Với các thừa tác viên thụ phong: phục vụ sự hòa hợp

35. Các dữ kiện tương phản xuất hiện từ tiến trình đồng nghị liên quan đến việc thực thi thừa tác vụ thụ phong trong dân Chúa. Một mặt, niềm vui, sự dấn thân và sự cống hiến của các giám mục, linh mục và phó tế khi thực hiện công việc phục vụ của mình được nhấn mạnh; mặt khác, họ đã nói về một sự mệt mỏi nhất định, trước hết liên quan đến cảm giác bị cô lập, cô đơn, bị cắt đứt khỏi các mối quan hệ lành mạnh và bền vững, và bị choáng ngợp bởi đòi hỏi cung cấp các câu trả lời cho mọi nhu cầu. Đây có thể là một trong những tác động độc hại của chủ nghĩa giáo sĩ trị. Đặc biệt, hình ảnh vị giám mục thường bị quá tải với những kỳ vọng phi thực tế về những gì một người có thể đạt được một cách hợp lý.

36. Cuộc gặp gỡ “Các linh mục giáo xứ cho Thượng Hội đồng” đã liên kết sự mệt mỏi này với khó khăn của các giám mục và linh mục trong việc thực sự cùng nhau đồng hành trong thừa tác vụ chung của mình. Do đó, việc hình dung lại thừa tác vụ thụ phong trong tầm nhìn của Giáo hội đồng nghị truyền giáo không chỉ là một yêu cầu về sự gắn kết mà còn là một cơ hội để thoát khỏi những gánh nặng này, miễn là nó đi kèm với một sự chuyển đổi hiệu quả các thực hành, tạo ra sự thay đổi và mang lại lợi ích xuất phát từ điều đó rõ ràng đối với các thừa tác viên thụ phong và các tín hữu khác. Ngoài hành trình hoán cải của các thừa tác viên thụ phong, con đường này sẽ đòi hỏi một cách suy nghĩ mới và tổ chức hoạt động mục vụ, trong đó tính đến sự tham gia của tất cả những người nam nữ đã được rửa tội vào sứ mệnh của Giáo hội, đặc biệt nhằm mục đích làm nổi bật, thừa nhận và làm sinh động các đặc sủng và thừa tác vụ do phép rửa khác nhau. Câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội đồng nghị truyền giáo?” thúc giục chúng ta suy gẫm một cách cụ thể về các mối quan hệ, cơ cấu và tiến trình có thể thúc đẩy một tầm nhìn đổi mới về thừa tác vụ thụ phong, chuyển từ cách thức thực thi thẩm quyền kim tự tháp sang cách thức đồng nghị. Trong khuôn khổ thúc đẩy các đặc sủng và thừa tác vụ rửa tội, có thể bắt đầu tái phân bổ các nhiệm vụ mà việc thực hiện không đòi hỏi bí tích Truyền chức. Một việc phân bổ trách nhiệm chi tiết hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình ra quyết định và thực hiện được đánh dấu bằng phong cách đồng nghị rõ ràng hơn.

37. Trong các văn bản Công đồng, thừa tác vụ thụ phong được quan niệm chủ yếu là việc phục vụ trong Giáo hội vì chính sự hiện hữu của Giáo hội. Bằng thẩm quyền của mình, Công đồng đã khôi phục lại hình thức thừa tác vụ thụ phong của Giáo hội sơ khai, một thừa tác vụ “được thực thi theo nhiều chúc thánh khác nhau bởi những người ngay từ xa xưa đã được gọi là giám mục, linh mục và phó tế” (LG 28). Trong cách phát biểu này, chức giám mục và linh mục tương ứng với sự tham gia đặc biệt vào chức linh mục của Chúa Kitô mục tử và là thủ lãnh của cộng đồng giáo hội, trong khi chức phó tế “không dành cho chức linh mục, nhưng dành cho thừa tác vụ” (LG 29). Các chức thánh khác nhau có mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong sự phụ thuộc lẫn nhau, trong tính đặc thù của từng chức thánh. Người thụ phong không thể nghĩ mình là những cá nhân biệt lập được trao quyền, nhưng là những người chia sẻ các hồng ân (munera) do chức thánh ban, vốn là của Chúa Kitô, trong tinh thần tập thể với các thừa tác viên thụ phong khác và trong mối liên kết hữu cơ với Dân Thiên Chúa mà ngài vốn là một phần và, mặc dù theo một cách khác, họ cũng chia sẻ những hồng ân đó của Chúa Kitô trong chức linh mục chung được thiết lập dựa trên Bí tích Rửa tội.

38. Giám mục có nhiệm vụ chủ trì một Giáo hội, là nguyên tắc hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo hội và là mối dây hiệp thông với tất cả các Giáo hội. Tính chất đặc biệt trong thừa tác vụ của ngài đòi hỏi một quyền năng riêng, thông thường và trực tiếp, những quyền mà mỗi giám mục đích thân thực thi nhân danh Chúa Kitô (x. LG 27) trong việc công bố Lời Chúa, chủ trì việc cử hành Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác, và hướng dẫn mục vụ. Điều này không có nghĩa là ngài phải tách rời khỏi phần Dân Thiên Chúa được ủy thác cho ngài (x. CD 11), và là phần mà ngài được mời gọi phục vụ nhân danh Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành. Sự kiện “sự viên mãn của bí tích truyền chức được ban bởi sự thánh hiến giám mục” (LG 21) không phải là sự biện minh cho một thừa tác vụ giám mục mang tính ‘quân chủ’, được quan niệm như một sự tích lũy các đặc quyền mà mọi đặc sủng và thừa tác vụ khác đều bắt nguồn từ đó. Thay vào đó, nó khẳng định khả năng và nhiệm vụ tập hợp và tổng hợp mọi hồng ân mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên những người nam nữ đã được rửa tội và trên các cộng đồng khác nhau trong sự hiệp nhất. Một số khía cạnh của thừa tác vụ giám mục, bao gồm các tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên cho chức giám mục, đang được Nhóm Nghiên cứu 7 đề cập đến.

39. Thừa tác vụ của các linh mục cũng phải được quan niệm và sống theo ý nghĩa đồng nghị. Đặc biệt, các linh mục “cùng với giám mục của mình thành lập một linh mục đoàn” (LG 28) để phục vụ phần Dân Thiên Chúa, tức là Giáo hội địa phương (x. CD 11). Điều này đòi hỏi chúng ta không coi giám mục là người ở bên ngoài hàng linh mục nhưng là người chủ trì một Giáo hội địa phương, trước hết là chủ tịch hàng linh mục của mình, trong đó ngài là một phần có tính chất đặc biệt, được kêu gọi thực hiện sự quan tâm đặc biệt đối với các linh mục.

40. Các giám mục và linh mục được các phó tế hỗ trợ trong mối liên kết phụ thuộc lẫn nhau giữa hai loại thừa tác vụ này để thực thi phục vụ tông đồ. Các giám mục và linh mục không độc lập với chức phó tế và ngược lại. Vì các chức năng của các phó tế rất nhiều - như truyền thống, lời cầu nguyện phụng vụ và thực hành hậu Vatican II cho thấy - chúng phải liên quan đến tính đặc thù và chuyên biệt của từng Giáo hội địa phương. Trong mọi trường hợp, việc phục vụ của mỗi phó tế phải được quan niệm một cách hài hòa và hiệp thông với tất cả các phó tế khác, phù hợp với bản chất của thừa tác vụ phó tế và trong khuôn khổ sứ mạng trong một Giáo hội đồng nghị.

41. Bên cạnh việc thúc đẩy sự hiệp nhất trong Giáo hội địa phương, Giám mục Giáo phận hoặc Giáo phận Đông phương, với sự hỗ trợ của các linh mục và phó tế, cũng chịu trách nhiệm về mối quan hệ với các Giáo hội địa phương khác và toàn thể Giáo hội xung quanh Giám mục Rôma trong việc trao đổi hồng phúc lẫn nhau. Việc tái lập mối liên kết truyền thống giữa chức vụ giám mục và chủ trì một Giáo hội địa phương là điều quan trọng, khôi phục sự tương ứng giữa sự hiệp thông của các giám mục (communio episcoporum) và sự hiệp thông của các Giáo hội (communio Ecclesiarum).

Giữa các Giáo hội và trên thế giới: tính cụ thể của sự hiệp thông

42. Tính đồng nghị được thực hiện thông qua mạng lưới con người, cộng đồng, tổ chức và một loạt các quy trình cho phép trao đổi hiệu quả các hồng phúc giữa các Giáo hội và đối thoại truyền giáo với thế giới. Cùng nhau bước đi như những người đã được rửa tội trong sự đa dạng của các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ, cũng như trong việc trao đổi hồng phúc giữa các Giáo hội, là một dấu chỉ bí tích quan trọng đối với thế giới ngày nay, một mặt, đang trải qua những hình thức liên kết ngày càng mãnh liệt, và mặt khác chìm đắm trong một nền văn hóa thương mại gạt bỏ tính nhưng không.

43. Theo Công đồng, chính nhờ tính Công Giáo của Giáo hội mà “các bộ phận riêng lẻ mang tài năng riêng của mình đến với các bộ phận khác và với toàn thể" (LG 13). "Giữa các bộ phận khác nhau của Giáo Hội có những mối liên kết hiệp thông mật thiết về sự phong phú thiêng liêng, những người hoạt động tông đồ và những nguồn lực vật chất. Vì các thành viên của dân Chúa được kêu gọi chia sẻ của cải của mình, và những lời của thánh tông đồ cũng có thể áp dụng cho các giáo hội cá thể: 'Mỗi người đã nhận được một ân sủng, hãy sử dụng nó cho nhau, như những người quản lý tốt các ân sủng khác nhau của Thiên Chúa. ' (1 Pr 4: 10)” (ibid.).

44. Các Hội đồng Giám mục hy vọng rằng của cải sẽ được chia sẻ trong tinh thần liên đới giữa các Giáo hội làm nên Giáo Hội Công Giáo duy nhất và độc đáo, không có bất cứ mong muốn thống trị hay đòi hỏi quyền thống trị nào. Sự hiện hữu của những Giáo hội giàu có và những Giáo hội đang sống trong khó khăn lớn lao là một điều tai tiếng. Do đó, đề nghị nên thực hiện các thỏa thuận để thúc đẩy các mối quan hệ hỗ tương và hình thành các mạng lưới hỗ trợ, kể cả trong bối cảnh tập hợp các Giáo hội.

45. Tất cả các Giáo hội địa phương đón nhận và cho đi trong sự hiệp thông của Giáo hội duy nhất. Có những Giáo hội cần sự hỗ trợ về tài chính và vật chất; những giáo hội khác được phong phú hóa nhờ chứng tá đức tin sống động và yêu thương phục vụ những người nghèo nhất; trên hết vẫn còn những giáo hội khác cần sự giúp đỡ của những nhà truyền giáo, những người cống hiến cả cuộc đời mình để truyền đạt Tin Mừng cho các dân tộc khác. Đặc biệt, lòng quảng đại của các linh mục, phó tế, các tu sĩ nam nữ, giáo dân nam nữ dấn thân vào sứ mạng ad gentes được ghi nhận và kêu gọi.

46. Các Giáo hội địa phương bày tỏ mong muốn trao đổi các hồng phúc thiêng liêng, phụng vụ và thần học cũng như mong muốn chia sẻ chứng tá nhiều hơn về các vấn đề xã hội có tầm quan trọng hoàn cầu, chẳng hạn như việc chăm sóc ngôi nhà chung và các phong trào di cư. Về vấn đề này, một Giáo hội đồng nghị sẽ có thể làm chứng về tầm quan trọng của các giải pháp cho các vấn đề chung đang được giải quyết dựa trên việc lắng nghe tiếng nói của tất cả mọi người, đặc biệt là những nhóm, cộng đồng và quốc gia thường đứng bên lề các tiến trình hoàn cầu quan trọng. Ngày nay, các khu vực địa lý siêu quốc gia rộng lớn, chẳng hạn như Amazon, lưu vực Congo, Địa Trung Hải hoặc các khu vực tương tự, là những khu vực đặc biệt hứa hẹn để thực hiện các hình thức trao đổi hồng phúc và phối hợp nỗ lực.

47. Đặc biệt, một Giáo hội đồng nghị được mời gọi tiếp cận thực tại di chuyển nhân bản từ góc độ trao đổi hồng phúc. Đây có thể là cơ hội cho những cuộc gặp gỡ giữa các Giáo hội trong đời sống cụ thể hàng ngày của các thành phố và khu vực lân cận, của các Giáo xứ và Giáo phận hoặc Giáo phận Đông phương. Bằng cách này, con đường đồng nghị bắt nguồn từ kinh nghiệm của các cộng đồng. Cần đặc biệt chú ý đến khả năng gặp gỡ và trao đổi hồng phúc giữa các Giáo hội theo truyền thống Latinh và các Giáo Hội Công Giáo Đông phương ở hải ngoại. Nhóm nghiên cứu 1 đang thực hiện chủ đề này.

48. Việc trao đổi hồng phúc giữa các Giáo hội diễn ra trong bối cảnh bị đánh dấu bởi bạo lực, bách hại và thiếu tự do tôn giáo; thực vậy, một số Giáo hội đấu tranh cho chính sự sống còn của mình và cầu xin sự liên đới với các Giáo hội khác trong khi họ tiếp tục chia sẻ sự phong phú của mình, kết quả của việc liên tục gặp phải sự chống đối Tin Mừng và cuộc bách hại mà các môn đệ của Chúa phải đối mặt trong suốt lịch sử. Hơn nữa, việc trao đổi hồng phúc diễn ra trong bối cảnh vẫn bị lu mờ bởi các hình thức tiếp tục của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới. Một Giáo hội đang phát triển trong việc thực hành tính đồng nghị được mời gọi hiểu tác động của những động lực xã hội này đối với việc trao đổi hồng phúc và tìm cách biến đổi chúng. Ngoài ra, một phần của cam kết này là sự thừa nhận rằng nhiều Giáo hội mang trong mình một ký ức bị tổn thương và cần phải thúc đẩy những con đường hòa giải.

49. Khái niệm 'trao đổi hồng phúc' có ý nghĩa đặc biệt trong mối quan hệ với các Giáo hội và Cộng đồng giáo hội khác. Thánh Gioan Phaolô II đã áp dụng ý tưởng này vào cuộc đối thoại đại kết: “Đối thoại không chỉ là trao đổi ý tưởng. Ở một khía cạnh nào đó, nó luôn là ‘trao đổi hồng phúc’” (UUS 28). Bên cạnh việc đối thoại thần học, việc trao đổi hồng phúc diễn ra trong việc chia sẻ cầu nguyện, qua đó chúng ta mở lòng đón nhận những hồng phúc của các truyền thống tâm linh khác với truyền thống của chúng ta. Chẳng hạn, cuộc đời và những hiểu biết thiêng liêng của các vị thánh nam nữ thuộc các Giáo hội và Cộng đồng giáo hội khác cũng là những món quà mà chúng ta có thể nhận được, ghi nhớ những kỷ niệm của họ vào lịch phụng vụ của chúng ta, đặc biệt là các vị tử đạo. Theo tinh thần này, chúng ta cũng phải quảng đại, tạo cơ hội cho các Kitô hữu khác đến hành hương và cầu nguyện tại các đền thánh và thánh địa mà Giáo Hội Công Giáo là người trông coi.

50. Đối thoại giữa các tôn giáo và với các nền văn hóa không nằm ngoài hành trình đồng nghị nhưng là một phần trong lời kêu gọi sống các mối quan hệ gần gũi hơn, vì "Ở mọi thời điểm và ở mọi quốc gia, bất cứ ai kính sợ Thiên Chúa và làm điều đúng đều được Thiên Chúa chấp nhận" ( LG9). Vì vậy, việc trao đổi hồng phúc không chỉ giới hạn ở các Giáo hội Kitô giáo bởi vì một người Công Giáo đích thực mở rộng chân trời và kêu gọi sự sẵn sàng đón nhận những yếu tố thúc đẩy Sự sống, hòa bình, công lý và sự phát triển con người toàn diện hiện diện trong các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo khác.

Phần II – Các nẻo đường

Một Giáo hội đồng nghị là một Giáo hội tương quan, trong đó các động lực liên bản vị hình thành nên cơ cấu đời sống của một cộng đồng hướng đến truyền giáo, cuộc sống của cộng đồng này diễn ra trong những bối cảnh ngày càng phức tạp. Cách tiếp cận được đề xuất ở đây không tách rời nhưng nắm bắt được mối liên hệ giữa các kinh nghiệm, cho phép chúng ta học hỏi từ thực tại, được đọc lại dưới ánh sáng Lời Chúa, từ Truyền thống, từ các chứng nhân tiên tri, và cũng suy gẫm về những sai lầm đã phạm.

Phần II nhấn mạnh các tiến trình bảo đảm việc chăm sóc và phát triển các mối quan hệ, đặc biệt là sự kết hợp với Chúa Kitô, hướng tới sứ mệnh và sự hòa hợp của đời sống cộng đồng thông qua khả năng cùng nhau đối mặt với những xung đột và khó khăn. Phần này tập trung vào bốn lĩnh vực riêng biệt nhưng đan xen sâu sắc trong đời sống của Giáo hội đồng nghị truyền giáo: đào tạo, đặc biệt là lắng nghe (Lời Chúa, anh chị em và tiếng nói của Chúa Thánh Thần) và sự phân định, dẫn dắt tới sự phát triển của việc ra quyết định có sự tham gia và đảm nhận việc tôn trọng các vai trò khác nhau có liên quan, trong mối quan hệ hỗ tương nhằm thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và mở ra không gian một lần nữa để giúp phân định sứ mệnh.

Nguồn mạch và đỉnh cao của động lực này là Bí tích Thánh Thể, đặt vào trung tâm của mọi mối quan hệ tình yêu nhưng không của Chúa Cha qua Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Bánh hàng ngày nuôi dưỡng một Giáo hội đồng nghị truyền giáo cũng là nội dung của lời loan báo của Giáo hội này với thế giới.


Một sự đào luyện toàn diện và chia sẻ

51. “Mỗi người đã rửa tội được kêu gọi quan tâm đến việc đào tạo của mình như một sự đáp lại những hồng ân của Chúa, sử dụng những tài năng họ đã nhận được để sinh hoa trái và phục vụ mọi người” (SR 14a). Những lời này từ Báo cáo Tổng hợp của Phiên họp đầu tiên giải thích tại sao nhu cầu đào tạo là một trong những chủ đề nổi lên một cách phổ biến và mạnh mẽ nhất trong suốt Tiến trình đồng nghị. Do đó, để trả lời câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội đồng nghị truyền giáo?” đòi hỏi phải ưu tiên các con đường đào tạo hiệu quả, đặc biệt chú ý đến việc đào tạo liên tục cho mọi người.

52. Đối với nhiều người, việc tham gia các cuộc họp đồng nghị là một cơ hội để được đào tạo trong sự hiểu biết và thực hành về tính đồng nghị. Điều này đã khơi dậy ước muốn mạnh mẽ tìm hiểu rõ hơn ý nghĩa của phẩm giá bí tích rửa tội hay “cảm thức đức tin siêu nhiên” (LG 12) mà Chúa Thánh Thần ban tặng cho Dân Thiên Chúa. Do đó, nhu cầu đầu tiên là đào tạo sâu hơn về cách thức Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội và hướng dẫn Giáo hội qua lịch sử.

53. Cũng như không có sứ mạng nào mà không có bối cảnh, không có Giáo hội nào không bén rễ ở một nơi nhất định, với nền văn hóa đặc thù và lịch sử độc đáo của nó. Đây là lý do tại sao không thể hình dung ra những sáng kiến đào tạo trừu tượng. Những điều này phải được xác định bởi các Giáo hội địa phương và các nhóm của họ, các Hội đồng Giám mục và các cơ cấu phẩm trật tương đương của Đông phương. Do đó, tài liệu này sẽ tự giới hạn trong việc chỉ ra một số hướng dẫn và đặc điểm cơ bản của việc đào tạo liên quan đến tính đồng nghị, sau đó cần được đưa vào thực hành, có tính đến bối cảnh, văn hóa và truyền thống cụ thể của một địa điểm nhất định.

54. Một Giáo hội truyền giáo mang tính đồng nghị đặt nền tảng trên khả năng lắng nghe, điều này đòi hỏi phải thừa nhận rằng không ai có thể tự túc trong sứ mạng của Giáo hội và mọi người đều có sự đóng góp để cống hiến và điều gì đó để học hỏi từ người khác. Vì vậy, việc đào luyện khả năng lắng nghe là một yêu cầu thiết yếu ban đầu. Việc thực hành đàm đạo trong Chúa Thánh Thần đã giúp chúng ta trải nghiệm được việc lắng nghe Lời Chúa và anh chị em của chúng ta có thể được đan kết với nhau như thế nào và động lực này dần dần mở ra cho người ta việc lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần như thế nào. Đã nhận được nhiều đóng góp nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đào tạo theo phương pháp này. Giáo hội có nhiều phương pháp lắng nghe, đối thoại và phân định đa dạng, phát sinh từ các nền văn hóa và truyền thống tâm linh khác nhau. Điều quan trọng là phải thúc đẩy việc đào tạo về các phương pháp đa dạng này cũng như việc đối thoại giữa chúng trong bối cảnh địa phương. Điểm mấu chốt trong vấn đề này là lắng nghe những người trải qua nhiều hình thức nghèo đói và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nhiều Giáo hội địa phương cho biết họ cảm thấy chưa được chuẩn bị cho nhiệm vụ này và bày tỏ sự cần thiết phải đào tạo cụ thể. Đây là một trong những điểm được giao phó cho công việc của Nhóm Nghiên cứu 2.

55. Mục đích của việc đào tạo theo quan điểm đồng nghị truyền giáo là đào tạo những chứng nhân, nghĩa là: những người nam nữ có khả năng đảm nhận sứ mệnh của Giáo hội trong tinh thần đồng trách nhiệm và hợp tác với quyền năng của Chúa Thánh Thần (Cv 1:8). Do đó, việc đào tạo dựa trên tính năng động của việc khai tâm Kitô giáo, nhằm thúc đẩy kinh nghiệm bản thân về cuộc gặp gỡ với Chúa, đòi hỏi một quá trình liên tục khéo léo chuyển đổi thái độ, mối quan hệ, tâm lý và cấu trúc của chúng ta. Chủ thể của sứ mạng luôn là Giáo hội, và mỗi thành viên của Giáo hội là chứng nhân và là người loan báo ơn cứu độ nhờ Bí tích Rửa tội. Bí tích Thánh Thể, “nguồn mạch và đỉnh cao của mọi đời sống Kitô hữu” (LG 11), là bối cảnh nền tảng của việc đào tạo chúng ta trong tính đồng nghị. Là một cộng đồng sự sống và tình yêu, gia đình là nơi đặc biệt để giáo dục đức tin và thực hành Kitô giáo. Trong sự đan xen của các thế hệ, đó là một trường học của tính đồng nghị, mời gọi mọi người quan tâm đến người khác và làm cho mọi người - kẻ yếu và kẻ mạnh, trẻ em, già và trẻ - có nhiều thứ để nhận và nhiều thứ để cho đi.

56. Trong một Giáo hội đồng nghị, việc đào tạo phải mang tính toàn diện. Thật vậy, nó không chỉ nhằm mục đích tiếp thu những ý tưởng, niềm tin hoặc kỹ năng khác nhau mà còn nhằm thúc đẩy khả năng gặp gỡ, chia sẻ, hợp tác và phân định chung. Do đó, việc đào tạo phải thu hút mọi chiều kích của con người: trí tuệ, tình cảm và thiêng liêng. Nó không thể chỉ là một việc đào tạo thuần túy lý thuyết nhưng phải bao gồm những kinh nghiệm cụ thể và sự đồng hành đầy ý nghĩa. Điều quan trọng không kém là thúc đẩy kiến thức về các nền văn hóa nơi các Giáo hội địa phương sống và làm việc, bao gồm cả nền văn hóa kỹ thuật số, vốn đã trở nên phổ biến, đặc biệt là trong giới trẻ. Công việc của Nhóm Nghiên cứu 3 được dành cho văn hóa kỹ thuật số và thúc đẩy việc đào tạo phù hợp trong lĩnh vực này.

57. Cuối cùng, đã có một sự nhấn mạnh rõ ràng về sự cần thiết của một nền đào tạo mang tính cộng đồng và chia sẻ, trong đó các giáo dân nam nữ, các tu sĩ nam nữ, các thừa tác viên thụ phong và các ứng viên cho mục vụ thụ phong cùng nhau tham gia, nhờ đó giúp họ phát triển trong sự hiểu biết lẫn nhau và sự tôn trọng lẫn nhau cũng như khả năng hợp tác của họ. Để đạt được mục tiêu này, cần đặc biệt chú ý thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các chương trình đào tạo cùng với các chủng sinh, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Điều cực kỳ quan trọng là phụ nữ có quyền tiếp cận các vai trò giảng dạy và đào tạo trong các khoa thần học, học viện và chủng viện. Người ta cũng đề nghị rằng các linh mục, giám mục và giáo dân nên được đào tạo để họ nhận thức được vai trò và nhiệm vụ mà phụ nữ có thể thực hiện trong Giáo hội và việc đánh giá việc sử dụng hiệu quả các cơ hội này phải được thúc đẩy trong mọi lĩnh vực của đời sống Giáo hội: Các giáo xứ, giáo phận, hiệp hội giáo dân, phong trào giáo hội, cộng đồng mới, đời sống thánh hiến, các tổ chức giáo hội và Giáo triều Rôma. Công việc của Nhóm Nghiên cứu 4 được dành để xem xét lại việc đào tạo các ứng viên cho thừa tác vụ thụ phong (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis) từ góc độ đồng nghị truyền giáo. Một yêu cầu đến từ mọi châu lục là cải thiện việc huấn luyện rao giảng. Cuối cùng, cần phải có một cuộc đào tạo chung vừa mang tính lý thuyết vừa thực hành trong việc phân định cộng đoàn trong nội bộ và phù hợp với các bối cảnh địa phương khác nhau.

Sự phân định của Giáo hội đối với sứ mạng

58. Một Chúa Thánh Thần duy nhất, Đấng phát sinh ra nhiều đặc sủng khác nhau, hướng dẫn Giáo Hội hướng tới sự sống viên mãn và chân lý thần linh (x. Ga 10:10; 16:13). Nhờ sự hiện diện và hoạt động liên tục của Chúa Thánh Thần, “truyền thống bắt nguồn từ các tông đồ được tiến triển trong Giáo hội” (DV 8). Nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Dân Thiên Chúa, với tư cách là những người tham dự vào chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô (x. LG 12), “phân biệt được những dấu hiệu thực sự về sự hiện diện và mục đích của Thiên Chúa trong các biến cố, những nhu cầu và mong muốn mà Người chia sẻ với phần còn lại của nhân loại hiện đại” (GS 11). Đối với nhiệm vụ phân định này của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần ban cảm thức đức tin, có thể được mô tả là “khả năng bản năng để phân biệt những đường lối mới mà Chúa đang mạc khải cho Giáo Hội” (Đức Phanxicô, Diễn văn nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015).

59. Sự biện phân buộc những người tham gia ở bình diện bản thân và tất cả cùng nhau tham gia ở bình diện cộng đồng phải vun trồng những khuynh hướng tự do nội tâm, cởi mở với những điều mới mẻ và tin tưởng đầu phục ý muốn của Thiên Chúa để lắng nghe nhau cũng như được nghe “ điều Chúa Thánh Thần phán với các Hội thánh” (Khải Huyền 2:7). Đức Maria, với sự hiện diện cầu nguyện của ngài ở trung tâm cộng đồng tông đồ trong nhà tiệc ly (x. Cv 1,14), đối với tất cả mọi người, là mẫu mực sống động và là người hướng dẫn sinh động cho một nền linh đạo đồng nghị đích thực: trong việc kiên trì và có trách nhiệm lắng nghe Lời Chúa và trong suy niệm việc phân định các biến cố (x. Lc 1:26-38; 2:19.51), trong sự cởi mở quảng đại trước tác động của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1:35), trong việc chia sẻ lời tạ ơn vì công việc của Chúa (x. Lc 1:39-56), và phục vụ cụ thể và kịp thời cho từng người (x. Ga 2,1-12) mà Chúa Giêsu giao phó cho Mẹ chăm sóc (x. Ga 19,25-27).

60. Chính trong chừng mực nó đòi hỏi mỗi người phải chia sẻ quan điểm của mình về sứ mệnh chung mà chúng ta chia sẻ, một tiến trình phân định khớp nối một cách cụ thể sự hiệp thông, sứ mệnh và sự tham gia. Nói cách khác, đó là một cách cùng nhau bước đi. Đây là lý do tại sao nó là điều cốt yếu để thúc đẩy sự tham gia rộng rãi vào các tiến trình phân định, đặc biệt quan tâm đến sự tham gia của những người ở bên lề cộng đồng và xã hội.

61. Điểm khởi đầu của mọi sự phân định của Giáo Hội là lắng nghe Lời Chúa. Thánh Kinh là chứng tá tuyệt hảo cho việc Thiên Chúa giao tiếp với nhân loại. Chúng làm chứng rằng Thiên Chúa đã nói với Dân Người và tiếp tục làm như vậy, đồng thời chúng trình bày những kênh khác nhau để việc giao tiếp này diễn ra. Thiên Chúa phán qua việc bản thân suy niệm Kinh Thánh, điều này vang vọng trong tâm hồn những người cầu nguyện bằng Kinh Thánh. Thiên Chúa nói với cộng đoàn trong phụng vụ, nơi ưu việt để giải thích những gì Chúa nói với Giáo Hội của Người. Thiên Chúa nói qua Giáo hội, vừa là Mẹ vừa là Thầy, qua Truyền thống và thực hành sống động của Giáo hội, bao gồm cả những điều đạo đức bình dân. Thiên Chúa tiếp tục lên tiếng qua các biến cố trong không gian và thời gian, miễn là chúng ta biết cách nhận ra ý nghĩa của chúng. Hơn nữa, Thiên Chúa giao tiếp với Dân Người qua thế giới tự nhiên, mà chính sự hiện hữu của nó hướng chúng ta đến công trình của Đấng Tạo Hóa, tràn đầy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống. Cuối cùng, Thiên Chúa lên tiếng trong lương tâm của mỗi người, lương tâm “là trung tâm và thánh đường thân mật nhất của con người, trong đó họ ở một mình với Thiên Chúa, Đấng có tiếng vang vọng trong họ” (GS 16). Một sự phân định đích thực không thể bỏ qua bất cứ kênh truyền thông thần linh nào.

62. Sự phân định cộng đồng không phải là một kỹ thuật tổ chức đơn thuần nhưng là một thực hành đòi hỏi khắt khe nhằm đánh giá đời sống và sứ mạng của Giáo hội được sống thực trong Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Vì lý do này, nó phải luôn được thực hiện với ý thức và ý muốn tụ tập nhân danh Chúa Giêsu (x. Mt 18:20), lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Như Chúa Giêsu đã hứa, chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể dẫn dắt Giáo hội đến sự sống và sự thật viên mãn (x. Ga 16,13), để những điều này có thể sẵn sàng cho một thế giới đang khao khát ý nghĩa. Phương tiện để dân Chúa thực hiện sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của mình bắt nguồn từ đây. Do đó, ưu tiên hàng đầu là học cách thực hành ở mọi bình diện nghệ thuật truyền giáo đã giúp cộng đồng các tông đồ ở Giêrusalem mô tả đặc điểm của sự kiện Thượng Hội đồng đầu tiên trong lịch sử Giáo hội bằng những lời này: “Vì điều đó có vẻ tốt đối với Thánh Thần và đối với chúng tôi” (Cv 15,28). Chính trong tinh thần này mà việc thực hành đời sống đồng nghị truyền giáo của Giáo hội diễn ra ở những địa điểm, cơ cấu và biến cố cụ thể phải được hiểu và định hướng.

63. Các lựa chọn thủ tục cụ thể, dù đa dạng, phải phù hợp với các yêu cầu của phương pháp thần học cơ bản của đồng nghị. Dựa trên kinh nghiệm của diễn trình đồng nghị, có thể xác định một số yếu tố chính, bao gồm nhu cầu về (a) đời sống cầu nguyện bản thân và cộng đồng, bao gồm cả việc tham dự Bí tích Thánh Thể; (b) sự chuẩn bị đầy đủ về bản thân và cộng đồng, dựa trên việc lắng nghe Lời Chúa và thực tại; (c) tôn trọng và lắng nghe sâu sắc lời nói của mỗi người; (d) việc tìm kiếm sự đồng thuận rộng rãi nhất có thể không phải bằng cách tìm ra mẫu số chung thấp nhất, mà bằng cách tràn ngập, nhắm đến điều “làm con tim cháy bỏng” nhất (x. Lc 24,32); và (e) mặc dù sự đồng thuận được những người tiến hành quy trình đưa ra nhưng nó phải được gửi lại cho tất cả những người tham gia để họ có thể xác minh sự thể hiện của mình trong công thức đó.

64. Việc biện phân luôn diễn ra “với đôi chân trên mặt đất”, nghĩa là trong một bối cảnh cụ thể, nhận thức được những đặc thù và sự phức tạp của nó. Do đó, sự biện phân chỉ có thể được hưởng lợi từ sự đóng góp phân tích của các ngành khoa học nhân văn, xã hội và hành chính khác nhau liên quan đến vấn đề hiện tại. Điều này không có nghĩa là chuyên môn khoa học và kỹ thuật là người quyết định cuối cùng – cách tiếp cận như vậy sẽ tạo nên sự trôi dạt mang tính kỹ trị. Đúng hơn, mục đích là “cung cấp một nền tảng cụ thể cho hành trình đạo đức và thiêng liêng sau đó” (LS 15). Vì vậy, những hình thức chuyên môn này phải có cơ hội đóng góp quan trọng mà không lấn át các quan điểm khác.

65. Trong Giáo hội, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân định và nhiều phương pháp luận đã được thiết lập rõ ràng. Sự đa dạng này là sự phong phú. Với sự thích ứng phù hợp với các bối cảnh khác nhau, việc sử dụng các phương pháp tiếp cận đa dạng này đã chứng tỏ mang lại hiệu quả. Để hướng tới công ích, chúng nên tham gia vào một cuộc đối thoại hiệu quả mà không làm loãng đi những đặc điểm riêng hoặc những cố thủ mang căn tính của mình. Hiệu quả của Cuộc đàm đạo trong Chúa Thánh Thần, rõ ràng ở tất cả các giai đoạn của tiến trình đồng nghị, mời gọi chúng ta coi hình thức biện phân đặc biệt này của giáo hội là đặc biệt phù hợp với việc thực thi tính đồng nghị.

66. Trong các Giáo hội địa phương, điều cần thiết là cung cấp các cơ hội đào tạo nhằm truyền bá và nuôi dưỡng nền văn hóa phân định, đặc biệt là nơi những người có trách nhiệm. Điều quan trọng không kém là việc đào tạo những người đồng hành hoặc những người điều phối, những người mà sự đóng góp của họ thường tỏ ra quan trọng trong việc thực hiện các tiến trình phân định. Công việc của Nhóm Nghiên cứu 9, dành riêng cho việc chuẩn bị các tiêu chuẩn thần học và các phương pháp luận đồng nghị để cùng phân định các vấn đề giáo lý, mục vụ và đạo đức gây tranh cãi, diễn ra theo những đường lối này.

Các diễn trình tạo quyết định

67. “Trong Giáo hội đồng nghị, toàn thể cộng đồng, trong sự đa dạng tự do và phong phú của các thành viên, được kêu gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, đối thoại, biện phân và đưa ra lời khuyên về việc tạo ra các quyết định mục vụ phù hợp nhất có thể với ý muốn của Thiên Chúa ” (ITC 68). Tuyên bố này cần phải được thực hiện một cách dứt khoát. Thật khó tưởng tượng một cách hiệu quả để thúc đẩy một Giáo hội đồng nghị hơn là sự tham gia của tất cả mọi người vào quá trình ra quyết định và thực hiện. Sự tham gia này diễn ra dựa trên trách nhiệm khác biệt, tôn trọng từng thành viên cộng đồng và đánh giá cao các kỹ năng cũng như năng khiếu tương ứng của họ theo quan điểm đưa ra quyết định chung.

68. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tầm nhìn như vậy, sẽ rất hữu ích khi suy gẫm về cách thức hình thành các quá trình ra quyết định như vậy. Giai đoạn sau thường bao gồm một giai đoạn tham gia và xây dựng (ra quyết định, theo thuật ngữ tiếng Anh cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác) “thông qua việc thực hiện chung việc phân định, tham vấn và hợp tác” (ITC 69), thông báo và hỗ trợ quyết định được đưa ra sau đó, quyết định cuối cùng thuộc trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền (ví dụ, trong một Giáo phận hoặc Giáo phận, là giám mục). Không có sự cạnh tranh hay xung đột giữa hai giai đoạn, nhưng bằng sự kết hợp của chúng, chúng góp phần đảm bảo rằng các quyết định được đưa ra càng phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa càng tốt: “Việc giải quyết mọi việc là một nhiệm vụ đồng nghị; quyết định này là trách nhiệm thừa tác vụ” (sđd.).

69. Trong nhiều trường hợp, luật hiện hành đã quy định rằng trước khi quyết định, cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ tiến hành tham vấn. Việc tham khảo ý kiến của Giáo Hội này không thể bị bỏ qua và vượt xa việc lắng nghe vì nó buộc nhà chức trách không được tiến hành như thể nó chưa hề diễn ra. Thẩm quyền vẫn mãi tự do có quan điểm pháp lý vì ý kiến tham vấn không mang tính ràng buộc, nhưng nếu có một thỏa thuận chung, thì thẩm quyền sẽ không rời bỏ thỏa thuận đó nếu không có lý do thuyết phục (sine praevalentiratione; CIC, Canon 127, §2, 2 °). Nếu cơ quan có thẩm quyền làm như vậy, cơ quan đó sẽ tự cô lập mình khỏi những người được hỏi ý kiến, làm tổn hại đến mối liên kết gắn kết họ. Trong Giáo hội, việc thực thi quyền bính không hệ tại việc áp đặt một ý chí độc đoán, nhưng tạo thành một sức mạnh điều tiết trong việc cùng nhau tìm kiếm những gì Chúa Thánh Thần đòi hỏi, như một thừa tác vụ phục vụ sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa.

70. Trong một Giáo hội đồng nghị, trách nhiệm của giám mục, Giám mục đoàn và Giám mục Rôma trong việc đưa ra các quyết định là không thể thay đổi vì nó bắt nguồn từ cơ cấu phẩm trật của Giáo hội do Chúa Kitô thiết lập. Tuy nhiên, nó không phải là vô điều kiện. Không thể bỏ qua một định hướng nổi lên trong quá trình tham vấn như là kết quả của sự phân định đúng đắn, đặc biệt nếu được thực hiện bởi các cơ quan tham gia của Giáo hội địa phương. Mục đích của việc biện phân Giáo hội mang tính đồng nghị không phải là làm cho các giám mục tuân theo tiếng nói của người dân, bắt phục tùng người dân, cũng không cung ứng cho các giám mục một phương tiện để đưa ra những quyết định đã được đưa ra có vẻ dễ chấp nhận hơn, mà đúng hơn là dẫn đến việc một quyết định chung trong sự vâng phục Chúa Thánh Thần. Do đó, bất cứ sự đối lập nào giữa tham vấn và thảo luận đều không thỏa đáng: trong Giáo hội, việc thảo luận diễn ra với sự giúp đỡ của tất cả mọi người, không bao giờ thiếu thẩm quyền mục vụ đưa ra các quyết định theo chức vụ của mình. Vì lý do này, công thức lặp đi lặp lại trong Bộ Giáo luật, nói về ‘việc bỏ phiếu tư vấn mà thôi’ (tantum Consultantivum), làm giảm giá trị của việc tham vấn và cần được sửa lại.

71. Các Giáo hội địa phương có trách nhiệm ngày càng thực hiện tất cả các khả năng mang lại sức sống cho các tiến trình đưa ra quyết định mang tính đồng nghị đích thực phù hợp với các chuyên biệt của bối cảnh. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách vì việc thực hiện thành công Thượng Hội đồng phần lớn phụ thuộc vào nó. Nếu không có những thay đổi hữu hình, tầm nhìn về một Giáo hội đồng nghị sẽ không đáng tin cậy. Điều này sẽ khiến những thành viên dân Chúa xa lánh, những người đã tìm được sức mạnh và niềm hy vọng từ hành trình đồng nghị. Điều này đặc biệt áp dụng cho sự tham gia hiệu quả của phụ nữ trong quá trình soạn thảo, ra quyết định và thực hiện, như được kêu gọi trong nhiều đóng góp nhận được từ các Hội đồng Giám mục.

72. Cuối cùng, không nên quên rằng các quá trình tham vấn, phân định cộng đồng và đưa ra quyết định của đồng nghị đòi hỏi những người tham gia phải có quyền truy cập hiệu quả vào tất cả các thông tin liên quan để họ có thể đưa ra quan điểm hợp lý của riêng họ. Thẩm quyền khởi xướng quá trình này có trách nhiệm đảm bảo điều này xảy ra. Các diễn trình ra quyết định hợp lý của Thượng hội đồng đòi hỏi mức độ minh bạch thích hợp. Tương tự như vậy, điều quan trọng là phải nhận ra sự phức tạp của nhiệm vụ và trách nhiệm đặc biệt của những người bày tỏ ý kiến của mình trong một cuộc tham vấn.

Còn tiếp