Chương mười một (hết)

Người bi quan xuất thần

Tôi không hơn gì một thư ký của điều vô hình
Điều đó được ra lệnh cho tôi và một vài người khác.

Các thư ký, không biết lẫn nhau, chúng tôi cuốc bộ trên trái đất
Không có nhiều hiểu biết. Bắt đầu một cụm từ ở giữa
Hoặc kết thúc nó bằng dấu phẩy. Và tất cả trông như thế khi hoàn thành
Chúng tôi không cần phải hỏi, dù sao thì chúng tôi cũng sẽ không đọc nó
. (71)



Czeslaw Milosz qua đời vào tháng 8 năm 2004, gần 25 năm sau khi đoạt giải Nobel Văn học, hưởng thọ 93 tuổi. Là một người Công Giáo sinh ra trước Thế chiến thứ nhất ở một góc khuất của châu Âu (Đại công quốc Litva đa sắc tộc, sau đó là một phần của Nga hoàng), ngay cả sau hơn ba mươi năm sống ở Hoa Kỳ, ông vẫn khăng khăng viết thơ bằng tiếng Ba Lan, một ngôn ngữ ít được biết đến bên ngoài “môi trường sống tự nhiên” của nó. Tuy nhiên, bất chấp sự khiêm tốn và khiếu hài hước tự ti của chính Milosz (“Tôi biết những gì còn lại cho những người nhỏ bé như tôi: / Một bữa tiệc của những hy vọng ngắn ngủi, một cuộc tập hợp của những kẻ kiêu hãnh, / Một vòng thi đấu của những kẻ gù lưng, văn học”), (72) ông không chỉ kéo dài thế kỷ XX về mặt thời gian mà còn chiếm một vị trí lớn và trung tâm trong nền văn hóa hiện đại và thế giới. Nếu J. R. R. Tolkien là nhà văn Công Giáo nổi tiếng nhất hậu bán thế kỷ 20, thì Milosz là người hiểu biết sâu rộng và tinh vi nhất về mặt văn hóa.

Theo một nghịch lý kỳ lạ, chính nguồn gốc xa xôi của Milosz ở biên giới Đông-Tây đã mang đến cho ông một viễn cảnh độc đáo và mạnh mẽ. Điều đó, và thực tế là, giống như nhiều đồng bào của mình, ông đã bị thử thách trong ngọn lửa của nhà máy lọc dầu với những làn sóng liên tiếp của Chủ nghĩa Quốc xã và Chủ nghĩa Cộng sản. Một nhà thơ khác có thể đã rút lui vào một vùng đất mộng mơ thẩm mỹ, một chiến thuật mà Milosz chán ghét ở các nhà văn Tây Âu hoặc Đông Âu. Hoặc ông có thể đã trở thành kiểu trí thức dấn thân khá phổ biến ở châu Âu sau Thế chiến thứ hai. Nhưng Milosz nhận thấy những nhân vật thời thượng đó, những người mà thuốc chữa ưu tuyển thường là Chủ nghĩa Cộng sản hoặc Chủ nghĩa hiện sinh, cũng “nói trong giấc ngủ” của họ ngang nhau. Milosz đã di chuyển một cách đơn giản dễ dàng và rất sâu sắc qua những câu hỏi hóc búa nhất về văn hóa hiện đại mà không hề nao núng, tìm kiếm một thế giới dễ sống hơn cho loài người trong điều mà ông không ngần ngại gọi là thực tại.

Một dấu hiệu cho thấy sức mạnh trí thức tuyệt đối của ông là thay vì tê liệt, căn bệnh thông thường, ông đã biến chính những mâu thuẫn và thách thức thành nguồn thông tuệ. Dù chưa bao giờ viết một tác phẩm vĩ đại nào như The Divine Comedy [Thần kịch] hay Paradise Lost [Thiên đường đã mất], nhưng ông đã cho ra đời hàng trăm trang thơ ghi lại một cách khách quan đầy đủ các nhận thức của một người đã chứng kiến những cuộc đấu tranh vĩ đại và những bế tắc trí thức của thế kỷ XX. Một trong những bài thơ chính trị mạnh mẽ đến nỗi nhiều thập niên sau, một số dòng của nó đã được khắc trên một tượng đài ở Gdansk để tưởng niệm các thành viên của Công đoàn Đoàn kết anh hùng của Ba Lan: “Bạn đã đối xử tệ với một người bình thường... Đừng cảm thấy an toàn.

Nhà thơ nhớ lại. / Bạn có thể giết chết một người, nhưng một người khác lại được sinh ra. / Các từ được viết ra, chứng thư, ngày tháng.” (73) Tuy nhiên, trong nhiều bài thơ khác, ông quan tâm nhiều hơn đến việc nắm bắt những sự thật bị làm ngơ và những khoảnh khắc sáng suốt có thể dẫn đến một kiểu sống khác, ngay cả khi ông cảnh giác và mỉa mai về nền văn hóa phải duy trì cuộc sống đó:

Hãy trân trọng di sản kỹ năng của con, con trẻ của Châu Âu,
Người thừa kế của các nhà thờ Gothic, của các nhà thờ baroque,
Của những hội đường đầy tiếng than khóc của những người bị ngược đãi.
Người kế vị Descartes, Spinoza, người thừa kế chữ “danh dự,”
Đứa con sau khi chết của Leonidas,
Hãy trân trọng những kỹ năng có được trong giờ kinh hoàng
. (74)

Là một người Công Giáo có nhân cách độc đáo, bất chấp những nghi ngờ và ám ảnh bản thân thường xuyên lặp đi lặp lại, ông đã sớm bị đạo Công Giáo Ba Lan cánh hữu đẩy lui mà ông thường phản đối như chỉ là một “nghi lễ quốc gia” và bị chủ nghĩa bài Do Thái làm hoen ố sâu xa — một đặc điểm không hiện hữu với cùng mức độ độc hại ở Wilno (tên ưa thích của ông dành cho Vilnius) của những ngày còn trẻ, với cộng đồng Do Thái đông đảo và sôi động. Một nhà thơ hiện đại vĩ đại khác của Ba Lan, Adam Zagajewski, đã giải thích khía cạnh tôn giáo trong tác phẩm của Milosz như một sự bảo vệ “quyền được vô tận của chúng ta” bất chấp mọi phản đối nổi tiếng đương thời: “Tất nhiên, bức điện tín mà Nietzsche gửi để thông báo cho những người châu Âu về cái chết của Thiên Chúa đã đến tay ông, nhưng ông từ chối ký biên nhận và gửi sứ giả đi đóng gói.” (75) Dí dỏm, nhưng có lẽ hơi gây hiểu lầm. Milosz đã được giáo dục tốt ở Vilnius và đã ghi nhớ sâu sắc những tranh luận triết học và thần học lâu năm trong truyền thống phương Tây. Vì vậy, ông đặc biệt không dễ bất tín dễ dãi nhiều hơn là tin tưởng mù quáng: “Sự thờ ơ của tôi đối với những lập luận của người vô thần tiến bộ thường khá nông cạn cũng giống như sự khinh thường của người chơi cờ đối với quân bài.” (76) Có lẽ đây là lý do chính khiến ông và Đức Gioan Phaolô II ngưỡng mộ nhau và đôi khi dường như có cùng quan điểm. Milosz nghĩ Đức Giáo Hoàng là một vĩ nhân, một trong những nhân vật hiếm hoi của công chúng có thể đóng vai một trong những vị vua của Shakespeare. Nhưng cũng có những thách thức thuộc nhiều loại khác nhau.

Ông đã bị chấn động sâu xa bởi những hành động tàn bạo và đồi trụy chính trị đã phá hủy thế giới xã hội và tự nhiên mà ông yêu thích khi còn là một cậu bé. Tác phẩm trưởng thành của Milosz lưu giữ một cách dịu dàng ký ức đầy màu sắc và chi tiết về vùng nông thôn Litva và sự gắn bó nồng nàn của ông với nó, có lẽ còn nhiều cảm xúc hơn vì cuộc sống lưu vong của ông. Nhưng trí thông minh hoạt bát của Milosz không cho phép ông chìm đắm trong hoài niệm đơn thuần. Milosz luôn thể hiện năng lực nam tính mạnh mẽ kết hợp với sự nhạy cảm thi ca tuyệt vời về thiên nhiên và giá trị con người. Sự bảo vệ không chút xấu hổ của ông đối với trải nghiệm thời thơ ấu của mình đã phải đối mặt với một điều mà ông đã nhận ra từ khá sớm, thậm chí trước cả những biến động chính trị: chính cấu trúc của tự nhiên – hoàn toàn tách biệt với những gì chúng ta làm cho nhau – đối với ông cũng như đôi khi, Đấng Tạo Hóa của nó dường như thật nhẫn tâm. Thiên nhiên vô tội về mặt luân lý, bởi vì sự hủy diệt loài người của nó và sự sinh tồn của loài thích nghi nhất theo thuyết Darwin có tính máy móc, không hề ác ý. Nhưng bất cứ cái nhìn trung thực nào về hoàn cảnh của chúng ta đều phải tính đến sự thờ ơ của thế giới, sự trôi qua của vạn vật, sự mong manh của ký ức, điều quý giá và cần được vun đắp trong khi nó tồn tại, cho dù như thế vẫn không thể vượt qua thời gian. Nhận thức đó ẩn sau việc ông thường bày tỏ sự thiện cảm với phái Manikêô, những người dị giáo của Kitô giáo thời kỳ đầu và những người kế vị họ, những người tin rằng thế giới này phải được tạo ra bởi một ác quỷ. Sự tốt lành và một Thiên Chúa tốt lành sẽ phải nằm ở ngoài thế giới này với những tệ nạn không thể phủ nhận của nó.

Do đó, Milosz không mấy ấn tượng đối với nhận xét sau này của Theodor Adorno rằng không thể làm thơ sau Auschwitz. Shoah, âm mưu diệt chủng người Do Thái, là một tội ác đặc biệt, nhưng chúng ta đang tự lừa dối mình nếu không thấy rằng chính bản nhiên đang liên tục thực hiện những hành vi xúc phạm vô tội. Nếu tiếng nói của thơ bị chặn lại chỉ bởi một thực tế đơn thuần là những tệ nạn lớn, thì thơ sẽ không thể tồn tại ở bất cứ thời đại nào. Tuy nhiên, có điều gì đó trong ông không nghĩ rằng tầm nhìn ảm đạm về tự nhiên này là tất cả những gì cần phải nói: “Không gì có thể dập tắt niềm chắc chắn bên trong của tôi rằng một điểm sáng vẫn hiện diện ở nơi mọi con đường giao nhau.” (77) Milosz thường xuyên trải nghiệm và ghi lại trong thơ mình những khoảnh khắc siêu việt tự nhiên, thậm chí—thực ra, một cách đặc biệt—khi ông chiêm ngưỡng thiên nhiên. Chỉ chọn một thí dụ trong số hàng trăm thí dụ, ông đã ghi lại trong “Quà tặng” vào ngày ông sáu mươi tuổi và sống ở Berkeley:

Một ngày thật hạnh phúc.
Sương tan sớm, tôi làm việc ngoài vườn.
Những con chim ruồi dừng lại trên những bông kim ngân.
Không có thứ gì trên trái đất mà tôi muốn sở hữu.

Tôi biết không có ai đáng để tôi ghen tị với họ.
Tôi đã quên bất cứ điều ác nào tôi từng chịu đựng.
Nghĩ rằng mình có lần từng cùng là một người đàn ông không làm tôi xấu hổ.

Trong cơ thể tôi, tôi không cảm thấy đau đớn,
Khi đứng thẳng lên, tôi thấy biển xanh và những cánh buồm
.(78)

Bằng cách nào đó, ông đã trải qua những khoảnh khắc tương tự ngay cả trong những năm kinh hoàng trước và trong Thế chiến thứ hai, vì vậy việc ông tuyên bố “Tôi luôn luôn là một người bi quan xuất thần” không chỉ đơn thuần là sự giả bộ văn học.

Tầm quan trọng của tất cả những điều này đối với Milosz trong tư cách nhà thơ có lẽ được thấy rõ nhất trong Diễn từ lãnh giải Nobel năm 1980 của ông. May mắn thay, không giống như nhiều bản văn như vậy trước đó và kể từ đó, Milosz đã không đưa ra một bài giảng triết học hoành tráng nào vào dịp đó. Trên thực tế, nếu có một điểm bao quát cho bài diễn văn dí dỏm và nhân ái này, thì đó là, ở thời đại chúng ta, thật may mắn khi được phát xuất từ một địa điểm và nền văn hóa nhỏ, ít người biết đến và đặc thù. Nếu bạn đang viết bằng một ngôn ngữ ít được biết đến ở Pháp hoặc Hoa Kỳ (như Milosz đã làm), điều đó khiến bạn trung thành với “một hình ảnh lý tưởng nào đó về một nhà thơ, người mà nếu muốn nổi tiếng, họ chỉ muốn nổi tiếng ở ngôi làng hoặc thị trấn nơi họ sinh ra.” (80) Trong khi điều này nghe có vẻ như là một công thức chắc chắn về tính tỉnh lẻ đối với người phương Tây, nó thực sự dẫn đến một sự gắn bó nghiêm túc với những điều cụ thể thay vì làm nô lệ cho thời trang văn chương. Một nhà thơ như vậy buộc phải đối thoại giữa quá khứ và hiện tại khi họ tìm cách thích nghi một ngôn ngữ thơ kế thừa để phát biểu những hoàn cảnh chưa từng có. Theo quan điểm của Milosz, nỗ lực này có tác động lớn hơn nhiều so với hầu hết chúng ta nghĩ.

Để bắt đầu, nhà thơ phải tránh những mối nguy hiểm kép của một mặt là chủ nghĩa truyền thống thuần túy, hoặc mặt khác là chủ nghĩa tiên phong [avant-gardism] trống rỗng (những kẻ toàn trị, Milosz đã chỉ ra ở chỗ khác, khá nuông chiều chủ nghĩa tiên phong vì sự bất lực tột cùng của nó - chính nhà thơ là người tiếp cận thực tại mà họ kiểm duyệt). Trạng thái bất ổn thường xuyên của một nhà thơ như vậy khiến anh ta trở thành một người tìm kiếm không ngừng nghỉ: “Và có thể xảy ra việc bỏ những cuốn sách lại phía sau như thể chúng là những tấm da rắn khô, trong một cuộc chạy trốn không ngừng về những gì đã làm trong quá khứ, anh ta nhận được giải thưởng Nobel. Xung lực bí ẩn không cho phép một người ổn định trong thành tựu đạt được là gì? Tôi nghĩ đó là một cuộc tìm kiếm thực tại. Tôi gán cho từ này ý nghĩa trang trọng và ngây thơ của nó, một ý nghĩa không liên quan gì đến các cuộc tranh luận triết học trong vài thế kỷ qua.” (81) Thay vào đó, là một đứa trẻ ở Đông Âu trong tiền bán thế kỷ XX, Milosz cho rằng việc theo đuổi thực tại này—dù bị chế nhạo nhiều trong các môi trường phức tạp hơn—có tầm quan trọng nhân bản trung tâm.

Uy tín to lớn của khoa học và kỹ thuật trong thế kỷ 19 và 20 đã tạo ra các chế độ dựa trên các quan niệm khoa học về xã hội, hoàn toàn tin tưởng vào bản thân, đã sát hại hàng chục triệu người trên hoàn cầu. Một dấu hiệu của các hệ thống toàn trị là sự sợ hãi của họ đối với những thực tại nằm ngoài tầm với của hệ thống của họ: “Chính vì lý do đó, một số lối sống, một số định chế đã trở thành mục tiêu cho cơn thịnh nộ của các thế lực xấu xa, trên hết là các mối quan hệ giữa những con người hiện hữu một cách hữu cơ, như thể bởi chính họ, được duy trì bởi gia đình, tôn giáo, láng giềng, di sản chung. Nói cách khác, trọn nhân tính vô trật tự, phi luận lý đó, thường bị coi là lố bịch vì những gắn bó và lòng trung thành mang tính địa phương của nó.” (82) Tất nhiên, phần lớn phụ thuộc vào phẩm chất của những lòng trung thành đó, nhưng việc loại bỏ chúng một cách tùy tiện vì cho là “không khoa học” đã dẫn đến những hành động tàn ác lớn hơn nhiều so với trật tự cũ từng tạo ra.

Chống lại tâm trí bị giam cầm

Nền tảng trí thức cho tất cả những điều này rõ ràng nhất trong một cuốn sách xuất bản năm 1953 mà hầu hết những người sống qua Chiến tranh Lạnh đều có chút quen thuộc - phân tích của Milosz về tình trạng tâm hồn của giới trí thức dưới chủ nghĩa xã hội, The Captive Mind[Tâm trí Cầm tù]. Tác phẩm văn xuôi đó đã mở rộng tầm nhìn của ông rất nhiều ở Châu Âu và Châu Mỹ. Giờ đây, đọc lại nó, nhiều thập niên sau khi Chủ nghĩa Cộng sản Xô viết sụp đổ, người ta phải kinh ngạc, hết trang này đến trang khác, không những bởi sự trình bày thiên tài tuyệt đối, mà còn bởi sự từ chối gần như siêu phàm của kẻ mới đào ngũ lúc bấy giờ để mình đắm chìm trong sự căm ghét hoặc cay đắng đơn thuần. Thậm chí không có gì giống như vậy trong văn học thế giới, có lẽ, ngoại trừ cuốn The Labyrinth of Solitude [Mê cung cô đơn] của Octavio Paz, tác phẩm cũng kết hợp sự nhạy cảm và trực giác của một nhà thơ với trí thông minh mạnh mẽ nhưng đầy cảm thông về toàn bộ xã hội, mà nhà văn không thể phủ nhận mình là một phần.

Mối quan tâm liên tục của The Captive Mind không nằm ở sự ghê tởm của nó đối với một hệ thống mất uy tín mà ở những bức chân dung sâu sắc về con người – Milosz sử dụng một số người bạn làm chủ đề để phân tích. Những bút danh của họ đã nói lên nhiều điều: Alpha, Nhà đạo đức; Beta, Người tình thất vọng; Gamma, Nô lệ của lịch sử; và Delta, Người hát rong. Đầu tiên, tất cả họ đều dễ bị tổn thương - ngay cả những người tự coi mình là người Công Giáo - trước chủ nghĩa hư vô đang lan tràn của tư tưởng châu Âu trong những thế kỷ gần đây, một chủ nghĩa hư vô đã được khoa học và công nghệ phương Tây vô tình củng cố. Họ kinh hoàng trước chủ nghĩa Quốc xã, những hiệu quả cụ thể mà họ đã thấy ở chính đất nước của họ. Và họ không thích Nga lắm, ngay cả trước khi mặc cảm tự ti cũ của Nga, nguồn gốc sâu xa của chủ nghĩa mêxia [messianism] của nó, được chuyển thành Đức tin mới của Chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, họ không còn tin tưởng vào một Tây Âu đã tự hủy diệt vì sẵn sàng chấp nhận làm nô lệ để sinh tồn. Ngay cả Mỹ, mặc dù là xã hội đầu tiên đã cung cấp phúc lợi vật chất cho hầu hết người dân của mình và là xã hội vẫn sở hữu một số đức tính cần thiết để đối mặt với chủ nghĩa toàn trị, cũng khá ngây thơ về các mối đe dọa trên thế giới.

Milosz cho rằng trí thức trong những hoàn cảnh đó thực sự có một số lợi thế so với những người đồng cấp phương Tây của họ. Có điều, họ không vui vẻ chịu đựng sự tầm thường của một số hình thức tư tưởng và nghệ thuật từ phương Tây: “Trong giới trí thức sống qua sự tàn bạo của chiến tranh ở Đông Âu, đã diễn ra điều mà người ta có thể gọi là sự loại bỏ những thứ xa xỉ về tình cảm. Tiểu thuyết phân tâm học kích động họ cười. Họ coi văn học với những biến chức khiêu dâm, vẫn phổ biến ở phương Tây, là rác rưởi. Loại vẽ tranh bắt chước trừu tượng làm họ chán ngán. Họ đói—nhưng họ muốn bánh mì, không phải món khai vị.” (83)

Nhưng khía cạnh chính trị của thế kỷ 20 chỉ là một mặt trong tác phẩm của Milosz, vì nó chỉ là một mặt của đời sống con người. Hai trong số những nỗ lực viết tự truyện của Milosz—Native Realm: A Search for Self-Definition [Cõi Bản địa: Một cuộc truy tầm tự định nghĩa] (1968) và The Land of Ulro [Lãnh thổ Ulro](1977)—tiếp tục khai thác chiều kích bản thân, nhưng không nhằm mục đích chủ quan. Trong những hồi ký rất phong phú này, vốn thường cung cấp điểm khởi đầu rất chi tiết cho những suy tư về nhiệm vụ của thi ca và tình trạng của loài người vào cuối thế kỷ XX, có thể thấy được sự đóng góp lâu dài mà Milosz đã thực hiện cho tư duy hiện đại và lời mời gọi tiếp tục sống với một số sự thật khó khăn - khó theo nghĩa là chúng không đến với chúng ta một cách tự nhiên trong các xã hội hiện đại. Đối với ông, phương Tây, giống như phương Đông, phải chịu đựng quan điểm duy giản lược về con người bắt nguồn từ thế giới phẳng và máy móc của vật lý học Newton. Cả hai suy tư của ông đều chỉ ra sự cấp bách của việc tìm kiếm một cách khác để trải nghiệm và khái niệm hóa thế giới. Ở phần cuối của cuốn Native Realm [Cõi bản địa], ông trình bày nó dưới dạng thi ca: “Không thể có kỷ luật thi ca nếu không có lòng mộ đạo và ngưỡng mộ, không có niềm tin vào các tầng vô tận của hữu thể ẩn chứa bên trong một trái táo, một con người hay một thân cây; nó thách thức người ta thông qua việc tiến gần hơn đến điều đang là.” (84)

Mặc dù điều này có vẻ như là một tuyên bố trừu tượng một cách vô vọng, nhưng trên thực tế, nó nói lên toàn bộ chương trình của cuộc sống nhằm tránh tầm nhìn tối tăm của chủ nghĩa duy vật và đối lập văn học của nó, những tưởng tượng phi thực tế của Chủ nghĩa lãng mạn. Milosz đã nói điều này khá cởi mở trong The Land of Ulro. Ở đó, ông trình bày một loại đền thờ hiện đại gồm các nhà thơ và nhà văn, những người tìm cách phá vỡ sự kìm kẹp chết người của vũ trụ Newton đã chết đối với trí tưởng tượng của con người. Người đầu tiên là Goethe, người trong cả thi ca lẫn các bài viết về khoa học của mình đã tiến hành “Cuộc chiến ba mươi năm chống lại Newton”. Cùng với ông, Milosz đã xác định William Blake (tác phẩm của ông có tên là Ulro, thế giới của máy móc), nhà huyền nhiệm Thụy Điển Emanuel Swedenborg, nhà thơ lãng mạn vĩ đại người Ba Lan Adam Mickiewicz, và theo một cách hơi khác, nhà tư tưởng người Pháp hiện đại Simone Weil. Nhưng đối với Milosz, đại diện có ảnh hưởng nhất của truyền thống này là một người họ hàng xa, Oscar V. de L. Milosz, bản thân ông cũng là một nhà thơ mạnh mẽ, người mà ông đã gặp ở Paris khi còn đôi mươi. Tác phẩm của Oscar Milosz, Czeslaw, khiêm tốn báo cáo, “không cường điệu, đã quyết định sự nghiệp trí thức của tôi”. (85)

Việc liệt kê những nhà thơ này và mối quan tâm của họ có nguy cơ giản lược một lập luận rất phức tạp thành điều dường như chỉ đơn thuần là “rơi vào nền huyền nhiệm”, một cụm từ mà Milosz nói đã được sử dụng trong giới văn học Ba Lan để biểu thị rằng một nhà văn đã chấp nhận các nguyên lý của tôn giáo một cách thiếu phê phán và do đó không còn thú vị về mặt trí thức. Đền bách thần của Milosz thì hoàn toàn ngược lại. Tất cả họ dường như đang tìm kiếm không gian để tưởng tượng một điều gì đó khó diễn đạt bằng thuật ngữ khoa học đơn thuần. Trong hệ thống Newton cũ, thế giới về cơ bản là một bàn bida vô tận trên đó các quả bóng va chạm ngẫu nhiên. Trong một thế giới như vậy, làm sao có thể tưởng tượng được giá trị của con người một cách đích thực —hay thậm chí là sự đánh giá cao vẻ đẹp của thế giới—? Đức quốc xã đã cố gắng sử dụng vũ lực, Cộng sản đã sử dụng trò ảo thuật của phép biện chứng lịch sử, để dẫn khởi giá trị từ những gì không có giá trị. Ngay cả ở phương Tây, nơi lớn tiếng tuyên bố về phẩm giá con người, những ý định tốt đẹp đã bị hủy hoại bởi tầm nhìn về thực tại không cung cấp hỗ trợ đáng kể nào cho tất cả những điều nhân ái nhất, mà trên thực tế đã làm rỗng những tuyên bố như vậy ngay cả khi chúng được đưa ra. Milosz bắt đầu tin rằng vũ trụ của Einstein, mà các nhà thơ đã dự đoán một phần, với sự nhấn mạnh vào mối liên hệ có thể chứng minh được của các sự vật hơn là thuyết tương đối theo nghĩa luân lý và cách nhìn mới về không gian như một hiện tượng liên quan đến bản thân chứ không phải là một không gian trống rỗng, đã mang đến cơ hội để hình dung lại những điều mà ông đã ấp ủ từ thời niên thiếu. Tập thơ cuối cùng sau khi chết của ông, Second Space [Không gian thứ hai], là nỗ lực của ông để tự mình khám phá cõi đó.

Người Mỹ và người Ba Lan

Quả là một điều kỳ lạ của lịch sử khi người đàn ông này, vốn đã bén rễ sâu vào ký ức và kinh nghiệm đặc biệt ở phương Đông, đáng lẽ phải trải qua nhiều năm trưởng thành của mình—thực ra là từ năm 1961 cho đến khi ông trở lại Ba Lan vào năm 1991— ở phương Tây để có thể giảng dạy tại Berkeley. Ông ngưỡng mộ sự năng động của Hoa Kỳ. (Ông từng viết về thời gian làm tùy viên văn hóa của mình, "Không khí ở Mỹ, ngay cả mùa hè ở Washington với độ ẩm 98°, không làm tôi buồn ngủ. Nó làm tôi phấn chấn." (86) Và về vùng nông thôn Mỹ, "nó đưa tôi... trở lại thời thơ ấu.") (87) Nhưng ông cũng lên án sự hiện hữu mang tính lịch sử và chủ nghĩa duy vật của nước Mỹ. Ông có nhiều bạn bè trong số các nhà thơ Mỹ, nhưng điểm thu hút mạnh nhất của ông đối với các nhà văn Mỹ, đáng kể là đối với Walt Whitman và trong số các nhà văn hiện đại hơn, Robert Frost và Robinson Jeffers, những người mà ông đã dịch. Yếu tố Manikêô trong ông cộng hưởng với sự căng thẳng đen tối trong hai nhà thơ sau. Jeffers, người đã tự cô lập mình trong một thị trấn đánh cá buồn ngủ ở Carmel gần đó vào thời của ông, đặc biệt đã gây ra sự mê hoặc đối với trí tưởng tượng của Milosz, nhưng là điều mà ông cố gắng cưỡng lại. Bản chất độc ác và vô nhân tính trong vũ trụ của Jeffers và “chủ nghĩa vô nhân đạo” của ông ta, sự tôn thờ sự sống còn của kẻ mạnh nhất theo thuyết Darwin, đã tiến gần đến mức nguy hiểm với tri nhận bi quan của Milosz về thế giới. Nhưng người Ba Lan sẽ không hoàn toàn đồng ý với sự tôn thờ tất yếu này. Trong một bài thơ gửi cho Jeffers, ông cho rằng nhà thơ rất mạnh mẽ, “Tuy nhiên, bạn không biết những gì tôi biết. Trái đất dạy / nhiều hơn là sự trần trụi của các yếu tố. Milosz kết luận:

Tốt hơn là khắc mặt trời và mặt trăng trên các khớp của cây thánh giá
như đã được thực hiện trong quận của tôi. Cho bạch dương và linh sam
Hãy đặt tên nữ tính. Để cầu xin bảo vệ
chống lại sức mạnh câm lặng và lừa dối
hơn là tuyên bố, như bạn đã làm, một điều bất nhân
. (88)

Một trong những đặc điểm nổi bật trong tất cả các tác phẩm của Milosz là tri nhận sâu sắc và liên tục của ông rằng lý trí cứng đầu, lan man không giải thích hay đưa ra giải pháp cho hoàn cảnh của chúng ta. Ông đã tìm ra và phát triển sự hiểu biết này một cách chính xác thông qua trí thông minh tuyệt vời của chính mình. Ông nhận ra rằng triết học và thần học đều đã lang thang trong đầm lầy độc hại trong thời đại của chúng ta, vì vậy ông nhận ra tri thức mà thơ có thể mang lại cho chúng ta trở nên cấp thiết hơn. Không phải ngẫu nhiên mà khi về già, Milosz quyết định dịch Sách Khải Huyền sang tiếng Ba Lan và thậm chí còn học tiếng Do Thái để dịch một số Kinh Cựu Ước. Ông thường xuyên nói về daimonion [người dìu dắt nội tâm được thần xấu linh hứng] (**) của mình, một thuật ngữ mà Platông đã sử dụng cho giọng nói đã hướng dẫn Socrates và rằng Milosz dường như đã nghĩ theo đúng nghĩa đen như một loại nàng thơ, nguồn cảm hứng từ một phần nào đó của tâm trí hoặc tinh thần con người mà hầu hết chúng ta ít tiếp cận nhưng điều đó khôn ngoan hơn chúng ta thường là.

Trong bài thơ cuối cùng (“Orpheus and Eurydice”) trong tập di cảo Second Space của ông, được viết sau khi ông chuyển về Krakow sau sự sụp đổ của Chủ nghĩa cộng sản, Milosz đã nhắc lại niềm tin của mình vào nhà thơ như một kênh dẫn đến tiếng nói của thực tại: “Anh ấy phục tùng âm nhạc, khuất phục / Theo lời chính tả của một bài hát, lắng nghe với sự chú ý say mê, / Trở thành, giống như đàn lia, nhạc cụ của anh ấy.” Và nội dung của bài hát đó là gì? Câu trả lời cho thấy rằng, cho đến tận cùng, daimonion của Milosz đã không bỏ rơi ông:

Ông hát sự rạng rỡ của buổi sáng và dòng sông xanh,
Ông hát nước bốc khói trong bình minh màu hồng,
Các màu sắc: son, đỏ son, hung đỏ nám cháy, xanh lam,
Niềm vui bơi lội trong biển dưới những vách đá cẩm thạch,
Bữa tiệc tại một sân thượng phía trên sự náo động của một cảng cá,
Các hương vị của rượu vang, dầu ô liu, hạnh nhân, mù tạt, muối.

Chuyến bay của chim én, chim ưng,
Một đàn bồ nông đĩnh đạc trên vịnh,
Mùi hương của bó tử đinh hương trong cơn mưa mùa hạ,
Việc ông đã sáng tác những lời nói của mình luôn chống lại cái chết,
Và về việc không có vần điệu nào để ca ngợi hư vô
. (89)

Một văn bia phù hợp, có lẽ cũng giải thích tại sao Milosz được chôn cất trong hầm mộ của Nhà thờ Wawel ở Krakow giữa các nghệ sĩ, vua và thánh vĩ đại của Ba Lan. Việc ông “không có vần điệu ca ngợi hư vô” có vẻ như là một lưu ý đủ khiêm tốn để kết thúc cuộc khảo sát ngắn gọn này về văn học Công Giáo trong thế kỷ 20. Nhưng vào thời đại mà những lý tưởng vĩ đại về phẩm giá và giá trị con người thường được tuyên bố bằng những lời lẽ không thành thật và bị bôi nhọ trong thực tế, khi chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa tương đối, một số loại chủ nghĩa nhân văn do ý thức hệ thúc đẩy đã tạo ra hàng chục triệu xác chết và các hệ thống áp bức trên toàn thế giới, thì đó là một thành tựu lớn hơn và mang tính hệ quả hơn so với vẻ ngoài của nó.
___________________________________________________________________________________

(**) Daimonion: Theo Concordance của Strong, có nghĩa là thần ác, ma qủy: δαιμόνιον, ου, τό. Thường được dùng chỉ thần ác, ma qủy, thần ngoại giáo. Từ điển Merriam-Webster định nghĩa là một nhà dìu dắt nội tâm được quan niệm như có bản chất ma qủi hay được ma qủy linh hứng.

Ghi Chú

1 Chính xác thì “xã hội tạp nham” này là gì? Một học giả đã mô tả nó như sau: “Đây là một không gian xã hội trong đó sự pha trộn của các loại hình (xã hội, sắc tộc, tâm lý) đầy đủ và phô trương, trong đó tính ngẫu nhiên trong hành động chiếm ưu thế, sức mạnh của nguyên nhân yếu kém, sự thờ ơ làm lu mờ đạo đức, thiên nhiên vắng bóng hoặc xấu xa, hiện tại nuốt chửng quá khứ cũng như tương lai, các cá nhân thụ động và không đòi quyền kiểm soát bản thân hoặc xã hội, những nguồn năng lượng bùng phát xen kẽ với những cơn ì ì ủ rũ, chủ nghĩa đồng bộ văn hóa cung cấp nền tảng chung cho hành động”: Virgil Nemoianu, “Evelyn Waugh và Motley Society”, CLIO, tập 12, số 3 (1983): 233-34.

2 Evelyn Waugh, Decline and Fall [Suy đồi và Sụp Đổ] (London, Chapman & Hall, 1928), 122.

3 Evelyn Waugh, Vile Bodies [Những Thân hình Xấu xa] (Boston: Little, Brown, 1977), 283.

4 Cùng nguồn, 183-84.

5 David Pryce-Jones, chủ biên, Evelyn Waugh and His World [Evelyn Waugh và Thế giới của Ông](Boston: Little, Brown, 1973), 61-64.

6 Evelyn Waugh, Helena (Boston: Little, Brown, 1950), 247. Waugh đôi khi tuyên bố rằng ông coi đây là cuốn tiểu thuyết hay nhất của mình. Ít ai có thể đồng ý với ông ấy, mặc dù đây là sự trình bày nhẹ nhàng giàu trí tưởng tượng về một nhân vật ít được biết đến.

7 Selena Hastings, Evelyn Waugh: A Biography [Evelyn Waugh: Tiểu sử] (Boston: Houghton Mifflin, 1995), 225.

8 Được trích dẫn trong Clifton Fadiman, André Bernard, chủ biên, Bartlett's Book of Anecdotes [Sách Giai thoại của Barlett] (Boston: Little, Brown, 2000), 563.

9 Graham Greene, Ways of Escape: An Autobiography [Những cách trốn thoát: Một cuốn tự truyện] (New York: Simon & Schuster, 1980), 270-71.

10 Evelyn Waugh, Robbery under Law: The Mexican Object Lesson [Cướp theo luật: Bài học đồ vật Mexico] (Boston: Little, Brown, 1939), 16-17.

11 Evelyn Waugh, Waugh in Abyssinia [Waugh ở Abyssinia] (Baton Rouge, La.: Louisiana State University Press, 2007), 253. Đây là bản tái bản của bản gốc năm 1933. Các đoạn trích từ một số cuốn sách du lịch của Waugh đã được sưu tầm trong When the Going Was Good [Khi Đi là Điều Tốt] (New York: Penguin, 2012), tái bản của một số ấn bản trước đó.

12 Evelyn Waugh, Brideshead Revisited [Thăm lại Brideshead] (Boston: Little Brown, 1945), 220.

13 Cùng nguồn, 273.

14 Cùng nguồn, 278.

15 Cùng nguồn, 381.

16 Cùng nguồn, 315.

17 Cùng nguồn, 338-39.

18 Cùng nguồn, 350-51.

19 Cùng nguồn, 351.

20 Evelyn Waugh, Men at Arms and Officers and Gentlemen [Người trong Quân ngũ và các Sĩ quan cùng Quý Ông] (New York: Dell, 1966), 14.

21 Evelyn Waugh, Unconditional Surrender [Đầu hàng vô điều kiện] (Boston: Little Brown, 2012), 300.

22 Waugh, Men at Arms, 35-36.

23 Evelyn Waugh, The End of the Battle [Kết thúc Trận chiến] (Boston: Little, Brown, 1961), 251.

24 The Letters of Evelyn Waugh [Những bức thư của Evelyn Waugh], Mark Amory biên tập (New Haven: Ticknor & Fields, 1980), 608.

25 Cùng nguồn.

26 Cùng nguồn, 617.

27 Được trích dẫn trong Joseph Pearce, Literary Converts [Các Văn nhân Trở lại] (San Francisco: Ignatius Press, 2006), 334.

28 Amory, Letters, 631.

29 Evelyn Waugh, Sword of Honor [Lưỡi Kiếm Danh Dự] (Boston: Little, Brown, 2012), lời nói đầu.

30 Amory, Letters, 638.

31 Cùng nguồn, 639.

32 Được trích dẫn trong Pearce, Literary Converts, đề từ.

33 Graham Greene, The Heart of the Matter [Tâm điểm Vật chất] (New York: Bantam, 1967), 181.

34 Cuốn sách ba tập The Life of Graham Greene [Cuộc đời của Graham Greene] (New York: Viking, 1984-2004) của Norman Sherry là cuốn tiểu sử tiêu chuẩn, mặc dù có đôi chỗ bị hoen ố bởi mối quan hệ cá nhân của Sherry với Greene. W. J. West, The Quest for Graham Greene [Đi tìm Graham Greene] (New York: St. Martin’s Press, 1997), cố gắng đào sâu một số câu hỏi mà Sherry né tránh.

35 Norman Sherry, The Life of Graham Greene [Cuộc đời của Graham Greene], tập. 1: 1904—1939 (London: Penguin, 1989), 221.

36 Graham Greene, A Sort of Life [một loại cuộc đời] (New York: Pocket Books, 1973), 103.

37 Cùng nguồn, 143.

38 Cùng nguồn, 145.

39 Cùng nguồn, 146-47.

40 Cùng nguồn, 28.

41 Graham Greene, The Power and the Glory [Quyền lực và Vinh quang] (New York: Viking / Compass, 1968), 5.

42 Hans Urs von Balthasar, The Christian and Anxiety [Ki-tô hữu và nỗi xao xuyến], Dennis D. Martin và Michael J. Miller dịch (San Francisco: Ignatius Press, 2000), 113.

43 Greene, Heart of the Matter [Tâm điểm Vật chất], 173.

44 Cùng nguồn, 290.

45 Greene, Ways of Escape [Những cách trốn thoát], 126.

46 Graham Greene, The End of the Affair [Kết thúc Vụ việc] (New York: Viking, 1967), 1 và 167.

47 Graham Greene, Collected Essays [Tuyển tập các tiểu luận] (New York: Random House, 2010), 115.

48 Amory, Letters, 559.

49 Graham Greene, Reflections [Các Suy tư], do Judith Adamson chọn lọc và giới thiệu (Toronto: Lester & Orpen Dennys, 1990), 316-17.

50 Cùng nguồn, 317.

51 Norman Sherry, The Life of Graham Greene [Cuộc đời của Graham Greene], tập 2: 1935—1955 (New York: Penguin, 2004), 492.

52 J. R. R. Tolkien, The Letters of J. R. R. Tolkien [Những bức thư của J. R. R. Tolkien], được chọn lọc và biên tập bởi Humphrey Carpenter với sự hỗ trợ của Christopher Tolkien (Boston: Houghton Mifflin, 1981), 172.

53 Humphrey Carpenter, J. R. R. Tolkien: A Biography [J. R. R. Tolkien : Tiểu sử] (Boston: Houghton Miffli n, 1977), 55.

54 Christopher Dawson, The Dynamics of World History [Động lực của lịch sử thế giới], John J. Mulloy biên tập (Wilmington, Del.: ISI Books, 2002), 69.

55 Tiểu luận ban đầu là Khóa giảng của Andrew Lang tại Đại học St. Andrews và được in lại trong J.R.R. Tolkien, Tree and Leaf [Cây và Lá] (Oxford: Oxford University Press, 1969), 66.

56 Cùng nguồn, 59.

57 J. R. R. Tolkien, The Lord of the Rings [Chúa tể của những chiếc nhẫn], Kỷ niệm 50 năm, một tập được biên tập. (Boston: Houghton Mifflin, 2oo5), 56.

58 J. R. R. Tolkien, The Hobbit [Người Hobbit] (London: HarperCollins, 2011), 73-74.

59 Christopher Tolkien, chủ biên, The History of Middle-earth [Lịch sử Trung Địa] (Boston: Houghton Mifflin, 1984—1996).

60 J. R. R. Tolkien, The Silmarillion (New York: Ballantine Books, 2002), 6.

61 C. S. Lewis, Essay Collection and Other Short Pieces [Tuyển tập tiểu luận và các bài viết ngắn khác] (London: HarperCollins, 2000), 519.

62 Tolkien, “On Fairy-Stories [Về những câu chuyện thần tiên]”, 54.

63 Cùng nguồn, 60.

64 Cùng nguồn, 71-72.

65 Tolkien, Letters, 255.

66 Cùng nguồn, 394.

67 The Lord of the Rings [Chúa tể của những chiếc nhẫn], 901.

68 Cùng nguồn, 925.

69 C. S. Lewis, The Collected Letters of C. S. Lewis [Những bức thư được sưu tầm của C. S. Lewis], tập 2 (New York: Harper One, 2004), 990-91.

70 Nigel Reynolds, Daily Telegraph, 20 tháng 1 năm 1996.

71 Czeslaw Milosz, “Secretaries [Thư ký]” trong Selected Poems [Những bài thơ chọn lọc], 1931-2004 (New York: Ecco / Harper-Collins, 2006), 141.

72 Czeslaw Milosz, “A Confession [tự thú]”, trong Polish Poetry of the Last Two Decades of Communist Rule: Spoiling Cannibal’s Fun [Thơ Ba Lan trong hai thập niên cuối cùng của sự cai trị của cộng sản: Làm hỏng niềm vui của kẻ ăn thịt người] (Evanston, Ill.: Nhà xuất bản Đại học Northwestern, 1991), 30.

73 Czeslaw Milosz, “You Who Wronged [Bạn người bị hại]”, trong New and Collected Poems (Thơ mới và Thu thập], 1931-2001 (New York: HarperCollins, 2001) 103.

74 Czeslaw Milosz, “Child of Europe [Đứa con Châu Âu]”, trong cùng nguồn, 84.

75 Adam Zagajewski, “On Czeslaw Milosz [Về Czeslaw Milosz] (1911-2004)”, New York Review of Books, 23/09/2004: 65.

76 Czeslaw Milosz, Native Realm: A Search for Self-Definition [Lãnh vực Bản địa: Tìm kiếm sự tự định nghĩa], Catherine S. Leach dịch (Garden City, N.Y.: Doubleday, 1968), 117.

77 Cùng nguồn, 87.

78 Czeslaw Milosz, Selected and Last Poems [Những bài thơ chọn lọc và cuối cùng], 1931-2004, Anthony Milosz dịch (New York: Ecco, 2011), 108.

79 Milosz, Native Realm, 163.

80 Cùng nguồn.

81 Cùng nguồn.

82 Czeslaw Milosz, Nobel Lecture [Diễn từ Giải Nobel], ngày 8 tháng 12 năm 1980, www.nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/1980/milosz-lecture.html.

83 Czeslaw Milosz, The Captive Mind [Tâm trí bị giam cầm], Jane Zielonko dịch (New York: Vintage, 1990), 41.

84 Milosz, Native Realm [Vương quốc bản địa], 280.

85 Czeslaw Milosz, The Land of Ulro [Lãnh địa Ulro], Louis Iribarne dịch (New York: Farrar, Straus, và Giroux, 1984), 187.

86 Milosz, Native Realm , 259.

87 Cùng nguồn, 260.

88 Được trích dẫn trong Leonard Nathan và Arthur Quinn, The Poet’s Work: An Discussion to Czestaw Mitosz [Công trình Nhà thơ: Thảo luận với Czestaw Mitosz ](Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1991), 8.

89 Czeslaw Milosz, Second Space: New Poems [Không gian thứ hai: Những bài thơ mới], Czeslaw Milosz và Robert Hass dịch (New York: HarperCollins, 2004), 100.