Tài liệu chuẩn bị cho Đại hội đồng thường lệ lần thứ 16 của Thượng Hội đồng Giám mục



Vì một Giáo hội Đồng nghị:

Hiệp thông, Tham gia và Sứ mệnh


..................



Năng động tính kép của việc hoán cải: Phêrô và Cornêliô (Công vụ 10)

22. Tình tiết này kể lại, trước hết, việc hoán cải của Cornêliô, người thậm chí còn nhận được một loại truyền tin. Cornêliô là một người ngoại giáo, có lẽ là người Rôma, một viên bách quản (một sĩ quan cấp thấp) trong quân đội chiếm đóng, người hành một nghề dựa trên bạo lực và lạm dụng. Tuy nhiên, ông chuyên tâm cầu nguyện và bố thí, nghĩa là, ông vun trồng mối liên hệ với Thiên Chúa và quan tâm đến người lân cận. Chính trong nhà của ông, thiên thần đã đột nhập một cách bất ngờ, gọi tên ông, và khuyến khích ông sai — động từ của sứ mệnh! — các gia nhân của ông đi Jaffa để kêu gọi — động từ của ơn gọi! —Phêrô. Câu chuyện sau đó trở thành câu chuyện hoán cải của Thánh Phêrô, người, vào cùng ngày hôm đó, nhận được một thị kiến, trong đó một tiếng nói ra lệnh cho ngài giết và ăn thịt các động vật, trong số đó một số là ô uế. Câu trả lời của ngài rất nhất quyết: “Không đâu, lạy Chúa” (Công vụ 10:14). Ngài nhận ra rằng chính Chúa đang nói chuyện với ngài, nhưng ngài dứt khoát từ khước, vì mệnh lệnh đó phá hủy các giới luật của Kinh Torah, vốn bất khả nhượng đối với bản sắc tôn giáo của ngài, và nói lên một cách hiểu việc tuyển chọn như một khác biệt hàm nghĩa phải tách biệt và loại trừ đối với các dân tộc khác.

23. Vị tông đồ vẫn vô cùng bối rối và, trong khi ngài còn đang băn khoăn về ý nghĩa của những gì đã xảy ra, thì những người được Cornêliô sai đi đã đến và Chúa Thánh Thần chỉ cho ngài thấy họ là sứ giả của ông ta. Thánh Phêrô trả lời họ bằng những lời gợi nhớ đến những lời của Chúa Giêsu trong Vườn Diệtsimani: “Tôi là người mà các ông đang tìm kiếm” (Công vụ 10:21). Đây là một cuộc hoán cải đích thực và thích đáng, một chuyển dịch đau đớn và sinh hoa trái mênh mông biết từ bỏ các phạm trù văn hóa và tôn giáo của mình: Thánh Phêrô chấp nhận ăn chung với người ngoại giáo thức ăn mà ngài luôn coi là bị cấm, coi nó như phương thế sống và hiệp thông với Thiên Chúa và với người khác. Chính trong cuộc gặp gỡ với người ta, chào đón họ, hành trình với họ và bước vào nhà họ, ngài nhận ra ý nghĩa của thị kiến của mình: không có con người nào là không xứng đáng trong con mắt Thiên Chúa, và sự khác biệt do việc được chọn thiết lập không hề bao hàm ý thích loại trừ mà là việc phục vụ và làm chứng trên phạm vi phổ quát.

24. Cả Cornêliô lẫn Thánh Phêrô đều lôi kéo những người khác tham gia vào hành trình hoán cải của mình, khiến họ trở thành những người bạn đồng hành trong cuộc hành trình của mình. Hoạt động tông đồ hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa bằng cách tạo ra cộng đồng, phá vỡ các rào cản và cổ vũ các cuộc gặp gỡ. Lời nói đóng vai trò trung tâm trong cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật chủ đạo. Cornêliô bắt đầu bằng cách chia sẻ kinh nghiệm của mình. Thánh Phêrô lắng nghe ông và sau đó nói chuyện, đến lượt thuật lại những gì đã xảy ra với ngài và làm chứng cho sự gần gũi của Chúa, Đấng ra đi gặp riêng mỗi người cá thể để giải thoát họ khỏi những gì khiến họ trở thành tù nhân của sự dữ và hạ nhục nhân tính (x. Cv 10 : 38). Hình thức thông đạt này tương tự như hình thức mà Thánh Phêrô sẽ áp dụng tại Giêrusalem khi các tín đồ đã cắt bì chỉ trích ngài, buộc tội ngài đã phá vỡ các quy tắc truyền thống, được họ hết sức lưu ý, trong khi coi thường sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần: “Ông vào nhà của những người đàn ông không cắt bì và dùng bữa với họ!” (Cv 11: 3). Tại thời điểm xung đột đó, Thánh Phêrô báo cáo những gì đã xảy ra với ngài và phản ứng hoang mang, không hiểu và phản kháng của ngài. Chính điều này sẽ giúp những người đối thoại của ngài, khởi đầu hung hăng và khó tính, chịu lắng nghe và chấp nhận những gì đã xảy ra. Kinh thánh sẽ giúp giải thích ý nghĩa, giống như nó đã làm tại “Công đồng” Giêrusalem, trong một diễn trình biện phân hệ ở việc cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần.

IV. Tính đồng nghị trong hành động: Các nẻo đường để tham khảo dân Chúa

25. Được Lời Chúa soi sáng và đặt cơ sở nơi Truyền thống, con đường đồng nghị bắt nguồn từ đời sống cụ thể của dân Chúa. Thực thế, nó cho thấy một tính đặc thù tạo ra một tài nguyên phi thường: đối tượng của nó - tính đồng nghị - cũng là phương pháp của nó. Nói cách khác, nó tạo thành một loại địa điểm xây dựng hoặc trải nghiệm thí điểm giúp chúng ta có thể ngay lập tức bắt đầu gặt hái được các thành quả của động lực mà sự hoán cải đồng nghị tiệm tiến sẽ đưa vào cộng đồng Kitô hữu. Mặt khác, nó có thể chỉ đề cập đến những kinh nghiệm đồng nghị đã sống, ở những bình diện khác nhau và với những mức độ thâm hậu khác nhau: các điểm mạnh và các thành công của họ, cũng như các giới hạn và khó khăn của họ cung cấp nhiều yếu tố qúy giá để biện phân hướng đi hầu tiếp tục tiến tới. Chắc chắn, ở đây, chúng ta có ý nói đến các kinh nghiệm do con đường đồng nghị hiện nay gợi lên, nhưng cũng có ý nói tới tất cả các kinh nghiệm qua đó, người ta thử nghiệm các hình thức của việc “cùng nhau hành trình” này trong sinh hoạt bình thường của Giáo Hội, ngay cả khi người ta không biết hay chưa dùng hạn từ “tính đồng nghị”.

Câu hỏi căn bản



26. Câu hỏi căn bản hướng dẫn cuộc tham khảo dân Chúa này, như đã đề cập ở phần đầu, là:

Một Giáo Hội đồng nghị, khi loan báo Tin Mừng, “cùng nhau hành trình”: Ngày nay việc “cùng nhau hành trình” này diễn ra như thế nào trong Giáo Hội đặc thù của bạn? Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta thực hiện những bước nào để trưởng thành trong việc chúng ta “cùng nhau hành trình”?

Để trả lời, bạn được mời:

a) hãy tự hỏi những kinh nghiệm nào trong Giáo hội đặc thù của bạn được câu hỏi căn bản gợi lên trong tâm trí;

b) đọc lại những kinh nghiệm này một cách sâu sắc hơn: Chúng đã gợi lên niềm vui nào? Chúng đã gặp những khó khăn và trở ngại nào? Chúng đã đưa ra ánh sáng những vết thương nào? Chúng đã gợi ra những hiểu biết sâu sắc nào?

c) thu thập các hoa trái để chia sẻ: trong những kinh nghiệm này, tiếng nói của Chúa Thánh Thần vang lên ở đâu? Người đang yêu cầu chúng ta điều gì? Đâu là những điểm cần xác nhận, triển vọng cần thay đổi, các bước cần thực hiện? Chúng ta ghi nhận được một sự đồng thuận ở đâu? Đâu là những con đường đang mở ra cho Giáo hội đặc thù của chúng ta?

Các khía cạnh khác nhau của tính đồng nghị

27. Trong cầu nguyện, suy tư và chia sẻ được câu hỏi căn bản gợi ý, nên ghi nhớ ba bình diện trên đó tính đồng nghị được phát biểu như một “chiều kích cấu thành Giáo hội” [20].

* Bình diện phong cách bình thường mà với nó, Giáo hội sống và làm việc hàng ngày, nói lên bản chất của Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa cùng nhau hành trình và quy tụ trong các cộng đoàn được Chúa Giêsu triệu tập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Phong cách này được thể hiện qua việc “cộng đồng lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể, tình hiệp thông huynh đệ, đồng trách nhiệm và sự tham gia của toàn thể dân Chúa vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội, trên mọi bình diện và phân biệt giữa các thừa tác vụ và vai trò khác nhau” [21];

* Bình diện cấu trúc và diễn trình của Giáo hội, cũng được xác định theo quan điểm thần học và giáo luật, trong đó bản chất đồng nghị của Giáo hội được phát biểu theo hướng định chế ở các bình diện địa phương, khu vực và hoàn vũ;

* Bình diện diễn trình và biến cố đồng nghị trong đó Giáo hội được triệu tập bởi thẩm quyền có năng quyền, theo những thủ tục chuyên biệt được xác định bởi kỷ luật của Giáo hội.

Mặc dù khác nhau theo quan điểm luận lý, ba bình diện này tham chiếu lẫn nhau và phải được liên kết với nhau một cách chặt chẽ, nếu không một chứng từ ngược hẳn lại sẽ được truyền đi và uy tín của Giáo hội sẽ bị suy giảm. Thực thế, nếu nó không được hiện thân trong các cấu trúc và diễn trình, thì phong cách đồng nghị dễ dàng biến chất từ bình diện ý hướng và ý muốn thành bình diện văn chương hoa mỹ, trong khi các diễn trình và biến cố, nếu chúng không được một phong cách thích hợp sinh động hóa, sẽ trở thành thủ tục trống rỗng.

28. Hơn nữa, khi đọc lại kinh nghiệm, cần ghi nhớ rằng “cùng nhau hành trình” có thể được hiểu từ hai viễn ảnh khác nhau, tuy có mối liên hệ qua lại chặt chẽ. Viễn ảnh thứ nhất xem xét đời sống nội bộ của các Giáo hội đặc thù, các mối liên hệ giữa các bộ phận cấu thành các Giáo Hội này (trước hết và quan trọng nhất giữa các Tín hữu và các Mục tử của họ, cũng qua các cơ quan tham gia được quy định bởi kỷ luật giáo luật, bao gồm cả thượng hội đồng giáo phận) và các cộng đồng mà chúng được phân chia (đặc biệt là các giáo xứ). Sau đó, nó xem xét các mối liên hệ giữa các Giám mục và Giám mục Rôma, cũng qua các cơ quan trung gian của tính đồng nghị (Hội đồng Giám mục của các Giáo hội Thượng phụ và Tổng giáo phận chính, Hội đồng Giáo phẩm Đông phương và Hội đồng Giáo phẩm của các Giáo hội tự trị [sui iuris], và các Hội đồng Giám mục, với các biểu thức quốc gia, quốc tế và lục địa của họ). Sau đó, nó mở rộng các cách thức trong đó mỗi Giáo hội đặc thù tích hợp trong mình sự đóng góp của các hình thức khác nhau của đời sống đơn tu, tu trì và thánh hiến, của các hiệp hội và phong trào giáo dân, của các định chế giáo hội và giáo hội học thuộc nhiều loại khác nhau (trường học, bệnh viện, đại học, các quỹ, các tổ chức bác ái và trợ giúp, v.v.). Cuối cùng, viễn ảnh này cũng bao hàm các mối liên hệ và các sáng kiến chung với các anh chị em thuộc các giáo phái Kitô giáo khác, những người mà chúng ta chia sẻ ơn phúc cùng một Phép Rửa.

29. Viễn ảnh thứ hai xem xét dân Chúa hành trình ra sao cùng với toàn thể gia đình nhân loại. Do đó, cái nhìn của chúng ta sẽ tập chú vào tình trạng các mối liên hệ, đối thoại và các sáng kiến chung có thể có với các tín hữu của các tôn giáo khác, với những người xa rời đức tin, cũng như với các môi trường và nhóm xã hội chuyên biệt, với các định chế của họ (thế giới chính trị, văn hóa, kinh tế, tài chính, lao động, công đoàn và hiệp hội doanh nhân, các tổ chức phi chính phủ và xã hội dân sự, các phong trào quần chúng, các nhóm thiểu số, người nghèo và người bị hắt hủi, v.v.).

Mười chuyên đề cốt lõi cần được thăm dò



30. Để giúp làm nổi bật những kinh nghiệm và đóng góp một cách phong phú hơn vào cuộc tham khảo, chúng tôi trình bầy dưới đây mười chủ đề chính nêu rõ các khía cạnh khác nhau của “tính đồng nghị đã mang ra sống”. Chúng phải được thích nghi cho phù hợp với các bối cảnh địa phương khác nhau và, thỉnh thoảng, được tích hợp, giải thích, đơn giản hóa và đào sâu, đặc biệt chú ý đến những người gặp khó khăn hơn trong việc tham gia và đáp ứng:

Cẩm nang đi kèm với Tài liệu Chuẩn bị này cung cấp các công cụ, lộ trình và gợi ý để các nhóm câu hỏi khác nhau có thể gây cảm hứng cụ thể cho những khoảnh khắc cầu nguyện, đào tạo, suy tư và trao đổi.

I.CÁC BẠN ĐỒNG HÀNH

Trong Giáo hội và ngoài xã hội, chúng ta cùng sát vai trên cùng một con đường. Trong Giáo hội địa phương của các bạn, ai là những người “cùng nhau hành trình”? Khi chúng ta nói: “Giáo hội của chúng ta”, ai là một phần của nó? Ai đang yêu cầu chúng ta cùng nhau hành trình? Ai là những người đồng hành trên đường, kể cả những người bên ngoài chu vi giáo hội? Những người hoặc nhóm nào bị bỏ lại bên lề, một cách minh nhiên hay trên thực tế?

II. LẮNG NGHE

Lắng nghe là bước đầu tiên, nhưng nó đòi hỏi bạn phải có một tâm hồn và trái tim rộng mở, không định kiến. Giáo hội đặc thù của chúng ta có “cần lắng nghe” không? Làm thế nào để hàng ngũ Giáo dân, nhất là giới trẻ và phụ nữ, được lắng nghe? Làm thế nào chúng ta tích hợp được sự đóng góp của những người nam và nữ thánh hiến? Đâu là chỗ dành cho tiếng nói của các nhóm thiểu số, người bị vứt bỏ và người bị loại trừ? Chúng ta có nhận diện được các định kiến và khuôn mẫu cản trở việc lắng nghe của chúng ta không? Chúng ta lắng nghe ra sao bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó chúng ta đang sống?

III. LÊN TIẾNG

Mọi người đều được mời lên tiếng một cách can đảm và mạnh dạn [parrhesia], nghĩa là, tích hợp tự do, chân lý và bác ái. Làm thế nào để chúng ta cổ vũ một phong cách truyền đạt tự do và chân chính trong cộng đồng và các tổ chức của nó, không trùng lắp và cơ hội chủ nghĩa? Và trong tương quan với xã hội mà chúng ta là thành phần? Khi nào và làm thế nào để chúng ta nói được điều vốn quan trọng đối với chúng ta? Mối liên hệ với hệ thống truyền thông (không chỉ là truyền thông Công Giáo) hoạt động ra sao? Ai nói thay cho cộng đồng Kitô hữu, và họ được chọn như thế nào?

IV. CỬ HÀNH

“Cùng nhau hành trình” chỉ khả hữu nếu nó dựa trên việc cộng đồng lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Làm thế nào để việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ gây hứng và điều hướng việc chúng ta "cùng nhau hành trình"? Làm thế nào để chúng gây hứng cho những quyết định quan trọng nhất? Làm thế nào để chúng ta cổ vũ sự tham gia tích cực của mọi Tín hữu vào phụng vụ và thi hành chức năng thánh hóa? Đâu là chỗ dành cho việc thi hành các thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ?

V. ĐỒNG TRÁCH NHIỆM TRONG SỨ MỆNH

Tính đồng nghị nhằm phục vụ sứ mệnh của Giáo hội, trong đó tất cả các thành viên của Giáo hội được kêu gọi tham gia. Vì tất cả chúng ta đều là môn đệ truyền giáo, làm thế nào mỗi người đã lãnh phép Rửa đều được mời gọi trở thành nhân vật chủ động trong sứ mệnh sai đi? Làm thế nào để cộng đồng hỗ trợ các thành viên của mình dấn thân phục vụ trong xã hội (dấn thân xã hội và chính trị, nghiên cứu khoa học và giảng dạy, cổ vũ công bằng xã hội, bảo vệ nhân quyền và chăm lo cho Ngôi nhà chung, v.v.)? Làm thế nào để bạn giúp họ sống thực các dấn thân này theo luận lý sứ mệnh? Sự biện phân về các lựa chọn liên quan đến sứ mệnh được thực hiện như thế nào và ai tham gia vào đó? Làm thế nào các truyền thống khác nhau vốn tạo nên gia tài của nhiều Giáo hội, nhất là các Giáo hội Đông Phương, được hội nhập và thích nghi, đối với phong cách đồng nghị, theo quan điểm chứng tá Kitô hữu hiệu? Sự cộng tác hoạt động ra sao trong các lãnh thổ có các Giáo hội tự trị [sui iuris] khác nhau?

VI. ĐỐI THOẠI TRONG GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI

Đối thoại là nẻo đường kiên trì bao gồm cả những im lặng và đau khổ, nhưng có khả năng thu thập kinh nghiệm của những con người và các dân tộc. Đâu là các địa điểm và phương thức đối thoại bên trong Giáo hội đặc thù của chúng ta? Sự dị biệt về viễn kiến, các xung đột, các khó khăn được giải quyết ra sao? Làm thế nào để chúng ta cổ vũ sự hợp tác với các Giáo phận lân cận, với và giữa các cộng đồng tôn giáo trong khu vực, với và giữa các hiệp hội và phong trào giáo dân, v.v.? Chúng ta có những kinh nghiệm nào về đối thoại và dấn thân chung với các tín đồ của các tôn giáo khác và với những người không có tín ngưỡng? Giáo hội đối thoại và học hỏi ra sao từ các thành phần khác của xã hội: thế giới chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội dân sự, người nghèo…?

VII. VỚI CÁC HỆ PHÁI KITÔ GIÁO KHÁC

Cuộc đối thoại giữa các Kitô hữu thuộc các tuyên tín khác nhau, được kết hợp bởi một Phép Rửa, có một vị trí đặc biệt trong hành trình đồng nghị. Chúng ta có những mối liên hệ nào với anh chị em của các hệ phái Kitô giáo khác? Họ quan tâm đến những lĩnh vực nào? Chúng ta đã rút ra được những thành quả nào từ việc “cùng nhau hành trình” này? Đâu là các khó khăn?

VIII. THẨM QUYỀN VÀ THAM GIA

Một Giáo hội đồng nghị là một Giáo hội tham gia và đồng trách nhiệm. Làm thế nào để chúng ta nhận diện được các mục tiêu cần theo đuổi, cách thức đạt được chúng và các bước cần thực hiện? Thẩm quyền được thực thi như thế nào trong Giáo hội đặc thù của chúng ta? Đâu là các thực hành làm việc theo nhóm và đồng trách nhiệm? Các thừa tác vụ giáo dân và việc đảm nhận trách nhiệm của các Tín hữu được cổ vũ như thế nào? Các cơ quan đồng nghị hoạt động như thế nào ở bình diện một Giáo hội đặc thù? Chúng có phải là một kinh nghiệm hữu hiệu không?

IX. BIỆN PHÂN VÀ QUYẾT ĐỊNH

Theo phong cách đồng nghị, các quyết định được đưa ra qua việc biện phân, dựa trên sự đồng thuận phát xuất từ việc vâng phục chung đối với Chúa Thánh Thần. Chúng ta cùng nhau biện phân và đưa ra quyết định bằng những thủ tục và phương pháp nào? Làm thế nào để chúng có thể được cải thiện? Làm thế nào để chúng ta cổ vũ việc tham gia vào diễn trình ra quyết định trong các cộng đồng có cấu trúc phẩm trật? Làm thế nào để chúng ta nối kết giai đoạn tham khảo với giai đoạn thảo luận, diễn trình ra quyết định với thời điểm lấy quyết định? Chúng ta cổ vũ ra sao và bằng các phương tiện nào tính minh bạch và trách nhiệm giải trình?

X. TỰ ĐÀO TẠO TÍNH ĐỒNG NGHỊ

Linh đạo cùng nhau hành trình được mời gọi trở thành nguyên tắc giáo dục để đào tạo con người nhân bản và con người Kitô hữu, các gia đình, và các cộng đồng. Làm thế nào để chúng ta đào tạo người ta, nhất là những người giữ vai trò trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, để họ có khả năng “cùng nhau hành trình”, lắng nghe nhau và tham gia đối thoại nhiều hơn? Chúng ta cung ứng việc đào tạo nào trong việc biện phân và thực thi thẩm quyền? Đâu là các công cụ giúp chúng ta đọc được các năng động tính của nền văn hóa trong đó chúng ta đang đắm mình sống và tác động của chúng đối với phong cách Giáo hội của chúng ta?

Đóng góp vào cuộc tham khảo

31. Mục đích của giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình đồng nghị là phát huy một diễn trình tham khảo rộng rãi để thu thập sự phong phú của những kinh nghiệm về tính đồng nghị đã mang ra sống, theo những cách trình bày và khía cạnh khác nhau của nó, liên quan đến các Mục tử và Tín hữu của các Giáo hội đặc thù ở mọi bình diện khác nhau, qua các phương tiện thích hợp nhất tùy theo các thực tại địa phương chuyên biệt: sự tham khảo, do Giám mục điều hợp, được ngỏ cùng “các Linh mục, Phó tế và tín hữu giáo dân của Giáo hội họ, cả các cá nhân lẫn trong các hiệp hội, mà không bỏ qua việc đóng góp có giá trị mà những người nam và nữ thánh hiến có thể cống hiến ”(EC, số 7). Việc đóng góp của các bộ phận tham gia trong các Giáo hội đặc thù, nhất là của Hội đồng Linh mục và Hội đồng Mục vụ, từ đó “một Giáo hội đồng nghị [có thể thực sự] bắt đầu thành hình” [22]. Cũng có giá trị ngang hàng là việc đóng góp của các thực thể giáo hội khác mà Tài liệu Chuẩn bị sẽ được gửi đến, cũng như của những người muốn trực tiếp gửi đóng góp của chính họ. Cuối cùng, điều có tính quan trọng nền tảng là tiếng nói của người nghèo và người bị hắt hủi cũng tìm được chỗ đứng của nó, chứ không phải chỉ là tiếng nói của những người có vai trò hoặc trách nhiệm nào đó trong các Giáo hội đặc thù.

32. Sự tổng hợp mà mỗi Giáo hội đặc thù sẽ khai triển ở cuối công việc lắng nghe và biện phân này sẽ tạo nên sự đóng góp của nó vào hành trình của Giáo hội hoàn vũ. Muốn làm cho các giai đoạn tiếp theo của cuộc hành trình trở nên dễ dàng và bền vững hơn, điều quan trọng là phải cô đọng thành quả của việc cầu nguyện và suy tư vào tối đa mười trang. Nếu cần phải trình bầy ngữ cảnh và giải thích chúng tốt hơn, các bản văn bản có thể được đính kèm để hỗ trợ hoặc hòa nhập chúng. Chúng ta nên nhớ rằng mục đích của Thượng Hội đồng, và do đó của cuộc tham khảo này, không phải là để tạo ra các tài liệu, mà là “để gieo trồng các giấc mơ, rút ra các lời tiên tri và viễn kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau dệt nên các mối liên hệ với nhau, đánh thức một bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và tạo nên một sự tháo vát tươi sáng sẽ khai sáng trí óc, sưởi ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay của chúng ta” [23].

Các chữ viết tắt



ITC Ủy ban Thần học Quốc tế

DV Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum (18 tháng 11 năm 1965)

EC Đức Phanxicô, Tông hiến Episcopalis Communio (ngày 15 tháng 9 năm 2018)

EG Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (ngày 24 tháng 11 năm 2013)

FT Đức Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (ngày 3 tháng 10 năm 2020)

GS Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (ngày 7 tháng 12 năm 1965)

LG Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen gentium (ngày 21 tháng 11 năm 1964)

LS Đức Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (ngày 24 tháng 5 năm 2015)

UR Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio (21 tháng 11 năm 1964)

_____________________________________________________

GHI CHÚ



[1] Các giai đoạn của hành trình đồng nghị được báo cáo dưới đây

[2] Đức Phanxicô, Diễn văn cho buổi lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục (17 tháng 10 năm 2015).

[3] Xem www.synod.va

[4] Đức Phanxicô, Thư gửi dân Chúa (20 tháng 8 năm 2018), phần nhập đề.

[5] Đã dẫn, số 2.

[6] Đã dẫn.

[7] Đã dẫn.

[8] Đức Phanxicô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.

[9] ITC, Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội (ngày 2 tháng 3 năm 2018), số 3.

[10] Đã dẫn.

[11] Đã dẫn, số 6.

[12] Thánh Cyprianô, Kinh Lạy Cha, 23

[13] Thánh Augustinô, Thư 194, 31.

[14] Thánh Gioan Chrysostom, Chú giải về Thánh vịnh 149.

[15] ITC, Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội, số 6.

[16] Đức Phanxicô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.

[17] ITC, Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội, số 69.

[18] Thánh Bênêđíctô, Luật, 3.3.

[19] Đức Phanxicô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.

[20] ITC, Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội, số 70.

[21] Đã dẫn.

[22] Đức Phanxicô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.

[23] Đức Phanxicô, Diễn văn Khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục về Giới trẻ (ngày 3 tháng 10 năm 2018).