Khi Harvard dạy kinh tế tư bản ở VN

Tiếp tục loạt bài nói về giáo dục ở Việt Nam, phóng viên của tờ báo Mỹ Chronicle of Higher Education đã tìm hiểu về một chương trình giảng dạy kinh tế do Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard hợp tác thực hiện với Đại học Kinh tế TP. HCM.

Khi mới khởi đầu từ giữa thập niên 1990, chương trình này của Đại học Harvard vất vả tìm kiếm học viên.

Như phóng viên Martha Ann Overland viết trên báo Chronicle of Higher Education, số ra ngày 9-6-2006, lúc mới bắt đầu, chương trình một năm này hứa hẹn miễn học phí, nơi ở, thậm chí có tiền tiêu vặt hàng tháng, nhưng “vết thương từ cuộc chiến còn mới, và nghi ngờ còn hằn sâu.”

“Chương trình không thể đăng quảng cáo, nên nó phải nhờ giới chức ở các tỉnh và công ty nhà nước đề cử người đi học. Không ai biết việc được cử đến một chương trình của Harvard để học về thị trường tự do là phần thưởng hay trừng phạt.”

Khi Harvard mới tiếp cận Việt Nam, ý tưởng giảng cho những người cộng sản cách trở thành nhà tư bản là một quan niệm bất thường.

Nhiều người, trong đó có Thượng nghị sĩ John F. Kerry và John McCain, tin rằng đây có thể là cách cải thiện quan hệ song phương. Ngay cả bây giờ, chương trình với chi phí hai triệu đôla này cũng chủ yếu nhận tài chính từ Bộ Ngoại giao Mỹ và vẫn được xem là một sứ mạng ngoại giao.

Nội dung khác

10 năm đi qua, chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright ở TP. HCM đã trở thành một trong những khóa ăn khách nhất ở Việt Nam.

Chương trình bộc lộ các vấn đề của một nền kinh tế kế hoạch và xem xét những vấn nạn thường gặp ở các công ty quốc doanh.

Ông Châu Văn Thành, giám đốc đào tạo chương trình, nói cách dạy ở đây cũng khác.

Sinh viên được khuyến khích tranh luận và thách thức. Ngay cả đến hôm nay, quá trình này vẫn có thể gây khó cho học viên, những người được nuôi lớn với ý niệm rằng đặt nghi vấn với giáo viên không chỉ là bất kính, mà còn đáng xấu hổ.

Một chi tiết làm các học viên tốt nghiệp hàng năm không vui là họ không được nhận bằng cao học. Một lý do là vì Harvard không đồng ý tuân theo các quy định của chính phủ Việt Nam, ví dụ như giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Dù sao thì khi kết thúc khóa học thành công, các học viên nhận được một chứng chỉ chứng nhận họ đã hoàn thành chương trình.

Sau 20 năm làm quen với kinh tế thị trường, nhiều quan niệm mà chương trình giảng dạy không còn mới mẻ ở Việt Nam.

Ông David O. Dapice, một giáo sư nhiều năm giảng dạy ở chương trình, nói đa số sinh viên nay lớn lên cùng cải cách. Họ hiểu độc quyền làm tăng giá cả. Cứ thử quan sát sự bùng nổ các công ty viễn thông gần đây đã khiến giá các cuộc gọi giảm so với trước như thế nào.

Tuy vậy, nhiều sinh viên vẫn đến với chương trình mang theo những tư tưởng cũ. Ông Vũ Thành Tự Anh, phó giám đốc phụ trách nghiên cứu của chương trình, nói lý do chủ yếu là ảnh hưởng của hệ thống giáo dục mà họ đã trải qua.

“Đa số thấy rất khó phê phán chính phủ,” ông ghi nhận. “Họ quen nghĩ theo một cách nhất định, và chúng tôi thì yêu cầu họ nghĩ khác.”

Một ví dụ nổi bật là cuộc thảo luận gần đây về kế hoạch xây một phi trường mới cho TP. HCM., đặt tại một tỉnh lân cận. Phi trường này sẽ chẳng tiện lợi cho ai – có lẽ đối tượng hưởng lợi duy nhất là những người ký được hợp đồng xây dựng.

Giáo sư từ Harvard gọi kế hoạch xây dựng là một chính sách tự sát.

Nhưng nhiều học viên phản đối cách gọi này, nói rằng một phi trường lớn sẽ giúp thể hiện một hình ảnh Việt Nam hùng cường trước thế giới.

Nhiều người khác trong lớp chê cười những người ủng hộ chính quyền, nhưng không ai thay đổi ý kiến.

Tuy vậy, vị giáo sư sau đó hỏi lớp học: “Các bạn có định mua công trái để có tiền thực hiện dự án này không?”

Ông Vũ Thành Tự Anh mỉm cười và nói: “Không ai giơ tay cả.”