ĐỨC GIÊSU THA TỘI VÀ CHỮA LÀNH NGƯỜI BẠI LIỆT



(2,1-12 – CN VII TN - B)

1.- Ngữ cảnh

Chương 1 Mc là một chương có những âm vang chiến thắng khải hoàn. Vào dịp Phép Rửa, Đức Giêsu đã được Chúa Cha (và Chúa Thánh Thần) làm chứng cho. Tại hoang địa, Người đã thắng quỷ và các thiên thần đã đến phục vụ Người. Rồi bốn môn đệ đã bỏ mọi sự mà đi theo Người. Lời Người rao giảng để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, và nhất là các phép lạ lẫy lừng Người thực hiện, đã lôi kéo các đám đông đến với Người. Mọi sự dường như xuôi chảy tốt đẹp.

Chương 1 của TM II cho thấy loài người là nạn nhân của các bệnh tật và ma quỷ: Đức Giêsu chữa lành các bệnh nhân và giải thoát những người bị quỷ ám. Chương 2 cũng nói đến những người bệnh được Đức Giêsu chữa lành (2,3-12; 3,1-5), nhưng bàn đặc biệt đến các trở ngại lớn cho tương quan của loài người với Thiên Chúa và với nhau; những trở ngại này, Đức Giêsu sẽ loại trừ bằng cách ban cho loài người một sự hiệp thông mới.

Sự việc Đức Giêsu chữa lành người bại liệt Caphácnaum đánh dấu một khúc quanh: kể từ nay, không phải Đức Giêsu chỉ có những người ái mộ mà thôi. Cuộc chiến đấu đã manh nha; lúc đầu thì manh nha ở bình diện những tranh luận (2,1–3,6: năm cuộc tranh luận).

Sự cố tha tội và chữa lành người bại liệt được đặt vào đầu chuỗi năm cuộc tranh luận. Ba truyện ở giữa (bữa ăn với những người tội lỗi: 2,15; tranh luận về ăn chay: 2,18; bứt các bông lúa: 2,23) là một đơn vị có từ trước được xây dựng theo cùng một lược đồ (x. ba câu thắc mắc ở 2,16.18.24), nhắm đến những vấn đề lương thực và lối xử sự xã hội của Đức Giêsu hoặc của các môn đệ. Hai truyện chữa người bại liệt (2,1-12) và người bại tay (3,1-6) rất có thể cũng đã có trước Mc, được thêm vào đầu và cuối chuỗi này, và được triển khai dưới dạng tranh luận.

Tuy nhiên, Mc đã ghi dấu ấn cá nhân vào chuỗi này. Hầu chắc chính ngài đã tháp truyện về ơn gọi của Lêvi vào đây để minh họa tư cách của Đức Giêsu là Đấng đến để gọi những người tội lỗi: Ngài đã nghĩ tới cộng đoàn của ngài là cộng đoàn gốc Dân ngoại. Có thể nhận ra ở đây có một cấu trúc đồng tâm (đóng khung) (Mourlon Bearnaert):

a. Chữa người bại liệt (2,1-9),
b. khẳng định về quyền của Con Người (2,10-12),
c. hoạt động của Đức Giêsu (2,13-17),
d. những logia của Đức Giêsu về chàng rể bị đem đi (2,18-22),
c’. những hoạt động của các môn đệ và những phản ứng của Đức Giêsu (2,23-26),
b’. khẳng định về quyền làm chủ của Con Người (2,27-28),
a’. chữa lành người bại tay (3,1-6).

Chuỗi này có một tầm quan trọng đặc biệt trong Mc bởi vì nó chiếm trọn thời gian đầu trong sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Chẳng mấy chốc tương quan giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do-thái giáo đã đến chỗ đoạn tuyệt (3,6). Ngay trước cuộc Khổ nạn, sứ vụ của Đức Giêsu cũng sẽ chấm dứt bằng một loạt năm xung đột khác (11,27–12,37). Toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu như thế được đóng khung trong những cảnh đối đầu. Đấy đúng là một phân đoạn mang tính “chiến đấu”. Không có nơi nào khác, ngoại trừ trong các bài tường thuật về Khổ nạn, các đối thủ lại tỏ ra năng động như thế, họ nối tiếp nhau mà rình rập Đức Giêsu thường xuyên (kinh sư: 2,6; kinh sư thuộc nhóm Pharisêu: 2,16; Pharisêu: 2,23; nhóm Pharisêu và phe Hêrôđê: 3,6).

Nhân vật trung tâm là Đức Giêsu với những lời nói đanh thép, vén mở cho thấy bản thân và sứ mạng của Người. Có hai nhóm ít rõ nét hơn, là đám đông và các môn đệ, làm thành cử toạ chứng kiến các cuộc xung đột này.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Mở (2,1-2);
2) Tường thuật phép lạ (2,3-5a.11-12);
3) Tranh luận (dường như được thêm vào sau) (2,5b-10).

3.- Vài điểm chú giải

- Vài ngày sau (1): Chi tiết này không cho ta biết được gì rõ ràng cả.

- ở nhà (en oiko|): Từ Hy-lạp oikos (và oikia) là “nhà”. Vì ở đây, từ oikô không có mạo từ đi trước, không kèm theo tính từ nào cả, người ta cho rằng đó là “ngôi nhà” đã nói trước, nghĩa là nhà của Simôn và Anrê (1,29) mà Đức Giêsu coi như “nhà mình”. Nhưng vì rất có thể 2,1-2 chỉ là một bản tóm tắt, nên ngôi nhà cũng chỉ có một ý nghĩa biểu tượng. Ở đây chính là nơi Đức Giêsu giảng dạy và tha tội; ở xa hơn, “nhà” sẽ là nơi quy tụ những người “thi hành ý muốn của Thiên Chúa” và làm thành gia đình thiêng liêng của Đức Giêsu (Mc 3,20.31-35). So sánh với các TMNL khác, ta thấy Mc có 6 lần dùng từ oikos hoặc oikia theo nghĩa đặc biệt: 2,1 (en oikô); 3,20; 7,17; 9,28 (eis oikon); 9,33 (en tê oikia) và 10,10 (eis tên oikian). Các cụm từ này là những công thức-kiểu mẫu để nói là “ở bên trong”, được dùng để đối lập không gian riêng tư với không gian công cộng. Trong tất cả những trường hợp có sự hiện diện của đám đông, “[ngôi] nhà” diễn tả một không gian tách riêng.

- người ta tụ tập lại, đông đến nỗi (2): Tiếng tăm và sự thu hút của Đức Giêsu đã đạt tới một đỉnh cao. Người ta kéo đến để chờ đợi những điều thiện hảo trần thế.

- Người giảng lời cho họ (2): Cách dùng đúng từ ngữ “Lời” (logos) không kèm theo túc từ, để chỉ “Tin Mừng”, là cách không thông thường. Trong các sách Tin Mừng, đây là cách riêng của Mc (x. 4,14-20; 4,33). Thật ra, đây là công thức thuộc về ngôn ngữ truyền giáo của Kitô giáo sơ khai (x. Cv 4,19.31; 8,25; 11,29 …). Với Lc, có thể nói Lời được nhân-cách-hoá: Lời có những người giúp việc (Cv 6,4; 20,24); Lời bảo đảm bằng uy lực của mình như một nhân vật (Cv 6,7; 19,20; x. Lc 1,80; 2,40), hoặc như hạt giống (Lc 8,11; x. Mc 4,14-20).

Phaolô cũng dùng từ Lời theo một nghĩa tuyệt đối (1 Tx 1,6; 2 Tm 4,2), nhưng thông thường hơn, ngài thêm một bổ ngữ vào: Lời “Thiên Chúa” (1 Tx 2,13; x. 2 Cr 2,17; Rm 9,6; Ep 6,17…), Lời “của Đức Kitô” (Rm 10,17; Cl 3,16), Lời “sự thật” (1 Cr 6,7; Ep 1,13; Cl 1,5), Lời “hoà giải” (2 Cr 5,19), Lời “[ban] sự sống” (Pl 2,16).

- chõng: Từ Hy-lạp krabattos là cái giường của bệnh nhân nghèo (chỉ có trong Mc, Ga và Cv), đối lại với kline, “giường ngủ”, “giường tiệc”.

- … bốn người khiêng … dỡ mái…, rồi thả người bại liệt (cc. 3-4): Mc miêu tả sống động như thế, nhưng Mt chỉ giữ lại có một chi tiết: “thấy họ có lòng tin như vậy” (Mt 9,2). Ta có thể tự hỏi “họ” là ai, thì Mc có đó để trả lời: “họ” là “bốn người” khiêng (c. 3) và hẳn là người bại liệt nữa. Còn Lc thì thích nghi với kiểu kiến trúc Hy-lạp nên đã thay sân thượng bằng đất nhồi rơm bằng “mái ngói” (Lc 5,19). Những chi tiết của bản văn Mc, vì không có giá trị giáo lý, hẳn là thuộc một sự việc đã thật sự xảy ra.

- Thấy họ có lòng tin (5): Đức tin là điều kiện để có phép lạ: đây là tư tưởng được Mc ưa chuộng. Người thích trở lại đó: khi kết thúc sứ vụ tại Nadarét, Người sẽ không ngần ngại nói rằng Đức Giêsu “đã không thể làm phép lạ nào tại đó… vì họ không tin” (Mc 6,5-6). Bởi vì khẳng định này quá mạnh, Mt đã sửa lại một chút (x. Mt 13,58: “không làm được nhiều phép lạ…”). Cũng chỉ Mc ghi giữ lại cuộc đối thoại của Đức Giêsu với cha của cậu bé bị động kinh: đây là cuộc đối thoại phong phú về những giáo huấn nói tới tương quan giữa đức tin và phép lạ (x. 9,21-24). Thật ra không phải chỉ có tác giả TM II mới nói đến vai trò của đức tin trong việc đón nhận các phép lạ (x. Mt 8,13; 9,22.28-29; 15,28) hoặc trong việc tha tội (x. Lc 7,48-50; Cv 10,43; 13,38), nhưng Người đã nhấn mạnh về đức tin hơn các tác giả khác trong một số trường hợp.

- ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau … (12): Đây là câu kết đúng với lược đồ cổ điển của các bài tường thuật về phép lạ. Tuy nhiên, sự ngạc nhiên sửng sốt này chỉ là bước đầu tiên đưa tới đức tin. Có hai lần Mc ghi nhận như thế: khi Đức Giêsu đi trên mặt nước (6,52); khi Người nói đến từ bỏ và loan báo Thương Khó (10,32t). Cần phải thực hiện một hành trình nội tâm lâu dài và nhất là dưới ánh sáng của Thiên Chúa, để chuyển đi được từ sự sửng sốt sang niềm tin (x. Mc 8,27-29; 9,22-24). Lc còn nêu rõ hơn nữa khoảng cách giữa sự ngạc nhiên đơn thuần và đức tin (so sánh Lc 2,19 với 2,18; Cv 2,7.12 với 2,37).

- Này con, con đã được tha tội rồi (5b): Câu này vừa nêu bật ân huệ chan chứa tình thương vừa khẳng định việc tha tội, qua đó chứng tỏ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu (x. cc. 7.8-12).

Trong tình trạng hiện nay của bản văn Mc, câu nói này của Đức Giêsu là một câu nói bí nhiệm, một mashâl.

Tội là một xúc phạm đến Thiên Chúa (x. 2 Sm 12,13). Là Đấng bị xúc phạm, chỉ Thiên Chúa mới có thể tha tội (x. Is 43,25). Người Do-thái không như chúng ta lo lắng về những phương diện tâm lý và xã hội của tội. Đối với họ, đây là một thực tại chủ yếu “hướng thần”.

Về phương diện ngữ pháp, câu nói của Đức Giêsu là một thụ-đọng-cách để ám chỉ Thiên Chúa là chủ từ (x. Mt 6,9-10; Lc 12,20). Như vậy, hẳn là các kinh sư, chuyên viên Kinh Thánh, đã có thể hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa: “Thiên Chúa đã tha tội cho con rồi”, tuy có qua trung gian là Đức Giêsu. Nhưng lại cũng rõ ràng là Đức Giêsu muốn đi xa hơn, bởi vì ngay sau đó, Người minh nhiên khẳng định rằng Người (“Con Người”) có quyền (exousia) tha tội (c. 9).

- Ông ta nói phạm thượng!(7): Dưới mắt các kinh sư, không thể chấp nhận được rằng một con người lại cho là mình có quyền tha tội. Như thế là tự cho rằng mình có quyền của Thiên Chúa, và như thế là phạm thượng (x. Lc 7,49).

Có nhiều sấm ngôn hứa ban ơn tha tội vào thời cánh chung (x. Hs 14,5; Mk 7,18-19; Gr 31,34; Ed 16,63; 36,25t; Is 43,25; …). Tuy nhiên, không có một sấm ngôn nào gán cho Đấng Mêsia quyền này cả. Quả thật, các Bài Ca về Người Tôi Tớ của Đức Chúa có cho thấy một tương quan giữa Người Tôi Tớ và tội của loài người: Người sẽ gánh lấy hình phạt do các tội ấy; Người sẽ đền tạ các tội này bằng cái chết của mình (Is 53). Nhưng các Bài ca ấy không nói rằng Người có quyền tha tội.

Thật ra, Đức Giêsu không dựa trên sấm ngôn này mà là một sấm ngôn khác: sấm ngôn Đanien nói về Con Người (Đn 7,13t). Bởi vì theo Mc, chính là trong cuộc tranh luận tại Caphácnaum (2,10), mà lần đầu tiên Đức Giêsu tự gọi mình bằng danh hiệu “Con Người”. Đây là sấm ngôn Đanien:

“Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền (exousia) thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (7,13-14).

Từ ngữ quyền được dùng 3 lần trong hai câu này: đây là từ chìa khoá. Quyền mà Con Người nhận là quyền thẩm phán cánh chung (Đn 7,10).

Đức Giêsu trích sấm ngôn Đanien khi loan báo rằng Người sẽ trở lại vào lúc tận thế trong tư cách là thẩm phán (diễn từ về Đền thờ bị phá: Mc 13,26 //; trước Thượng Hội Đồng: Mc 14,62). Cũng như các kinh sư ở Caphácnaum, các thành viên Thượng Hội Đồng sẽ cho rằng lời khẳng định của Đức Giêsu là phạm thượng và kết án Người phải chết: cuộc chiến đấu đã khởi sự tại Caphácnaum sẽ kết thúc tại Thượng Hội Đồng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Mở (1-2)

Mở đầu chương 2, Mc lại cho thấy Đức Giêsu với hoạt động riêng và trong bối cảnh sinh hoạt của Người: “Người giảng lời cho họ”, còn “dân chúng tụ họp lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết” (c. 2). Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng cho dân chúng, còn dân chúng thì say mê lắng nghe lời Người giảng day.

* Tường thuật phép lạ (3-5a.11-12)

Một người đau khổ được giới thiệu với Đức Giêsu; người ta chờ đợi Đức Giêsu chữa anh ta lành. Ở đây có nhiều chi tiết lạ lùng. Làm thế nào hình dung ra được cảnh một nhóm trèo lên xé rách mái một ngôi nhà trong khi có một nhóm khác đang quy tụ trong nhà? Chúng ta thử nghĩ đến tiếng ồn và bụi bặm mà xem! Làm thế nào họ có thể mở một lỗ hổng đúng ngay nơi có Đức Giêsu? Chẳng lẽ họ không chờ được sao? Tại sao lại đi phá hỏng mái nhà? Tại sao lại kể với chúng ta là có bốn người khiêng? Làm thế nào Mc (không có ở đó) biết những gì các kinh sư đang thầm nghĩ? Đã có khi Đức Giêsu từ chối coi tội là một hình phạt dành cho tội (x. Ga 9,2-3), thế mà ở đây Người lại tha tội cho người chỉ đến để xin chữa lành, trước khi làm phép lạ (c. 5a.b). Cả những người khiêng lẫn người bại liệt đều không nói gì cả, đấy không phải là điều lạ lùng sao?

Từ tất cả những điểm nhận xét này, rõ ràng chúng ta không được hiểu theo mặt chữ những gì đọc được ở đây. Đức Giêsu đã thật sự chữa lành một người bại liệt, nhưng có nhiều yếu tố đã được thêm vào bản văn để giáo huấn. Chúng ta không bận tâm về chuỗi các sự cố, nhưng chỉ tập trung chú ý vào những gì Mc muốn nói với chúng ta, bằng ngôn ngữ biểu tượng. Chúng ta biết rằng Luật Do-thái buộc loại trừ những kẻ tàn tật khỏi cộng đồng con cái Israel (x. Lv 21,18). Việc người bại liệt được phép đi vào nhà trong đó các kinh sư đang có mặt gợi nhớ đến việc anh ta bị loại trừ khỏi dân Thiên Chúa. Những người tội lỗi không được đến với những người công chính, bởi vì người ta nghĩ là chính Thiên Chúa cũng loại trừ họ. Như thế, người bại liệt tượng trưng cho phần nhân loại sống xa Thiên Chúa và không thể đạt tới ơn cứu độ. Sự chữa lành chỉ có thể đến từ trên cao, như một ân huệ. Con số những người khiêng có tính biểu tượng: số 4, trong Kinh Thánh, có nghĩa là toàn thể thế giới.

Tại sao người bại liệt không thể đến với Đức Giêsu? Bởi vì các thủ lãnh tôn giáo đã quy định rằng những kẻ tội lỗi không được đến gần những người công chính. Trở ngại chỉ có thể vượt qua bằng cách phá ngôi nhà trong đó các kinh sư đang có mặt. Ngoài ra cũng chính các kinh sư dạy rằng một người không thể được chữa lành nếu trước đó tội lỗi của người ấy chưa được tha.

Bài tường thuật đã xác định rằng Đức Giêsu đã hành động “khi thấy họ có lòng tin như vậy”, nghĩa là không những người bại liệt mà cả những người khiêng. Lòng tin của những người khiêng có thể xin được Đức Giêsu chữa lành về thể lý, như trường hợp lòng tin của một người cha (x. 9,17-27); nhưng đức tin của người bại liệt là điều kiện để anh được tha tội. Vì thế, tuy bản văn không nói ra minh nhiên, ta hiểu là có ám chỉ đức tin của người bệnh nữa.

* Tranh luận (5b-10)

Có những tác giả cho rằng đoạn văn kể lại cuộc tranh luận này do Giáo Hội soạn ra sau này, để nêu bật ý nghĩa sâu xa của phép lạ. Có những người lại nghĩ rằng Đức Giêsu đã thật sự nói những lời ấy trước khi làm phép lạ, nên đã để phép lạ tùy thuộc cuộc tranh luận. Nhưng trong cả hai giả thuyết, “mũi nhọn” của bài vẫn y nguyên: Đức Giêsu có quyền tha tội. Đây là điều mà các kinh sư không thể chấp nhận được: “Ông ấy nói phạm thượng! Ai có thể tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?”. Đàng khác, người bại liệt lại không làm một việc gì để xứng đáng với ơn tha tội. Đức Giêsu đã công bố rằng Thiên Chúa lấy sáng kiến và ban ơn tha tội cho con người mà không đòi hỏi điều kiện. Chính phép lạ đã xảy ra để chứng thực những lời Đức Giêsu nói.

+ Kết luận

Trong khung cảnh của TM II, sự việc Đức Giêsu chữa lành người bại liệt này là một khúc quanh. Con đường Đức Giêsu đi đã bắt đầu hướng về cuộc Thương Khó. Lc cũng muốn cho thấy định hướng này ngay vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu (Nadarét: Lc 4,28-30). Còn với tác giả Mt, chính nơi cuộc thăm viếng của các đạo sĩ, nơi cuộc tàn sát các anh hài Bêlem, mà ngài đã thấy phác ra các biến cố Núi Sọ. Trong Mc, đáp lại năm cuộc tranh luận ở đầu sứ vụ, là năm cuộc tranh luận ở cuối sứ vụ (2,1–3,6; 11,27–12,37): thể văn “đóng khung”.

Điều đã làm cho các kinh sư và người Pharisêu hết sức khó chịu, các Kitô hữu lại coi là yếu tố cốt yếu giúp tin vào Đức Giêsu. Họ đã thấy nơi việc tha tội công trình tuyệt hảo của Đấng Mêsia (x. Cl 1,14).

5.- Gợi ý suy niệm

1. Do lối hành động tội lỗi, chúng ta từ khước vâng phục Thiên Chúa và thay vì quay về với Ngài, chúng ta quay về với những khuynh hướng và dự phóng của chúng ta. Do đó, chúng ta phá hỏng tình hiệp thông với Ngài. Cuối cùng, chúng ta tách khỏi Ngài và không còn có thể giao hòa với Ngài bằng sức riêng chúng ta được. Bị tách ra khỏi Thiên Chúa là điều hụt hẫng to lớn nhất của loài người chúng ta. Nhưng đến đây, Đức Giêsu can thiệp. Lời uy quyền của Người giải thoát con người khỏi những hậu quả tai hại do dùng tự do cách sai lạc và ban cho con người một đời sống mới nhờ hiệp thông với Thiên Chúa. Đức Giêsu tha tội không phải theo kiểu là Người “che phủ” các lỗi lầm lại, y như thể Người “không thấy” các điều xấu xa. Người “tha thứ” bằng cách biến đổi trái tim con người, chữa con người khỏi tật nguyền luân lý và làm cho con người nên tốt. Điều mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, đó là: hoán cải không phải là công việc của con người, mà là một ân huệ của Thiên Chúa.

2. Trong cuộc sống, chắc chắn chúng ta đã gặp những người “bại liệt” (do bệnh tật, do tật xấu, do hoàn cảnh xã hội, do thành kiến …). Chúng ta có nghĩ rằng chúng ta cũng đang được Chúa Kitô mời gọi trở thành “tay”, “chân” để giúp những anh chị em đang bị bế tắc đó có thể đến được ngôi nhà, nơi Đức Giêsu đang hiện diện, để nhận được ơn giải thoát? Chúng ta có ý thức rằng cộng đoàn chúng ta đã được Đức Kitô giao phó nhiệm vụ và quyền lực công bố ơn cứu độ cho tất cả những người bệnh tật?

3. Chúng ta có biết vui sướng khi khám phá và hoan nghênh chân lý, bất kể nó từ đâu đến chăng, như thánh Phaolô đã viết: “Đức mến vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,6)? Thật ra, để khám phá ra chân lý tại bất cứ nơi đâu, nơi bất cứ con người nào, cần phải có hảo ý trước. Các kinh sư trong bài Tin Mừng không có hảo ý trước. Trong cuộc sống, có những người chỉ có thể tái xây dựng đời sống của họ, nếu họ có một người bạn chân thật sẵn sàng dẫn họ đến với Đức Kitô.