải từ chối tin rằng chúng ta bị tiền định phải chìm vào bãi cát lún của sự tầm thường. Hoán cải không đầu hàng trước những bóng ma bên trong, những bóng ma xuất hiện trước hết trong những khoảnh khắc thử thách để làm chúng ta nản lòng và nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ không vượt qua được, rằng mọi thứ đều sai và việc nên thánh không dành cho chúng ta. Điều này không phải vậy, bởi vì có Thiên Chúa. Chúng ta phải tin tưởng nơi Người, bởi vì Người là sức mạnh quá bên kia, là sức mạnh của chúng ta. Mọi sự sẽ thay đổi nếu chúng ta dành cho Người vị trí thứ nhất. Đây là sự hoán cải: cánh cửa của chúng ta rộng mở đủ để Chúa bước vào và làm những điều kỳ diệu, giống như sa mạc và những lời của Thánh Gioan đủ để Người đến thế gian. Người không yêu cầu nhiều hơn.

Chúng ta xin ơn biết tin rằng với Chúa, mọi sự sẽ thay đổi, Người sẽ chữa lành nỗi sợ hãi của chúng ta, chữa lành vết thương của chúng ta, biến những nơi khô cằn thành suối nước. Chúng ta xin ơn biết hy vọng. Vì chính hy vọng vực dậy niềm tin và nhen nhóm lòng bác ái. Bởi vì hy vọng chính là điều các sa mạc của thế giới đang khao khát ngày nay. Và trong khi cuộc gặp gỡ này của chúng ta đổi mới chúng ta trong niềm hy vọng và niềm vui của Chúa Giêsu, và tôi vui mừng được ở với anh chị em, chúng ta xin Mẹ của chúng ta, Đấng rất thánh, giúp chúng ta, giống như Mẹ, trở thành nhân chứng của hy vọng, gieo niềm vui xung quanh chúng ta – niềm hy vọng, thưa anh chị em, không bao giờ làm thất vọng, không bao giờ làm thất vọng -. Không những khi chúng ta hạnh phúc và ở bên nhau, mà hàng ngày, trên những sa mạc chúng ta đang cư ngụ. Bởi vì chính ở đó, với ân sủng Thiên Chúa, cuộc sống của chúng ta được mời gọi để hoán cải. Ở đó, trong nhiều sa mạc bên trong của chúng ta hoặc của môi trường, sự sống được kêu gọi để đơm bông. Xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng và lòng can đảm để đón nhận sự thật này.

***

Lời chào cuối cùng khi kết thúc thánh lễ

Anh chị em thân mến,

Vào cuối cử hành này, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn về sự chào đón mà tôi đã nhận được giữa anh chị em. Cảm ơn anh chi em bằng cả tấm lòng của tôi! Efcharistó! [Cảm ơn!].

Do ngôn ngữ Hy Lạp mà có hạn từ này để tổng hợp hồng ân Chúa Kitô dành cho toàn thể Giáo hội: Lễ Tạ Ơn [Eucharist]. Và do đó, đối với những người Kitô hữu chúng ta, lời tạ ơn được ghi khắc ở tâm điểm của đức tin và cuộc sống. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi toàn thể con người và hành động của chúng ta thành một Lễ Tạ Ơn, một lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa và một món quà tình yêu dành cho anh chị em của chúng ta.

Trong bối cảnh này, tôi xin nhắc lại lòng biết ơn chân thành của tôi đối với các nhà chức trách dân sự, tới Bà Tổng thống Cộng hòa, đang hiện diện ở đây, và các Giám mục anh em, cũng như tất cả những người bằng nhiều cách khác nhau đã cộng tác trong việc chuẩn bị và tổ chức chuyến thăm này. Cảm ơn tất cả anh chị em! Và cảm ơn ca đoàn đã giúp chúng ta cầu nguyện thật tốt.

Ngày mai tôi sẽ rời Hy Lạp, nhưng tôi sẽ không rời xa anh chị em! Tôi sẽ mang anh chị em theo với tôi, để tưởng nhớ và cầu nguyện. Và anh chị cũng vậy, xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em!
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thăm giáo xứ vùng xa mùa Vọng 2021
Maria Vũ Loan
10:30 05/12/2021
Cảm Nhận Mùa Vọng 2021

Mùa vọng, người ta chờ Chúa đến, đúng hơn là "sống làm sao” để Chúa hiện diện sống động trong tâm hồn. Muốn vậy, cần sự tĩnh lặng, nhưng sao cuộc sống quanh chúng tôi "ồn ào” quá! Sau hai tháng được đi lại, làm việc, Sài gòn lại sống trong lo âu. Người ta không giăng dây ở đầu những con hẻm lớn nhưng giăng dây trước cửa từng nhà. Rồi dăm bảy ngày, lại có tiếng kèn đám tang đi ngang qua nhà lúc 4 giờ 30 sáng... Đối với chúng tôi, Chúa sẽ "quang lâm” với từng người khi giờ chết đến, chứ không hề xa xôi, ảo vọng gì!

Xem Hình

Đã nhiều tháng trôi qua, bỗng dưng “nhiều góc khuất” của xã hội Việt Nam được “khơi” ra. Người ta suy nghĩ khác nhau nên tạo ra những con sóng nhấp nhô trong đời thường. Sóng to thì vỗ mạnh vào bờ làm cát đá tung tóe, sóng nhỏ thì gợn lên rồi tan ra như một kẻ ngoài cuộc không quan tâm thế sự...Chân lý ở đâu? Ai đúng? Ai sai? Chúng tôi thấy mình không là sóng lớn, không là sóng nhỏ mà chỉ sống, uốn theo dòng suy tư từ tiếng vang của Thánh Thần. Người Kitô hữu không “tĩnh” để nghe tiếng Thần Linh Chúa mách bảo, ắt dễ lạc đường, sai lối.

Cuộc sống hiện tại quá khó khăn. Nhiều người vật vã mưu sinh, kẻ khác cơ cực kiếm sống; không thiếu những người bế tắc hẳn. Việc chia sẻ lúc này vẫn cần thiết nhưng “cách chia” và “cách cho” chưa bao giờ khó như lúc này. Chắc là Chúa chẳng quan tâm đến cách cho đầy “cảm tính” hay kiểu đến với người khốn cùng cách “trí tuệ” mà làm thế nào “đong đầy yêu thương” là được! Chúng tôi vẫn làm công tác xã hội “online” từ lễ Chúa Thánh Thần đến giờ. Có lẽ sự ngờ vực chỉ có ở ngoài thế gian, chứ khó có thể xuất hiện giữa những người Kitô hữu có cốt lõi của cuộc sống là yêu thương.

Hằng này sau thánh lễ tôi thường nghe lời cầu: Lạy trái tim cực thanh cực tịnh rất thánh Đức Bà Maria - Cầu cho chúng con! Thế mà càng đến gần đại lễ Giáng Sinh, lòng chúng tôi chẳng “tịnh” được. Dễ hiểu thôi, đã 28 năm qua, chúng tôi đi chia quà Noel, thế mà lần thứ 29 này, chúng tôi không thể hóa thân thành Ông già, bà già Noel được vì dịch bệnh đang hoành hành; nhưng vẫn loay hoay bận rộn gửi quà cho vùng sâu vùng xa: nào chăn mền, áo lạnh, bánh kẹo, bóng nhựa..., tuy công việc không “tĩnh” nhưng “tâm” chúng tôi thật bình an.

Hiện nay, người ta đang lo ngại các biến thể của virus; biến thể có cái tên mỹ miều là Omicron; dù là biến thể nào cũng không phá được “cấu trúc” của lòng nhân ái trong nhân loại này; cái đáng sợ nhất là khi con người qua đi mà vẫn mang được của cải về bên kia thế giới. Khi đó lòng tham bao trùm cả hoàn vũ, cuộc tranh giành giữa người sống và người chết mới phá hủy thế giới này cách tàn bạo nhất.

Hằng ngày, tin Giáo Hội Hoàn Vũ trên VietCatholic có nhiều tín hiệu vui mừng, lại cũng không thiếu những điều buồn lòng. Đức Thánh Cha, với tuổi cao sức yếu, vẫn thực hiện các chuyến đi thăm mục vụ các quốc gia đầy quả cảm. Bao giờ Ngài đến thăm Việt Nam? Nếu có, thì Ngài xuất hiện ở Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang tại tỉnh Thừa Thiên Huế hoặc nơi Đức Mẹ Núi Cúi của vùng Đồng Nai Gia Kiệm nổi tiếng sùng đạo của người Bắc di cư? Hay Đức Thánh Cha xuất hiện ở miền Bắc Việt Nam, nơi cha ông tổ tiên chúng tôi đón nhận Tin Mừng sớm nhất? Các thành phần dân Chúa vẫn trông chờ... như một Mùa Vọng riêng dành cho Việt Nam vậy!

Và lòng chúng tôi vui hẳn lên sau một cuộc thưa chuyện với linh mục vùng xa thế này:

- Con kính chào Cha! Sao gửi cho chúng con nhiều hình ảnh và video clip thế!?

- À, để chị biết chỗ cha có gần 30 làng người dân tộc nghèo và cộng đoàn của Cha thật thân thiện với họ.

- Con đang chuẩn bị gửi quà cho họ đây. Mấy hôm trước con bị sốt nhẹ và khó thở, tưởng Chúa nhờ Covid gọi về, con cuống cuồng xin quí cha cầu nguyện. Lúc đó, con hết sức bối rối và tiếc nuối thế gian vì vẫn còn có thể làm việc được.... nhưng hai hôm sau khỏe bình thường vì con lạm dụng máy lạnh nên khó thở và lười ăn uống nên dễ cảm cúm mà thôi! Bây giờ con mới hiểu, khi gần chết, tâm tư người ta thế nào!

- Đấy, cha đã bảo mà...người già nên cẩn thận. Này, cộng đoàn cha vừa có hai tin vui. Một là....; hai là, sẽ có thêm một cha trẻ về đây. Cha này được nhà nước thương quí vì chống dịch Covid đợt vừa qua ở Sài gòn rất giỏi, người ta tặng giấy khen... cộng đoàn các cha các thầy thích lắm!

- Chúc mừng cộng đoàn cha nhé! Hết dịch bệnh, con bay đến để hỗ trợ niềm vui thứ nhất, không cần có tiền nhiều vẫn làm được. Con sẽ ở nhờ nhà quí Sơ một tuần là thực hiện được. Cha yên tâm nhé!

Ngày tháng qua đi. Người ta vẫn lan tỏa niềm vui cho nhau. “Chờ đến hết dịch” có phải là “một Mùa Vọng” nho nhỏ trong lòng không, khi chúng tôi vẫn phải chờ đợi?
 
Hai Tân Linh Mục Dâng Lễ Tạ ơn, tại Cộng Đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm Melbourne.
Trần Văn Minh
18:53 05/12/2021
Melbourne, vào lúc 5 giờ chiều Chúa Nhật Ngày 5/12/2021. Tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm, một Thánh lễ đồng tế trọng thể, do hai tân Linh mục Mát Thêu Đinh Tuấn Hoàng và Giuse Nguyễn Bá Đạt hợp cùng với quý cha và toàn thể cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa.

Xem hình

Thánh lễ đồng tế được tổ chức tại lễ đài của trung tâm, do Tân Linh mục Nguyễn Bá Đạt chủ tế cùng với Tân Linh mục Đinh Tuấn Hoàng và 13 linh mục Việt Nam trong Tổng Giáo Phận Melbourne đồng tế, cùng với sự hiện diện của quý tu sỹ nam, nữ, đại diện Ban điều hợp Cộng Đồng Công Giáo Melbourne, Ban Mục vụ CĐ Thánh Vinh Sơn Liêm, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, thân nhân, bạn hữu của hai tân linh mục và Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm cùng hiệp dâng thánh lễ tạ ơn.

Ca đoàn Cecilia phụ trách phần thánh ca, ngoài sự đóng góp lời ca tiếng hát, ca đoàn đã mặc đồng phục đại lễ, giúp cho buổi lễ thêm phần sốt sắng, long trọng và đặc biệt hơn. Ban Truyền Thông phụ trách phần âm thanh, thu, phát hình trực tuyến và chụp hình cho buổi lễ đã giúp cho buổi lễ được nhanh chóng đưa niềm vui chung đến khắp nơi trên toàn thế giới.

Mở đầu là lời chào mừng của Cha Tuyên úy Cộng đoàn Giuse Phạm Minh Ước. Chào mừng hai tân linh mục và quý cha đã đến cùng cộng đoàn để dâng lễ tạ ơn. Qua phần chia sẻ, Linh mục Nguyễn Văn Cao đã mở đầu bằng một lời của bài hát mà Ca đoàn Cecilia đã hát: Chính Chúa chọn con. Linh mục Cao cũng đã kể sơ qua về tiểu sử của hai tân linh mục, một người được sinh ra và lớn lên tại Úc, từ nhỏ đã sinh hoạt trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, là lễ sinh và cả trong Legio Maria trẻ, và một người sinh tại Việt Nam theo gia đình qua Úc. Sau khi cả hai đều đã tốt nghiệp đại học và đã đi làm thì có ơn gọi để “chẳng phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài chọn con trước đó… Và giữa muôn người Ngài đã chọn con.”

Với hai tân linh mục, có nhiều cái đặc biệt cần được nhắc đến. Đó là, những ngày lãnh nhận thiên chức từ phó tế đến linh mục đều bị kẹt trong mùa dịch Wu-Han (Covid 19!) Chức phó tế lúc đó cũng được tổ chức tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm Ngày 19/12/2020, cũng phải tổ chức ngoài trời và bị hạn chế rất nhiều người tham dự. Năm nay, ngày truyền chức linh mục lần đầu, đã bị hoãn lại vì lệnh giãn cách và phong tỏa. Và Thánh lễ truyền chức mới lần này, được đặt tay do Đức Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Melbourne Ngày 4/12/2021, tại Nhà thờ Chánh tòa Saint Patrick, Melbourne.

Sau lời nguyện cuối lễ, Linh mục Phạm Minh Ước đã nói: đây là thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa của hai tân linh mục. Theo cách nói cũ, chúng ta thường nói là lễ mở tay, tuy không được chỉnh, nhưng người linh mục không những mở tay mà còn phải mở mắt để nhìn thấy nỗi thống khổ của anh em, mở tai để nghe những lời từ mọi người, và mở miệng để rao giảng lời Chúa nữa và được sai đi đến những nơi cần có các linh mục.

Sau khi chụp hình lưu niệm cùng quý cha, thân nhân và gia đình. Hai tân linh mục đã chúc lành đầu tay cho những người đến xin nhận phép lành đầu tay của hai cha. Và cùng lúc, trong hội trường, một bữa tiệc để mời tất cả quý cha, quý tu sỹ nam, nữ và toàn thể cộng đoàn về dự tiệc mừng thật vui vẻ. Buổi lễ đã có đủ cả ba yếu tố: thiên thời, địa lợi và nhân hòa, trong một buổi chiều đầu mùa Hè khí hậu thật đẹp và lý tưởng cho một buổi sinh hoạt ngoài trời.
 
Văn Hóa
Con Đường
Nữ Tu Maria Mai
10:15 05/12/2021
Con Đường

Theo Tin Mừng Chúa nhật Tuần II mùa vọng năm C

Vắng vẻ hoang vu vọng tiếng mời.
Thức tỉnh lòng người khắp mọi nơi,
Phố xá tưng bừng luôn náo nhiệt,
Đồng bằng tất bật mãi không ngơi,

Nô nức bao người kéo nhau đi,
Hoang mạc tiên tri đúng lạ kỳ !
Châu chấu mật ong làm lương thực,
Phong trần da thú chọn xiêm y !

Đanh thép lời vang tựa gươm đao:
“Tiếng kêu hoang mạc vọng thuở nào:
Hào sâu hố thẳm nào san lấp.
Đồi nỗng, núi cao bạt đổ nhào…”

Xao xuyến thì thầm rỉ tai nhau:
Nghe lời ngôn sứ dạ nhói đau!
Lối cũ đường xưa nay sửa dọn
Hy vọng tin yêu lại thắm màu.

Hoan hỷ bình an ngập cõi lòng,
Đường ngay nẻo chính bước thong dong.
Lắng đọng cung trầm câu sám hối.
Bước chân “Người đến” vọng trong lòng !

Maria Mai (SPC)
 
VietCatholic TV
Cảm động: Buổi Cầu Nguyện Đại Kết Với Di Dân Tại Nicosia
Giáo Hội Năm Châu
04:59 05/12/2021


Hôm thứ Sáu 3 tháng 12, sinh hoạt đầu tiên của Đức Giáo Hoàng là chuyến thăm xã giao tới Đức Tổng Giám Mục Chrysostomos II, Tổng Giám mục Chính thống của Síp tại Tòa Tổng Giám mục ở Nicosia vào lúc 8:30; và gặp gỡ Thánh Công Đồng Chính Thống Giáo tại nhà thờ chính tòa của Chính Thống Giáo ở Nicosia.

Sinh hoạt tiếp theo của Đức Thánh Cha Phanxicô là Thánh lễ tại “Sân vận động GSP” ở Nicosia.

Sinh hoạt cuối cùng của ngài là Buổi Cầu Nguyện Đại Kết Với Di Dân Tại Nicosia.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến,

Thật là một niềm vui lớn được có mặt ở đây với anh chị em và kết thúc chuyến thăm của tôi đến Síp với buổi nhóm họp cầu nguyện này. Tôi cảm ơn các Thượng phụ Pizzaballa và Béchara Raï, và Bà Elisabeth của Caritas. Tôi chào đón với sự trìu mến và biết ơn những người đại diện của các tín phái Kitô giáo khác có mặt tại Síp.

Từ tận trái tim tôi, tôi muốn nói lời “cảm ơn” thật lớn đến anh chị em, những người di cư trẻ tuổi đã cung cấp những lời chứng của anh chị em. Tôi đã nhận trước các bản sao của chúng, khoảng một tháng trước. Chúng đã tạo ấn tượng lớn với tôi lúc đó, và hôm nay tôi lại được nghe lại chúng. Không chỉ là xúc động, tôi có cảm giác mạnh mẽ phát xuất từ việc bắt gặp được vẻ đẹp của sự thật. Chúa Giêsu đã xúc động như thế khi kêu lên: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu không cho người khôn ngoan, thông minh biết những điều này và đã tiết lộ cho trẻ thơ” (Mt 11:25). Tôi cũng xin ngợi khen Cha trên trời vì điều này đang xảy ra ngày nay, ở đây và trên khắp thế giới. Thiên Chúa đang mạc khải Vương quốc của Người, Vương quốc của tình yêu, công lý và hòa bình, cho những người nhỏ bé.

Sau khi nghe anh chị em, chúng ta hiểu rõ hơn tất cả quyền năng tiên tri của lời Chúa, Đấng, qua Thánh Tông đồ Phaolô, nói với chúng ta: “Anh em không còn là người xa lạ, nhưng là đồng bào với các thánh và cũng là thành viên của gia hộ Thiên Chúa “(Ep 2,19). Những lời này đã được gửi đến các Kitô hữu ở Êphêsô, cách đây không xa, nhiều thế kỷ trước, nhưng những lời đó vẫn hợp thời như bao giờ, như thể chúng được viết cho chúng ta ngày nay: “Các bạn không còn là người xa lạ nữa, mà là đồng bào”. Đây là lời tiên tri của Giáo hội: một cộng đồng, bất chấp mọi giới hạn của con người, luôn nhập thể giấc mơ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cũng có những giấc mơ, giống như con, Mariamie ạ, con đến từ Cộng hòa Dân chủ Congo, người đã tự mô tả mình là “đầy những giấc mơ”. Giống như con, Thiên Chúa mơ ước về một thế giới hòa bình, trong đó tất cả con cái của Người sống như anh chị em. Thiên Chúa muốn điều này, Thiên Chúa mơ ước điều này. Chúng ta mới là những người không muốn điều đó.

Sự hiện diện của anh chị em, thưa các anh chị em di dân, có ý nghĩa rất lớn đối với buổi cử hành này. Những lời chứng của anh chị em giống như một “tấm gương” soi cho chúng ta, cho các cộng đồng Kitô giáo của chúng ta. Khi con, Thamara ạ, con đến từ Sri Lanka, con nói với chúng ta rằng mọi người thường hỏi, “Bạn là ai?”: Trải nghiệm tàn khốc của việc di dân khiến chính bản sắc của chúng ta bị nghi ngờ. “Đây có phải là tôi không? Tôi không biết… Đâu là nguồn gốc của tôi? Tôi là ai?” Khi con hỏi những câu hỏi này, con nhắc nhở chúng ta rằng đôi khi chúng ta cũng được hỏi cùng một câu hỏi: “Bạn là ai?” Và đáng buồn thay, điều thực sự được hỏi thường là: “Bạn đứng về phía ai?”, “Bạn thuộc nhóm nào?” Tuy nhiên, như con đã nói, chúng ta không phải là những con số, những cái tên trên một danh sách; chúng ta là “anh chị em”, là “bạn bè”, là “tín hữu”, là “hàng xóm” của nhau. Tuy nhiên, khi tư lợi nhóm hoặc tư lợi chính trị, kể cả tư lợi của các quốc gia, bắt đầu thúc ép, nhiều người trong chúng ta cuối cùng bị gạt sang một bên và dù không muốn, trở thành nô lệ. Vì tư lợi luôn nô lệ hóa, luôn tạo ra nô lệ. Tình yêu, vốn có tính mở mang và ngược với thù hận, làm chúng ta được tự do.

Khi con, Maccolins ạ, con đến từ Cameroon, nói với chúng ta rằng trong suốt đời con, con đã bị “tổn thương bởi sự căm ghét”, con đã nói về điều này, về những vết thương do tư lợi gây ra: và con nhắc nhở chúng ta rằng sự căm ghét cũng đã đầu độc các mối liên hệ giữa chúng ta, những Kitô hữu. Và điều này như con nói, đã thay đổi chúng ta; nó để lại dấu ấn sâu xa và lâu dài. Nó là một chất độc. Đúng, con đã khiến chúng ta cảm nhận được điều này bởi niềm đam mê con dùng để lên tiếng. Thù hận là một liều thuốc độc khó loại bỏ, một não trạng quanh co, một não trạng, thay vì để chúng ta coi mình như anh chị em, lại khiến chúng ta coi nhau như kẻ thù, như đối thủ, hoặc thậm chí như đối tượng để mua bán hoặc lợi dụng.

Khi con, Rozh ạ, con đến từ Iraq, nói rằng con là người “đang lữ hành”, con nhắc nhở chúng ta rằng bản thân chúng ta là một cộng đồng đang lữ hành; chúng ta đang lữ hành từ xung đột đến hiệp thông. Trên con đường dài và có nhiều thăng trầm này, chúng ta đừng nên sợ các khác biệt của mình, nhưng nên sợ đầu óc khép kín và định kiến luôn ngăn cản chúng ta thực sự gặp gỡ nhau và cùng nhau lữ hành. Sự khép kín và thành kiến đã dựng lại bức tường chia rẽ, sự thù nghịch giữa chúng ta, mà Chúa Kitô đã phá bỏ (x. Ep 2:14). Cuộc lữ hành hướng tới sự hợp nhất trọn vẹn của chúng ta chỉ có thể tiến triển theo mức chúng ta cùng nhau chăm chăm nhìn vào Chúa Giêsu, vào Người, Đấng là “sự bình an của chúng ta” (sđd), là “đá góc” (c. 20). Chính Người, Chúa Giêsu, là Đấng chúng ta gặp trong khuôn mặt của các anh chị em bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị gạt bỏ của chúng ta. Trong khuôn mặt của người di cư bị khinh thường, bị bác bỏ, bị nhốt trong lồng, bị bóc lột... Nhưng đồng thời, như con nói, khuôn mặt của người di cư đang lữ hành tiến tới một mục tiêu, một hy vọng, tới tình đồng hành lớn hơn của con người...

Trong tất cả những con đường trên, Thiên Chúa nói với chúng ta qua những giấc mơ của anh chị em. Nguy hiểm là nhiều khi chúng ta không để các giấc mơ của chúng ta xuất hiện, thay vào đó, chúng ta chỉ ngủ chứ không nằm mơ. Rất dễ dàng nhìn theo hướng khác. Và trong thế giới này, chúng ta đã quá quen với nền văn hóa thờ ơ, một nền văn hóa nhìn theo hướng khác và do đó ngủ yên. Tuy nhiên, cách đó không thể mơ ước. Thiên Chúa nói qua giấc mơ của anh chị em. Thiên Chúa không nói qua những người không mơ mộng, vì họ có tất cả hay vì trái tim họ chai đá. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đừng bằng lòng với một thế giới bị chia rẽ, bằng lòng với các cộng đồng Kitô hữu bị chia rẽ, nhưng lữ hành xuyên suốt lịch sử được lôi kéo bởi chính giấc mơ của Người: giấc mơ về một nhân loại thoát khỏi bức tường chia rẽ, thoát khỏi thù nghịch, nơi không còn những người xa lạ, nhưng chỉ là những người đồng bào, như chúng ta đã nghe Thánh Phaolô nói trong đoạn tôi vừa đề cập. Những đồng bào đa dạng, nhưng tự hào về tính đa dạng và cá tính đó, vốn là các ơn phúc của Thiên Chúa. Đa dạng, tự hào về tính đa dạng, nhưng luôn hòa giải, luôn là anh chị em.

Cầu mong cho hòn đảo này, được đánh dấu bởi sự chia rẽ đau đớn, từ đây tôi có thể nhìn thấy bức tường đó, nhờ ân sủng Thiên Chúa trở thành một nơi tập huấn tình huynh đệ. Tôi cảm ơn tất cả những người đang làm việc để làm cho điều đó diễn ra. Chúng ta phải nhìn nhận rằng hòn đảo này rất quảng đại, nhưng nó không thể làm được mọi sự, vì số lượng người đến nhiều hơn khả năng tiếp nhận, hội nhập, đồng hành và cổ vũ của nó. Sự gần gũi về địa lý của nó có thể làm cho điều đó dễ dàng hơn... nhưng nó không hề dễ dàng. Chúng ta phải hiểu các giới hạn mà các nhà lãnh đạo của hòn đảo bị trói buộc vào. Nhưng trên hòn đảo này, và tôi đã thấy điều này ở những nhà lãnh đạo mà tôi đươc gặp, có một cam kết, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, trở thành nơi tập huấn tự do. Và nó sẽ trở thành như thế, nếu hai điều này có thể xảy ra. Thứ nhất, công nhận hữu hiệu phẩm giá của mỗi con người (xem Fratelli Tutti, 8). Phẩm giá của chúng ta không phải để bán; không thể đem cho thuê; nó không được phung phí. Anh chị em hãy ngẩng cao đầu lên và nói: Tôi là con của Thiên Chúa; Tôi có phẩm giá của tôi. Công nhận hữu hiệu phẩm giá này là nền tảng của đạo đức, một nền tảng phổ quát, nó cũng là cốt lõi của học thuyết xã hội Kitô giáo. Thứ hai, cởi mở tin cậy vào Thiên Chúa, Cha của tất cả mọi người; đây là “men” mà chúng ta, với tư cách tín hữu, được kêu gọi để dâng hiến (xem sđd, 272).

Nếu hai điều trên có thể diễn ra, thì giấc mơ có thể diễn dịch thành một cuộc lữ hành hàng ngày, tạo thành bởi các bước cụ thể từ xung đột đến hiệp thông, từ thù hận đến yêu thương, từ trốn tránh đến gặp gỡ. Một cuộc lữ hành kiên nhẫn, từng ngày dẫn chúng ta đến vùng đất mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta. Vùng đất mà khi mọi người hỏi “Bạn là ai?”, anh chị em có thể dễ dàng trả lời, “Hãy nhìn xem, tôi là anh trai, em gái của bạn. Bạn không nhận ra tôi sao? “ Và rồi, đi theo con đường của anh chị em trong hòa bình.

Khi tôi lắng nghe anh chị em nói và nhìn thấy khuôn mặt của anh chị em, tôi được nhắc nhở một điều khác: sự đau khổ của anh chị em. Anh chị em đã đến đây, nhưng có bao nhiêu anh chị em của anh chị em vẫn đang tiếp tục cuộc lữ hành? Bao nhiêu người liều mạng lên đường trong những điều kiện khó khăn, bấp bênh nhưng không đến nơi? Chúng ta có thể nghĩ về vùng biển này, nơi đã trở thành một nghĩa trang lớn. Nhìn vào anh chị em, tôi thấy những đau khổ do hành trình của anh chị em gây ra; Tôi thấy tất cả những người đã bị bắt cóc, bị bán, bị bóc lột… và những người vẫn đang trên đường lữ hành, chúng ta không biết đến đâu. Chúng ta đang nói về chế độ nô lệ, nô dịch phổ quát. Chúng ta thấy những gì đang xảy ra, và điều tồi tệ nhất là chúng ta trở nên quen với nó. “Ồ đúng, hôm nay một chiếc thuyền khác bị lật… rất nhiều sinh mạng đã mất….” Việc “trở thành quen thuộc” với mọi thứ này là một căn bệnh nghiêm trọng, một căn bệnh rất nghiêm trọng, và không có thuốc kháng sinh chữa nó! Chúng ta phải chống lại việc làm quen với việc đọc những thảm kịch này trên báo chí hoặc nghe chúng trên các phương tiện truyền thông khác.

Nhìn anh chị em, tôi cũng nghĩ đến tất cả những người đã bị quay lưng vì họ bị từ chối và kết thúc trong các trại tập trung, các trại tập trung thực sự, nơi phụ nữ bị bán, và đàn ông bị tra tấn và làm nô lệ… Chúng ta kinh hoàng khi đọc những câu chuyện về các trại tập trung của thế kỷ trước, các trại của Đức Quốc xã hay của Stalin, và chúng ta nói: “Làm sao điều này có thể xảy ra được?” Thưa các anh chị em, nó đang xảy ra ngày hôm nay, trên các bờ biển gần đây! Các nơi nô dịch. Tôi đã xem một số lời khai được quay phim về điều này: những nơi tra tấn và buôn người. Tôi nói tất cả những điều này bởi vì trách nhiệm của tôi là giúp mọi người mở mắt thấy thực tại này. Di dân cưỡng bức không phải là một loại “du lịch”! Và tội lỗi của chúng ta khiến chúng ta nghĩ: “Những người tội nghiệp đó, những người tội nghiệp đó!”, Và với những hạn từ này, “những người tội nghiệp đó”, chúng ta đã tẩy xóa mọi sự. Đây là cuộc chiến của ngày nay: nỗi đau khổ của anh chị em chúng ta, mà chúng ta không thể lướt qua trong im lặng. Những anh chị em đã bỏ lại tất cả để lên thuyền, trong đêm tối, và sau đó… mà không biết liệu có bao giờ tới nơi không. Và tất cả những người đã bị bác bỏ và kết thúc trong các trại tập trung, nơi thực sự diễn ra sự tra tấn và nô dịch.

Đó là câu chuyện của nền văn minh phát triển mà chúng ta gọi là phương Tây này. Và rồi, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng ở đây tôi muốn nói những gì chất chứa trong trái tim tôi, ít nhất là để chúng ta có thể cầu nguyện cho nhau và làm một điều gì đó, và rồi, có hàng rào thép gai. Chúng ta thấy nó ở đây: nó là một phần của cuộc chiến hận thù chia rẽ một đất nước. Tuy nhiên, ở những nơi khác, hàng rào thép gai được dựng lên để ngăn chặn các người tị nạn bước vào, những người đến để tìm kiếm tự do, thức ăn, sự trợ giúp, tình huynh đệ, niềm vui, những người chạy trốn khỏi hận thù nhưng sau đó lại thấy mình phải đối diện với một hình thức hận thù có tên là dây thép gai. Xin Chúa đánh thức lương tâm của tất cả chúng ta trước những thực tại này.

Xin lỗi nếu tôi nói tới những điều như thực sự chúng là, nhưng chúng ta không thể im lặng và nhìn theo hướng khác giữa nền văn hóa thờ ơ này.

Cầu xin Chúa ban phước lành cho tất cả anh chị em! Cảm ơn anh chị em.
 
Tin Vui: ĐTC chiếm trọn cảm tình Chính Thống Giáo Hy Lạp qua các cử chỉ khiêm nhường và huynh đệ
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
05:01 05/12/2021

Sáng Thứ Bảy, 4 tháng 12, Đức Giáo Hoàng đã rời Síp để bay đến thủ đô Hy Lạp là Athens, hay còn gọi là Nhã Điển, nơi ngài đã hạ cánh lúc 11:10 giờ địa phương. Sau nghi thức tiếp đón chính thức tại Phủ Tổng thống, vào buổi chiều, Đức Thánh Cha đã có một chuyến thăm xã giao đến Đức Tổng Giám Mục Hieronymos II, của Athens và Toàn Hy Lạp, tại Tòa Tổng Giám mục Chính thống giáo.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:


Thưa Đức Tổng Giám Mục,

“Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1: 7). Tôi xin chào anh em với những lời này của Tông đồ Phaolô vĩ đại, đó chính những lời mà thánh nhân đã nói với các tín hữu thành Rôma khi đang ở Hy Lạp. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay tái tạo lại ân sủng và bình an đó. Khi cầu nguyện trước các đền thờ lớn của Giáo Hội Rôma, trước các ngôi mộ của các Tông đồ và các vị tử đạo, tôi cảm thấy bị thôi thúc đến đây như một người hành hương, với lòng thành kính và khiêm nhường, để canh tân sự hiệp thông tông đồ và nuôi dưỡng tình bác ái huynh đệ. Tôi cảm ơn Đức Tổng Giám Mục vì những lời tốt lành của hiền huynh, mà tôi xin đáp lại với tình cảm quý mến. Qua hiền huynh, tôi cũng gửi lời chào đến các giáo sĩ, cộng đồng tu sĩ và tất cả các tín hữu Chính thống giáo của Hy Lạp.

Năm năm trước, chúng ta đã gặp nhau tại Lesvos, giữa một trong những bi kịch lớn của thời đại chúng ta: hoàn cảnh của rất nhiều anh chị em di cư của chúng ta, là những người chúng ta không thể thờ ơ, hay chỉ xem là một gánh nặng cần được quản lý hoặc tệ hơn là một vấn đề cần phải đẩy sang cho người khác. Giờ đây, chúng ta gặp lại nhau, để chia sẻ niềm vui của tình huynh đệ và để xem Địa Trung Hải bao quanh chúng ta không chỉ là nơi có khó khăn và chia rẽ, mà còn là vùng biển gắn kết các dân tộc lại với nhau. Cách đây không lâu, tôi đã đề cập đến những cây ô liu lâu năm mà vùng đất của chúng ta có điểm chung. Suy ngẫm về những cái cây gắn kết chúng ta, tôi nghĩ đến những gốc rễ mà chúng ta chia sẻ. Những gốc rễ đó tuy ngầm dưới đất, bị che lấp, và thường bị bỏ qua, vẫn ở đó và chúng duy trì mọi thứ. Nguồn gốc chung của chúng ta đã tồn tại qua nhiều thế kỷ là gì? Thưa: Đó là gốc rễ của các tông đồ. Thánh Phaolô nói về các gốc rễ ấy khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “được xây dựng trên nền tảng các tông đồ” (Ep 2:20). Những gốc rễ đó, phát triển từ hạt giống của Tin Mừng, đã bắt đầu sinh hoa kết trái dồi dào ngay trong nền văn hóa Hy Lạp: Tôi nghĩ đến các Giáo phụ đầu tiên của Giáo hội và các công đồng đại kết đầu tiên.

Đáng thương thay, trong thời gian sau này, chúng ta ngày càng xa cách. Mối quan tâm về những sự thế gian đã đầu độc chúng ta, cỏ dại của sự nghi ngờ đã gia tăng khoảng cách của chúng ta và chúng ta không còn nuôi dưỡng sự hiệp thông. Thánh Basilô Đại đế nói rằng các môn đệ chân chính của Chúa Kitô “chỉ được làm theo gương mẫu của những gì họ thấy nơi Người” (Moralia, 80, 1). Thật đáng xấu hổ - tôi thừa nhận điều này về phía Giáo Hội Công Giáo – vì đã có những hành động và quyết định liên quan rất ít hoặc chẳng liên quan gì đến Chúa Giêsu và Tin Mừng, nhưng thay vào đó lại được đánh dấu bằng sự khao khát lợi thế và quyền lực, những quyết định như thế đã làm suy yếu nghiêm trọng sự hiệp thông của chúng ta. Qua đó, chúng ta để cho sự sinh hoa kết quả của chúng ta bị tổn hại bởi những chia rẽ. Lịch sử cho chúng ta cảm nhận được sức nặng của vấn đề này, và ở đây, hôm nay, tôi cảm thấy cần phải cầu xin một lần nữa sự tha thứ của Thiên Chúa và của anh chị em chúng ta đối với những lỗi lầm mà nhiều người Công Giáo đã phạm phải. Tuy nhiên, chúng ta được an ủi bởi sự chắc chắn rằng gốc rễ của chúng ta là các thánh tông đồ và rằng, bất chấp sự xoay vần của thời gian, những gì Thiên Chúa đã gieo trồng vẫn tiếp tục phát triển và sinh hoa kết trái trong cùng một Thánh Linh. Thật là một ân sủng để nhận ra những hoa trái tốt lành của nhau và cùng hiệp nhau cảm tạ Chúa về điều này.

Thành quả tối hậu của ô liu chính là dầu. Dầu ô liu đã từng được cất giữ trong những chiếc bình và đồ tạo tác quý giá có rất nhiều trong kho tàng khảo cổ học của vùng đất này. Dầu đã cung cấp ánh sáng chiếu soi những đêm xa xưa. Trong nhiều thiên niên kỷ, đó là “mặt trời lỏng, trạng thái mầu nhiệm đầu tiên của ngọn lửa đèn” (C. BOUREUX, Les plantes de la Bible et leur Symbolique, Paris 2014, 65). Đối với chúng ta, thưa anh em thân mến, dầu kêu gọi hãy nhớ đến Chúa Thánh Thần, Đấng đã sinh ra Giáo hội. Chỉ có Người, với sự huy hoàng không phai mờ của mình, mới có thể xua tan bóng tối và soi sáng từng bước trên hành trình của chúng ta.

Đúng như thế, bởi vì Chúa Thánh Thần trên hết là dầu của sự hiệp thông. Kinh thánh nói dầu làm cho khuôn mặt người ta rạng rỡ (x. Tv 104, 15). Chúng ta cấp thiết phải nhận ra trong thời đại của chính chúng ta, ở mọi cấp độ, giá trị độc đáo tỏa sáng từ mỗi người nam nữ, từ mọi anh chị em! Để nhận ra điều này, tình nhân loại chung của chúng ta là điểm xuất phát để xây dựng sự hiệp thông. Tuy nhiên, đáng buồn thay, “sự hiệp thông dường như đánh vào một dây cung nhạy cảm”, không chỉ trong xã hội, mà còn thường xảy ra giữa các môn đệ của Chúa Giêsu “trong một thế giới Kitô được thúc đẩy bởi chủ nghĩa cá nhân và sự cứng rắn thể chế”. Tuy nhiên, như một nhà thần học vĩ đại đã nói nếu những truyền thống và đặc điểm riêng biệt của chúng ta, “sự khác biệt” của chúng ta mà “không được cân bằng cách này cách khác bởi sự hiệp thông, thì khó khăn lắm nó mới có thể mang lại sức sống cho một nền văn hóa thỏa đáng” (J. ZIZIOULAS, Comunione e alterità, Rome 2016, 16).

Sự hiệp thông huynh đệ mang lại phúc lành của Thiên Chúa. Trong Thánh Vịnh, nó được so sánh với “dầu quý trên đầu, chảy xuống râu” (Tv 133: 2). Thật vậy, Thần Khí đổ vào lòng chúng ta thúc giục chúng ta tìm kiếm tình huynh đệ ngày càng lớn hơn, để kết cấu chúng ta trong sự hiệp thông. Vì vậy, chúng ta đừng sợ giúp nhau thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ người lân cận, đừng chạy theo việc chiêu dụ tín đồ nhưng tôn trọng hoàn toàn tự do của người khác, vì như Thánh Phaolô đã viết: “Thần Khí của Chúa ở đâu, ở đó có tự do” (2Cr. 3:17). Tôi cầu nguyện xin Thánh Linh của tình yêu thương sẽ chiến thắng mọi hình thức phản kháng và làm cho chúng ta trở thành những người xây dựng nên sự hiệp thông. Thật vậy, “nếu tình yêu thực sự đánh bay nỗi sợ hãi và sự sợ hãi được biến đổi thành tình yêu, thì chúng ta sẽ khám phá ra rằng điều cứu chúng ta là sự hiệp nhất” (Thánh Grêgôrô thành Nyssa, bài giảng thứ 15 về Diễm Tình Ca). Mặt khác, làm sao chúng ta có thể làm chứng trước thế giới về sự hòa hợp của Phúc Âm, nếu các Kitô Hữu chúng ta vẫn bị chia rẽ? Làm sao chúng ta có thể công bố tình yêu của Chúa Kitô, Đấng quy tụ các dân tộc, nếu bản thân chúng ta không hợp nhất? Nhiều bước đã được thực hiện để đưa chúng ta lại với nhau. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Thần hiệp thông thúc đẩy chúng ta đi theo sự dẫn dắt của Người và giúp chúng ta đừng đặt tình hiệp thông trên cơ sở những tính toán, chiến lược và sự tiện lợi, nhưng đặt trên một mô hình mà chúng ta phải nhìn lên: đó là Ba Ngôi Chí Thánh.

Thánh Linh cũng là dầu của sự khôn ngoan. Ngài đã xức dầu cho Chúa Kitô và Ngài mong muốn truyền cảm hứng cho các Kitô hữu. Nhờ sự ngoan ngoãn trước sự khôn ngoan nhẹ nhàng của Ngài, chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết về Thiên Chúa và mở rộng tấm lòng của mình với người khác. Ở đây, tôi muốn bày tỏ sự đánh giá cao của mình về tầm quan trọng dành cho việc đào tạo và chuẩn bị thần học của Giáo hội Chính thống này, là người thừa kế sự hội nhập quan trọng của đức tin vào văn hóa Hy Lạp. Tôi cũng muốn chỉ ra sự hợp tác hiệu quả trong lĩnh vực văn hóa giữa tổ chức bác ái Apostolikί Diakonίa của Giáo hội Hy Lạp - những người mà tôi rất vui được gặp đại diện vào năm 2019 - và Hội đồng Giáo hoàng về Thúc đẩy Hiệp nhất Kitô Giáo, cũng như tầm quan trọng của liên - Hội nghị chuyên đề Công Giáo do Khoa Thần học Chính thống của Đại học Salonica và Đại học Giáo hoàng Antonianum ở Rôma đồng tài trợ. Những dịp này đã giúp chúng ta có thể thiết lập các mối quan hệ thân ái và tham gia vào các cuộc trao đổi có lợi giữa các học giả của các hệ phái chúng ta. Tôi cũng đánh giá cao sự tham gia tích cực của Giáo Hội Chính thống Hy Lạp trong Ủy ban Đối thoại Thần học Quốc tế. Xin Thánh Linh giúp chúng ta kiên trì trong sự khôn ngoan trên những con đường này!

Cuối cùng, cũng chính Thần Khí là dầu an ủi, Đấng Phù Hộ luôn ở bên cạnh chúng ta, xoa dịu tâm hồn và chữa lành vết thương cho chúng ta. Qua sự xức dầu, Thánh Linh đã thánh hiến Chúa Kitô, để Người rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, giải thoát cho những người bị giam cầm và trả tự do cho những người bị áp bức (x. Lc 4,18). Ngay cả bây giờ, Thánh Linh cũng thúc giục chúng ta quan tâm đến những người yếu đuối và nghèo khó và làm cho tình cảnh của họ, là điều tối quan trọng trước mắt Thiên Chúa, được thế giới chú ý đến. Ở đây, cũng như những nơi khác, sự hỗ trợ dành cho những người túng quẫn trong những thời điểm khó khăn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế là rất cần thiết. Xin cho chúng ta cùng nhau phát triển các hình thức hợp tác trong đức ái, xin cho chúng ta mở lòng và hợp tác giải quyết các vấn đề đạo đức và xã hội, để phục vụ những người nam nữ trong thời đại chúng ta và mang lại cho họ niềm an ủi của Tin Mừng. Thật vậy, Thánh Linh đang kêu gọi chúng ta, hơn bao giờ hết, hãy chữa lành vết thương của nhân loại bằng dầu tình yêu.

Tại Vườn Giệtsimani, trong giờ phút thống khổ, Chúa Giêsu Kitô đã yêu cầu các môn đệ an ủi Ngài qua sự gần gũi và cầu nguyện của họ. Do đó, hình ảnh của dầu dẫn chúng ta đến Vườn Ôliu. Chúa Giêsu nói: “Hãy ở lại đây và tỉnh thức” (Mc 14:34). Lời thỉnh cầu của Ngài đối với các Tông đồ ở dạng số nhiều. Ngày nay, Ngài cũng muốn chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện. Chúng ta cần cầu nguyện cho nhau để mang đến cho thế giới niềm an ủi của Thiên Chúa và để chữa lành các mối quan hệ bị tổn thương của chúng ta. Đây là điều cần thiết nếu chúng ta muốn đạt được “sự thanh tẩy cần thiết cho những ký ức trong quá khứ. Với ân sủng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ của Chúa, được thúc đẩy bởi tình yêu, bởi quyền năng của sự thật và bởi một ước muốn chân thành về sự tha thứ và hòa giải lẫn nhau, được kêu gọi để cùng nhau nhìn lại quá khứ đau buồn của họ và những tổn thương mà quá khứ đáng tiếc tiếp tục khiêu khích ngay cả ngày nay “(Thánh Đức Gioan Phaolô II, Ut Unum Sint, 2).

Chúng ta được thúc đẩy để làm điều này đặc biệt là bởi đức tin của chúng ta vào sự phục sinh. Các Tông đồ, sợ hãi và do dự, đã được hòa giải với nỗi thất vọng cay đắng về cuộc Khổ nạn khi họ thấy Chúa Phục sinh hiện ra trước mặt họ. Trong những vết thương tưởng chừng như không thể chữa lành của Người, họ tìm thấy niềm hy vọng mới, một lòng thương xót chưa từng có, một tình yêu lớn hơn cả những sai lầm và thất bại của họ; điều này đã biến họ thành một Thân Thể, được Thần linh hợp nhất với sự đa dạng của nhiều chi thể khác nhau. Cầu xin Thánh Linh của Chúa bị đóng đinh và Phục sinh đến trên chúng ta và ban cho chúng ta “một tầm nhìn bình tĩnh, sáng suốt và trung thực về những điều được sống động bởi lòng thương xót của Thiên Chúa và có khả năng giải phóng tâm trí mọi người và khơi dậy trong mọi người một sự sẵn lòng đổi mới” (sđd). Mong Ngài giúp chúng ta không bị tê liệt bởi những kinh nghiệm và định kiến tiêu cực trong quá khứ, mà thay vào đó là nhìn thực tế bằng con mắt mới. Bằng cách này, những thử thách trong quá khứ sẽ dành chỗ cho những niềm an ủi hiện tại, và chúng ta sẽ được an ủi bởi những kho tàng ân sủng mà chúng ta sẽ tái khám phá nơi anh chị em của mình. Giáo Hội Công Giáo vừa đặt ra một con đường nhằm làm sâu sắc hơn tính đồng nghị và chúng tôi cảm thấy mình có nhiều điều để học hỏi từ anh em. Đây là điều chúng tôi chân thành mong muốn, chắc chắn rằng khi anh chị em trong đức tin xích lại gần nhau hơn, thì sự an ủi của Thánh Linh sẽ tràn ngập lòng chúng tôi.

Thưa Đức Tổng Giám Mục, thưa các anh em thân mến, cầu xin cho rất nhiều vị thánh lừng lẫy của những vùng đất này, cùng với những vị tử đạo, những người mà trong thế giới ngày nay còn đông hơn cả trong quá khứ, đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình này. Bất chấp những khác biệt về hệ phái khi còn dưới thế này, giờ đây họ đang ở cùng nhau trên thiên đường. Xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta, để Thánh Linh, dầu thánh của Thiên Chúa, có thể đổ ra trên chúng ta trong một Lễ Hiện Xuống mới, thậm chí như khi xưa lúc Người ngự trên các Tông đồ là những vị mà chúng ta là dòng dõi. Xin Người khơi dậy trong lòng chúng ta niềm khao khát hiệp thông, soi sáng chúng ta bằng sự khôn ngoan của Người và xức dầu an ủi cho chúng ta.


Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Phụ nữ quá khích phá nhà thờ chính tòa. Vatican lên tiếng về người đàn bà cấm dùng từ Giáng Sinh
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
15:53 05/12/2021


1. Phụ nữ tấn công vào nhà thờ chính tòa đánh đập tàn tệ giáo dân

Đức Cha Sergio Alfredo Gualberti Calandrina của Tổng giáo phận Santa Cruz de la Sierra đã lên án bạo lực do những người biểu tình ủng hộ nữ quyền gây ra bên ngoài nhà thờ chính tòa vào ngày 25 tháng 11, Ngày Quốc tế Xóa bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ.

Trong một tuyên bố ngày 27 tháng 11, Đức Cha đã mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực và lăng mạ gần đây của một nhóm nữ quyền đã tấn công và đánh đập một phụ nữ bên ngoài nhà thờ một cách “tàn nhẫn và bạo lực”.

Đức Tổng Giám Mục nói: “Thật đáng kinh ngạc khi những người tự xưng là bảo vệ phụ nữ lại có hành động bạo lực chống lại chính phụ nữ.” Ngài cho biết thêm rằng “thái độ bất khoan dung và hung hăng của họ phơi bày thực trạng chiêu bài của họ”.

Tại nhiều thành phố khác nhau ở Bolivia và các khu vực khác của Mỹ Châu, các nhóm nữ quyền biểu tình bạo lực, phá hoại các tòa nhà công cộng và tư nhân, đồng thời tấn công các nhà thờ Công Giáo.

Đức Tổng Giám Mục của Santa Cruz cũng bày tỏ lo ngại của mình về “sự vắng mặt của các lực lượng thực thi pháp luật, có nhiệm vụ ngăn cản đụng độ, bảo vệ sự an toàn và tính mạng của nhân dân, cũng như duy trì hòa bình cho các công dân và các di sản lịch sử, văn hóa và tôn giáo của thành phố của chúng ta.”

Tại La Paz, đoạn video giám sát cho thấy một người không rõ danh tính đã đặt một thiết bị nổ vào khoảng 4:30 sáng ngày 24 tháng 11 bên ngoài cửa văn phòng Hội Đồng Giám Mục Bolivia.

Thiết bị phát nổ ngay sau đó và truyền thông địa phương đưa tin rằng vụ nổ đã làm hỏng một bậc thềm và một phần của cánh cửa.

Cũng tại La Paz, vào lúc chạng vạng ngày 25 tháng 11, một đám đông phụ nữ tiến đến nhà thờ Đức Bà Phù Hộ Các Tín Hữu nơi một nhóm phụ nữ Công Giáo đang đứng trên bậc thềm cùng với một số nam giới để bảo vệ nhà thờ.

Khi anh chị em giáo dân đang cầu nguyện lần chuỗi Mân Côi, những người biểu tình bắt đầu hô vang các khẩu hiệu ủng hộ phá thai và đòi tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước. Những người biểu tình ném sơn đỏ, phân, chai lọ và các đồ vật khác vào những người bảo vệ nhà thờ.

Đức Tổng Giám Mục của Santa Cruz đã kết luận tuyên bố của mình như sau:

“Chúng tôi yêu cầu tác giả của những tác phẩm quá đáng này và mọi người chấp nhận lời kêu gọi của Chúa và làm việc cho hòa bình và cuộc sống” và không kích động “hận thù và bạo lực”,
Source:Catholic News Agency

2. Vatican chỉ trích lời khuyên tránh từ ngữ Giáng Sinh trong hướng dẫn truyền thông của ủy ban Liên Hiệp Âu Châu

Hôm thứ Ba, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đã chỉ trích một hướng dẫn truyền thông của Liên Hiệp Âu Châu yêu cầu các nhân viên phải tránh sử dụng từ ngữ “Giáng sinh”.

Trong một cuộc phỏng vấn được Vatican News công bố vào ngày 30 tháng 11, Hồng Y Pietro Parolin cho rằng tài liệu này đang “đi ngược lại thực tế” bằng cách hạ thấp nguồn gốc Kitô Giáo của Âu Châu.

Đức Hồng Y đã đưa ra những lời bình luận liên quan đến một tài liệu nội bộ dài 32 trang có tên “#UnionOfEquality. Hướng dẫn của Liên Hiệp Âu Châu về Truyền thông Hòa nhập”, do Cao ủy trưởng Liên minh Âu Châu về Bình đẳng Helena Dalli đưa ra vào ngày 26 tháng 10.

Dalli thông báo vào ngày 30 tháng 11 rằng bà ta sẽ rút lại các hướng dẫn, vì các hướng dẫn này “rõ ràng cần nhiều việc phải làm hơn”.

Tờ Il Giornale của Ý đưa tin vào ngày 28 tháng 11 rằng hướng dẫn đã kêu gọi các nhân viên tại Ủy ban Âu Châu, cơ quan điều hành của Liên Hiệp Âu Châu, “tránh nghĩ rằng mọi người đều theo Kitô Giáo”.

Tài liệu cho biết: “Không phải tất cả mọi người đều kỷ niệm các ngày lễ của Kitô Giáo, và không phải tất cả các Kitô Hữu đều kỷ niệm các ngày lễ này vào những ngày giống nhau”.

Hướng dẫn đã khuyến khích các quan chức có trụ sở tại thủ đô Brussels của Bỉ và Luxembourg tránh dùng những cụm từ như “Thời gian Giáng sinh” và thay vào đó nói “Thời gian nghỉ lễ.”

Nó cũng khuyến nghị sử dụng các thuật ngữ loại bỏ mầu sắc Kitô Giáo.

Đức Hồng Y Parolin nói với Vatican News rằng ý định tránh phân biệt đối xử là đáng khen ngợi.

“Nhưng theo tôi, đây chắc chắn không phải là cách để đạt được mục tiêu này. Bởi vì cuối cùng, nó có nguy cơ tiêu diệt, hủy diệt con người, theo hai hướng chính yếu. Đầu tiên là sự đa dạng đặc trưng cho thế giới của chúng ta. Thật không may, ngày nay người ta có khuynh hướng đồng nhất hóa mọi thứ, không biết tôn trọng những khác biệt chính đáng. Những khác biệt đương nhiên không được trở thành vấn đề đối nghịch hoặc nguồn gốc của sự phân biệt, nhưng phải được hòa nhập để xây dựng một nhân loại toàn vẹn và đa dạng”.

“Thứ hai là người ta đang quên đi thực tế là gì. Và bất cứ ai đi ngược lại thực tế sẽ tự đặt mình vào tình thế nguy hiểm. Và sau đó là sự hủy bỏ nguồn gốc của chúng ta, đặc biệt là liên quan đến các ngày lễ của Kitô Giáo, và chiều kích Kitô Giáo của Âu Châu chúng ta”.

“Tất nhiên, chúng ta biết rằng Âu Châu có nhiều đóng góp cho sự tồn tại và bản sắc của mình, nhưng chúng ta chắc chắn không thể quên rằng một trong những đóng góp chính, nếu không muốn nói là chủ yếu, là chính Kitô Giáo. Vì vậy, tiêu diệt sự đa dạng và phá hủy gốc rễ chính xác là tiêu diệt con người”.

Lời khuyên liên quan đến từ “Giáng sinh” xuất hiện trong một phần của tài liệu có tên “Văn hóa, lối sống hoặc tín ngưỡng.”
Source:Catholic News Agency

3. Đức Thánh Cha Phanxicô có thể mang 50 người di cư từ Đảo Síp đến Ý

Theo báo cáo, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có thể giúp đưa khoảng 50 người di cư đến Ý trong chuyến tông du đến Síp và Hy Lạp trong tuần này.

Phát ngôn viên chính phủ Síp Marios Pelekanos nói rằng Vatican muốn dàn xếp chuyển những người di cư ở Síp đến Rome.

Ông Pelekanos nói:

“Đây là một biểu hiện hữu hình về tình đoàn kết của người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Rôma đối với những người có nhu cầu, trong khi khẳng định rằng Vatican nhìn nhận những vấn đề mà ngày nay Cộng Hòa Síp phải đương đầu với một làn sóng các di dân ngày càng gia tăng”.

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ khởi hành đến đảo Síp ở Địa Trung Hải vào thứ Năm tuần này trong một chuyến thăm kéo dài 5 ngày. Chuyến tông du này cũng sẽ đưa ngài đến Hy Lạp. Chuyến đi dự kiến sẽ làm nổi bật hoàn cảnh của những người di cư đang tìm cách vào Âu Châu, chủ yếu từ Trung Đông và Phi Châu.

Lần cuối cùng Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm Hy Lạp, là vào năm 2016. Lần đó, ngài đã đưa ba gia đình người tị nạn Syria từ trại tị nạn Moria trên đảo Lesbos trở về Rome cùng với ngài.

Trong số những người tị nạn được di dời với sự giúp đỡ của Giáo hoàng có Majid Alshakarji, người đã thoát khỏi cuộc nội chiến Syria khi mới 15 tuổi.

Năm năm sau, Alshakarji hiện đang theo học tại một trường đại học ở Rome để trở thành nha sĩ và tình nguyện viên trong Cộng đồng Công Giáo Thánh Egidio, giúp chào đón những người tị nạn mới đến Ý.

“Chúng tôi đã được phép có một cuộc sống mới ở một đất nước mới. Đó là một trải nghiệm tuyệt đẹp,” anh nói với CNA vào năm 2020.

Cộng đoàn Thánh Egidio đã giúp tổ chức việc đưa 70 người tị nạn Syria đến Rôma vào ngày 29 tháng 11 vừa qua.

Những người tị nạn này là những người từng sống trong các trại tị nạn ở Li Băng, đã đến Ý thông qua các hành lang nhân đạo do phong trào Công Giáo phối hợp với Liên đoàn các Nhà thờ Tin lành ở Ý và chính phủ Ý.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần thúc giục các chính phủ không “làm mất bộ mặt con người của vấn đề di cư”.

Gần đây nhất, trong một thông điệp vào ngày 29 tháng 11 đánh dấu kỷ niệm 70 năm thành lập Tổ chức Di cư Quốc tế, Đức Giáo Hoàng đã phê phán “tiêu chuẩn kép” đặt lợi ích kinh tế lên trên “nhu cầu và phẩm giá của con người”.

“Một mặt, tại các thị trường của các nước khá giả, lao động nhập cư là nhu cầu cao và được hoan nghênh như một cách để bù đắp cho sự thiếu hụt. Mặt khác, những người di cư thường bị từ chối và tùy thuộc vào thái độ hống hách bởi nhiều cộng đồng tiếp nhận của họ”.

Đức Giáo Hoàng nói thêm rằng: “Xu hướng này là đặc biệt rõ ràng trong thời kỳ lockdown vì COVID-19, khi nhiều người lao động cần thiết 'là những người di cư, nhưng họ không được cấp những lợi ích của các chương trình viện trợ kinh tế COVID-19 hoặc thậm chí không được truy cập vào các chương trình chăm sóc sức khỏe cơ bản và tiêm chủng”.

Thông điệp của Đức Thánh Cha gửi đến tổ chức Liên Hiệp Quốc đã được Đức Hồng Y Pietro Parolin đọc trong một thông điệp video.

Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng “chúng ta không bao giờ được quên rằng đây không phải là số liệu thống kê, mà là những con người thực có cuộc sống đang bị đe dọa.”

Ngài nói: “Bắt nguồn từ kinh nghiệm hàng thế kỷ của mình, Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức của mình sẽ tiếp tục sứ mệnh chào đón, bảo vệ, thúc đẩy và hòa nhập mọi người khi họ buộc phải di chuyển”.
Source:Catholic News Agency
 
Tông du Hy Lạp: Nếu chẳng may là thiểu số, như Việt Nam, ta cần biết bài học Athens của Thánh Phaolô
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
19:14 05/12/2021

Chiều Thứ Bảy, 4 tháng 12, Đức Thánh Cha đã có một chuyến thăm xã giao đến Đức Tổng Giám Mục Hieronymos II, của Athens và Toàn Hy Lạp, tại Tòa Tổng Giám mục Chính thống giáo. Tiếp theo đó là cuộc gặp gỡ của phái đoàn Tòa Thánh và hàng giáo phẩm Chính Thống Giáo Hy Lạp tại “Phòng ngai vàng”.

Cuối ngày hôm đó, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, những người thánh hiến, chủng sinh và giáo lý viên của cộng đồng Giáo hội địa phương tại Nhà thờ Thánh Dionysius ở Athens.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:


Các chư huynh đệ Giám mục thân mến,

Quý Linh mục, Tu sĩ và các Chủng sinh thân mến,

Anh chị em thân mến, kalispera sas! (Chào buổi tối!)


Tôi cảm ơn từ thâm tâm mình trước sự chào đón nồng nhiệt của anh chị em và những lời chào thân ái mà Đức Tổng Giám Mục Rossolatos đã gửi đến tôi. Xin cám ơn Chị Maria về chứng từ của chị: điều quan trọng là các tu sĩ nam nữ phải thi hành công việc phục vụ của mình trong tinh thần này, với một tình yêu nồng nhiệt là trở thành một ân sủng cho các cộng đồng mà họ được sai đến. Cảm ơn! Cảm ơn anh, Rokos, vì lời chứng đức tin tốt đẹp mà anh đã sống trong gia đình, trong cuộc sống hàng ngày, cùng với những đứa trẻ, giống như rất nhiều người trẻ, đến một lúc nào đó bắt đầu thắc mắc, tự hỏi và trở nên hơi chỉ trích về một số điều nhất định. Nhưng điều đó cũng không phải là xấu, vì nó giúp chúng ta với tư cách là một Giáo Hội biết suy tư và thay đổi.

Tôi rất vui được gặp anh chị em ở một vùng đất là ân sủng, là tài sản của nhân loại, nơi nền tảng của phương Tây đã được hình thành. Tất cả chúng ta đều là con cái của đất nước anh chị em, và mắc nợ đất nước này: nếu không có thơ ca, văn học, triết học và nghệ thuật phát triển ở đây, chúng ta sẽ không thể quen thuộc với nhiều khía cạnh của hiện sinh con người, hoặc không thể trả lời nhiều câu hỏi sâu sắc liên quan đến cuộc sống, tình yêu, đau khổ và cả cái chết.

Vào buổi bình minh của Kitô Giáo, di sản phong phú này đã làm phát sinh sự hội nhập văn hóa của đức tin, được thực hiện, như thể trong một “phòng thí nghiệm”, nhờ vào sự khôn ngoan của nhiều Giáo phụ trong đức tin của chúng ta, những người qua sự thánh thiện trong cuộc sống và các tác phẩm của các ngài vẫn là một ngọn hải đăng ánh sáng cho các tín hữu ở mọi thời đại. Nhưng nếu tự hỏi ai là người đã khởi đầu cuộc gặp gỡ này giữa Kitô Giáo sơ khai và văn hóa Hy Lạp, chúng ta phải nghĩ ngay đến Tông đồ Phaolô. Thánh nhân đã bắt đầu công việc tổng hợp hai thế giới đó. Ngài đã làm điều đó tại chính nơi này, như chúng ta đọc trong sách Tông Đồ Công Vụ. Ngài đến Athens, bắt đầu rao giảng tại các quảng trường thành phố và được một số triết gia đưa đến Arêôpagô (xem Cv 17: 16-34), nơi hội họp của các trưởng lão và những người uyên bác có nhiệm vụ đưa ra các phán đoán về những vấn đề được công chúng quan tâm. Chúng ta hãy dừng lại và suy ngẫm về tình tiết này. Chúng ta có thể được hướng dẫn trong cuộc hành trình của mình với tư cách là Giáo hội bằng hai thái độ được Tông đồ Phaolô thể hiện, có thể rất hữu ích cho những nỗ lực hiện đại của chúng ta nhằm phổ biến đức tin.

Thái độ đầu tiên là lòng tín thác tự tin. Khi Phaolô giảng, một số triết gia bắt đầu tự hỏi “lang băm” này đang muốn nói gì (câu 18). Họ gọi ngài là lang băm: một kẻ bịa chuyện, lợi dụng lòng tin của người nghe. Vì vậy, họ đã đưa ngài đến Arêôpagô. Chúng ta không nên tưởng tượng rằng họ chỉ đơn giản là cho vị Tông đồ của chúng ta một diễn đàn. Ngược lại, họ đưa ngài đến đó để tra hỏi: “Chúng tôi có thể biết ông đang trình bày giáo lý mới này là gì không? Vì ông mang một số điều kỳ lạ đến tai chúng tôi; Do đó, chúng tôi muốn biết những điều này có ý nghĩa gì”(câu 19-20). Nói một cách dễ hiểu, Thánh Phaolô đã bị đưa vào những thử thách.

Phần sứ mệnh này của Thánh Phaolô tại Hy Lạp có thể dạy cho chúng ta một bài học quan trọng ngày nay. Vị Tông Đồ đã bị áp lực lớn. Trước đó không lâu, tại Thêsalônica, ngài đã bị ngăn cản không cho rao giảng; do tình trạng hỗn loạn khuấy động bởi các đối thủ, ngài phải bỏ trốn khỏi thành phố vào ban đêm. Giờ đây, khi đến Athens, ngài đã bị xem là một lang băm và bị điệu đến Arêôpagô như một vị khách không mời mà đến. Đây không phải là khoảnh khắc chiến thắng đối với Thánh Phaolô. Ngài đang thực hiện sứ vụ của mình trong một hoàn cảnh khó khăn. Có lẽ, nhiều khi trên đường đi, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và thậm chí thất vọng vì là một cộng đồng nhỏ bé, một Giáo hội với ít tài nguyên hoạt động trong một môi trường không phải lúc nào cũng thuận lợi. Hãy nghĩ về Thánh Phaolô ở Athens. Ngài đơn độc, thuộc nhóm thiểu số, không được chào đón và có rất ít cơ hội thành công. Nhưng ngài không cho phép mình khuất phục trước sự nản lòng. Ngài đã không từ bỏ sứ vụ của mình. Ngài cũng không chịu thua trước cám dỗ đưa ra những lời phàn nàn. Điều này rất quan trọng: hãy cảnh giác về thói phàn nàn. Thái độ của một tông đồ chân chính phải là tự tin tiến về phía trước, thích sự không chắc chắn của những tình huống bất ngờ hơn là sức mạnh của thói quen và sự lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô đã có dũng khí đó. Nó đến từ đâu? Thưa: Từ sự tin tưởng vững chắc vào Chúa. Lòng can đảm của thánh nhân là lòng can đảm phát sinh từ sự tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thích hoàn thành những điều vĩ đại thông qua sự thấp hèn của chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy có cùng niềm tin tưởng vững vàng ấy, bởi vì điều này: là một Giáo hội nhỏ bé, khiến chúng ta trở thành dấu chỉ hùng hồn của Tin Mừng, về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng, Đấng đã chọn những người nghèo và những kẻ hèn mọn, Đấng thay đổi lịch sử bằng những hành động đơn sơ của những người tầm thường. Là Giáo hội, chúng ta không được kêu gọi để có tinh thần chinh phục và chiến thắng, những con số ấn tượng hay sự vĩ đại của thế gian. Tất cả điều này là nguy hiểm. Nó có thể cám dỗ chúng ta đến não trạng vênh vang. Chúng ta được yêu cầu lấy cảm hứng từ hạt cải, loại hạt có vẻ không đáng kể, phát triển chậm và lặng lẽ. “Nó là hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” - Chúa Giêsu nói với chúng ta - “nhưng khi đã lớn nó là hạt lớn nhất trong các bụi cây và trở thành cây to” (Mt 13,32). Chúng ta được yêu cầu trở thành men làm dậy bột một cách kiên nhẫn và âm thầm, ẩn mình trong bột thế gian, nhờ hoạt động không ngừng của Chúa Thánh Thần (x. Mt 13,33). Bí mật của Nước Thiên Chúa nằm trong những điều nhỏ bé, thường lặng lẽ và không ai nhìn thấy. Tông đồ Phaolô, tên ngài có nghĩa là “bé nhỏ”, đã sống trong sự tin cậy vững chắc, vì ngài đã đón nhận những lời Phúc Âm đó vào lòng và biến chúng thành bài học cho các tín hữu ở Côrinhtô: “Sự yếu đuối của Thiên Chúa mạnh hơn loài người”; “Thiên Chúa đã chọn những gì yếu đuối trên thế gian để làm xấu hổ những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1:25, 27).

Vì vậy, anh chị em thân mến, tôi xin nói với anh chị em điều này: hãy coi sự nhỏ bé của mình là một may mắn và sẵn sàng chấp nhận nó. Nó buộc anh chị em phải tin cậy vào Chúa và chỉ một mình Chúa. Đừng quên rằng Giáo hội trên khắp thế giới là một thiểu số, nhưng là một thiểu số không có nghĩa là tầm thường, mà là tiến gần hơn đến con đường mà Chúa yêu thích, đó là con đường của sự bé nhỏ: trút bỏ chính mình, khiêm nhường, hiền lành, con đường tự hạ mình của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã xuống thế để ẩn mình trong sự yếu đuối của con người chúng ta và trong những vết thương xác thịt chúng ta. Ngài đã cứu chúng ta bằng cách phục vụ chúng ta. Như Thánh Phaolô đã nói với chúng ta, “Ngài đã trút bỏ chính mình, mang hình dáng của một người đầy tớ” (Philíp 2: 7). Quá thường là chúng ta bị ám ảnh bởi những hình thức và hình ảnh bên ngoài, nhưng “Nước Thiên Chúa không đến với những dấu chỉ có thể quan sát được” (Lc 17:20). Nước Thiên Chúa đến một cách lặng lẽ, chậm rãi như mưa rơi trên mặt đất. Chúng ta hãy giúp nhau củng cố lòng tin cậy nơi công việc của Thiên Chúa, và đừng đánh mất lòng nhiệt thành phục vụ. Hãy can đảm, kiên trì trên con đường khiêm nhường và nhỏ bé này!

Bây giờ tôi muốn làm nổi bật một thái độ thứ hai được Thánh Phaolô thể hiện trước Arêôpagô, và đó là sự chấp nhận, một tính cách nội tâm cần thiết cho việc truyền giáo. Thái độ chấp nhận không cố gắng chiếm không gian và cuộc sống của người khác, nhưng là để gieo tin tốt vào đất cuộc sống của họ; đó là học cách nhận biết và đánh giá cao những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng họ trước khi chúng ta bắt tay vào việc. Chúng ta hãy nhớ rằng Chúa luôn đi trước chúng ta, Chúa luôn gieo trước chúng ta. Truyền giáo không phải là đổ đầy một thùng rỗng; nhưng tối hậu là đưa ra ánh sáng những gì Thiên Chúa đã bắt đầu hoàn thành. Và đây là phương pháp sư phạm đáng chú ý mà vị Tông đồ đã áp dụng với người Athen. Ngài đã không nói với họ: “Các ông đã sai hết trơn hết trọi”, hoặc “Bây giờ tôi sẽ dạy các ông sự thật”. Thay vào đó, ngài bắt đầu bằng việc chấp nhận tinh thần tôn giáo của họ: “Thưa quý vị người Athen, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ‘Kính thần vô danh’” (Cv 17: 22-23). Thánh nhân đã rút ra điều này từ di sản phong phú của người Athen. Vị Tông đồ tôn trọng những thính giả của mình và hoan nghênh lòng sùng đạo của họ. Mặc dù các đường phố ở Athens đầy rẫy những thần tượng, là điều đã khiến ngài “vô cùng đau khổ” (câu 16), Phaolô thừa nhận lòng khao khát đối với Thiên Chúa tiềm ẩn trong trái tim của những người đó, và muốn nhẹ nhàng chia sẻ với họ món quà tuyệt vời là đức tin. Ngài đã không áp đặt; nhưng đã đề nghị. “Phong cách” của ngài không bao giờ dựa trên việc chiêu dụ tín đồ, nhưng dựa trên sự hiền lành của Chúa Giêsu. Điều này có thể thực hiện được vì Phaolô có cái nhìn thiêng liêng về thực tại. Ngài tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong trái tim con người, vượt trên nhãn giới tôn giáo. Chúng ta đã nghe thấy điều này trong chứng tá do Rokos đưa ra. Tại một thời điểm nào đó, trẻ em rời xa việc thực hành tôn giáo, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục làm công việc của mình, và do đó chúng vẫn tin vào sự hiệp nhất, vào tình huynh đệ với những người khác. Chúa Thánh Thần luôn làm nhiều hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy từ bên ngoài. Chúng ta đừng quên điều này. Trong mọi thời đại, thái độ của người tông đồ bắt đầu bằng việc chấp nhận người khác. Vì “ân sủng giả định nền văn hóa, và ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong nền văn hóa của những người nhận được nó” (Evangelii Gaudium, 115). Không có ân sủng trừu tượng nào bay trên đầu chúng ta; ân sủng luôn luôn nhập thể trong một nền văn hóa.

Khi suy ngẫm về chuyến thăm của Thánh Phaolô đến Arêôpagô, Đức Bênêđíctô XVI lưu ý rằng chúng ta phải nhớ đến những người theo thuyết bất khả tri và những người vô thần, nhưng hãy lưu ý rằng, khi chúng ta nói về một cuộc truyền giáo mới, đừng làm họ nản. “Họ không muốn bị coi là mục tiêu của sứ vụ truyền giáo, cũng không muốn từ bỏ quyền tự do tư tưởng và ý chí của mình” (Diễn văn trước Giáo triều Rôma, ngày 21 tháng 12 năm 2009). Ngày nay, chúng ta cũng được yêu cầu trau dồi một thái độ chào đón, một phong cách hiếu khách, một trái tim mong muốn tạo ra sự hiệp thông giữa những khác biệt về con người, văn hóa hoặc tôn giáo. Thách đố là chúng ta phải phát triển lòng nhiệt thành của mọi người, điều này có thể dẫn chúng ta - người Công Giáo, Chính thống giáo, anh chị em theo các hệ phái khác, và cả những anh chị em bất khả tri của chúng ta, tất cả mọi người – đến chỗ lắng nghe nhau, ước mơ và làm việc cùng nhau, để nuôi dưỡng “mầu nhiệm” của tình huynh đệ (xem Evangelii Gaudium, 87). Những nỗi đau trong quá khứ vẫn còn trên con đường hướng tới một cuộc đối thoại đáng hoan nghênh như vậy, nhưng chúng ta hãy can đảm đón nhận thử thách hôm nay!

Anh chị em thân mến, tại đây trên mảnh đất Hy Lạp này, Thánh Phaolô đã thể hiện sự tin cậy thanh thản của mình vào Thiên Chúa và điều này khiến ngài cởi mở và chấp nhận đối với những người Arêôpagô đang nghi ngờ ngài. Với tinh thần này, Phaolô đã công bố Thiên Chúa mà những người nghe ngài chưa hề biết đến. Do đó, ngài đã có thể trình bày khuôn mặt của một Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu Kitô đã gieo vào lòng thế giới hạt giống của sự phục sinh, quyền hy vọng phổ quát, là một nhân quyền - quyền được hy vọng. Khi Thánh Phaolô công bố tin vui này, hầu hết họ đều cười nhạo ngài và đi theo ý riêng của họ. Tuy nhiên, “một số gia nhập với ngài và trở thành tín đồ: trong số này có Dionysius, một thành viên của Arêôpagô, một phụ nữ tên là Damaris và những người khác” (Công vụ 17:34). Đa số bỏ đi; một thiểu số còn lại gia nhập với Thánh Phaolô, bao gồm cả Dionysius, người mà Nhà thờ này được đặt tên. Một phần nhỏ còn sót lại, nhưng đó là cách Thiên Chúa dệt nên những sợi chỉ của lịch sử, từ những ngày đó cho đến ngày của chúng ta. Mong muốn nhiệt thành của tôi là anh chị em tiếp tục công việc trong “phòng thí nghiệm” đức tin lịch sử của anh chị em, và làm điều đó với sự giúp đỡ của hai thành phần này, là sự tin tưởng và chấp nhận một cách tự tin, để cảm nghiệm Phúc âm như một kinh nghiệm của niềm vui, cũng như một kinh nghiệm của tình huynh đệ. Tôi gần gũi với anh chị em trong tình cảm và lời cầu nguyện. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. [Bằng tiếng Hy Lạp] Xin Chúa phù hộ cho anh chị em!
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana