Thánh Phêrô, Giáo hoàng tiên khởi
Theo Tân ước và truyền thống Kitô giáo, Thánh Phêrô là một trong 12 Tông đồ của Chúa Giêsu và là vị lãnh đạo tiên khởi của Kitô giáo. Ngài “nổi bật” trong Phúc Âm và sách Công vụ, đồng thời được tôn kính là Thánh Giáo hoàng tiên khởi trong Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Đông phương, và Giáo Hội Chính thống. Là con trai của ông Gioan (Ga 1:42) hoặc Giona, ngài người làng Bếtsaiđa, thuộc Galilê hoặc Gaulanitis. Em trai ông là Anrê cũng thuộc Nhóm Mười Hai.
Thánh Phêrô có công thành lập Giáo Hội ở Antiôkia và cai quản Giáo đoàn này 7 năm. Đích thân hoặc qua thư từ, lời của ngài đã tới được Pontus, Galatia, Cappadocia, Tiểu Á và Bithynia, được người Do-thái và dân ngoại chấp nhận. Ngài tới Rôma vào năm thứ hai trong triều đại của Hoàng đế Claudius Germanicus, ngài đã lật đổ pháp sư Simon Magus.
Có hai thư được coi là của Thánh Phêrô. Phúc Âm theo Thánh Mác-cô đều cho thấy sự ảnh hưởng từ việc rao giảng của Thánh Phêrô. Vài sách khác mang tên ngài như Công vụ Thánh Phêrô, Phúc Âm theo Thánh Phêrô, Lời giảng của Thánh Phêrô, Khải huyền của Thánh Phêrô, và Phán quyết của Thánh Phêrô, nhưng tất cả các sách này không được Giáo Hội Công Giáo chấp nhận.
Chính ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu, rồi ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41). Sau đó ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1:42). Kêpha nghĩa là Phêrô, tức là Đá tảng.
Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ nhận biết Ngài là ai, Thánh Phêrô mạnh dạn tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Thật ngon lành! Và Chúa Giêsu khen ông và trao quyền: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:17-19).
Thánh Phêrô là một trong ba nhân chứng trong cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Thánh Phêrô như được xuất thần, khoái chí thưa ngay với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17:4).
Thánh Phêrô còn được Chúa Giêsu cho “biểu diễn ngoạn mục” là bước đi trên mặt biển. Đêm hôm đó vào khoảng canh tư, Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la toáng lên. Thấy vậy, Đức Giêsu liền bảo: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Ông Phêrô thấy Thầy đi trên nước ngon ơ, nhưng vẫn bán tín bán nghi: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14:28). Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!”. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước để đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, chả biết thật hay đùa, ông càng nghi ngờ là ma chứ chắc gì là Thầy. Thấy mình cứ chìm dần, ông la hoảng: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14:30). Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14:31). Ông Phêrô một phen hú hồn hú vía!
Khi quân lính hùng hổ vào Vườn Ghếtsimani để tìm bắt Chúa Giêsu, Thánh Phêrô thấy “nóng gáy”, sẵn thanh gươm trong tay, ngài liền vung lên chém đứt tai của Man-khô, một đầy tớ của vị Thượng tế (Ga 18:10). Thật can đảm khi dám hành động như vậy!
Thánh Phêrô từng tuyên bố chắc nịch như đinh đóng cột: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không” (Mt 14:29). Thậm chí ông còn quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mc 14:31). Thế nhưng sau đó không lâu, chỉ mấy đứa con gái là đầy tớ quèn bảo ông thuộc nhóm của Chúa Giêsu, ông liền giả nai, tỉnh bơ chối phăng 3 lần: “Tôi không biết” (Ga 18:17-27). Nói trước bước không qua. Tồi tệ thật, được báo trước mà vẫn không tránh khỏi!
Nhưng thông cảm mà! Lúc đó ai mà không hoảng sợ chứ? Cả trung đội lính lăm le gươm giáo, đằng đằng sát khí, mặt mày bặm trợn, thấy mà té đái chứ đâu giỡn chơi. Kẻ thì chạy mất dép, kẻ thì chối leo lẻo, kẻ thì bỏ của chạy lấy người. Trong số đó có một cậu thanh niên bị bọn lính túm được áo, cậu ta liền chơi liều luôn: “Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Mc 14:52). Mác-cô nhà ta chứ ai trồng khoai đất này!
Khi Sư Phụ Giêsu đi ngang qua, Giáo hoàng tiên khởi Phêrô thấy ánh mắt Thầy tha thiết và bí ẩn quá, nhưng đầy lòng thương xót, ánh mắt ấy xoáy vào tâm khảm ông, rồi tự thấy mình thật đáng trách, quá xấu hổ và sám hối nên ông đã chạy ra ngoài “khóc lóc thảm thiết” (Mt 26:75; Lc 22:62).
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho Thánh Phêrô trước. Ông không chịu, nhưng sau khi được Chúa Giêsu giải thích, ông hớn hở như trẻ được quà: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Nhưng Đức Giêsu bảo: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” (Ga 13:10).
Khi Chúa Giêsu phục sinh, Thánh Phêrô là người đầu tiên bước vào mộ Chúa Giêsu, dù các phụ nữ và Tông đồ Gioan đã biết trước (Ga 20:1-9). Trong chương cuối của Phúc Âm theo Thánh Gioan, Thánh Phêrô “bị” Chúa Giêsu hỏi 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không” (Ga 21:15-17). Đó là để “bù đắp” vào 3 lần Thánh Phêrô đã chối Chúa và cũng là để xác định vị thế của vị Giáo hoàng tiên khởi.
Sách Công vụ, chương 12, cho biết Thánh Phêrô bị vua Hêrôđê bỏ tù, nhưng ngài được Thiên thần giải cứu. Tại Công đồng Giêrusalem (khoảng năm 50), Thánh Phaolô và các vị lãnh đạo Giáo Hội Giêrusalem đã quyết định tiếp nhận dân ngoại trở lại. Sách Công vụ phác họa chân dung Thánh Phêrô là người thành công trong việc chấn chỉnh người Pharisêu khi họ cứ khăng khăng bám vào phép cắt bì.
Thánh Phêrô bị xử tử dưới triều Hoàng đế Nero Augustus Caesar vào khoảng năm 64-67. Truyền thống cho biết rằng Thánh Phêrô xin được đóng đinh ngược vì cảm thấy không xứng đóng đinh xuôi như Thầy Giêsu. Truyền thống cũng xác minh rằng nơi Thánh Phêrô bị đóng đinh được người ta xây dựng Nguyện đường Clementine. Một số xương và hài cốt của Thánh Phêrô còn được lưu giữ tại hầm Confessio trong Đền thờ Thánh Phêrô, nơi mà ĐGH Phaolô VI đã cho khai quật năm 1968, đó là hầm mộ đầu tiên của Rôma. Từ năm 1736, cứ đến ngày 29-6 thì tượng Thánh Phêrô tại Đền thờ Thánh Phêrô lại được “trang điểm” với dây giáo hoàng, nhẫn ngư phủ, và trang phục giáo hoàng, như một phần nghi thức trong ngày lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô.
Thánh Phêrô vốn là ngư dân, bản tính chất phác, chân thật, có sao nói vậy, thẳng thắn nên nóng tính, không nên không phải thì “phang” liền. Con người của thánh nhân cũng tội lỗi, ăn năn, và hoàn thiện, đồng thời hoàn thành trách nhiệm được trao. Đó là hành trình của phàm nhân, những con người luôn mỏng dòn và yếu đuối, nhưng luôn được Thiên Chúa hải hà thương xót, thứ tha và thánh hóa.
Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người
Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.
Từ Giêrusalem đến Damascô, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.
Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.
Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.
Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo Hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.
Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.
Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công Giáo và Do thái giáo.
Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.
Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.
Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau CN), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.
Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.
Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Jerusalem, dù ngà định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.
Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công Giáo như ngày nay.
Theo Tân ước và truyền thống Kitô giáo, Thánh Phêrô là một trong 12 Tông đồ của Chúa Giêsu và là vị lãnh đạo tiên khởi của Kitô giáo. Ngài “nổi bật” trong Phúc Âm và sách Công vụ, đồng thời được tôn kính là Thánh Giáo hoàng tiên khởi trong Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Đông phương, và Giáo Hội Chính thống. Là con trai của ông Gioan (Ga 1:42) hoặc Giona, ngài người làng Bếtsaiđa, thuộc Galilê hoặc Gaulanitis. Em trai ông là Anrê cũng thuộc Nhóm Mười Hai.
Có hai thư được coi là của Thánh Phêrô. Phúc Âm theo Thánh Mác-cô đều cho thấy sự ảnh hưởng từ việc rao giảng của Thánh Phêrô. Vài sách khác mang tên ngài như Công vụ Thánh Phêrô, Phúc Âm theo Thánh Phêrô, Lời giảng của Thánh Phêrô, Khải huyền của Thánh Phêrô, và Phán quyết của Thánh Phêrô, nhưng tất cả các sách này không được Giáo Hội Công Giáo chấp nhận.
Chính ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu, rồi ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41). Sau đó ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1:42). Kêpha nghĩa là Phêrô, tức là Đá tảng.
Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ nhận biết Ngài là ai, Thánh Phêrô mạnh dạn tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Thật ngon lành! Và Chúa Giêsu khen ông và trao quyền: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:17-19).
Thánh Phêrô là một trong ba nhân chứng trong cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Thánh Phêrô như được xuất thần, khoái chí thưa ngay với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17:4).
Thánh Phêrô còn được Chúa Giêsu cho “biểu diễn ngoạn mục” là bước đi trên mặt biển. Đêm hôm đó vào khoảng canh tư, Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la toáng lên. Thấy vậy, Đức Giêsu liền bảo: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Ông Phêrô thấy Thầy đi trên nước ngon ơ, nhưng vẫn bán tín bán nghi: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14:28). Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!”. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước để đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, chả biết thật hay đùa, ông càng nghi ngờ là ma chứ chắc gì là Thầy. Thấy mình cứ chìm dần, ông la hoảng: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14:30). Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14:31). Ông Phêrô một phen hú hồn hú vía!
Khi quân lính hùng hổ vào Vườn Ghếtsimani để tìm bắt Chúa Giêsu, Thánh Phêrô thấy “nóng gáy”, sẵn thanh gươm trong tay, ngài liền vung lên chém đứt tai của Man-khô, một đầy tớ của vị Thượng tế (Ga 18:10). Thật can đảm khi dám hành động như vậy!
Thánh Phêrô từng tuyên bố chắc nịch như đinh đóng cột: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không” (Mt 14:29). Thậm chí ông còn quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mc 14:31). Thế nhưng sau đó không lâu, chỉ mấy đứa con gái là đầy tớ quèn bảo ông thuộc nhóm của Chúa Giêsu, ông liền giả nai, tỉnh bơ chối phăng 3 lần: “Tôi không biết” (Ga 18:17-27). Nói trước bước không qua. Tồi tệ thật, được báo trước mà vẫn không tránh khỏi!
Nhưng thông cảm mà! Lúc đó ai mà không hoảng sợ chứ? Cả trung đội lính lăm le gươm giáo, đằng đằng sát khí, mặt mày bặm trợn, thấy mà té đái chứ đâu giỡn chơi. Kẻ thì chạy mất dép, kẻ thì chối leo lẻo, kẻ thì bỏ của chạy lấy người. Trong số đó có một cậu thanh niên bị bọn lính túm được áo, cậu ta liền chơi liều luôn: “Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Mc 14:52). Mác-cô nhà ta chứ ai trồng khoai đất này!
Khi Sư Phụ Giêsu đi ngang qua, Giáo hoàng tiên khởi Phêrô thấy ánh mắt Thầy tha thiết và bí ẩn quá, nhưng đầy lòng thương xót, ánh mắt ấy xoáy vào tâm khảm ông, rồi tự thấy mình thật đáng trách, quá xấu hổ và sám hối nên ông đã chạy ra ngoài “khóc lóc thảm thiết” (Mt 26:75; Lc 22:62).
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho Thánh Phêrô trước. Ông không chịu, nhưng sau khi được Chúa Giêsu giải thích, ông hớn hở như trẻ được quà: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Nhưng Đức Giêsu bảo: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” (Ga 13:10).
Khi Chúa Giêsu phục sinh, Thánh Phêrô là người đầu tiên bước vào mộ Chúa Giêsu, dù các phụ nữ và Tông đồ Gioan đã biết trước (Ga 20:1-9). Trong chương cuối của Phúc Âm theo Thánh Gioan, Thánh Phêrô “bị” Chúa Giêsu hỏi 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không” (Ga 21:15-17). Đó là để “bù đắp” vào 3 lần Thánh Phêrô đã chối Chúa và cũng là để xác định vị thế của vị Giáo hoàng tiên khởi.
Sách Công vụ, chương 12, cho biết Thánh Phêrô bị vua Hêrôđê bỏ tù, nhưng ngài được Thiên thần giải cứu. Tại Công đồng Giêrusalem (khoảng năm 50), Thánh Phaolô và các vị lãnh đạo Giáo Hội Giêrusalem đã quyết định tiếp nhận dân ngoại trở lại. Sách Công vụ phác họa chân dung Thánh Phêrô là người thành công trong việc chấn chỉnh người Pharisêu khi họ cứ khăng khăng bám vào phép cắt bì.
Thánh Phêrô bị xử tử dưới triều Hoàng đế Nero Augustus Caesar vào khoảng năm 64-67. Truyền thống cho biết rằng Thánh Phêrô xin được đóng đinh ngược vì cảm thấy không xứng đóng đinh xuôi như Thầy Giêsu. Truyền thống cũng xác minh rằng nơi Thánh Phêrô bị đóng đinh được người ta xây dựng Nguyện đường Clementine. Một số xương và hài cốt của Thánh Phêrô còn được lưu giữ tại hầm Confessio trong Đền thờ Thánh Phêrô, nơi mà ĐGH Phaolô VI đã cho khai quật năm 1968, đó là hầm mộ đầu tiên của Rôma. Từ năm 1736, cứ đến ngày 29-6 thì tượng Thánh Phêrô tại Đền thờ Thánh Phêrô lại được “trang điểm” với dây giáo hoàng, nhẫn ngư phủ, và trang phục giáo hoàng, như một phần nghi thức trong ngày lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô.
Thánh Phêrô vốn là ngư dân, bản tính chất phác, chân thật, có sao nói vậy, thẳng thắn nên nóng tính, không nên không phải thì “phang” liền. Con người của thánh nhân cũng tội lỗi, ăn năn, và hoàn thiện, đồng thời hoàn thành trách nhiệm được trao. Đó là hành trình của phàm nhân, những con người luôn mỏng dòn và yếu đuối, nhưng luôn được Thiên Chúa hải hà thương xót, thứ tha và thánh hóa.
Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người
Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.
Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.
Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.
Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.
Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo Hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.
Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.
Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công Giáo và Do thái giáo.
Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.
Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.
Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau CN), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.
Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.
Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Jerusalem, dù ngà định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.
Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công Giáo như ngày nay.