Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc tế: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi, để Kỷ niệm 1,700 năm [325-2025] Công đồng Nicée, chương ba
Vũ Văn An
00:29 16/04/2025
Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc tế: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi, để Kỷ niệm 1,700 năm [325-2025] Công đồng Nicée
Chương 3: Nicée như một biến cố thần học và như một biến cố tôn giáo

70. Kỷ niệm Công đồng Nicée là nắm bắt được cách Công đồng vẫn luôn mới mẻ, từ sự mới mẻ cánh chung được khai mạc vào sáng lễ Phục sinh, tiếp tục đổi mới Giáo hội 1,700 năm sau biến cố phục sinh. Thật vậy, đây thực sự là một biến cố theo nghĩa mạnh mẽ, một bước ngoặt là một phần của cái nền lịch sử với những mối liên kết của nó nhưng cũng là điểm tập trung, tạo nên sự mới mẻ thực sự và có ảnh hưởng quyết định đến những gì xảy ra sau đó. Theo các ngôn ngữ, thuật ngữ "biến cố" ám chỉ những gì xảy ra, ad-ventus (Avènement, Avent, avvenimento), hoặc những gì xuất phát từ (évènement, event), đến việc tạo ra một sự kiện (acontecimiento) hoặc đến sự xuất hiện của cái mới (Ereignis). Như vậy, Công đồng Nicée là biểu thức của một bước ngoặt xảy ra, khởi nguồn, được tạo ra, được biểu lộ trong tư tưởng của con người, được gợi ra bởi Sự mặc khải của Thiên Chúa Ba Ngôi trong Chúa Giêsu, Đấng làm phong phú tinh thần con người bằng cách ban cho nó những nội dung mới và những khả năng mới. Đây là “Biến cố của Khôn ngoan”. Tương tự như vậy, Nicée, sau này được gọi là công đồng chung đầu tiên, cũng là biểu thức của một bước ngoặt trongènemen cách thức Giáo hội tự xây dựng và đảm bảo sự hiệp nhất cũng như chân lý của tín lý thông qua cùng một lời tuyên xưng đức tin: đó là một "biến cố của Giáo hội". Rõ ràng, trong cả hai trường hợp, sự mới lạ đều dựa trên một quá trình trước đó, trên một thực tại nhất định, chính thực tại được nó biến đổi. Biến cố Khôn ngoan giả định nền văn hóa nhân bản, có thể nói là giả định nó để thanh lọc và biến đổi nó. Biến cố tôn giáo này dựa trên sự phát triển trước đó của các cấu trúc Giáo hội trong những thế kỷ đầu tiên, bản thân nó dựa trên di sản Do Thái và Hy Lạp-La Mã.
71. Thế mà, nguồn gốc của hai biến cố này lại là một biến cố khác, do sáng kiến thần linh, biến cố Mặc khải của Thiên Chúa, “biến cố Chúa Giêsu Kitô.” Đây chính là sự mới lạ tuyệt vời nhất: Novus chính là Novum [111]. Đây chính là sự Mặc khải, trong khi Biến cố Khôn ngoan và Biến cố Giáo hội là một phần của việc truyền đạt ơn phúc nguyên thủy này [112]. Trong đó, Thiên Chúa lập giao ước với một dân tộc để lập giao ước với mọi dân tộc, Người đảm nhận một nhân tính để đảm nhận toàn thể nhân loại. Công đồng Nicée là biểu thức và là hoa trái của Sự mới mẻ trong Mặc khải, và đây là lý do tại sao Công đồng năm 325 đưa ra một mô hình cho từng giai đoạn đổi mới tư tưởng Kitô giáo, cũng như các cơ cấu của Giáo hội. Hơn nữa, vì Công đồng Nicée phát sinh từ Novum là Chúa Kitô, nên nó có thể được hiểu theo cách luôn đổi mới và liên tục làm phong phú thêm đời sống của Giáo hội. Do đó, vấn đề đặt ra là trước tiên phải khám phá biến cố nguồn, biến cố Chúa Giêsu Kitô, để sau đó xem xét hậu quả của nó đối với tư tưởng con người và cơ cấu của Giáo hội.
1. Biến cố Chúa Kitô: “Không ai thấy Thiên Chúa cả. Nhưng Con Một đã mặc khải điều đó” (Ga 1:18)
1.1 Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, mặc khải Chúa Cha
72. Kinh Tin Kính Nicée là sự diễn đạt, là việc diễn đạt thành lời, về một con đường đến với Thiên Chúa chưa từng có, chắc chắn và cứu rỗi trọn vẹn, được ban tặng qua biến cố Chúa Giêsu Kitô. Trong sự nhập thể, cuộc sống, cuộc Khổ nạn, sự Phục sinh và Lên trời của Ngôi Lời đồng bản thể với Chúa Cha, được chứng thực trong Kinh thánh và trong đức tin của Giáo hội tông đồ, Thiên Chúa semper major ban tặng, theo sáng kiến của riêng Người, một kiến thức và sự tiếp cận với chính Người mà chỉ Người mới có thể ban tặng, và bản thân chúng vượt quá những gì con người có thể tưởng tượng hoặc thậm chí hy vọng [113]. Trên thực tế, Tân Ước truyền đạt cho Giáo hội mọi thời đại, qua nhiều thế kỷ, lời chứng mà Chúa Giêsu đã đưa ra về chính mình và Chúa Cha, trong ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã xác nhận một lần mãi mãi [114] trong Lễ Vượt Qua của cái chết, sự phục sinh và sự lên trời của Chúa Con đã thành xác phàm, của sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần vào Lễ Ngũ Tuần, trong thời điểm viên mãn, "propter nos et propter nostram salutem [vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi cúng tôi]." Vì thế, nếu đúng là "chưa từng có ai thấy Thiên Chúa", thì đức tin của Giáo hội chứng thực rằng Chúa Giêsu, "Con một của Chúa Cha, đã mặc khải Người cho chúng ta" (Ga 1:18; x. Ga 3:16, 18 và 1 Ga 4:9). Lời chứng này được tóm tắt trong câu trả lời mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho tông đồ Philip khi ông hỏi Người: “Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là đủ.” Và Chúa Giêsu trả lời ông:
"Philippe, thầy ở bên anh lâu như vậy mà anh không biết thầy sao? Ai đã thấy Thầy là đã thấy Cha. Làm sao anh có thể nói: Xin cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Những lời thầy nói với anh em, thầy không tự mình nói ra! Ngược lại, chính Chúa Cha là Đấng ngự trong thầy và hoàn tất những công trình của Người (Ga 14:8-11).
73. Nếu Chúa Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha, thì mọi sự trong Người đều dẫn đến Chúa Cha. Đức Kitô trong bản tính nhân loại mỏng manh và dễ bị tổn thương của Người là biểu thức đích thực của Thiên Chúa Cha: “ai thấy Người là thấy Chúa Cha” (x. Ga 14:9) [115]. Điều đó có nghĩa là Chúa không ẩn mình trước tiên ở đồi Golgotha dưới sự bất lực của Đấng bị đóng đinh để rồi tự biểu lộ, vào sáng lễ Phục sinh, cuối cùng chính Người, cuối cùng là Đấng toàn năng. Ngược lại, tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Đấng để mình bị đóng đinh và chịu chết về mặt thể xác, xuống nơi tội nhân bị giam cầm bởi tội lỗi (šəʾôl hay địa ngục), là sự mặc khải về Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng không hành động bằng vũ lực, nhưng mạnh mẽ hơn sự chết và tội lỗi. Chính trước cây thập giá, thánh Máccô đã bảo một viên đại đội trưởng ngoại giáo nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15:39). Như Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã phát biểu trong cuốn sách về Chúa Giêsu:
"Thập giá chính là “đỉnh cao” đích thực. Đây là đỉnh cao của tình yêu “cho đến cùng” (Ga 13:1). Trên thập giá, Chúa Giêsu “ở trên đỉnh”, ngang bằng với Thiên Chúa là tình yêu. Đây là nơi chúng ta có thể “biết” Người, nơi chúng ta có thể hiểu được câu “Ta là”.
Bụi cây cháy là cây thập giá. Tham vọng cao nhất của sự mặc khải, “Ta là” và thập giá của Chúa Giêsu là không thể tách rời" [116].
74. Sự hiểu biết về Thiên Chúa qua Chúa Kitô không chỉ cung cấp một nội dung tín lý đơn thuần, nhưng đưa con người vào mối hiệp thông cứu rỗi với Thiên Chúa, vì có thể nói, nó đưa con người vào chính trung tâm của thực tại, hay đúng hơn, của con người cần được biết đến và yêu thương. Lời mở đầu của Tin mừng thánh Gioan là lời diễn tả sự chiêm niệm cao nhất về mầu nhiệm Thiên Chúa đã được biểu lộ cho chúng ta nơi Chúa Giêsu để chúng ta có thể, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần được đổ tràn "vô hạn" (Ga 3:34), bước vào chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi được Ngôi Lời mặc khải. Hình ảnh của Logos này không chỉ phản ảnh Logos thần thiêng được nhận thức bởi tư tưởng Hy Lạp, mà còn sâu sắc hơn nữa, phản ảnh di sản Cựu Ước của Lời Chúa, Dābār được Cựu Ước chứng thực. Vì sự mặc khải đã được ban cho Israel và được truyền lại trong Cựu Ước đã mang đến một kiến thức hoàn toàn mới về Thiên Chúa, mở đầu cho biến cố Mặc Khải này. Ngôi Lời này, tức là Chúa Con, "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa", là Đấng từ ban đầu đã ở cùng Thiên Chúa, giống như Ngôi Lời diễn tả Người trong mọi chân lý, Người cũng là Thiên Chúa giống như Chúa Cha. Khi thời gian viên mãn, Ngôi Lời “đã trở nên xác phàm và dựng lều giữa chúng ta” (Ga 1:14), để những ai đón nhận Người sẽ nhận được “quyền năng (exousia) trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:14). Bằng cách cho phép con người được hiệp thông trọn vẹn với Người, Ngôi Lời đã trở nên xác phàm đã “khiến họ trở thành những người thông phần vào bản tính thần linh.” [117]
75. Sự hiểu biết và hiệp thông đích thực và chưa từng có này với Thiên Chúa cũng mang lại sự hiệp thông cứu rỗi với anh chị em trong nhân loại được Thiên Chúa yêu thương, bởi vì biến cố Chúa Giêsu Kitô là sự hiệp thông không thể tách rời với Thiên Chúa và với mọi con người. Đức tin của Giáo hội Tông truyền làm chứng cho sự hiệp thông này trong Chúa Kitô và qua Chúa Kitô, trong sự hiệp thông Ba Ngôi:
"Điều đã có từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống [...] chúng tôi cũng rao truyền cho anh em, để anh em cũng được thông công với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng ta là với Chúa Cha và với Chúa Con, Chúa Giêsu Kitô. Chúng tôi viết những điều này cho anh em để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn (1 Gioan 1:1.3-4)".
Truyền thống thần học nhấn mạnh rằng lòng bác ái khiến chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, bao lâu họ là bạn của Thiên Chúa [118]. Chúng ta có thể nghĩ rằng ba nhân đức đối thần dẫn chúng ta đến một sự hiểu biết hoàn toàn mới mẻ về Thiên Chúa và sự hiệp thông với Người. Nhưng theo cách tiếp cận mới với Thiên Chúa mà chúng mang lại, chúng cũng tự tạo cho mình một con đường đức tin hướng đến tình huynh đệ, một niềm hy vọng đáng kinh ngạc vào người lân cận và lòng bác ái này tha thứ mọi thứ và thúc đẩy người ta hiến thân.
1.2 “Chúng ta có suy nghĩ (νοῦς) của Chúa Kitô” (1 Cr 2:16): loại suy của sáng tạo và loại suy của lòng bác ái
76. Biến cố Chúa Giêsu Kitô, bằng cách ban cho chúng ta con đường đến với Thiên Chúa theo cách không gì sánh bằng, vừa khơi dậy vừa hàm ý một "con đường" đến với Người, một con đường mới mẻ và độc đáo: đón nhận Kinh Tin kính trong đức tin và bằng trí thông minh của mình, tốt hơn nữa, là đón nhận Thiên Chúa tự biểu lộ chính Người ở đó, đưa chúng ta vào trong cái nhìn của Chúa Kitô đồng bản thể với Chúa Cha, vào trong "suy nghĩ" hay chính tâm trí của Chúa Kitô và vào trong mối quan hệ của Người với Chúa Cha và với tha nhân. “Chúng ta có suy nghĩ của Chúa Kitô (noun Christou),” Thánh Phaolô thốt lên (1 Cr 2:16) [119]. Đó là tiếng kêu của sự ngưỡng mộ. Một lần nữa Công đồng Nicée cho thấy món quà vô giá của Thiên Chúa. Nhưng Nicée cũng chỉ ra rằng đây là cách duy nhất để hiểu được những gì Kinh Tin Kính diễn đạt, cả trong sự việc (res) lẫn trong bản văn. Chúng ta không thể chiêm ngưỡng và tham dự vào Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, vào ơn cứu chuộc dành cho chúng ta, vào vẻ đẹp của Giáo hội và ơn gọi của con người, nếu không “có suy nghĩ của Chúa Kitô”. Không chỉ đơn thuần bằng cách biết đến Chúa Kitô, mà còn bằng cách bước vào chính trí thông minh của Chúa Kitô, theo nghĩa sở hữu chủ quan. Người ta không thể hoàn toàn tuân thủ Kinh Tin kính cũng như tuyên xưng nó bằng cả con người mình mà không có “sự khôn ngoan không thuộc về thế gian này”, “được Chúa Thánh Thần mặc khải”, Đấng duy nhất “dò thấu những điều sâu thẳm của Thiên Chúa” (x. 1 Cr 2:6.10):
"Trong đức tin, Chúa Kitô không chỉ là Đấng mà chúng ta tin – là biểu hiện vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa – mà còn là Đấng mà chúng ta kết hợp với để có thể tin. Đức tin không chỉ hướng về Chúa Giêsu, mà còn nhìn từ quan điểm của Chúa Giêsu, bằng đôi mắt của Người: đó là sự tham gia vào cách nhìn của Người. […] Cuộc sống của Chúa Kitô, cách Người biết Chúa Cha, cách Người sống hoàn toàn trong mối quan hệ với Chúa Cha, mở ra một không gian mới cho trải nghiệm của con người và chúng ta có thể bước vào đó" [120].
77. Điều này có thể xảy ra vì Chúa Kitô nhìn thấy Chúa Cha qua đôi mắt con người của Người và mời gọi chúng ta bước vào trong cái nhìn của Người. Mặt khác, con đường này đòi hỏi một sự biến đổi sâu sắc trong suy nghĩ và tâm trí của chúng ta, phải trải qua sự hoán cải và nâng cao: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người bằng cách đổi mới tâm trí” (Rm 12:2). Đây chính là những gì biến cố Chúa Giêsu Kitô mang lại: trí thông minh, ý chí và khả năng yêu thương thực sự được cứu rỗi bởi Mặc Khải được công bố tại Nicée. Chúng được thanh lọc, định hướng và biến đổi. Chúng mang một sức mạnh mới, hình thức và nội dung chưa từng có. Các khả năng của chúng ta chỉ có thể bước vào sự hiệp thông với Chúa Kitô bằng cách trở nên giống Người, trong một tiến trình khiến các tín hữu “giống như (symmorphizomenos)” (Pl 3:10) Đấng chịu đóng đinh và phục sinh ngay cả trong tâm trí họ. Tư tưởng mới này được đặc trưng bởi sự gắn kết không thể tách rời giữa kiến thức và tình yêu. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chỉ ra: “Thánh Grégoire Cả đã viết rằng ‘amor ipse notitia est,’ bản thân tình yêu là kiến thức, nó mang trong mình một luận lý mới. [121]” Đó là kiến thức thương xót và đầy lòng trắc ẩn, vì lòng thương xót là bản chất của Tin mừng [122] và phản ảnh chính bản chất của Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Nicée. Tâm trí [mens]được đổi mới ngụ ý sự hiểu biết về phép loại suy được xem xét lại dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô. Nó giữ lại những gì chúng ta có thể gọi là “phép loại suy của sự sáng tạo”, nhờ đó chúng ta nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự bình an của trật tự vũ trụ[123], và những gì chúng ta có thể gọi là “phép loại suy của lòng bác ái”.[124] Phép loại suy này, có thể nói là đảo ngược, trước mầu nhiệm của sự gian ác và hủy diệt nhưng được soi sáng bởi mầu nhiệm mạnh mẽ hơn của Cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu giữa sự yếu đuối và đau khổ. Sự khôn ngoan của Chúa Kitô được mô tả trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rinh-tô là điều “làm cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ”:
"Vì Chúa Ki-tô chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin mừng, và không dùng lời lẽ khôn ngoan của loài người, khiến cho thập giá của Chúa Ki-tô trở nên vô giá trị. Vì lời giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đường hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người đang trên đường cứu rỗi, thì đó là quyền năng của Thiên Chúa. Vì Kinh Thánh chép rằng: “Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của người khôn ngoan, và sẽ loại bỏ sự hiểu biết của người hiểu biết." Người khôn ngoan ở đâu? Người kinh sư ở đâu? Người lý luận ở đâu bên dưới này? Chẳng phải Thiên Chúa đã làm cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ sao? Vì thế gian, qua mọi sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đã không nhận biết Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã vui lòng dùng sự điên rồ của việc rao giảng Tin nừng để cứu những người tin (1 Cô-rinh-tô 1:17-25)".
Sự hoán cải và biến hình này không thể diễn ra nếu không có ân sủng. Trí thông minh của con người bộc lộ bản chất được sắp xếp theo ân sủng và dựa vào ân sủng để trở thành chính nó một cách trọn vẹn, giống như chính con người vậy [125]. Đây là điều cho phép chúng ta hiểu được cách các khả năng của con người được phục hồi và biến đổi nhờ biến cố Chúa Giêsu Kitô được đưa đến sự viên mãn bằng cách triển khai các phương thức đức tin, đức cậy và đức mến, hoa trái đầu mùa trong thế giới này của cuộc sống vinh quang: "Anh em hãy có những tâm tình như Chúa Kitô Giêsu" (Pl 2:5).
1.3 Sự gia nhập đối thần vào việc hiểu biết Chúa Cha qua lời cầu nguyện của Chúa Kitô
78. Làm thế nào chúng ta có thể đi vào “suy nghĩ của Chúa Kitô” được đưa ra bởi biến cố Chúa Giêsu Kitô? Bởi vì Chúa Giêsu Kitô không chỉ là một giáo viên hay người hướng dẫn, mà chính là sự mặc khải và sự thật của Thiên Chúa, nên những người tiếp nhận Người không chỉ là người nhận được sự hướng dẫn. Bởi vì con người của Đấng Phục Sinh không phải là đối tượng của quá khứ, nên bất cứ ai muốn hiểu được mầu nhiệm sâu xa của Chúa Giêsu, sự mặc khải của Thiên Chúa trong nhân tính của Người, phải để mình được bao gồm trong mối quan hệ hiệp thông với Chúa Cha. Điều này được thực hiện thông qua đời sống đối thần, đọc Kinh thánh trong Giáo hội, cầu nguyện cá nhân và phụng vụ, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
79. Sự tham gia bằng ân sủng vào lời cầu nguyện của Chúa Kitô tạo nên con đường hoàng gia dẫn đến sự nhận biết Chúa Kitô, Đấng mặc khải sự hiểu biết về Chúa Cha (“Cha Ta và Cha các ngươi”, trong Ga 20:17). Joseph Ratzinger / Đức Giáo Hoàng Benedict XVI tuyên bố: "Vì lời cầu nguyện tạo nên chính trung tâm của con người Chúa Giêsu, nên việc tham gia vào lời cầu nguyện của Người trở thành điều kiện để biết và nhận ra Người.[126] "Nói cách khác, sự hiểu biết về Chúa Kitô bắt đầu bằng việc người nhận ra Người bước vào hành vi cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Nơi nào không có mối quan hệ với Thiên Chúa, thì Đấng vốn sâu xa không là gì khác ngoài mối quan hệ với Thiên Chúa, với Chúa Cha, không thể thực sự được biết đến hoặc hiểu được.[127]" Và điều đúng với mỗi tín hữu cũng đúng với toàn thể Giáo hội. Chỉ khi nào cộng đồng cầu nguyện được ghi tên trong mối quan hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha thì Giáo hội mới là “ sự suy nghĩ [nous]” nhận ra Chúa Kitô như Người được nói đến trong Ga 5:18-20 [128] và trong 1 Ga 3:11. Đây lại là vấn đề về các khẳng định Kitô học của Kinh Tin Kính: "Lời khẳng định trung tâm của tín điều, 'Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha, cùng bản tính với Chúa Cha', tóm tắt toàn bộ chứng từ của các công đồng cổ thời, chỉ đơn giản chuyển dịch biến cố lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sang ngôn ngữ triết học và thần học chuyên ngành, không gì hơn.[129]" Đức tin được diễn tả bởi Công đồng Nicée nảy sinh từ mối quan hệ của Chúa Giêsu với Chúa Cha và đưa mối quan hệ này vào trong đó, để cung cấp cho con người và Giáo hội việc tham gia vào kiến thức và sự hiệp thông của Chúa Giêsu với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
2. Biến cố Khôn ngoan: Sự mới mẻ cho Tư tưởng nhân bản
2.1 Sự mặc khải làm phong phú và mở rộng tư tưởng nhân bản
80. Bằng cách thiết lập đức tin Kitô học và Ba Ngôi, Kinh Tin Kính Nicée là một phần của phong trào tượng thai (fécondation ) tư tưởng nhân bản, của “sự mở rộng lý trí[130]”, thông qua Mặc khải trong quá trình truyền tải của nó. Thật vậy, sự tiếp cận vô song với Thiên Chúa thông qua biến cố Chúa Giêsu Kitô, cũng như sự tham gia vào tư tưởng (phronēsis) và lời cầu nguyện của Chúa Kitô, không thể không có tác động quyết định đến tư tưởng và ngôn ngữ của con người. Chúng ta đang chứng kiến một “Biến cố Khôn ngoan”, qua đó những điều này phải được mở rộng và được mở rộng bởi Sự mặc khải để nó có thể được tự biểu lộ ở đó. Và trong chính chuyển động này, chúng chứng minh một cách chính xác rằng chúng có khả năng được dẫn dắt vượt qua chính mình. Trong lịch sử của biến cố Khôn ngoan này, Nicée tạo nên một bước ngoặt lớn, “một con đường mới và sống” (Hr 10:20), mà Pavel Florensky đã nắm bắt được tầm quan trọng quyết định của nó, và ông đã diễn đạt bằng những lời lẽ mạnh mẽ:
"Người ta không thể nhớ lại mà không run rẩy một cách thánh thiêng khoảnh khắc duy nhất và mãi mãi có ý nghĩa về mặt triết học và tín điều, khoảnh khắc khi tiếng sấm của "Homoousios" vang lên lần đầu tiên trên Thành phố Chiến thắng [Nicée]. Đây không phải là một câu hỏi cụ thể về thần học, mà là một định nghĩa cấp tiến mà Giáo hội Chúa Kitô tự đưa ra. Thuật ngữ duy nhất này không chỉ diễn đạt tín điều về Chúa Kitô mà còn đưa ra sự đánh giá về mặt tinh thần đối với các quy tắc của lý trí. Chủ nghĩa duy lý đã bị tiêu diệt ở đó. Lần đầu tiên, nguyên tắc mới của hoạt động hợp lý được tuyên bố urbi et orbi [cho thành phố và cho thế giới]" [131].
Ngôi Lời là Đức Kitô nhập thể, Con của Chúa Cha trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần, biểu lộ rằng chính Người là thước đo của mọi lời của con người, rằng Người có thể làm cho sống động và mở rộng, nhưng Người cũng có thể là thẩm phán, đặt nó vào cuộc khủng hoảng (krisis) theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Thật vậy, thật đáng chú ý khi quan sát cách Thánh Athanase, trong một phán đoán sâu sắc, coi việc Arius từ chối sự trọn vẹn của hình ảnh Chúa Kitô cấu thành sự phủ nhận lý trí, phủ nhận logos thuần túy và đơn giản: "Bằng cách phủ nhận Logos của Thiên Chúa, họ thấy mình bị tước đoạt chính mọi logos.[132]" Về cơ bản, biến cố Khôn ngoan do biến cố Chúa Giêsu Kitô tạo ra đưa lý trí và tư tưởng của con người đến với ơn gọi cao cả và chân thực nhất của nó. Có thể nói là nó trả lại nó cho chính nó. Vì vậy, như chúng ta sẽ thấy, homoousios không chỉ đơn thuần là một mẫu mực của tính liên văn hóa, mà nó còn thuộc về một biến cố nguyên mẫu, khai mạc và sáng lập sự khôn ngoan của Giáo hội trong tính tông truyền của nó.
81. Biến cố Chúa Giêsu Kitô làm cho một hữu thể học mới trở nên khả hữu, trong chiều kích của Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Lý trí con người đã cho phép chính nó được mở ra và thâm nhập bởi mầu nhiệm, được tiếp cận thông qua sự mặc khải về sáng tạo từ hư không (2 Mt 7:28; Rm 4:17), về sự siêu việt hữu thể học của một Thiên Chúa, tuy nhiên lại gần gũi hơn với mỗi tạo vật hơn là với chính nó[133]. Nó cho phép bản thân được đổi mới từ trên xuống dưới khi nó được thông tin bởi ý nghĩa sâu xa được ban cho mọi sự bởi mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu (1 Ga 4:8, 16) – tính khác biệt, tính tương quan, tính hỗ tương, tính nội tâm lẫn nhau kể từ đây tự biểu lộ như chân lý tối hậu và các phạm trù cấu trúc của hữu thể học. Hữu thể thấy mình được soi sáng ở đó và tự chứng tỏ còn phong phú hơn so với những phiên bản triết học trước đó, sâu sắc và phức tạp như chúng vốn có. Hơn nữa, Nicée, bắt đầu từ câu hỏi về Kitô học và cứu thế học để trình bầy Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, phản ảnh rõ cách thức mà tính hiện tượng Kitô học thúc đẩy sự phát minh ra [inventio] học thuyết Ba Ngôi, thông qua động lực giữa trật tự khám phá, Kitô học và Thần khí học, đặt ở tâm điểm của nó, và trật tự thực tại Ba Ngôi, cấu trúc nên học thuyết này. Nicée thúc đẩy việc xem xét thần học bằng sự phản ảnh của Kitô giáo hoặc khám phá về “Ba Ngôi nội tại”. Vì mầu nhiệm Chúa Kitô, được hiện thực hóa trong lịch sử và trong một nhân loại duy nhất, mang lại sự tiếp cận với Thiên Chúa, vật chất và xác thịt, thời gian và lịch sử, sự mới lạ, hữu hạn và mong manh, có được những nét chữ cao quý và sự nhất quán để diễn tả hữu thể. Sâu thẳm bên trong, hữu thể cũng tự biểu lộ qua Mặc Khải, semper major (luôn lớn lao hơn).
82. Biến cố Khôn Ngoan rõ ràng ngụ ý một sự đổi mới về nhân học, đến nỗi biến cố Chúa Giêsu Kitô đã rõi một ánh sáng mới lên hữu thể nhân bản. Chúng ta hãy ngắn gọn gợi lại những khía cạnh được phát triển trong chương đầu tiên của tài liệu này [134]. Nhân chủng học của Kinh thánh đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại khái niệm con người dựa trên tính cao quý của vật chất và tính duy nhất. Đấng Sáng Tạo của sách Sáng Thế muốn có mỗi cá nhân và “ghi khắc chúng trên lòng bàn tay của Người” (Is 49:16). Hơn nữa, Chúa Giêsu gọi mọi con người là anh chị em của Người, bởi vì biến cố nhập thể đã làm cho mỗi con người trở nên cao quý, theo cách không thể vượt qua và không thể diễn tả được. Khi Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô, là con người thật, là Con Thiên Chúa và như vậy, “bình đẳng” với Thiên Chúa Cha, thì mọi con người—bất kể nguồn gốc, quốc gia, tài năng hay trình độ đào tạo—đều được ban cho một phẩm giá thúc đẩy trí tuệ con người suy nghĩ theo những cách mới, vượt ra ngoài giới hạn của quan điểm hoàn toàn tự nhiên về con người. Có một phẩm giá Kitô học đúng nghĩa của những hữu thể đơn lẻ.
83. Tương tự như những gì xảy ra khi đi vào “suy nghĩ của Chúa Kitô”, sự mở rộng hữu thể học và nhân học hàm ý một sự chuyển đổi và có thể gặp phải sự kháng cự của tư tưởng, vốn đã quen với những giới hạn của nó. Biến cố Khôn Ngoan đòi hỏi chúng ta phải lưu ý không những đến “loại suy của sáng thế” mà còn đến “loại suy của lòng bác ái”. Đối diện với sự tự hủy của Nhập thể và Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, đối diện với đau khổ và sự dữ ảnh hưởng đến nhân tính, tinh thần con người sẽ chạm đến giới hạn của mình. Câu hỏi đặt ra là: tại sao Chúa Cha toàn năng dường như đã quan sát từ trên cao con đường thập giá đau khổ của Chúa Con và chỉ hành động sau khi Người đã chết? Tại sao Người không trả lời ngay lời cầu nguyện tại Vườn Ô-liu, được dâng lên bằng mồ hôi máu và nỗi sợ hãi: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này xa khỏi Con...” (Mt 26:39b)? Trên thực tế, sự bình đẳng về bản chất với Chúa Cha của Chúa Con nhập thể và chịu đóng đinh, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Nicée, mời gọi tư tưởng con người chuyển đổi và cải biến ý nghĩa của thuật ngữ "toàn năng". Thiên Chúa Ba Ngôi không phải trước hết là toàn năng rồi mới đến tình yêu; Sự toàn năng của Người đúng hơn đồng nhất với tình yêu được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô. Thực vậy, những gì Chúa Giêsu đã trải qua, như đã được chứng thực trong Tân Ước, là – thông qua hành động của Chúa Thánh Thần – sự mặc khải trong lịch sử, trên kế hoạch nhiệm cục Ba Ngôi, mối quan hệ nội tại Ba Ngôi và thực tại nội tại trong Thiên Chúa[135]. Thiên Chúa thực sự là Thiên Chúa khi quyền năng yêu thương của Người không áp đặt điều gì nhưng ban cho đối tác giao ước của Người là con người khả năng ràng buộc mình với Người một cách tự do và nhưng không. Thiên Chúa tương ứng với chính hữu thể của Người khi Người không dùng vũ lực để cải hóa nhân loại đã bị tội lỗi làm cho hư hỏng, nhưng hòa giải nhân loại với chính Người qua các biến cố ở Bethlehem và Golgotha. Trong tất cả những điều này, cách nhìn của con người chúng ta được kêu gọi tự cho phép mình được biến đổi sâu sắc bởi Chúa Kitô: “Tư tưởng của các ngươi không phải là tư tưởng của Ta” (Is 55:8; xem thêm Mt 16:23).
2.2 Một biến cố văn hóa và liên văn hóa
84. Nếu biến cố Chúa Giêsu Kitô đổi mới tư tưởng như thể được tái tạo theo một biến cố của Đức Khôn Ngoan, thì nó cũng đổi mới và thanh lọc, nuôi dưỡng và mở rộng nền văn hóa nhân bản. Trên thực tế, Công đồng Nicée, nơi diễn đạt đức tin Kitô giáo của Giáo hội lan rộng khắp mọi quốc gia bằng tiếng Hy Lạp và sử dụng một thuật ngữ từ triết học Hy Lạp, chắc chắn là một biến cố văn hóa. Đức tin cần phải bao hàm văn hóa nhân bản, vì nó bao hàm bản chất con người, vì bản chất và văn hóa là yếu tố cấu thành nên con người và do đó không thể tách rời. “Con người luôn luôn được đặt vào vị trí văn hóa [136] ", Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại. Bởi vì con người là một hữu thể có quan hệ và xã hội, là một phần của lịch sử, nên chính thông qua văn hóa, con người đạt đến sự viên mãn của nhân tính mình [137]. Hơn nữa, Mặc khải, thiết lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người, cần những người tiếp nhận có sự nhất quán của riêng họ để đón nhận nó với sự tự do và trách nhiệm trọn vẹn. Do đó, việc bầu chọn dân tộc của mười hai chi tộc Israel, những người phải phân biệt mình với tất cả các dân tộc khác và học cách tách biệt chân lý khỏi sai lầm, trước tiên vì lợi ích của chính họ. Do đó, Chúa Giêsu Kitô, trong Người, Con Thiên Chúa thực sự trở thành con người, một người Do Thái, một người Galilê, người mà nhân tính mang dấu ấn văn hóa của hành trình lịch sử của dân Người. Do đó, Giáo hội, được tạo thành từ tất cả các quốc gia. Do đó, dựa trên nguyên tắc của Thánh Thomas, "ân sủng giả định bản nhiên", và mở rộng nó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói thêm: "ân sủng giả định văn hóa, và ân sủng của Thiên Chúa được nhập thể trong nền văn hóa của những người tiếp nhận nó."[138] »
85. Giả định về văn hóa này của Mặc Khải ngụ ý một sự ảnh hưởng qua lại nhất định giữa hai bên, mặc dù chúng không đối xứng. Cũng như tinh thần con người có khả năng được biến đổi, văn hóa có ơn gọi để cho phép mình được soi sáng bởi Mặc khải, đến mức có thể chào đón, với cái giá hoán cải, sự khôn ngoan của Đấng Chịu Đóng Đinh: “Sức mạnh của Tin mừng [phải thấm nhuần] các cách suy nghĩ, các tiêu chuẩn phán đoán, các chuẩn mực hành động; nói một cách ngắn gọn, toàn bộ nền văn hóa của con người cần phải được Tin mừng thấm nhuần.[139] Tuy nhiên, đức tin không phải là một yếu tố xa lạ với các nền văn hóa trong đó đức tin được sống, bởi vì kể từ Lễ Ngũ Tuần, đức tin Kitô giáo mang theo mình sự chắc chắn rằng không có một nền văn hóa nào của con người không chờ đợi và hy vọng vào sự hoàn thành của nó trong cuộc viếng thăm của Ngôi Lời Thiên Chúa, chính Người đã truyền bá semina Verbi [hạt giống Lời Chúa] [140] trong mọi nền văn hóa đang chờ đợi sự viếng thăm của Người. Đây là cách chúng trở thành chính mình một cách trọn vẹn. Do đó, chính từ bên trong, từ sự cởi mở của chúng đối với những gì là chân lý, tốt lành và đẹp đẽ, mà Mặc khải thanh tẩy và nâng cao chúng. Nhưng sau đó, các nền văn hóa và ngôn ngữ được tiếp nhận và biến đổi bởi sự mới mẻ của mặc khải cho phép việc thể hiện đức tin được phong phú và sáng tỏ hơn. Sự hỗ tương này đã được quan sát qua nhiều thế kỷ trong quá trình phát triển của ngôn ngữ, thi ca và nghệ thuật nhờ Kinh thánh, sự hiểu biết về Kinh thánh cũng được soi sáng như thể "để đáp lại" bằng cách nhiễu xạ [diffraction] thành những từ ngữ và góc nhìn khác về thế giới. Đây cũng là điều xảy ra tại Nicée trong việc sử dụng homoousios, làm sáng tỏ sự hiểu biết của Giáo hội về mối quan hệ con thảo của Chúa Giêsu Kitô trong khi biến đổi thuật ngữ mà nó mang lấy.
86. Trong giả định về văn hóa này, một vị trí độc đáo và quan trọng phải được dành cho mối quan hệ giữa văn hóa Do Thái và văn hóa Hy Lạp. Homoousios sẽ xuất hiện ở đây như là thành quả của sự tổng hợp đặc biệt mạnh mẽ diễn ra giữa nền văn hóa Sê-mit, vốn đã được Mặc Khải chạm đến và biến đổi, nhưng cũng được hình thành bởi những cuộc gặp gỡ và bất đồng với các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác – người Ai Cập, người Canaan, người Lưỡng Hà, người La Mã – và thế giới Hy Lạp. Trong hơn ba thế kỷ trước khi Chúa Giêsu ra đời và cho đến thế kỷ thứ ba Công nguyên, việc giảng dậy và đời sống trí thức của Do Thái giáo theo văn hóa Hy Lạp không chỉ được diễn đạt bằng tiếng Aram mà còn bằng tiếng Hy Lạp, với Bản Bẩy Mươi là trọng tâm. Những lời dạy của Chúa Giêsu đã được ghi lại và truyền lại bằng tiếng Hy Lạp, nhằm mục đích truyền đạt Tin mừng cho mọi người bằng ngôn ngữ chung của lưu vực Địa Trung Hải, nhưng cũng vì Tân Ước là một phần trong lịch sử mối quan hệ của người Do Thái với văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp. Giống như trong Bản Bẩy Mươi, những ảnh hưởng này đi theo cả hai hướng. Ví dụ, panta ta ethnē [mọi dân tộc]của Mt 28:19 dịch ý tưởng cổ xưa của người Do Thái về tất cả các quốc gia đổ xô đến Giêrusalem, và măthētēs (môn đệ-học trò) dịch chữ Talmudim tiếng Aram. Ngược lại, các nhà truyền giáo sử dụng tiếng Hy Lạp của tòa án để diễn giải phiên tòa và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, tác giả của Công vụ lấy cảm hứng từ sử thi Odyssey để kể lại chuyến hành trình của Thánh Phao-lô và sau này thường phản ảnh các yếu tố của triết học Khắc kỷ, giống như một số đoạn trong Tân Ước mang dấu vết của vốn từ vựng hữu thể học Hy Lạp[141]. Hoàn toàn tự nhiên khi Kitô giáo mới ra đời tiếp tục sự tổng hợp tư tưởng Sê-mit và Hy Lạp, trong cuộc đối thoại với các tác giả Do Thái-Hy Lạp và Hy Lạp-La Mã, để giải thích Kinh thánh và phát triển tư tưởng riêng của mình. Sự phong phú của cách diễn đạt Hy Lạp của Do Thái giáo và Ki-tô giáo do đó có thể gợi ý rằng có một chiều kích sáng lập trong sự ghép nối văn hóa Hy Lạp vào văn hóa Do Thái, điều này sẽ giúp giải thích bằng tiếng Hy Lạp tính độc đáo và tính phổ quát của sự cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô đứng trước lý trí triết học[142]. Rõ ràng là một bộ phận lớn các Ki-tô hữu, đặc biệt là những người sống bên ngoài biên giới của Đế quốc La Mã, không thuộc về khu vực văn hóa này và đã sử dụng tài năng của mình để phục vụ cho việc thể hiện đức tin trong thế giới nói tiếng Syria, ở Armenia và Ai Cập, nhưng họ cũng tự đặt mình vào mối quan hệ với tư tưởng Hy Lạp, cho phép bản thân được truyền cảm hứng từ tư tưởng đó và đồng thời cũng tách mình ra khỏi nó.
87. Công đồng Nicée không chỉ đơn thuần là một biến cố tiếp nhận và nuôi dưỡng văn hóa thông qua Mặc khải, mà còn là dịp cho những cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa. Cuộc gặp gỡ của các nền văn hóa này là một khía cạnh quan trọng của biến cố Khôn ngoan mà Chúa Giêsu Kitô mang đến, vì Mặc Khải kết nối và đưa các nền văn hóa vào sự hiệp thông với nhau, tạo nên mức độ liên văn hóa cao nhất có thể. Sự trao đổi và thai nghén lẫn nhau vốn là những bộ phận cấu thành nên mọi nền văn hóa, chỉ tồn tại trong quá trình chúng tiếp xúc với nhau, và do đó phát triển, làm giàu cho nhau, và đôi khi đối lập và gây nguy hiểm cho nhau. Tuy nhiên, sức mạnh đổi mới của Mặc Khải mang đến bước nhảy vọt về chất lượng trong cường độ của những mối quan hệ này. Một mặt, bằng cách cho phép tiếp cận nguồn siêu việt của chân lý và lòng tốt, đến gốc rễ của tính phổ quát của tinh thần con người khiến cho sự giao tiếp của họ trở nên khả hữu [143], nó mở ra hoàn toàn không gian chung cho các cuộc gặp gỡ và trao đổi của họ. Mặt khác, biến cố Chúa Giêsu Kitô là sức mạnh hoán cải và giải phóng khỏi những thế lực giam cầm và đối lập với nhau hiện hữu trong cuộc sống của các dân tộc và nền văn hóa. Chỉ có nền văn hóa nào được gọi là "được cứu rỗi" mới có thể vượt qua chính mình mà không đánh mất chính mình, và mở lòng với người khác để được họ làm giàu cũng như làm giàu cho họ. Việc lắng nghe Lời Chúa và Truyền thống, và do đó lắng nghe lời của Đấng Khác, có thể nói là giúp cho tâm trí và các nền văn hóa quen với việc lắng nghe người khác [144]. Điều này không dẫn đến sự đối lập bên ngoài và kém cỏi của các nền văn hóa, cũng không dẫn đến sự hợp nhất thành một tổng thể không rõ ràng, mà dẫn đến sự liên văn hóa được bảo tồn và nâng cao, trong đó mỗi nền văn hóa vượt qua chính mình trong khi được củng cố trong tính nhất quán của riêng mình, nhờ vào một hình thức giao thoa giữa các nền văn hóa [145]. Đây là lý do tại sao vấn đề là phải duy trì cả sự mới lạ thực sự lẫn "sự nâng cao" của các nền văn hóa, chẳng hạn như thực tế là những người chấp nhận Tin mừng của Chúa Kitô sẽ bảo tồn bản sắc văn hóa của họ và thấy mình được củng cố bởi nó [146]: "Các Ki-tô hữu không phân biệt mình với những con người khác về quốc gia, ngôn ngữ hoặc trang phục [...]. Trong khi tuân theo các phong tục địa phương về trang phục, thực phẩm và các khía cạnh khác của cuộc sống, họ thể hiện bản chất đáng ngưỡng mộ và theo mọi lý lẽ, là nghịch lý của nền cộng hòa của họ"[147].
88. Trên thực tế, tính liên văn hóa là biểu hiện của một vấn đề sâu xa hơn, tạo nên nền tảng của nó: kế hoạch thần thiêng về sự thống nhất của các dân tộc và con đường gian khổ để đạt được sự thống nhất trong đa dạng này. Đây là một trong những chủ đề chính của lịch sử cứu rỗi trong Kinh Thánh. Câu chuyện điển hình về Tháp Babel trong Sáng thế 11:1-9 nhấn mạnh đến sự căng thẳng giữa sự phong phú của nhiều ngôn ngữ và nền văn hóa, một mặt, và khả năng của con người trong việc phá vỡ sự thống nhất của ngôi nhà chung, làm mờ đi các logos của oikos [gia hộ]. Lời kêu gọi Áp-ra-ham, lời hứa với ông rằng trong ông “mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12:3), là phản ứng cứu rỗi đầu tiên của Thiên Chúa. Các tiên tri mở rộng lời hứa này cho các dân tộc trên trái đất bằng cách công bố sự hiệp nhất của tất cả các quốc gia xung quanh dân được chọn và Lề Luật [148]. Tân Ước trình bày sự hiệp nhất này được hiện thực hóa nơi Đấng Mê-xi-a, Đấng đã dùng máu và thịt mình để "phá đổ bức tường ngăn cách, là sự thù hận" giữa Israel và các dân tộc, để "từ đôi bên, dựng nên trong Người một con người mới" (Ê-phê-sô 2:14.15b). Vì thế, các quốc gia được liên kết với dân của Giao ước, được “nhận vào cùng một cơ nghiệp, là chi thể của cùng một thân thể, là những người đồng hưởng cùng một lời hứa” (Ê-phê-sô 3:6). Điều này có thể xảy ra nơi Chúa Kitô, Đấng duy nhất và phổ quát, là Đấng duy trì sự khác biệt và bản sắc, và là Đấng đảm nhận toàn thể nhân loại bằng cách đảm nhận một nhân loại có vị trí về mặt phả hệ và văn hóa. Biểu tượng của Babel, Lễ Ngũ Tuần của những lưỡi lửa trong Công vụ 2:1-18, là sự biểu hiện và hiện thực hóa quyền năng hiệp thông của các logos nhân bản, cuối cùng xuất phát từ Logos của Thiên Chúa [149]. Không phải trong sự hiệp nhất có tính hợp nhất của một ngôn ngữ duy nhất mà Chúa Thánh Thần mang lại sự hiệp thông cho những người Do Thái thuộc các ngôn ngữ và nền văn hóa khác nhau, nhưng bằng cách truyền cảm hứng cho sự hiểu biết lẫn nhau, một hình ảnh về những gì sẽ là Giáo hội quy tụ mọi quốc gia, tất cả đều hướng tới sự hoàn thành của nó, khi "144,000 người được đóng ấn" của mười hai chi tộc Israel và "đám đông vô số không ai có thể đếm được, thuộc mọi quốc gia" “Các dân tộc, bộ tộc, dân tộc và ngôn ngữ” sẽ hiện thực hóa sự hiệp thông trọn vẹn vào ngày tận thế của nhân loại trong thành Giêrusalem mới (Khải Huyền 7:4.9).
89. Chiều kích liên văn hóa mà Công đồng Nicée là biểu hiện sáng lập cũng có thể được coi là một mô hình cho giai đoạn đương thời khi Giáo hội hiện diện ở nhiều khu vực văn hóa khác nhau: văn hóa Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Châu Đại Dương, văn hóa đại chúng mới của Châu Âu, chưa kể đến hình thức văn hóa mới do cuộc cách mạng kỹ thuật số và khoa học công nghệ mang lại. Tất cả các vũ trụ văn hóa đương thời này dường như rất xa lạ với nền văn hóa Hy Lạp cổ thời vốn chào đón theo cách khai mở hình thức hội nhập văn hóa tín điều đạt được trong biến cố Nicée. Một mặt, thực sự cần nhấn mạnh rằng chính trong những phạm trù Hy Lạp này mà Giáo hội đã diễn đạt theo cách chuẩn mực và do đó, chúng luôn luôn đoàn kết với kho tàng đức tin [150]. Tuy nhiên, mặt khác, để trung thành với các thuật ngữ xuất phát từ thời đại đó và tìm thấy nguồn gốc sống động của nó ở đó, Giáo hội có thể lấy cảm hứng từ các Nghị phụ Nicée để tìm kiếm những cách diễn đạt đức tin có ý nghĩa ngày nay bằng các ngôn ngữ và bối cảnh khác nhau. Với ân sủng của Chúa Thánh Thần, các cộng đồng Kitô giáo, các nhà thần học và các mục tử của họ, trong sự hiệp thông hiệu quả với Huấn quyền, phải tự mình thực hiện, trong hoàn cảnh văn hóa và ngôn ngữ của riêng mình, một công việc tương tự như công việc trong quá khứ để khẳng định sự hiệp nhất triệt để của Chúa Con và Chúa Cha. Công đồng Nicée vẫn là hình mẫu của mọi cuộc gặp gỡ liên văn hóa và khả năng tiếp nhận hoặc hình thành những cách thức mới đích thực để diễn tả đức tin tông đồ.
2.3 Sự trung thành sáng tạo của Giáo hội và vấn đề dị giáo
90. Việc nhận thức rằng Công đồng Nicée là thời điểm của biến cố Khôn ngoan do Chúa Giêsu Kitô mang lại cho phép chúng ta đọc lại một cách tinh tế hơn lịch sử các tà thuyết mà Công đồng đã phản ứng. Lạc giáo, cố tình đi chệch khỏi chứng tá tông đồ và làm tổn hại đến tính toàn vẹn của nó, bị các Giáo Phụ tri nhận như một sự mới lạ đã từ bỏ con đường của quy luật đức tin (regula fidei) và truyền thống (traditio) và chính vì điều này mà xa rời thực tại lịch sử của Chúa Kitô. Lời chỉ trích dành cho Arius chính là lời chỉ trích về việc đưa ra điều gì đó mới mẻ [151]. Tuy nhiên, liên quan đến sự mới mẻ [novum] được khai mở bởi biến cố Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể thấy rõ hơn khi hiểu lạc giáo cũng là một sự kháng cự cơ bản, thụ động và chủ động, đối với sự mới mẻ siêu nhiên mở ra tư tưởng và nền văn hóa của con người vượt ra ngoài chính chúng –sự mới mẻ của ân sủng mà ngôn ngữ đức tin mới được diễn tả bằng homoousios làm chứng cho. Gần như không thể tránh khỏi việc con người, với tất cả khả năng của họ, trong toàn bộ hữu thể của họ, sẽ chống lại sự mới lạ chưa từng nghe thấy này, thứ có thể biến đổi và biến hình con người. Nó có nghĩa sự chống đối và do đó tội lỗi của “con người cũ” (Rm 6:6; xem thêm Ep 2:15), sự khó khăn trong việc hiểu biết và chấp nhận trọn vẹn sự bao la của Thiên Chúa và tình yêu của Người, cũng như phẩm giá vô biên của con người. Con đường chậm rãi, thận trọng nhưng đầy thử thách của những nỗ lực đầu tiên nhằm hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm Đấng Chịu Đóng Đinh và sự phục sinh vinh quang của Người, sự chuyển tiếp từ lời rao giảng của các tông đồ đến những bước đầu tiên của điều mà ngày nay chúng ta gọi là thần học, do đó đi kèm với những căng thẳng liên tục và nhiều ý kiến khác nhau đi chệch khỏi sự trọn vẹn của chứng tá tông đồ và được gọi bằng thuật ngữ bất chính thống [hétérodoxie], cũng như lạc giáo.
91. Thay vì xem xét kỹ lưỡng các lạc thuyết của những thế kỷ đầu, chúng ta hãy làm nổi bật sự chống đối này đối với điều mới mẻ của Mặc Khải thông qua một vài ví dụ. Thường được coi là lạc giáo đầu tiên, học thuyết duy lý của những người theo thuyết Ngộ đạo đã làm suy yếu tính hiện thực của mầu nhiệm nhập thể thông qua thuyết ảo thân [Docetism] và bằng cách giản lược lịch sử thánh thành những câu chuyện thần thoại, nó phủ nhận tính toàn vẹn của sự cứu rỗi con người, đẩy nó xuống hàng linh đạo mây khói. Trong cuộc chiến chống lại thuyết ngộ đạo, Thánh Irénée nhấn mạnh rằng đó là sự chống lại quan niệm cho rằng Thiên Chúa có khả năng và mong muốn bước vào lịch sử, để kết hợp với nhân loại cho đến cùng, đến mức thực sự trở thành con người và biết đến cái chết. Đó là sự chống lại niềm tin vào vẻ đẹp của sự đơn nhất, của vật chất và của lịch sử, cũng được mặc khải trong biến cố Chúa Giêsu Kitô và được Cựu Ước và Tân Ước làm chứng. Các Giáo phụ sau này không ngần ngại sử dụng các khái niệm và khuôn khổ tư tưởng từ triết học Hy Lạp để tinh chỉnh tư tưởng Kitô giáo. Khi làm như vậy, họ buộc phải phá vỡ các khuôn khổ tư duy vốn không thể cho phép người ta quan niệm rằng Logos có thể trở thành xác thịt, rằng Logos hay Nous (νοῦς) nói lên tính thần thánh ngang bằng với nguồn gốc mà chúng xuất phát, hoặc có thể có một tính đa dạng không mâu thuẫn với tính thống nhất thần linh và thậm chí còn tốt đẹp trong tính thống nhất này. Những người ủng hộ lạc thuyết về Chúa Kitô và Chúa Ba Ngôi là những người không thể cho phép những khuôn khổ tư tưởng này, bất kể sự phong phú và đóng góp thực sự của chúng vào việc suy nghĩ về tín lý Kitô giáo, được mở rộng bởi sự bao la đáng kinh ngạc của nous (νοῦς) Christou (suy nghĩ của Chúa Ki-tô). Đây vẫn là khó khăn mà chúng ta thấy trong sự tác động của các luồng tư tưởng về Chúa Kitô ở phương Đông trong suốt thế kỷ thứ 3, theo một nghĩa nào đó, điều này mở đường cho tà thuyết Arius. Chúng ta phải tránh việc biếm họa những lập trường khác nhau của những người ủng hộ các trào lưu này, bởi vì họ trước hết là những nhà tư tưởng cá nhân, nhưng tất cả đều phải đấu tranh với những khó khăn giống nhau trong việc duy trì sự phong phú Ba Ngôi của Thiên Chúa duy nhất và tính triệt để của việc đảm nhận trọn vẹn một nhân tính duy nhất bởi Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha: một số người làm cho nền thần học Ba Ngôi đối diện với khuynh hướng duy phụ thuộc [subordinationniste] và một Kitô học có nguy cơ trở thành ảo thân thuyết [Docetist], trong khi những người khác phản đối các hình thức của thuyết hình thái Ba Ngôi (modalisme= thuyết cho rằng Ba Ngôi chỉ là ba cách thế của cùng một Ngôi Vị duy nhất) và thuyết Nghĩa tử (adoptianisme= nhận làm con nuôi). Chính cùng những sự chống đối này của các sơ đồ tư tưởng cũ đã tự phát biểu, vài thập niên trước Công đồng Nicée, trong lời dạy của Arius: đối với ông, không thể quan niệm được rằng Chúa Con, khác với Chúa Cha, Đấng đã sinh ra và chết, có thể đồng vĩnh hằng và ngang hàng với Thiên Chúa, mà không làm suy yếu sự hiệp nhất và siêu việt của Thiên Chúa và do đó làm suy yếu ơn cứu chuộc của con người.
92. Những sức đề kháng này hoàn toàn dễ hiểu vì chúng có tính nhân bản. Chúng làm chứng, mặc dù theo hướng tiêu cực, cho ánh sáng đáng kinh ngạc được chiếu rọi lên tri nhận về Thiên Chúa và ơn gọi thần thiêng của con người thông qua biến cố Chúa Giêsu Kitô và về sự biến đổi không kém phần đáng kinh ngạc của tư tưởng và văn hóa nhân bản được triển khai trong biến cố Khôn ngoan xuất phát từ đó. Không có gì thuộc về con người bị xóa bỏ, nhưng để tiếp cận được tính bao la của chân lý Thiên Chúa đòi hỏi sự Mặc khải của chính Thiên Chúa và ân sủng có thể hoán cải và nâng cao các khả năng và thể hiện của con người. Theo một nghĩa nào đó, sự chống lại các lạc giáo cho phép chúng ta thấy được sức mạnh mới mẻ vô biên của Công đồng Nicée.
3. Biến cố giáo hội: Công đồng Nicée, công đồng chung đầu tiên
3.1 Theo bản chất và cơ cấu của mình, Giáo hội là một phần của biến cố Chúa Giêsu Kitô.
93. Công đồng Nicée không chỉ là một biến cố trong lịch sử tín lý, mà còn có thể được hiểu là một biến cố của Giáo hội, tương ứng với một giai đoạn cơ bản trong tiến trình xây dựng Giáo hội. Trong suốt hành trình dài sau Công đồng Nicée, "Công đồng Chung" đã trở thành ngọn hải đăng về định hướng và quyết định về tín lý và pháp lý cho toàn thể Giáo hội, là nơi hiệp thông và có thẩm quyền tối cao. Liệu chúng ta có thể thấy trong đó, từ quan điểm về cấu trúc của nó, một bước ngoặt chỉ đạo sự tiếp tục đời sống của Giáo hội, tương tự như những gì Kinh Tin Kính Nicée đại diện từ quan điểm tiếp cận Thiên Chúa (biến cố Chúa Giêsu Kitô) và tư tưởng con người (biến cố Khôn ngoan)? Điều này sẽ đúng nếu Công đồng Chung như vậy có thể được coi như một thành quả và là một biểu thức chuyên biệt có tính Giáo hội về biến cố Chúa Giêsu Kitô.
94. Ngay từ khi mới thành lập, Giáo hội đã ý thức rằng mình là một phần trong tính liên tục của dân được chọn, một hội đồng được triệu tập (qāhāl/ekklēsia – cf. Hr 5:22) để sống Torah đã được mặc khải và thờ phượng Chúa là Thiên Chúa của họ. Giáo hội cũng coi mình như “dòng giống được tuyển chọn, là chức tư tế hoàng gia, là dân thánh, một dân tộc được thu nhận để rao truyền lời ngợi khen” (1 Pr 2:9) Thiên Chúa của Israel. Trong Công vụ Tông đồ, nó được trình bày như một cộng đồng phân định ý muốn của Thiên Chúa mà tác nhân chính là Chúa Thánh Thần [152], được hướng dẫn bởi những người nối dài vai trò của mười hai tông đồ, “những chứng nhân của Sự Phục sinh” (Công vụ 1:22). Theo một nghĩa nào đó, chính trong cộng đồng giáo hội, với tư cách là thân thể của Chúa Kitô, mà người ta có thể nhận ra "những tâm tình của Chúa Kitô" (Pl 2:5; xem § 77 ở trên).
95. Nhận thức này được thể hiện nơi các Giáo phụ đầu tiên, những người liên kết cấu trúc và hoạt động của Giáo hội với bản chất sâu xa và ơn gọi của Giáo hội. Vì vậy, vào đầu thế kỷ thứ 2, Thánh Ignace thành Antioche nhấn mạnh rằng các Giáo hội riêng biệt khác nhau coi nhau trong sự đoàn kết như là biểu hiện của một Giáo hội duy nhất. Các thành viên của cộng đoàn là synodoi, những người bạn đồng hành, trong đó mỗi người được kêu gọi đóng vai trò của mình theo trật tự thần thiêng tạo nên sự hòa hợp, được thể hiện qua cộng đoàn Thánh Thể. Như vậy, qua sự hiệp nhất và trật tự của mình, Giáo hội hát lời ngợi khen Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô, hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn sẽ được hiện thực hóa trong Vương quốc Thiên Chúa. Thánh Cyprien thành Carthage đã đào sâu giáo huấn này vào giữa thế kỷ thứ 3 bằng cách chỉ rõ nền tảng công đồng và giám mục mà đời sống của Giáo hội phải dựa vào: không có gì được thực hiện mà không có giám mục (nihil sine episcopo), nhưng tương tự như vậy, không có gì được thực hiện mà không có "hội đồng của bạn" (hội đồng của các linh mục và phó tế) hoặc không có sự đồng ý của người dân (nihil sine consilio vestro et sine consensu plebis)[153]. Sự hợp nhất liên kết với sự hợp nhất của Chúa Ba Ngôi, sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, sự đồng hành (synodos) hướng tới Vương quốc, sự trung thành với giáo lý của các Tông đồ và với việc cử hành Bí tích Thánh Thể, trật tự và sự hòa hợp của các thừa tác viên và những người đã chịu phép rửa tội, với một vai trò đặc biệt được trao cho các giám mục: những yếu tố này cho thấy rằng Giáo hội, ngay cả trong cấu trúc và hoạt động của mình, đã được khắc ghi sâu sắc trong biến cố Chúa Giêsu Kitô, như thời khắc và sự biểu thức đặc biệt của mình. Khi cử hành Công đồng Nicée, toàn bộ tiến trình công đồng diễn ra trước đó và với Công đồng Chung tìm được màn tán dương (point d’orgue) được chúng ta tưởng nhớ và cử hành.
3.2 Sự cộng tác về mặt cấu trúc của các đặc sủng của Giáo hội và con đường dẫn đến Nicée
96. Những yếu tố này vốn là đặc điểm thần học của Giáo hội, chỉ có thể là hoa trái của biến cố Mặc khải, đã được thể hiện trong hành trình lịch sử dẫn đến Công đồng chung Nicée thông qua sự tương tác của ba đặc sủng, được áp dụng vào việc quản trị, giảng dạy và ra quyết định của cộng đồng trong Giáo hội: trước hết là hệ thống phẩm trật tam phân, sau đó là các giáo viên và công đồng. Một thứ tự ưu tiên, đặt các tông đồ lên hàng đầu, dường như đã được thiết lập rõ ràng trong bộ thư của Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội Thánh, trước hết là các tông đồ, thứ đến là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy…” (1 Cr 12:28; x. Ep 4:11). Đặc điểm đầu tiên là sự phát triển dần dần phẩm trật tam phân gồm giám mục, linh mục và phó tế. Phẩm trật này giám sát các nhà tiên tri và giáo viên lưu động trong 150 năm đầu tiên của Kitô giáo (thường được gọi chung là "tông đồ"), đã thay thế họ ở một mức độ nào đó và trở thành cơ cấu địa phương của việc quản trị Giáo hội. Hình ảnh giám mục nói riêng thể hiện chiều kích tông đồ của Giáo hội. Từ thế kỷ thứ 4 trở đi, các giáo tỉnh được thành lập để thể hiện và thúc đẩy sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương, với một vị giáo phẩm giáo đô (métropolite) đứng đầu.
97. Vì các Kitô hữu được kêu gọi rao giảng về Chúa Kitô và truyền đạt lời dạy của Người cùng lời dạy của các Tông đồ cho muôn dân, nên không có gì ngạc nhiên khi đặc điểm thứ hai của Kitô giáo trong thời kỳ tiền Nicée là tầm quan trọng mang tính quyết định của các trường học và giáo viên, những người dạy các dự tòng và giải thích Kinh thánh. Họ có thể là các thừa tác viên được thụ phong hoặc không. Ví dụ, Pélage đã giảng dạy ở Rome vào đầu thế kỷ thứ 5 khi ông không phải là một linh mục, cũng giống như Mélanie Cả và Rufin ở Jerusalem, và Thánh Jérôme ở Bethléem, và sau đó ở Rome. Bản thân Origène đã lãnh đạo Trường Alexandrie sau cái chết của cha ông là Léonidas, trước khi được thụ phong.
98. Cuối cùng, sau nửa sau thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3, đặc biệt là ở Tiểu Á, thượng hội đồng đã đảm nhận vai trò ngày càng quan trọng trong việc quyết định các vấn đề quan trọng về kỷ luật, thờ phượng và giảng dạy. Lúc đầu, các Thượng Hội Đồng là địa phương, nhưng việc gửi các lá thư của Thượng Hội Đồng truyền đạt các quyết định của họ (acta) tới các Giáo Hội khác, việc trao đổi các phái đoàn và các yêu cầu công nhận lẫn nhau, chứng tỏ "niềm tin vững chắc rằng các quyết định được đưa ra là biểu thức của sự hiệp thông với tất cả các Giáo Hội", vì "mỗi Giáo Hội địa phương là biểu thức của Giáo Hội duy nhất và Công Giáo".[154] "Chúng ta hãy lưu ý rằng Thượng Hội Đồng có một chiều kích pháp lý hoặc giáo luật rất rõ ràng, như một định chế lập pháp. Các tài liệu và bộ sưu tập giáo luật của Thượng hội đồng được tập hợp tại kho lưu trữ của các giám mục, đặc biệt là ở Rome: sự phát triển của giáo luật và sự phát triển của các Thượng hội đồng song hành và hỗ trợ lẫn nhau. Không thể cho rằng sự thay đổi hướng tới một Giáo hội được định chế hóa, giống như nhà nước chỉ là do việc Constantine hợp pháp hóa Giáo hội. Được coi như một polis (thành phố) phản ảnh Thành phố của Thiên Chúa, Jerusalem trên trời (x. Is 60 và 62; 65:18; Kh 3:12; 21:1-27), hoặc như một synodos theo nghĩa đen là những người đi cùng con đường với Chúa Giêsu hướng tới Vương quốc, với Người đứng đầu họ như proestos, hay chủ tịch của họ, Giáo hội về bản chất có tính "chính trị" và định chế [155].
99. Ba đặc sủng này phát triển theo cách riêng và khác nhau trong Giáo hội, nhưng không có đặc sủng nào tách biệt hoặc thoát ly khỏi hai đặc sủng kia. Mặc dù căng thẳng tự nhiên nảy sinh giữa và bên trong chúng, nhưng chúng đã làm phong phú, bổ sung thông tin và củng cố lẫn nhau. Giáo viên thường tham gia với tư cách là thành viên của các thượng hội đồng. Tương tự như vậy, các giám mục ngay từ đầu đã là những giáo viên và nhà thuyết giáo theo gương mẫu của Thánh Ignace thành Antioche. Rõ ràng, các giám mục đã chủ trì các thượng hội đồng và đóng vai trò lãnh đạo như những người bảo vệ sự chính thống của đức tin và việc thực hành. Hơn nữa, trong vai trò bí tích của mình, giám mục chủ trì buổi cử hành Thánh Thể mở đầu và bế mạc mỗi Thượng hội đồng, nguồn gốc và đỉnh cao của “cuộc hành trình “cùng nhau” là các synodos [156]. Một dấu chỉ của việc tiếp nhận các quyết định của công đồng, cũng như của sự hiệp thông của các tín hữu với các giám mục của họ, được thiết lập trong sự kế vị tông đồ giữa lòng “Catholica [Công Giáo]”, Giáo hội của Thiên Chúa, là một và duy nhất, Thánh Thể được biểu lộ và hiện thực hóa một cách hữu hình, việc thuộc về thân thể Chúa Kitô và thuộc về nhau giữa các Kitô hữu (x. 1 Cr 12:12)[157].
100. Những yếu tố này của quá trình xây dựng Giáo hội không chỉ thể hiện nguồn gốc của nó trong Biến cố Chúa Giêsu Kitô, mà còn có thể nhận ra trong những quá trình này một sự tương tự nào đó với những gì tạo nên biến cố Khôn ngoan được phân tích ở trên. Cũng như tư tưởng của con người, được đổi mới sâu sắc nhờ biến cố Chúa Giêsu Kitô, tiếp nhận và biến đổi các nền văn hóa nhân loại, đặc biệt là từ sự giao thoa giữa tư tưởng Sê-mit, vốn đã được Mặc Khải tác động từ bên trong, với văn hóa Hy Lạp và các nền văn hóa khác, theo cùng một cách, ba chiều kích hay đặc sủng mà chúng ta đã ghi nhận đều xuất phát từ cả các định chế Do Thái và các phiên bản địa phương của các định chế Hy Lạp-La Mã trong những thế kỷ đầu tiên của thời đại chúng ta, cả dân sự lẫn thánh thiêng. Một mặt, Do Thái giáo của Đền thờ thứ hai có hệ thống giáo sĩ, trường phái và giáo hội riêng. Mặt khác, vì không có trường học cụ thể nào dành cho họ nên hầu hết các giáo viên Ki-tô giáo đều được đào tạo thành nhà hùng biện và phiên dịch trong enkyklios paideia, hay hệ thống giáo dục chung của thế giới Hy Lạp-La Mã, và do đó, họ dựa vào thuật hùng biện và triết học, những thứ mà họ đã góp phần đưa vào di sản giáo lý Ki-tô giáo. Thượng hội đồng (concilium trong tiếng Latinh) cũng đã là một định chế cổ xưa trong thế giới Hy Lạp-La Mã khi các Ki-tô hữu dành cho nó một vị trí quan trọng. Bây giờ, những khía cạnh khác nhau này mang những chiều kích riêng của chúng, có thể nói là biến đổi, khi chúng phục vụ cho sứ mệnh của Giáo hội là công bố Tin Mừng và trở thành dấu chỉ hữu hiệu của sự hiệp nhất cho nhân loại.
3.3 Công đồng chung Nicée
101. Vào năm 325, người ta cử hành tại Nicée một công đồng, vốn được ghi nhận một phần trong quá trình này như một điểm thành tựu, nhưng cũng là một hình thức đặc biệt xét về tầm quan trọng đại kết của nó. Được hoàng đế triệu tập để giải quyết một cuộc tranh chấp địa phương đã lan rộng đến tất cả các giáo hội của Đế quốc La Mã phương Đông và nhiều giáo hội ở phương Tây, hội nghị này đã tập hợp các giám mục từ nhiều vùng khác nhau ở phương Đông và các sứ giả của giám mục Rome. Do đó, lần đầu tiên các giám mục từ toàn bộ Oikoumenē đã tụ họp tại một công đồng. Lời tuyên xưng đức tin và các quyết định giáo luật của nó được công bố như chuẩn mực cho toàn thể Giáo hội. Sự hiệp thông và hiệp nhất chưa từng có được trong Giáo hội nhờ biến cố Chúa Giêsu Kitô được thể hiện rõ ràng và hữu hiệu theo một cách mới, thông qua một cấu trúc có phạm vi phổ quát, và việc công bố Tin Mừng của Chúa Kitô trong toàn bộ sự bao la của nó cũng nhận được một công cụ có thẩm quyền và phạm vi chưa từng có:
"Tại Công đồng Nicée, lần đầu tiên, thông qua việc thực hiện thừa tác vụ của các giám mục theo tinh thần đồng nghị, l’ἐξουσία [quyền lực] của Chúa phục sinh đã được phát biểu một cách định chế ở bình diện hoàn vũ. Một kinh nghiệm tương tự đã diễn ra trong các công đồng chung liên tiếp của thiên niên kỷ đầu tiên, qua đó bản sắc của Giáo hội duy nhất và Công Giáo đã được phác thảo một cách chuẩn mực [158].
102. Với Công đồng Nicée, ý tưởng về một công đồng hay một công đồng chung đã được áp đặt. Mặc dù không một pháp lệnh (acta) nào của nó còn tồn tại, nhưng theo mọi sác suất, và mặc dù được tiếp nhận chậm chạp và khó khăn, bản tuyên ngôn homoousios và các quyết định của Nicée vẫn tồn tại. Sau quá trình tiếp nhận lâu dài này – vốn là đặc điểm của bất cứ công đồng nào – Nicée đã trở thành hình mẫu lý tưởng của công đồng trong tâm trí nhiều người. Sự trình bày truyền thống của nó như một công đồng thống nhất, được Chúa Thánh Thần soi sáng, đã giúp nó trở thành công đồng lý tưởng trong truyền thống sau này và dần dần tạo ra sự tôn trọng trong số các Ki-tô hữu đối với các công đồng đại kết. Công đồng Nicée đã mở đường cho các công đồng chung tiếp theo và do đó mở đường cho một phương thức công đồng hay công nghị mới sẽ đánh dấu đời sống của Giáo hội cho đến ngày nay, cả trong vai trò xác định và tuyên bố đức tin cũng như trong việc biểu lộ sự hiệp nhất của toàn thể Oikoumenē được đại diện trong đó.
Kỳ tới: Chương Bốn
VietCatholic TV
Công lý nhãn tiền: Ukraine tập kích xóa sổ lữ đoàn Nga tấn công Sumy, kho hỏa tiễn nổ tung nhiều giờ
VietCatholic Media
03:43 16/04/2025
1. JD Vance hốt hoảng trước các cáo buộc của Tổng thống Zelenskiy mà ông ta gọi là ‘Vô lý’
Phó Tổng thống JD Vance cho biết Hoa Kỳ phải hiểu cả lằn ranh đỏ chiến lược của Nga và Ukraine để chấm dứt chiến tranh, đồng thời bác bỏ lời cáo buộc của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy rằng Washington đang đứng về phía Mạc Tư Khoa.
Tổng thống Zelenskiy đã nói với chương trình 60 Minutes của CBS rằng ông tin rằng “những câu chuyện về Nga đang chiếm ưu thế ở Hoa Kỳ” và ông hiểu Vance “bằng cách nào đó đang biện minh cho hành động của Putin” bằng cách coi Ukraine cũng là một kẻ xâm lược.
Phó Tổng thống JD Vance đang có ý định ra tranh cử Tổng thống trong cuộc bầu cử 2028. Trước khi được Trump đề cử làm phó tổng thống, Vance không phải là một nhân vật nổi bật trong Đảng Cộng Hòa. Hơn thế nữa, trong cuộc vận động tranh cử năm 2016, Vance công khai gọi Trump là “đồ ngu” và so sánh Trump với Hitler. Thành ra, việc Vance được đề cử làm phó tổng thống gây kinh ngạc cho nhiều người, và đặt ra rất nhiều câu hỏi.
Trong bối cảnh đó, những lời tố cáo của Tổng thống Zelenskiy, hiểu theo nghĩa Vance là người do Nga cài cắm bên cạnh Tổng thống Trump, thực sự gây nguy hiểm cho tiền đồ của Vance.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Fox News ngày 10/2/2025, khi Bret Baier của Fox News hỏi liệu ông có coi Vance là “người kế nhiệm” và là ứng cử viên của Đảng Cộng hòa vào năm 2028 hay không, Tổng thống Donald Trump trả lời không chút chần chừ, “Không, nhưng ông ấy rất có năng lực. Tôi nghĩ rằng chúng ta có rất nhiều người rất có năng lực.”
“Cho đến nay, tôi nghĩ ông ấy đang làm một công việc tuyệt vời. Còn quá sớm, chúng tôi chỉ mới bắt đầu,” Tổng thống Donald Trump nói thêm.
Căng thẳng đang diễn ra giữa giới lãnh đạo ở Washington và Kyiv khi Chính quyền Tổng thống Trump cố gắng làm trung gian chấm dứt chiến tranh với Nga.
Một số người ở Washington coi Tổng thống Zelenskiy là trở ngại cho hòa bình và muốn ông ra đi, nhưng các đồng minh của Ukraine ở Âu Châu lo ngại Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump sẽ thỏa hiệp quá dễ dàng với Putin vì mục đích đạt được một thỏa thuận nhanh chóng.
Vance cho biết trong một cuộc phỏng vấn với UnHerd được công bố vào sáng thứ Ba rằng ông đã chỉ trích Nga vì cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine kể từ tháng 2 năm 2022.
Vance nói với cơ quan truyền thông này rằng: “Tôi cũng đã cố gắng áp dụng nhận thức chiến lược rằng nếu bạn muốn chấm dứt xung đột, bạn phải cố gắng hiểu được mục tiêu chiến lược của cả người Nga và người Ukraine”.
“Điều đó không có nghĩa là bạn ủng hộ về mặt đạo đức cho hành động của Nga, hoặc ủng hộ cuộc xâm lược toàn diện, nhưng bạn phải cố gắng hiểu ranh giới đỏ chiến lược của họ là gì, giống như bạn phải cố gắng hiểu người Ukraine đang cố gắng đạt được điều gì từ cuộc xung đột.”
Ông nói thêm: “Tôi nghĩ thật vô lý khi Tổng thống Zelenskiy nói với chính phủ Mỹ, nơi hiện đang duy trì toàn bộ chính phủ và nỗ lực chiến tranh của ông ấy, rằng bằng cách nào đó chúng tôi đứng về phía người Nga”. Tuyên bố này của Vance không hoàn toàn đúng sự thật. Theo Oleksandr Merezhko, thành viên Verkhovna Rada hay Quốc Hội Ukraine, hầu hết số tiền để điều hành nhà nước Ukraine hiện nay đến từ Liên Hiệp Âu Châu sau khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa ra quyết định cắt viện trợ trong 90 ngày.
Vance và Tổng thống Trump đã tham gia vào một cuộc đụng độ công khai gây sốc với Tổng thống Zelenskiy tại Phòng Bầu dục vào tháng 2. Vance cáo buộc Tổng thống Zelenskiy tỏ ra thiếu tôn trọng với tổng thống và không biết ơn Hoa Kỳ vì sự giúp đỡ của họ. Tổng thống Trump nói Tổng thống Zelenskiy đang đánh bạc với Thế chiến thứ III.
Kể từ đó, mối quan hệ đã được cải thiện phần nào, nhưng căng thẳng vẫn còn. Tổng thống Trump muốn chấm dứt cuộc chiến của Nga với Ukraine một cách nhanh chóng, nói rằng ông không thể chịu đựng được quy mô mất mát về sinh mạng và chi phí mà người nộp thuế Hoa Kỳ phải trả cho việc tài trợ cho quốc phòng của Kyiv thông qua viện trợ quân sự.
Ukraine và các đồng minh Âu Châu lo ngại Tổng thống Trump sẽ thỏa hiệp quá nhiều với Putin để chấm dứt chiến tranh càng sớm càng tốt thay vì gây áp lực tối đa lên Nga, kẻ chủ mưu và kẻ xâm lược. Tổng thống Trump nói rằng bạn phải lắng nghe cả hai bên để chấm dứt xung đột.
Hôm Thứ Hai, 14 Tháng Tư, một ngày sau cuộc tấn công tàn bạo của Nga vào Sumy giết chết 35 người và làm bị thương 117 người đang trên đường đến nhà thờ cử hành Chúa Nhật Lễ Lá hay từ nhà thờ về nhà, thay vì lên án hành động tàn bạo của Nga, Tổng thống Trump đã đăng trên nền tảng Truth Social của mình rằng cuộc chiến sẽ không bắt đầu nếu ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2020, đồng thời đổ lỗi cho người tiền nhiệm là Tổng thống Joe Biden và Tổng thống Zelenskiy vì “một công việc hoàn toàn khủng khiếp khi cho phép trò hề này bắt đầu”.
“ Có rất nhiều cách để ngăn chặn nó bắt đầu. Nhưng đó là quá khứ. Bây giờ chúng ta phải DỪNG LẠI, VÀ NHANH CHÓNG. BUỒN QUÁ!” Tổng thống Trump viết.
[Newsweek: JD Vance Clarifies Stance on Russia, Zelensky: 'Absurd']
2. Nội dung cuộc họp báo của Tổng thống Trump đang gây ra nhiều tranh cãi
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Sau khi xảy ra cuộc tấn công khủng bố của Nga vào thành phố Sumy giết chết 35 người và làm bị thương 117 người, khi anh chị em người Ukraine đang đến nhà thờ cử hành Chúa Nhật Lễ Lá hay đang ra về sau buổi lễ, Tổng thống Trump đã không gọi cuộc tấn công là một vụ khủng bố mà gọi đó là một tai nạn “khủng khiếp”. Ông nói: “Tôi nghĩ nó thật khủng khiếp, và tôi được cho biết người Nga đã phạm sai lầm”, ông nói mà không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào để chứng minh cho tuyên bố của mình. Ông cũng không đưa ra bất cứ một lệnh trừng phạt nào cho hành động của Nga. Điều này đã gây ra những phản ứng tức giận. Trong cuộc họp báo tại phòng bầu dục chung với Tổng thống El Salvador vào ngày 14 Tháng Tư, ông đã trả lời các nhà báo về vấn đề này.
Để mọi chuyện hoàn toàn rõ ràng, Kim Thúy xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi những câu trả lời của Tổng thống Trump qua chính giọng nói của ông ấy trước khi quý vị và anh chị em nghe qua lời dịch sang Việt Ngữ của Kim Thúy.
[11:27] Phóng viên nói: Vâng. Cảm ơn ngài Tổng thống. Tối qua ngài đã nhắc đi nhắc lại rằng cuộc tấn công của Nga vào Ukraine là một sai lầm. Sai lầm chính xác là gì? Và ngài có đưa ra cho Putin một thời hạn để thực sự tiến tới một lệnh ngừng bắn không?
Tổng thống Donald Trump trả lời: Sai lầm là để chiến tranh xảy ra. Nếu Biden có năng lực, và nếu Tổng thống Zelenskiy có năng lực, và tôi không biết là ông ấy có. Chúng tôi đã có một phiên họp khó khăn với anh chàng này ở đây. Anh ta cứ liên tục yêu cầu nhiều hơn nữa. Cuộc chiến đó không bao giờ được phép xảy ra. Cuộc chiến đó... Tôi đã trải qua bốn năm và Putin thậm chí còn không nhắc đến nó. Và ngay khi cuộc bầu cử bị gian lận và tôi không có mặt ở đây, cuộc chiến đó đã bắt đầu. Không đời nào cuộc chiến đó được phép xảy ra. Và Biden lẽ ra phải ngăn chặn nó.
Và bạn hãy nhìn Putin, tôi không nói bất kỳ ai là thiên thần, nhưng tôi sẽ nói với bạn rằng tôi đã trải qua bốn năm và đó thậm chí không phải là một vấn đề. Ông ấy sẽ không bao giờ làm vậy. Và tôi đã nói với ông ấy, “Đừng làm vậy. Ông sẽ không làm vậy đâu.” Và đó là con ngươi của mắt ông ấy, không đời nào ông ấy làm vậy.
Tất cả những gì bạn phải làm là hạ giá dầu. Nếu bạn hạ giá dầu… Biden giữ giá cao như vậy vì những gì ông ta làm đã khiến việc hạ giá dầu trở nên bất khả thi. Nếu bạn hạ giá dầu, bạn sẽ không bao giờ có chiến tranh, nhưng dù sao thì bạn cũng sẽ không có nó với tôi. Cuộc chiến đó sẽ không bao giờ xảy ra. Và tôi nghĩ đó là một sự lạm dụng lớn.
Vậy bây giờ bạn phải làm gì? Bạn có một đất nước mà 25% đất đai đã biến mất và những địa điểm tốt nhất. Nơi hàng triệu người bị giết, bạn đã không báo cáo chính xác số người chết. Và đây là cuộc chiến của Biden và tôi đang cố gắng ngăn chặn nó. Và tôi nghĩ chúng ta sẽ làm tốt, tôi hy vọng chúng ta sẽ làm được. Họ mất trung bình 2.500 người trẻ mỗi tuần. Bây giờ họ là người Nga và họ là người Ukraine, nhưng đó là cả hàng 2000 người. Chúng ta không quan tâm. Mặc kệ muốn sao thì sao. Họ không đến từ đất nước của bạn, họ không đến từ đất nước của tôi, nhưng tôi muốn ngăn chặn nó.
2.500 người, đó là một cánh đồng chết chóc. Giống như Nội chiến vậy. Bạn hãy nhìn xem. Tôi nhìn vào những bức ảnh vệ tinh. Điều này không nên xảy ra trong thời đại của chúng ta. Tất nhiên, thời đại của chúng ta có thể khá bạo lực như chúng ta biết. Nhưng đó là một cuộc chiến không bao giờ được phép bắt đầu. Và Biden lẽ ra phải ngăn chặn nó và Zelenskiy lẽ ra phải ngăn chặn nó và Putin không bao giờ nên bắt đầu nó. Mọi người đều phải chịu trách nhiệm.
[13:46] Phóng viên nói: Thưa ngài, ngài đã nói chuyện với Tổng thống Zelenskiy về lời đề nghị mua thêm hệ thống hỏa tiễn Patriot chưa?
Tổng thống Donald Trump trả lời: Ồ, tôi không biết. Ông ta luôn tìm cách mua hỏa tiễn. Ông ta phản đối... Nghe này, khi bạn bắt đầu một cuộc chiến, bạn phải biết rằng bạn có thể thắng cuộc chiến đó hay không, đúng không? Bạn không bắt đầu một cuộc chiến chống lại một ai đó lớn gấp 20 lần bạn rồi hy vọng rằng mọi người sẽ cung cấp cho bạn một số hỏa tiễn. Nếu chúng ta không cung cấp cho họ những gì chúng ta đã cung cấp, hãy nhớ rằng tôi đã cung cấp cho họ Javelin. Đó là cách họ giành chiến thắng trong trận chiến lớn đầu tiên của họ. Với những chiếc xe tăng bị kẹt trong bùn và họ đã tiêu diệt chúng bằng Javelin. Họ nói rằng đó là nhờ Obama, vào thời điểm đó, Obama đã đưa cho họ rác rưởi và Tổng thống Trump đã cung cấp cho họ Javelin. Nhưng vấn đề là điều đó không bao giờ nên xảy ra. Thật đáng xấu hổ. Các thị trấn đã bị phá hủy. Các thị trấn và thành phố phần lớn đã bị phá hủy.
Họ có những ngọn tháp, những ngọn tháp tuyệt đẹp vươn lên trời. Họ nói rằng những ngọn tháp của họ là đẹp nhất thế giới, ở Ukraine vì bất kỳ lý do gì, nhưng là những ngọn tháp đẹp nhất thế giới. Hầu hết chúng nằm nghiêng, hư hại và bị phá hủy. Và quan trọng nhất, bạn có hàng triệu người đã chết. Hàng triệu người chết vì ba người, tôi muốn nói là ba người. Hãy nói Putin, số một. Nhưng hãy nói Biden, người không biết mình đang làm cái quái gì, số hai và Zelenskiy. Và tất cả những gì tôi có thể làm là cố gắng và ngăn chặn nó. Đó là tất cả những gì tôi muốn làm. Tôi muốn ngăn chặn việc giết chóc. Và tôi nghĩ chúng ta đang làm tốt về mặt đó. Tôi nghĩ bạn sẽ sớm có một số đề xuất rất hay.
[White House: Trump Meets with the President of El Salvador]
3. Các quan chức cho biết Merz sẽ đến thăm Paris vào ngày 7 tháng 5
Thủ tướng mới của Đức Friedrich Merz có kế hoạch thăm Paris vào ngày 7 tháng 5 sau khi nhậm chức theo dự kiến một ngày trước đó, theo bốn quan chức nắm rõ kế hoạch này.
Merz cho biết vào Chúa Nhật rằng ông sẽ có cuộc hội đàm “ngay lập tức” với Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cũng như với Donald Tusk của Ba Lan trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Đức Bild. Các cuộc đàm phán liên minh giữa đảng bảo thủ CDU của Merz và Đảng Dân chủ Xã hội đã kết thúc vào tuần trước.
“Tôi sẽ... ngay lập tức đến Paris và rất nhanh chóng đến Warsaw,” ông nói.
Theo hai quan chức giấu tên để thảo luận về một chủ đề nhạy cảm, ngày 7 tháng 5 được chọn là ngày thăm Paris vì vào ngày 8 tháng 5, Merz và Macron sẽ tập trung vào lễ kỷ niệm cấp quốc gia lần thứ 80 ngày kết thúc Thế chiến thứ II.
Các quan chức Pháp đang hy vọng thiết lập lại quan hệ với Đức dưới thời Merz. Mối quan hệ cá nhân giữa Macron và Thủ tướng sắp mãn nhiệm Olaf Scholz vốn đã tệ hại, và mối quan hệ càng trở nên căng thẳng hơn do bất đồng về năng lượng, Ukraine và thương mại.
Theo một đồng minh cao cấp của Macron, hai nhà lãnh đạo hiện đang “làm việc chăm chỉ” và có thể đạt được tiến triển trong những tuần tới về quốc phòng, thương mại và quản lý mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương của Âu Châu với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.
Ngoài Paris và Warsaw, chuyến công du Âu Châu của Merz cũng có thể bao gồm chuyến thăm Kyiv vào ngày 9 tháng 5, sau lời mời gửi đến các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy. Hai nhà ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu, những người được giấu tên để nói về sự kiện tiềm năng trong tương lai, cho biết các cuộc thảo luận đang được tiến hành liên quan đến chuyến thăm tiềm năng của Merz tới Ukraine.
[Politico: Merz to visit Paris May 7, officials say]
4. Lực lượng Ukraine nhắm vào lữ đoàn hỏa tiễn Nga đằng sau vụ tấn công kinh hoàng ở Sumy
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Tư, 16 Tháng Tư, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov, cho biết Lực lượng Ukraine đã tấn công căn cứ của Lữ đoàn Hỏa tiễn 448 của Nga, là đơn vị đã thực hiện một cuộc tấn công chết người vào thành phố Sumy ở đông bắc Ukraine,
Cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga, diễn ra vào Chúa Nhật Lễ Lá, đã giết chết 35 người và làm bị thương 119 người. Đây là một trong những cuộc tấn công chết chóc nhất vào Sumy kể từ khi cuộc chiến tranh toàn diện bắt đầu.
Theo Chuẩn tướng Oleksii Hromov, cuộc tấn công vào căn cứ của Nga ở Tỉnh Kursk được thực hiện ngày Thứ Ba, 15 Tháng Tư, bởi Lực lượng Hệ thống Điều khiển từ xa, Lực lượng Tác chiến Đặc biệt, Cơ quan An ninh Ukraine và các đơn vị quân đội khác.
Cuộc tấn công được cho là đã gây ra một vụ nổ đạn dược tại địa điểm này.
Tuyên bố của Bộ Tổng tham mưu có đoạn: “Mọi đơn vị, phân đội quân sự Nga và quân nhân của họ pháo kích vào các thành phố yên bình và dân thường ở Ukraine sẽ bị xác định danh tính và chắc chắn sẽ phải chịu sự trừng phạt”.
Chuẩn tướng Oleksii Hromov cho biết hậu quả đầy đủ của cuộc tấn công vẫn đang được đánh giá. Tuy nhiên, ông khẳng định rằng cuộc tấn công của quân Ukraine diễn ra trong nhiều giờ liên tục bằng pháo binh và máy bay điều khiển từ xa đã gây ra thiệt hại kinh hoàng cho đối phương. Theo các blogger quân sự Nga, các vụ nổ thứ cấp kéo dài trong suốt nhiều giờ liên tiếp.
[Kyiv Independent: Ukrainian forces target Russian missile brigade behind deadly Sumy attack]
5. Cuộc tấn công của Nga khiến thi thể nằm rải rác trên đường phố không phải là một ‘sai lầm’ — đó là một chiến lược
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump mô tả cuộc tấn công bằng hỏa tiễn đạn đạo kép của Nga vào thành phố Sumy của Ukraine khiến 35 người thiệt mạng và 117 người bị thương là một “sai lầm” của người Nga.
Nhưng thực tế không phải vậy.
Cuộc tấn công vào Chúa Nhật ở Sumy, giống như cuộc tấn công vào ngày 4 tháng 4 ở Kryvyi Rih, nơi một hỏa tiễn đạn đạo của Nga chứa đầy bom chùm đã giết chết 20 người và làm bị thương 80 người, thực chất là một phần trong chiến lược quân sự của Nga. Mục đích là khủng bố dân thường và khiến họ chống lại quân đội và chính phủ Ukraine, buộc họ phải đệ đơn xin hòa bình với Mạc Tư Khoa.
“Nga đang tiến hành chiến tranh toàn diện chống lại Ukraine”, Mykola Bielieskov, nhà phân tích quân sự và nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc gia Ukraine, cho biết.
“Mục tiêu của cuộc chiến tranh toàn diện này là buộc dân thường phải tạo áp lực lên chính quyền Ukraine để đàm phán một giải pháp theo các điều khoản của Nga. Cho đến nay Nga đã thất bại, nhưng họ tin rằng có một điểm tới hạn mà sau đó dân thường sẽ bắt đầu hướng sự căm ghét của họ không phải vào Liên bang Nga, mà là vào chính phủ của chúng tôi,” ông nói thêm.
Đây là chiến thuật mà các quốc gia đã sử dụng chống lại nhau kể từ khi chiến tranh trên không xuất hiện vào thế kỷ 20, nhưng có rất ít ví dụ cho thấy ném bom khủng bố có hiệu quả trong việc khiến dân thường nổi loạn chống lại chính phủ; thông thường, phản ứng đối với những cuộc tấn công như vậy là ngược lại.
Bilieskov cho biết bất kể có quân đội ở Sumy hay không, Nga vẫn sử dụng ngôn từ tương tự để biện minh cho các cuộc tấn công khác vào các thành phố của Ukraine.
Tetiana Troshchynska, một nhà báo nổi tiếng người Ukraine, cho biết đổ lỗi cho quân đội có nghĩa là rơi vào cái bẫy của Nga khi cố gắng tách quân đội khỏi dân thường. Bà cho biết vụ thảm sát nhằm mục đích chứng minh với người dân rằng “nếu không có quân đội, chúng tôi sẽ không tấn công các người!”
“Đó là lỗi của các người, đối phương nói với chúng tôi. Và nếu chúng tôi cũng bắt đầu đổ lỗi cho quân đội của mình, điều này có nghĩa là chúng tôi đã thua”, Troshchynska nói thêm.
Có thể hiểu được, Ukraine đang giải quyết các bình luận của Mạc Tư Khoa một cách thận trọng, nhắc lại rằng trong nhiều trường hợp, các thành phố bị tấn công không vì lý do quân sự. Ví dụ, tại Kryvyi Rih, tuyên bố của Nga về việc đã tấn công một cuộc tụ họp của các sĩ quan NATO trong một nhà hàng đã bị France24 chứng minh là một lời nói dối, kênh này đã chiếu cảnh quay chỉ có nhân viên bên trong tòa nhà tại thời điểm xảy ra vụ tấn công.
Cho đến nay, những chiến thuật chiến tranh tổng lực như vậy vẫn chưa có hiệu quả như Điện Cẩm Linh mong đợi, Bielieskov cho biết. Nhưng ngày càng có nhiều người dân Ukraine cảm thấy rằng việc ở gần binh lính có thể nguy hiểm.
Do các cuộc tấn công thường xuyên của Nga, quân đội Ukraine không còn đóng quân trong doanh trại nữa. Thay vào đó, binh lính sống trong các căn nhà bình thường, nhưng thấy khó thuê những nơi như vậy vì nhiều người dân địa phương sợ bị hỏa tiễn hoặc máy bay điều khiển từ xa của Nga tấn công nếu họ mở cửa cho quân đội.
“Trên tiền tuyến, gần như không thể tìm thấy một ngôi nhà. Khi đến điểm tập trung, bạn thường phải co cụm trong những ngôi nhà bị phá hủy hoặc trong xe hơi”, một người lính Ukraine chỉ tự nhận mình bằng tên Andrii, nói với POLITICO.
[Politico: Russian attack that left bodies scattered on city streets is not a ‘mistake’ — it’s a strategy]
6. Úc phản đối Nga để mắt đến căn cứ không quân Indonesia
Các quan chức ở Canberra đang nỗ lực ngăn chặn Nga sử dụng căn cứ không quân của Indonesia, nơi có thể đưa máy bay phản lực của nước này vào phạm vi tấn công đất liền Úc.
Hôm Thứ Ba, 15 Tháng Tư, Thủ tướng Úc, Anthony Albanese, cho biết chính phủ của ông đang “tìm kiếm sự làm rõ hơn” từ Jakarta về yêu cầu của Mạc Tư Khoa được tiếp cận Căn cứ Không quân Manuhua, sự việc này lần đầu tiên được trang web quân sự Janes của Mỹ đưa tin.
Canberra đã yêu cầu Jakarta xác nhận rằng liệu Điện Cẩm Linh đã yêu cầu được đặt máy bay tầm xa của mình tại căn cứ này hay không, Bộ trưởng Quốc phòng Richard Marles cho biết hôm thứ Ba rằng Indonesia “chưa phản hồi” yêu cầu này và Canberra đang đàm phán với Jakarta “ở mức cao cấp” về vấn đề này.
Mặc dù Indonesia từ lâu vẫn duy trì sự trung lập về mặt chiến lược, nước này đã tăng cường quan hệ an ninh và quốc phòng với Nga kể từ khi Tổng thống Prabowo Subianto đắc cử vào năm ngoái.
Căn cứ Không quân Manuhua nằm ở tỉnh Tây Papua, cách Darwin, một thành phố ở mũi phía bắc của Úc, khoảng 1.300 km. Úc và Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận quân sự trong khu vực.
[Politico: Australia balks as Russia eyes Indonesian air force base]
7. Liên Hiệp Âu Châu bảo đảm hai phần ba trong số 2 triệu viên đạn cho Ukraine, Kallas nói
Nhà lãnh đạo chính sách đối ngoại Liên Hiệp Âu Châu Kaja Kallas cho biết vào ngày 14 tháng 4, Liên minh Âu Châu đã bảo đảm được hai phần ba trong số 2 triệu viên đạn pháo được cam kết cung cấp cho Ukraine.
“Tôi rất vui khi thấy chúng ta đã có được hai phần ba sáng kiến về đạn dược của tôi”, Kallas nói với các phóng viên trước cuộc họp của các Ngoại trưởng Liên Hiệp Âu Châu tại Luxembourg, ám chỉ đến sáng kiến cung cấp cho Ukraine 2 triệu viên đạn cỡ lớn trị giá 5 tỷ euro, hay 5,7 tỷ đô la.
Sáng kiến này dường như đang tiến triển khi Kallas cho biết vào ngày 3 tháng 4 rằng Liên Hiệp Âu Châu chỉ nhận được khoảng một nửa số tiền cần thiết từ các thành viên.
2 triệu viên đạn pháo là một phần của đề xuất rộng hơn ban đầu do Kallas đề xuất về quỹ quốc phòng trị giá 40 tỷ euro, hay 45,6 tỷ đô la, cho Ukraine. Kế hoạch đầy tham vọng hơn này vẫn chưa đạt được sự đồng thuận hoàn toàn giữa các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu.
Nhà lãnh đạo chính sách đối ngoại của Liên Hiệp Âu Châu nhấn mạnh rằng khối Âu Châu cần phải làm nhiều hơn nữa, lưu ý rằng các cam kết hỗ trợ của Âu Châu trong năm nay đã lớn hơn so với năm 2024.
“Các nước Âu Châu đã cam kết 23 tỷ euro, hay 26 tỷ đô la, nhiều hơn năm ngoái,” Kallas nói. “Nhưng chúng ta cũng cần gây áp lực lên Nga để họ chấm dứt cuộc chiến này.”
Phát biểu trước hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu, Kallas nhấn mạnh tính cấp thiết của việc hỗ trợ, đồng thời nêu ra tình trạng thương vong liên tục của dân thường do các cuộc tấn công của Nga.
“Đã một tháng trôi qua kể từ khi Ukraine đồng ý ngừng bắn vô điều kiện. Chúng tôi chưa thấy điều tương tự từ Nga”, bà nói. Những bình luận này được đưa ra ngay sau khi Nga tiến hành một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn chết người vào thành phố Sumy của Ukraine vào Chúa Nhật Lễ Lá ngày 13 tháng 4, giết chết ít nhất 35 người và làm bị thương 117 người.
Kallas lưu ý rằng các Ngoại trưởng Liên Hiệp Âu Châu sẽ thảo luận về hậu quả đối với Nga sau các cuộc tấn công mới nhất vào thường dân Ukraine vào cuối tuần.
“Muốn hòa bình thì cần hai người. Muốn chiến tranh thì chỉ cần một người,” bà nói. “Nga rõ ràng muốn chiến tranh. Bất kỳ ai muốn chấm dứt giết chóc đều phải gây áp lực tối đa lên Nga.”
[Kyiv Independent: EU secures two-thirds of 2 million rounds for Ukraine, Kallas says]
8. Liên Hiệp Âu Châu muốn tăng cường tài trợ quốc phòng để bảo vệ sườn phía đông
Ủy ban Âu Châu đã bày tỏ sự cởi mở với những cách thức mới để tài trợ cho hoạt động hỗ trợ quốc phòng ở Đông Âu nhằm củng cố biên giới của NATO trong bối cảnh Nga đang xâm lược.
Phát biểu sau cuộc họp của các bộ trưởng tài chính Liên Hiệp Âu Châu tại Warsaw vào cuối tuần, Ủy viên Kinh tế Valdis Dombrovskis cho biết Ủy ban sẵn sàng xem xét các lựa chọn “vượt ra ngoài những gì đang có trên bàn” và không loại trừ trợ cấp cho các quốc gia ở rìa phía đông dễ bị tổn thương của khối.
Động thái này diễn ra trong bối cảnh các chính phủ Đông và Trung Âu ngày càng thất vọng vì phải gánh chịu gánh nặng tài chính từ việc tăng cường quân sự ở Âu Châu.
Một nhà ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu từ một quốc gia nhỏ ở phía đông đã nói với POLITICO rằng ngay cả khi các quốc gia ở biên giới với Nga tăng chi tiêu quốc phòng lên 20 phần trăm, thì cũng không đủ để bảo vệ Âu Châu do quy mô nền kinh tế của họ nhỏ hơn. “Chúng tôi cần tất cả mọi người tăng chi tiêu quốc phòng”, nhà ngoại giao này cho biết, người được phép giấu tên để nói chuyện một cách thoải mái.
Dombrovskis đồng ý rằng các quốc gia giáp biên giới với Nga và Belarus đang phải đối mặt với những rủi ro lớn và có thể cần thêm sự hỗ trợ. Ông cho biết ông ủng hộ việc thăm dò một quỹ liên chính phủ mới, ban đầu được tổ chức nghiên cứu Bruegel đưa ra vào tuần trước, cho phép cả các quốc gia Liên Hiệp Âu Châu và ngoài Liên Hiệp Âu Châu cùng chung tiền để tái vũ trang cho lục địa này.
Đề xuất này cũng nêu ra khả năng Ủy ban sẽ tham gia với tư cách là cổ đông trực tiếp của quỹ.
Dombrovskis cho biết quỹ này có thể giúp thu hút các quốc gia bên ngoài Liên Hiệp Âu Châu và bỏ qua nhu cầu phải có sự đồng thuận đồng ý bằng cách có khả năng lách một số quy tắc ngân sách chặt chẽ hơn của Liên Hiệp Âu Châu.
Đề xuất này đang thu hút sự chú ý ở các quốc gia tuyến đầu như Ba Lan và vùng Baltic, nơi đã tăng đáng kể chi tiêu quốc phòng kể từ khi Nga xâm lược Ukraine.
Nhưng các nước lớn khác như Đức không muốn ủng hộ dự án này và các quốc gia như Tây Ban Nha - mong muốn tránh tăng thêm nợ - đang ủng hộ việc phát hành trái phiếu chung mới của Liên Hiệp Âu Châu, tương tự như những trái phiếu được sử dụng trong cuộc khủng hoảng Covid-19.
Tại cuộc họp ở Warsaw, Bộ trưởng Kinh tế Tây Ban Nha Carlos Cuerpo đã đề xuất một phương tiện chuyên dụng sẽ cung cấp cả tiền tài trợ và tiền vay cho các dự án quốc phòng toàn Âu Châu. Ông đưa ra ý tưởng này như một biểu hiện đoàn kết với Ukraine và mặt trận phía Đông.
Trong khi đó, Ba Lan đã đưa ra một so sánh sắc nét với đại dịch: “Rõ ràng là hiện tại, các nước Đông và Trung Âu có nhu cầu quốc phòng cao nhất”, Bộ trưởng Tài chính Ba Lan Andrzej Domański cho biết.
Dombrovskis cho biết đề xuất này sẽ được thảo luận trong các cuộc đàm phán sắp tới về ngân sách Liên Hiệp Âu Châu.
Tuy nhiên, các đề xuất cung cấp tài trợ có thể sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ, đặc biệt là từ các quốc gia bảo thủ về mặt tài chính như Hòa Lan, quốc gia trước nay vẫn phản đối việc chuyển giao tài trợ quy mô lớn giữa các quốc gia thành viên.
Hiện tại, Ủy ban dường như vẫn để ngỏ các lựa chọn của mình. Nhưng khi các cuộc đàm phán về ngân sách dài hạn tiếp theo của Liên Hiệp Âu Châu đang diễn ra, sự căng thẳng giữa tình đoàn kết và lợi ích cá nhân lại một lần nữa được thể hiện.
[Politico: EU warms to boosting defense funding to secure eastern flank]
9. Các nhà lập pháp Hoa Kỳ thúc đẩy viện trợ mới cho Ukraine, lệnh trừng phạt cứng rắn hơn đối với Nga, Reuters đưa tin
Đảng Dân chủ tại Hạ viện Hoa Kỳ đã đưa ra luật mới vào ngày 15 tháng 4 nhằm tăng cường sự ủng hộ cho Ukraine trong cuộc chiến với Nga. Theo các nguồn tin thân cận với Reuters, đây là một nỗ lực khác nhằm gây áp lực để chính quyền Tổng thống Trump ủng hộ Kyiv mạnh mẽ hơn.
Dân biểu Gregory Meeks, đảng viên Dân chủ cao cấp tại Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, đã đệ trình Đạo luật Hỗ trợ Ukraine, đạo luật này sẽ cung cấp kinh phí cho các nỗ lực tái thiết và an ninh của Ukraine và áp đặt các lệnh trừng phạt toàn diện đối với Nga.
Theo bản sao của dự luật mà hãng thông tấn này xem được, luật này nêu ra các biện pháp tài chính và ngoại giao quan trọng để chống lại hành động xâm lược của Nga.
Dự luật này vẫn chưa được công khai nhưng được đưa ra chỉ hai tuần sau khi một dự luật ở Thượng viện do Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ bảo trợ đưa ra một gói riêng sẽ trừng phạt Nga nếu nước này từ chối tham gia đàm phán hòa bình thiện chí với Ukraine.
Các trợ lý Quốc hội tham gia soạn thảo dự luật của Hạ viện cho biết họ hy vọng biện pháp này sẽ ảnh hưởng đến luật cuối cùng liên quan đến Ukraine được Quốc hội thông qua. “Dự luật này rõ ràng sẽ là một phần của cuộc thảo luận lập pháp”, một trợ lý cho biết.
Nỗ lực thúc đẩy luật hỗ trợ Ukraine của các nhà lập pháp trở nên cấp thiết hơn sau khi Nga phóng hỏa tiễn vào Sumy vào ngày 14 tháng 4, khiến 35 người thiệt mạng và 117 người bị thương trong buổi lễ Chúa Nhật Lễ Lá.
Dự luật của Hạ viện bao gồm ba phần chính: hỗ trợ cho Ukraine và NATO, bao gồm việc thành lập một điều phối viên đặc biệt cho công cuộc tái thiết Ukraine; các điều khoản hỗ trợ an ninh như các khoản vay trực tiếp và tài trợ quân sự; và các lệnh trừng phạt khắc nghiệt đối với Nga nhằm vào lĩnh vực tài chính, năng lượng và khai thác mỏ cũng như các quan chức chủ chốt.
Trong khi đó, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vẫn tiếp tục đổ lỗi cho người tiền nhiệm và Tổng thống Volodymyr Zelenskiy vì đã “cho phép trò hề này bắt đầu”.
“Cuộc chiến giữa Nga và Ukraine là cuộc chiến của Tổng thống Biden, không phải của tôi. Tôi mới đến đây, và trong bốn năm nhiệm kỳ của mình, tôi không gặp vấn đề gì trong việc ngăn chặn nó xảy ra”, Tổng thống Trump đăng trên Truth Social.
[Kyiv Independent: US lawmakers push new aid for Ukraine, tougher sanctions on Russia, Reuters reports]
10. Phó Thủ tướng Ukraine cho biết đã đệ trình đề xuất lên Hoa Kỳ về thỏa thuận khoáng sản
Phó Thủ tướng Olha Stefanishyna xác nhận vào ngày 15 tháng 4 rằng Ukraine đã đệ trình một bộ đề xuất lên Hoa Kỳ trong các cuộc tham khảo ý kiến kỹ thuật về một thỏa thuận khoáng sản quan trọng được tổ chức tại Washington vào ngày 11 tháng 4.
“Đây tự nó là một dấu hiệu tích cực cho thấy các cuộc tham khảo ý kiến đang diễn ra”, bà phát biểu trên truyền hình quốc gia, nhấn mạnh rằng các đề xuất do Kyiv chuẩn bị đã được các bộ của Ukraine phối hợp thực hiện.
Stefanishyna từ chối tiết lộ thông tin chi tiết cụ thể, lưu ý rằng các cuộc đàm phán vẫn đang diễn ra và “Tôi hy vọng rằng sau các cuộc tham khảo ý kiến này, các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục cho đến khi chúng ta đạt được thỏa thuận”.
Các cuộc đàm phán về thỏa thuận này ngày càng trở nên căng thẳng. Vào ngày 11 tháng 4, một nguồn tin thân cận với các cuộc thảo luận đã nói với Reuters rằng chính quyền Tổng thống Trump đã đưa ra một đề xuất “tối đa” để trao cho Washington quyền kiểm soát rộng rãi đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Ukraine.
Một trong những vấn đề nổi cộm là dự thảo mới nhất của thỏa thuận được cho là xung đột với quan hệ đối tác về nguyên liệu thô quan trọng được ký kết giữa Liên Hiệp Âu Châu và Kyiv vào năm 2021, có khả năng gây tổn hại đến tham vọng gia nhập khối này trong tương lai của Ukraine.
Bản dự thảo thỏa thuận bị rò rỉ đã gây ra phản ứng dữ dội vì trao những lợi ích không cân xứng cho phía Hoa Kỳ.
Phiên bản khung của thỏa thuận dự kiến sẽ được ký kết trong chuyến thăm Washington của Tổng thống Volodymyr Zelenskiy vào ngày 28 tháng 2. Chính phủ Ukraine đã phê duyệt dự thảo và chỉ định Phó Thủ tướng thứ nhất Yuliia Svyrydenko hoặc Ngoại trưởng Andrii Sybiha làm người ký kết.
Kế hoạch đã sụp đổ sau cuộc tranh cãi căng thẳng tại Phòng Bầu dục giữa Tổng thống Zelenskiy, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Phó Tổng thống JD Vance. Tổng thống Zelenskiy rời Tòa Bạch Ốc mà không ký thỏa thuận.
Bộ Tư pháp Ukraine đã thuê công ty luật Mỹ-Anh Hogan Lovells để hỗ trợ các cuộc đàm phán. Sybiha nhắc lại rằng Kyiv tìm kiếm một thỏa thuận có lợi cho cả hai bên phù hợp với lợi ích lâu dài của Ukraine và nguyện vọng của Liên Hiệp Âu Châu.
[Kyiv Independent: Ukraine submits proposals to US on minerals agreement, Deputy PM says]
11. Ngoại trưởng Ukraine cho biết nước này đang phát triển hệ thống phòng không cấp chiến lược
Ukraine đang thiết kế hệ thống phòng không cấp chiến lược của riêng mình, Ngoại trưởng Andrii Sybiha tuyên bố vào ngày 14 tháng 4 trong bài phát biểu tại cuộc họp Hội đồng Ngoại trưởng Liên Hiệp Âu Châu.
Kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu, các quan chức Ukraine đã nhiều lần thúc giục các đồng minh phương Tây tăng cường hỗ trợ phòng không, cảnh báo rằng nguồn cung hiện tại không đủ để chống lại cường độ tấn công của Nga.
Trong cuộc họp, Sybiha kêu gọi các đồng minh tăng cường phòng không Ukraine và cung cấp thêm hệ thống, hỏa tiễn và phụ tùng thay thế. Ông cũng mời các đối tác Liên Hiệp Âu Châu đầu tư vào việc phát triển hệ thống phòng không của Ukraine, nói rằng điều này sẽ đẩy nhanh việc điều động.
Bài phát biểu của Sybiha được đưa ra một ngày sau khi Nga phóng hai hỏa tiễn đạn đạo vào thành phố Sumy, nằm ở phía đông bắc Ukraine, cách biên giới Nga 30 km, hay 18 dặm. Cuộc tấn công giết chết ít nhất 35 người và làm bị thương hơn 117 người.
“Putin sẽ tiến xa hơn vào Âu Châu và gần hơn với nhà của bạn nếu ông ta không bị chặn lại ở Ukraine. Đây là thực tế,” Sybiha nói.
“Và chúng tôi không muốn các quốc gia của các bạn chứng kiến hỏa tiễn đạn đạo chùm tấn công vào các khu dân cư hoặc sân chơi. Đó là lý do tại sao chúng ta phải hành động ngay bây giờ để đạt được hòa bình, củng cố Ukraine và tăng áp lực lên Mạc Tư Khoa”, Bộ trưởng nói thêm.
Nhà lãnh đạo Cơ quan quản lý quân sự thành phố Sumy Serhiy Kryvosheyenko cho biết sau vụ tấn công, quả hỏa tiễn thứ hai trong số hai quả được phóng vào Sumy vào ngày 13 tháng 4 được gắn các mảnh vỡ và phát nổ giữa không trung nhằm “gây thiệt hại tối đa cho người dân trên đường phố”.
Vào tháng Giêng, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết Ukraine đang đàm phán với Hoa Kỳ để xin giấy phép sản xuất hệ thống phòng không tại nước này. Tổng thống Zelenskiy không nêu rõ công nghệ nào đang được thảo luận.
Hệ thống Patriot tiên tiến của Hoa Kỳ đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bầu trời Ukraine. Chúng có khả năng bắn hạ ngay cả những hỏa tiễn đạn đạo tiên tiến nhất, như Kinzhal.
[Kyiv Independent: Ukraine developing strategic-level air defense system, foreign minister says]