Anh chị em trong Chúa Kitô : sự hỗ tương đổi mới

13. Sự khác biệt đầu tiên chúng ta gặp phải với tư cách là con người là giữa nam và nữ. Ơn gọi Kitô hữu của chúng ta là tôn vinh sự khác biệt do Thiên Chúa ban này bằng cách sống trong Giáo hội một mối quan hệ hỗ tương năng động như một dấu chỉ cho thế giới. Khi suy gẫm về tầm nhìn này từ góc độ đồng nghị, những đóng góp nhận được ở mọi giai đoạn đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thừa nhận đầy đủ hơn các đặc sủng, ơn gọi và vai trò của phụ nữ, để tôn vinh tốt hơn tính hỗ tương hỗ của các mối quan hệ trong mọi lĩnh vực của đời sống Giáo hội. Quan điểm của Thượng hội đồng nêu bật ba điểm tham chiếu thần học như một hướng dẫn cho việc phân định: a) sự tham gia bắt nguồn từ những hàm ý giáo hội học của Bí tích Rửa tội; b) chúng ta là sự hiệp thông của những người đã được rửa tội, được kêu gọi không chôn vùi tài năng nhưng phân định và sủ dụng những hồng ân mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên mỗi người vì lợi ích của cộng đồng và thế giới; c) trong khi tôn trọng và thừa nhận các ơn gọi và ân sủng khác nhau của mỗi người, các ân sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho các tín hữu được trao cho nhau theo cách bổ sung và sự cộng tác của tất cả những người đã được rửa tội phải được thực hiện như một hành vi đồng trách nhiệm. Hướng dẫn chúng ta trong suy tư là chứng từ của Kinh Thánh: Thiên Chúa đã chọn phụ nữ làm chứng nhân và sứ giả đầu tiên của Sự Phục Sinh. Nhờ Bí tích Rửa tội, họ được hưởng sự bình đẳng hoàn toàn, nhận được cùng những ơn ban từ Chúa Thánh Thần, và được mời gọi phục vụ sứ mạng của Chúa Kitô.

14. Theo nghĩa này, sự thay đổi đầu tiên cần thực hiện là thay đổi về não trạng: chuyển đổi sang quan điểm về mối quan hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau và hỗ tương giữa người nam và người nữ, là anh chị em trong Chúa Kitô, hướng tới một sứ mệnh chung. Sự hiệp thông, tham gia và sứ mệnh của Giáo hội phải gánh chịu hậu quả của việc không biến đổi được các mối quan hệ và cơ cấu. Như một đóng góp của Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh lưu ý: “một Giáo hội trong đó tất cả các thành viên có thể cảm thấy đồng trách nhiệm cũng là một nơi hấp dẫn và đáng tin cậy”.

15. Những đóng góp của các Hội đồng Giám mục thừa nhận rằng phụ nữ có thể tham gia vào nhiều lĩnh vực của đời sống Giáo hội. Tuy nhiên, họ cũng lưu ý rằng những khả năng tham gia này thường vẫn chưa được khai thác. Đó là lý do tại sao họ đề nghị Phiên họp thứ hai thúc đẩy nhận thức và khuyến khích việc sử dụng đầy đủ và phát triển hơn nữa những khả năng này trong các Giáo xứ, Giáo phận và các thực tại khác của Giáo hội, bao gồm cả các vị trí trách nhiệm. Họ cũng kêu gọi khám phá thêm các phương thức thừa tác vụ và mục vụ nhằm nói lên tốt hơn các đặc sủng và ân sủng mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên phụ nữ để đáp ứng các nhu cầu mục vụ của thời đại chúng ta. Như Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh đã nói: “Trong nền văn hóa của chúng ta, sự hiện diện của ‘ta đây nam tính’ (machismo) vẫn còn mạnh mẽ, trong khi cần có sự tham gia tích cực hơn của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của giáo hội. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã phát biểu, quan điểm của họ là không thể thiếu trong các quá trình ra quyết định và trong việc đảm nhận các vai trò trong các hình thức chăm sóc mục vụ và truyền giáo khác nhau”.

16. Những yêu cầu cụ thể xuất hiện từ những đóng góp của các Hội đồng Giám mục để xem xét tại Phiên họp thứ hai, bao gồm: (a) thúc đẩy các lĩnh vực đối thoại trong Giáo hội để phụ nữ có thể chia sẻ kinh nghiệm, đặc sủng, kỹ năng và những hiểu biết tâm linh, thần học và mục vụ vì lợi ích của toàn thể Giáo hội; (b) sự tham gia rộng rãi hơn của phụ nữ vào các diễn trình phân định của Giáo hội và tất cả các giai đoạn của tiến trình ra quyết định (soạn thảo và ra quyết định); c) khả năng tiếp cận rộng rãi hơn với các vị trí trách nhiệm trong các Giáo phận và các tổ chức giáo hội, phù hợp với các quy định hiện hành; d) sự thừa nhận và hỗ trợ nhiều hơn đối với đời sống và các đặc sủng của các phụ nữ thánh hiến cũng như công việc của họ trong các vị trí trách nhiệm; e) phụ nữ được tiếp cận các vị trí chịu trách nhiệm trong các chủng viện, học viện và khoa thần học; f) sự gia tăng số lượng thẩm phán nữ trong tất cả các tiến trình giáo luật. Các báo cáo nhận được cũng tiếp tục kêu gọi sự chú ý nhiều hơn đến việc sử dụng ngôn ngữ mang tính bao quát hơn và đến một loạt hình ảnh từ Kinh thánh và Truyền thống trong việc rao giảng, giảng dạy, dạy giáo lý và soạn thảo các tài liệu chính thức của Giáo hội.

17. Trong khi một số Giáo hội địa phương kêu gọi phụ nữ được nhận vào thừa tác vụ phó tế, thì những Giáo hội khác lại phản đối. Về vấn đề này, vốn không phải là chủ đề công việc của Kỳ họp thứ hai, điều tốt là nên tiếp tục suy tư thần học, trong một khoảng thời gian thích hợp và theo những cách thức thích hợp. Thành quả của Nhóm Nghiên cứu 5, sẽ xem xét các kết quả của hai Ủy ban đã giải quyết vấn đề này trong quá khứ, sẽ góp phần vào sự trưởng thành của nó.

18. Nhiều yêu cầu nêu trên cũng áp dụng cho giáo dân, những người thường than thở vì thiếu sự tham gia vào đời sống Giáo hội. Nói chung, việc suy tư về vai trò của phụ nữ thường nêu bật mong muốn củng cố tất cả các thừa tác vụ do giáo dân (nam và nữ) thực hiện. Ngoài ra còn có một lời kêu gọi các giáo dân nam nữ có huấn luyện góp phần vào việc rao giảng Lời Chúa, kể cả trong khi cử hành Bí tích Thánh Thể.

Kêu gọi hoán cải và cải cách

19. Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời kêu gọi hoán cải (x. Mc 1:15). Lời kêu gọi này thể hiện một lời mời suy nghĩ lại cách sống cá nhân và cộng đoàn và để mình được Chúa Thánh Thần biến đổi. Không một cuộc cải cách nào có thể chỉ giới hạn ở các cơ cấu mà phải bắt nguồn từ sự biến đổi nội tâm theo “tâm trí của Chúa Kitô” (Pl 2:5). Đối với một Giáo hội đồng nghị, sự hoán cải đầu tiên là lắng nghe, việc tái khám phá điều này là một trong những thành quả lớn nhất của cuộc hành trình cho đến nay. Trước hết, đây là việc lắng nghe Chúa Thánh Thần, nhân vật chính thực sự của Thượng Hội đồng, và sau đó lắng nghe nhau như một khuynh hướng cơ bản cho sứ mạng.

20. Phong cách đồng nghị của Giáo hội mang lại cho nhân loại nhiều hiểu biết quan trọng. Trong một thời đại được đánh dấu bằng sự bất bình đẳng ngày càng tăng, sự vỡ mộng ngày càng tăng đối với các mô hình quản trị truyền thống, sự vỡ mộng về dân chủ và sự thống trị của mô hình thị trường trong các tương tác giữa con người với nhau, và sự cám dỗ giải quyết xung đột bằng vũ lực thay vì đối thoại, tính đồng nghị có thể mang lại nguồn cảm hứng cho tương lai các xã hội của chúng ta. Sức hấp dẫn của nó bắt nguồn từ sự kiện nó không phải là một chiến lược quản lý mà là một thực hành được sống và tôn vinh với tinh thần biết ơn. Cách sống đồng nghị của các mối quan hệ là một chứng tá xã hội đáp lại nhu cầu sâu xa của con người cần được chào đón và thừa nhận trong một cộng đồng cụ thể. Thực hành đồng nghị thách thức sự cô lập ngày càng tăng của con người và chủ nghĩa cá nhân về văn hóa, điều mà ngay cả Giáo hội cũng thường tiếp thu, và kêu gọi chúng ta quan tâm lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau và đồng trách nhiệm vì lợi ích chung. Tương tự, nó cũng là một thách thức đối với một chủ nghĩa cộng đồng xã hội quá mức vốn bóp nghẹt con người và không cho phép họ trở thành chủ thể tự do cho sự phát triển của chính mình. Việc sẵn sàng lắng nghe tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghèo, một sự sẵn lòng mà lối sống đồng nghị khuyến khích, hoàn toàn trái ngược với một thế giới trong đó sự tập trung quyền lực ngăn cản tiếng nói của những người nghèo nhất, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và các nhóm thiểu số. Tính cụ thể của tiến trình đồng nghị đã cho thấy bản thân Giáo hội cần phát triển đến mức nào trong chiều kích này. Nhóm nghiên cứu 2 cũng đang nghiên cứu vấn đề này.

21. Ở mọi giai đoạn của tiến trình đồng nghị, nhu cầu hàn gắn, hòa giải và khôi phục niềm tin trong Giáo hội và xã hội đều được cộng hưởng mạnh mẽ. Bước đi trên con đường chữa lành và phục hồi này là một cam kết truyền giáo của dân Chúa trong thế giới của chúng ta và là một hồng ân mà chúng ta phải cầu xin từ trên cao. Ước muốn tiến xa hơn trên con đường này là thành quả của sự đổi mới đồng nghị.

Phần I - Quan hệ

Trong suốt quá trình đồng nghị và từ mọi khu vực trên hoàn cầu, đã xuất hiện yêu cầu về một Giáo hội ít tập trung vào nạn quan liêu và có khả năng nuôi dưỡng các mối quan hệ với Chúa, giữa nam và nữ, trong gia đình, trong cộng đồng và giữa các nhóm xã hội. Chỉ có một mạng lưới các mối quan hệ đan kết với nhau bằng nhiều thứ thuộc về nhau mới có thể nâng đỡ các cá nhân và cộng đồng, mang lại cho họ những điểm tham chiếu và định hướng cũng như cho họ thấy vẻ đẹp của cuộc sống theo Tin Mừng. Chính trong các mối quan hệ - với Chúa Kitô, với người khác, trong cộng đồng - đức tin được truyền tải.

Vì nó tồn tại để phục vụ cho sứ mạng, tính đồng nghị không nên được coi như một phương tiện tổ chức nhưng được sống và vun trồng như cách các môn đệ của Chúa Giêsu dệt nên các mối quan hệ trong tình liên đới, có khả năng đáp ứng tình yêu Thiên Chúa liên tục đến với họ và họ được kêu gọi làm chứng trong bối cảnh cụ thể mà họ đang sống. Do đó, hiểu cách trở thành một Giáo hội đồng nghị trong truyền giáo phải trải qua một cuộc hoán cải về mặt quan hệ, định hướng lại các ưu tiên và hành động của mỗi người, đặc biệt là những người có nhiệm vụ sinh động các mối quan hệ nhằm phục vụ sự hiệp nhất, trong tính cụ thể của việc trao đổi món quà giải phóng và làm phong phú tất cả.


Trong Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần: Khai tâm Kitô giáo

22. “Giáo hội lữ hành tự bản chất là truyền giáo, vì chính từ sứ mệnh của Chúa Con và sứ mệnh của Chúa Thánh Thần mà Giáo hội có nguồn gốc, phù hợp với sắc lệnh của Thiên Chúa Cha” (AG 2). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, việc gắn bó với đức tin vào con người của Người và việc cử hành các bí tích khai tâm Kitô giáo dẫn chúng ta vào chính cuộc sống của Chúa Ba Ngôi. Qua ân sủng Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu làm cho những người lãnh nhận Bí tích Rửa tội có thể tham gia vào mối quan hệ của Người với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu tràn đầy và dẫn dắt Người (Lc 4:1), Đấng đã xức dầu cho Người và sai Người đi rao giảng Tin Mừng (Lc 4:18), Đấng đã khiến Người sống lại từ cõi chết (Rm 8:11) chính là Chúa Thánh Thần. cùng một Chúa Thánh Thần hiện đang xức dầu cho các thành viên của dân Chúa. Chúa Thánh Thần này làm cho chúng ta trở thành con cái và người thừa kế của Thiên Chúa, và chính nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta kêu cầu Thiên Chúa và gọi Người là “Abbà! Cha!”.

23. Để hiểu bản chất của một Giáo hội đồng nghị trong truyền giáo, điều không thể thiếu là nắm bắt nền tảng Ba Ngôi này, và đặc biệt mối liên hệ không thể tách rời giữa công việc của Chúa Kitô và công việc của Chúa Thánh Thần trong lịch sử nhân loại và Giáo hội: “Chính Chúa Thánh Thần ngự trong những ai tin, đổ đầy và cai trị trên toàn thể Giáo hội, Đấng thực hiện sự hiệp thông tuyệt vời giữa các tín hữu, Người đưa tất cả họ vào sự kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, đến nỗi Người là nguyên lý hiệp nhất của Giáo hội” (UR 2). Đây là lý do tại sao tiến trình khai tâm Kitô giáo cho người lớn là bối cảnh đặc biệt để hiểu đời sống đồng nghị của Giáo hội. Nó nêu bật nguồn gốc và nền tảng của nó: các mối quan hệ hợp nhất và phân biệt Ba Ngôi Thiên Chúa. Với các ơn rửa tội, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô, tư tế, ngôn sứ và là vua, làm cho chúng ta trở thành chi thể của Thân Mình Người là Giáo Hội, và làm cho chúng ta trở nên con cái của một Chúa Cha. Như thế, chúng ta nhận được lời kêu gọi truyền giáo và đồng trách nhiệm về những gì hiệp nhất chúng ta trong một Giáo hội duy nhất. Những hồng ân này có ba chiều hướng không thể tách rời: cá nhân, cộng đoàn và truyền giáo. Chúng trao quyền và dấn thân cho mọi người nam hay người nữ đã được rửa tội xây dựng các mối quan hệ thân ái, như anh chị em, trong cộng đồng giáo hội của mình, để tìm kiếm một sự hiệp thông sâu sắc và rõ ràng hơn bao giờ hết với tất cả những người mà họ cùng chịu phép rửa, và với việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng.

24. Mặt khác, nếu tính đồng nghị truyền giáo bắt nguồn từ việc khai tâm Kitô giáo, thì mặt khác, nó phải soi sáng cách dân Chúa sống cuộc hành trình khai tâm, biến nó thành của riêng mình theo đúng ý nghĩa thực sự của nó. Điều này bao gồm việc vượt qua quan điểm tĩnh tụ và mang tính cá nhân về việc khai tâm, vốn không được liên kết đầy đủ với việc đi theo Chúa Kitô và đời sống trong Chúa Thánh Thần, và nhờ đó khôi phục lại giá trị năng động và biến đổi của việc khai tâm Kitô giáo. Trong Giáo Hội sơ khai, các Kitô hữu đọc những lời trong Sách Sáng Thế “vào ngày thứ sáu”, Thiên Chúa đã phán: “Chúng ta hãy tạo dựng loài người theo hình ảnh Chúng Ta, giống như chúng ta” (St 1:26), đã thấy tính năng động có tương quan như thế nào được ghi vào nhân học của sáng thế. Họ nhìn thấy nơi hình ảnh ấy hình ảnh Chúa Con nhập thể và trong họa ảnh ấy khả thể đồng hình đồng dạng hóa [conformation] dần dần, biểu lộ cuộc phiêu lưu hữu ích của quyền tự do lựa chọn ở với và giống Chúa Kitô. Cuộc phiêu lưu này bắt đầu bằng việc lắng nghe Lời Chúa, qua đó người dự tòng dần dần đi theo Chúa Giêsu Kitô. Bí tích Rửa tội nhằm phục vụ tính năng động của họa ảnh, và vì lý do này, nó không phải là một hành vi đúng giờ kết thúc vào lúc cử hành mà là một hồng ân cần được củng cố, nuôi dưỡng và sử dụng một cách tốt đẹp qua việc dấn thân hoán cải, phục vụ sứ mạng và tham gia vào đời sống cộng đoàn. Thật vậy, việc khai tâm Kitô giáo đạt đến đỉnh cao trong Bí tích Thánh Thể Chúa Nhật, được cử hành hàng tuần, một dấu chỉ của ân sủng không ngừng giúp chúng ta đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và làm cho chúng ta trở nên thành phần của Thân Mình và của nuôi dưỡng của Người, nâng đỡ chúng ta trên con đường hoán cải và truyền giáo.

25. Theo nghĩa này, cộng đoàn Thánh Thể biểu lộ và nuôi dưỡng đời sống đồng nghị truyền giáo của Giáo hội. Với sự tham gia của tất cả các Kitô hữu, với sự hiện diện của các thừa tác vụ khác nhau và sự chủ trì của giám mục hoặc linh mục, cộng đồng Kitô hữu trở nên hữu hình, trong đó việc đồng trách nhiệm khác biệt của tất cả mọi người đối với sứ mệnh được thực hiện. Phụng vụ, như “đỉnh cao mà hoạt động của Giáo hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch phát ra mọi năng lực của Giáo hội” (SC 10) đồng thời là nguồn mạch của đời sống đồng nghị của Giáo hội và là nguyên mẫu của mọi biến cố đồng nghị, làm cho mầu nhiệm Ba Ngôi xuất hiện “như trong một tấm gương” (1 Cor 13:12; x. DV 7).

26. Điều cần thiết là các đề xuất mục vụ và thực hành phụng vụ phải bảo tồn và làm cho mối liên kết giữa hành trình khai tâm Kitô giáo với cuộc sống đồng nghị và truyền giáo của Giáo hội trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Bằng cách này, chúng ta tránh giản lược cuộc hành trình này thành một công cụ sư phạm duy nhất hoặc một dấu chỉ của sự thuộc về xã hội đơn thuần, và thay vào đó, chúng ta thúc đẩy việc chấp nhận món quà bản thân này hướng tới sứ mệnh và xây dựng cộng đồng. Những sắp xếp mục vụ và phụng vụ thích hợp phải được phát triển trong nhiều hoàn cảnh và văn hóa khác nhau mà các Giáo hội địa phương đang hòa nhập, đồng thời chú ý đến sự khác biệt giữa những hoàn cảnh mà việc khai tâm Kitô giáo chủ yếu liên quan đến người trẻ hoặc người lớn và những hoàn cảnh liên quan chủ yếu, nếu không riêng, trẻ em.

Đối với dân Chúa: các đoàn sủng và thừa tác vụ

27. “Hiện nay có nhiều ân tứ khác nhau, nhưng cùng một Thánh Linh; và có nhiều loại dịch vụ khác nhau, nhưng cùng một Chúa; và có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng kích hoạt tất cả những hoạt động đó trong mọi người. Mỗi người đều được Chúa Thánh Thần biểu lộ, nhằm ích chung” (1 Cr 12:4, 7). Sự tự do của Chúa Thánh Thần là nguồn gốc của sự đa dạng về đặc sủng (ân sủng) và thừa tác vụ (các hình thức phục vụ). trong Giáo Hội theo quan điểm sứ mạng của Giáo Hội). Chúa Thánh Thần ban cho họ và hoạt động không ngừng để họ biểu lộ sự hiệp nhất của đức tin và thuộc về Giáo Hội Công Giáo duy nhất và độc đáo trong những con người, nền văn hóa và địa điểm khác nhau. Các đặc sủng, ngay cả những đặc sủng đơn giản nhất và phổ biến nhất, đều được ban tặng để đáp ứng nhu cầu của Giáo hội và sứ mạng của Giáo hội (x. LG 12). Đồng thời, họ đóng góp một cách hiệu quả vào đời sống xã hội ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các đặc sủng thường được chia sẻ, tạo ra các hình thức khác nhau của đời sống thánh hiến và tính đa nguyên của các hiệp hội, nhóm và phong trào trong giáo hội.

28. Lĩnh vực chính trong đó các đặc sủng mà mỗi người đã rửa tội được mời gọi biểu lộ không phải là việc tổ chức các hoạt động hay cơ cấu của Giáo hội mà là trong đời sống hằng ngày, trong các mối quan hệ gia đình và xã hội. Trong những hoàn cảnh đa dạng nhất, các Kitô hữu - về mặt cá nhân và cộng đồng - được mời gọi làm cho những ân sủng mà họ đã nhận được được phát triển mạnh mẽ vì lợi ích của mọi người. Giống như hoa trái của các thừa tác vụ, hoa trái của các đặc sủng tùy thuộc vào hành động của Thiên Chúa, ơn gọi Thiên Chúa ngỏ với mỗi người, sự quảng đại và khôn ngoan chấp nhận những người đã được rửa tội, cũng như sự công nhận và đồng hành của thẩm quyền. Vì vậy, chúng không thể được hiểu là tài sản của những người nhận và sử dụng chúng, cũng như không nhằm mục đích phục vụ lợi ích riêng của họ.

29. Như một biểu thức nói lên sự tự do của Chúa Thánh Thần trong việc ban các ân sủng và như một đáp ứng nhu cầu của các cộng đồng cá thể, trong Giáo hội có nhiều thừa tác vụ khác nhau mà bất cứ người nam hay người nữ đã được rửa tội nào cũng có thể thực hiện. Những hoạt động này mang hình thức một dịch vụ thường xuyên được cung cấp và được cộng đồng cũng như những người hướng dẫn cộng đồng công nhận. Chúng có thể được gọi là thừa tác vụ do phép rửa để chỉ ra nguồn gốc chung của chúng (rửa tội) và để phân biệt chúng với các thừa tác vụ thụ phong bắt nguồn từ bí tích Truyền chức thánh. Chẳng hạn, có những người nam và nữ thực hiện thừa tác vụ điều phối một cộng đồng nhà thờ nhỏ, thừa tác vụ hướng dẫn những giờ cầu nguyện (tại đám tang hoặc nơi khác), thừa tác vụ rước lễ ngoại thường, hoặc các dịch vụ khác không nhất thiết phải mang tính phụng vụ. Các quy tắc giáo luật Latinh và Đông phương đã quy định rằng, trong một số trường hợp, giáo dân, nam hay nữ, cũng có thể là thừa tác viên ngoại thường của bí tích rửa tội. Theo các quy tắc Latinh, giám mục có thể ủy quyền cho các giáo dân, nam hay nữ, giúp đỡ trong các đám cưới. Sẽ rất hữu ích nếu tiếp tục suy gẫm về cách giao phó các thừa tác vụ này cho giáo dân một cách ổn định hơn. Sự suy tư này cần được đi kèm với việc xem xét sâu hơn về cách chúng ta có thể thúc đẩy nhiều hình thức mục vụ giáo dân hơn, kể cả bên ngoài lĩnh vực phụng vụ.

30. Trong thời gian gần đây, một số phương thức phục vụ vốn đã hiện diện từ lâu trong đời sống Giáo hội đã nhận được một cấu hình mới như là các thừa tác vụ được thiết lập [instituted], bao gồm cả thừa tác vụ đọc sách và thừa tác vụ giúp lễ (x. Tông thư dưới hình thức tự sắc). Spiritus Domini, ngày 10 tháng 1 năm 2021). Thừa tác vụ được thành lập dành cho các giáo lý viên cũng đã được khai triển (x. Tông thư dưới hình thức tự sắc Antiquum Ministryium, ngày 10 tháng 5 năm 2021). Các thừa tác vụ được thiết lập được Giám mục trao ban cho nam giới và phụ nữ một lần trong đời thông qua một nghi thức đặc biệt sau khi có sự phân định thích hợp và được đào tạo đầy đủ. Thời gian và cách thức thực hiện chúng phải được xác định bởi sự ủy quyền của cơ quan có thẩm quyền hợp pháp. Một số vấn đề thần học và giáo luật liên quan đến các hình thức thừa tác vụ chuyên biệt của Giáo hội - đặc biệt vấn đề về sự tham gia cần thiết của phụ nữ vào đời sống và sự lãnh đạo của Giáo hội - đã được giao phó cho Bộ Giáo lý Đức tin, trong cuộc đối thoại với Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng (Nhóm nghiên cứu số 5).

31. Mặc dù không phải tất cả các đặc sủng đều có những hình thức thừa tác vụ phù hợp, nhưng tất cả các thừa tác vụ đều được thiết lập dựa trên các đặc sủng dành cho một số thành viên dân Chúa, những người được mời gọi hành động theo những cách khác nhau để mỗi người trong cộng đồng có thể tham gia vào việc xây dựng thân thể Chúa Kitô (x. Eph 4:12), trong việc phục vụ lẫn nhau. Giống như các đặc sủng, các thừa tác vụ cũng phải được công nhận, thăng tiến và đánh giá cao. Quá trình đồng nghị đã nhiều lần nhấn mạnh việc phân định và cổ vũ các đoàn sủng và mục vụ, cũng như việc xác định nhu cầu của các cộng đồng và xã hội mà chúng dự định đáp ứng, là một khía cạnh mà các Giáo hội địa phương cần phải phát triển, tự giành cho mình các tiêu chuẩn, công cụ và thủ tục thỏa đáng. Công đồng Vatican II dạy rằng nhiệm vụ của các mục tử là “thừa nhận các thừa tác vụ và đoàn sủng của [các tín hữu], để tất cả mọi người có thể nhất trí hợp tác, mỗi người theo cách riêng của mình, trong nhiệm vụ chung” (LG 30). Việc phân định các đặc sủng và thừa tác vụ là một hành vi đúng đắn của giáo hội: để thừa nhận và thăng tiến chúng, giám mục buộc phải lắng nghe tiếng nói của tất cả những người liên quan: cá nhân tín hữu, cộng đồng và các tổ chức tham gia. Để đạt được mục tiêu này, các thủ tục phù hợp với các bối cảnh khác nhau phải được xác định, luôn quan tâm để có thể đạt được sự đồng thuận thực sự về tiêu chuẩn và kết quả của sự phân định. Kết quả của cuộc họp “Các linh mục giáo xứ tham dự Thượng hội đồng” nhấn mạnh mạnh mẽ đến những nhu cầu này.

32. Cũng được nhấn mạnh là lời mời gọi phát triển niềm tin tưởng sâu sắc hơn vào hoạt động của Chúa Thánh Thần, lòng can đảm và tính sáng tạo lớn hơn trong việc phân định cách sử dụng các ân sủng đã nhận được và đón nhận để phục vụ sứ mệnh của Giáo hội theo cách phù hợp với các bối cảnh địa phương khác nhau. Chính sự đa dạng của các bối cảnh, và do đó, nhu cầu của các cộng đồng, đã gợi ý rằng các Giáo hội địa phương, dưới sự hướng dẫn của các mục tử và các nhóm của họ “ở mọi khu vực văn hóa xã hội lớn” (AG 22), hãy thực hiện một cách khiêm tốn và tin tưởng vào sự phân định sáng tạo về những thừa tác vụ nào họ phải thừa nhận, ủy thác hoặc thành lập để đáp ứng các nhu cầu mục vụ và xã hội. Vì vậy, các tiêu chuẩn và cách thức để thực hiện việc phân định này phải được xác định. Suy gẫm cũng phải xem xét cách ủy thác các thừa tác vụ do phép rửa (không được thiết lập và được thiết lập) vào thời điểm mà người ta di chuyển từ nơi này sang nơi khác ngày càng dễ dàng hơn, xác định rõ thời gian và khu vực thực hiện chúng.

33. Cuộc hành trình cho đến nay đã dẫn đến sự thừa nhận rằng một Giáo hội đồng nghị là một Giáo hội biết lắng nghe, có khả năng chào đón và đồng hành, và được coi là nhà và gia đình. Ở tất cả các châu lục đều xuất hiện một nhu cầu liên quan đến những người, vì những lý do khác nhau, bị hoặc cảm thấy bị loại trừ hoặc bị gạt ra bên lề cộng đồng giáo hội hoặc những người đang đấu tranh để tìm được sự nhìn nhận đầy đủ về phẩm giá và các ân sủng của mình trong cộng đồng giáo hội. Việc thiếu sự chào đón này khiến họ cảm thấy bị bác bỏ, cản trở hành trình đức tin và gặp gỡ Chúa của họ, đồng thời tước đi của Giáo hội sự đóng góp cho sứ mạng.

34. Điều xe ra thích hợp là tạo ra một thừa tác vụ lắng nghe và đồng hành được công nhận và thiết lập phù hợp, điều này sẽ làm cho đặc điểm đặc trưng này của một Giáo hội đồng nghị trở thành một thực tại lâu dài và hữu hình. Cần có một 'cánh cửa rộng mở' của cộng đồng, cho phép mọi người bước vào mà không cảm thấy bị đe dọa hay bị phán xét. Các hình thức thi hành thừa tác vụ này sẽ cần phải thích ứng với hoàn cảnh địa phương tùy theo sự đa dạng về kinh nghiệm, cơ cấu, bối cảnh xã hội và các nguồn lực sẵn có. Điều này mở ra một không gian cho việc phân định diễn ra ở cấp địa phương, với sự tham gia của các Hội đồng Giám mục quốc gia hoặc lục địa. Tuy nhiên, sự hiện diện của một thừa tác vụ cụ thể không có nghĩa là bảo lưu cam kết chỉ lắng nghe các thừa tác vụ này. Ngược lại, nó có tính chất tiên tri. Một mặt, nó nhấn mạnh rằng việc lắng nghe và đồng hành là một chiều kích bình thường trong đời sống của một Giáo hội đồng nghị, một Giáo hội thu hút tất cả những người đã được rửa tội theo những cách khác nhau và trong đó tất cả các cộng đồng đều được mời gọi phát triển; mặt khác, nó nhắc nhở chúng ta rằng việc lắng nghe và đồng hành là một công việc phục vụ của Giáo hội, không phải là một sáng kiến cá nhân, giá trị của nó như vậy đã được công nhận. Nhận thức này là thành quả trưởng thành của tiến trình đồng nghị.

Còn tiếp