Ðà Nẵng: Các linh mục thời nay hòa hợp hơn với cuộc sống và khó khăn của người dân bình thường. Tuy nhiên, Ðức Cha Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tỉnh, chủ tịch ủy ban Giáo Sĩ và tu sinh, đã một thời làm giám đốc Ðại Chủng Viện Huế, cũng tin rằng các linh mục dẫu đang phấn đấu trong cuộc sống, phải biết tránh xa những quyến rũ của thế giới.

Sau đây là toàn bản văn nhận định của Ðức Cha dành cho Thông Tấn Xã Công Giáo Á Châu, về giáo sĩ Việt Nam thời nay và những thách đố họ đang gặp phải.

****
Giáo Sĩ là điều quan tâm đầu tiên và chủ yếu của toàn thể giáo hội bởi vì chức năng của họ xác định một cách quan trọng đến sự sống còn của Giáo Hội. Như con người vẫn thường nói: "Cha nào con nấy". Ðiều này không có nghĩa phủ nhận đến vai trò quan trọng của những thành viên khác trong cộng đồng Dân Chúa.

Nếu linh mục theo bản chất là một "alter Christus" (thay mặt Ðức Kitô), người ấy phải đáp ứng trong mọi lúc những nhu cầu của thiên chức linh mục. Sự cần thiết sống đời thánh hóa nơi linh mục không bao giờ thay đổi, nhưng con đường đưa đến sự thánh hóa phải thích nghi trong mọi thời và mọi môi trường trong cuộc sống.

6 Tu Viện Việt Nam có khoảng 1000 đại chủng sinh, và các trăm người tốt nghiệp đã được thụ phong trong vòng hai thập niên qua.

Xét về cá nhân, các tu sinh ngày nay trưởng thành hơn, bởi vì họ lớn tuổi hơn và có nhiều cơ hội hơn lăn lộn trong xã hội trước khi bước vào chủng viện. Như thế, dường như họ thông minh hơn và có khả năng hơn, thực tế hơn và quyết tâm hơn trong những phán đoán cho mình.

Về mặt tinh thần, dẫu là những người trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, các linh mục hậu công đồng Vaticanô II đưa ra một gương mẫu mới, sự đòi hỏi đời sống thánh thiện vẫn còn giá trị như những bậc đã đi trước.

Trước hết, giáo sĩ Việt Nam ý thức hơn những giá trị dân chủ và những quyền công dân. Họ có một ý hướng cao đến tình anh em và hiệp nhất với mọi người, mặc dầu một khoảng cách vẫn còn tồn tại giữa sự nhận thức và cách cư xử thực tế trong cuộc sống hằng ngày.

Các linh mục trẻ phấn đấu để khám phá và tiên phong cho những thực tạii mới nhưng phải biết học hỏi sao đế sống tốt đẹp hơn với những thực tại đó. Tuy nhiên, họ sống gần gũi với Thánh Lễ hơn là những người đi trước.

Thứ hai, hiện nay các linh mục sống và phục vụ trong moột mội trường là cạm bẫy với những quyến rũ và cám dỗ hơn lúc trước. Cùng lúc, họ phải làm những gì tốt đẹp nhất để đóng góp cho sự thánh hóa thế giới và làm cho thế giới tốt đẹp hơn và đầy tình người hơn, một thế giới mà con người đối xử và kính trọng nhau hơn vì công lý. Như thế, trong khi hiện diện trong các thánh lễ, các linh mục phải xa lánh một cách nào đó tới mọi thói hư tật xấu trong xã hội loài người.

Thứ ba, giáo sĩ ngày nay cũng nhận thức rõ ràng đến việc rao giảng Tin Mừng, đó không còn là trách nhiệm chỉ dành riêng cho họ, vì thế họ nên được đào tạo để làm việc với giáo dân và các linh mục khác. Họ phải học để biết nghe những người khác, chia sẻ trách nhiệm với người khác và hành động như những người lãnh đạo theo tinh thần phục vụ đã được giảng dạy trong Phúc Âm. Họ nên tránh ôm đồm những công việc của người khác hay áp đặt chính ước muốn của mình trên người khác.

Họ cũng có khuynh hướng đối thoại với các giám mục của họ và đối thoại với nhau, và vâng lời những chỉ thị dễ dàng hơn sau khi đối thoạị, không lơ là đến những chỉ thị được đưa ra. Nhưng họ cũng phải học đối thoại với con người trong mọi hoàn cảnh-- người không Kitô giáo, người không tín ngưỡng và cả đến những người ghen ghét tôn giáo.

Thứ tư, giáo sĩ vẫn còn lơ là hội nhập Phúc Âm trong phạm vi văn hóa đất nước, đặc biệt đến những cấu trúc của Giáo Hội và thần học.

Dầu sao đi nữa, đó là hình ảnh của giáo sĩ Việt Nam ngày hôm nay và trong nhiều năm sắp tới. Một mẫu gương giáo sĩ như thế phải được các chủng sinh quan tâm tới. Các linh mục trong ngàn năm thứ ba cần phải thể hiện theo một đường lối sao cho họ biết cam kết sống trong tình yêu thương đồng loại và hiệp nhất với mọi người.

Các linh mục đòi hỏi phải biết đối thoại và chia sẻ ý kiến và những kinh nghiệm của mình, nhưng không để mất đi tinh thần vâng lời, tông đồ và tôn trọng các điều lệ và luật pháp. Học cũng được đòi hỏi hầu tham gia cách tích cực trong việc phục vụ xã hội và vẫn phải cảnh giác tới những hiểm nguy. Nói tóm lại, họ đóng những vai trò về cả hai mặt, sứ giả của Ðức Kitô hay "alter Christus", và cũng là một người sống giữa người phàm và cho con người (x Dt 5:1).

Tuy nhiên, chúng ta cũng xét tới vài hiểm nguy đe dọa tới đời sống các linh mục Việt Nam ngày nay. Khi nhắc tới những vết nhơ đen tối có nghĩa là để bảo vệ các linh mục và cho những ai đang tiến tới thiên chức linh mục.

Một vết nhơ đen tối là khao khát quyền lực, đã xuất hiện qua thái độ độc đoán trong các thừa tác mục vụ và thi hành những hoài bão. Trong khi kiếm tìm uy quyền hay quyền lực, một linh mục có thể phải dựa vào một quyền lực nào đó làm điểm tựa. Tuy nhiên, sau khi đã nắm quyền lực đó rồi, người ấy lại lo sợ uy quyền của mình bị chia xớt hay bị giảm uy thế, cho nên người ấy độc quyền và từ khước chia sẻ trách nhiệm với bất cứ người nào.

Một vết nhơ đen tối khác nữa có thể là xu hướng tìm kiếm một cuộc sống tiện nghi, an nhàn và tiền bạc một cách quá đáng. Sự thật là một số linh mục ngày nay không thể chịu đựng một cuộc sống thiếu tiện nghi vật chất, cho nên họ kiếm và tiết kiệm tiền bạc cho ngày mai. Hẳn nhiên, chúng ta không vui gì nếu một linh mục phải chịu đựng những hòan cảnh tủng thiếu một cách cùng cực, đặc biệt khi vị ấy không được đáp ứng những nhu cầu căn bản. Nhưng chúng ta đừng quên rằng thiên chức linh mục hoàn toàn không thể được coi như một phương tiện để được thăng tiến trong xã hội.

Xét theo quá trình trong gia đình, phần đông các giáo xĩ xuất thân từ những gia đình khiêm tốn trong xã hội, tính tham lam và hà tiện sẽ làm chai lòng dạ của linh mục trước ân sủng của Thiên Chúa và nỗi bất hạnh của người khác.

Ngày nay giáo sĩ cởi mở hơn đối với xã hội, vì thế họ có nhiều cơ hội tiếp xúc với nữ giới. Khuynh hướng đeo đuổi một cuộc sống thanh thản và tiện nghi cũng đẩy đưa đến việc kiếm tìm sự giải trí và hoan lạc, nhất là khi họ có một khái niệm mơ hồ đến những đòi hỏi của đức khiết tịnh. Ðó là tại sao ngày nay các linh mục đi theo phụ nữ ra bải biển hay đi cắm trại thật là không hiếm.

Một số linh mục coi việc làm bạn với nữ giới là một chuyện bình thường. Ðối với vài linh mục, hình ảnh khỏa thân và tài liệu dâm ô không còn coi là điều cấm. Giáo dân và ngay cả linh mục dường như không còn ác cảm tới các linh mục có con riêng và vẫn còn thi hành chức linh mục. Tạ ơn chúa, hầu hết các linh mục Việt Nam vẫn sống theo nhân đức khiết tịnh.

Cho đến bây giờ, con người vẫn tin tưởng các linh mục bởi vì những chức thánh và bản chất của họ, được coi như là những người đạo đức và là những người con của Thiên Chúa. Vì thế, chỉ một khiếm khuyết liên quan tới cá nhân của một linh mục hay cá tính tinh thần cũng đủ làm giáo dân, người không theo Kitô giáo đặt câu hỏi đến chính sự tín thác của mình nơi linh mục.

Trong trường hợp các linh mục là người phạm lỗi nặng, giáo dân đến với các linh mục chỉ như là bổn phận, không phải vì họ tin tưởng linh mục đó đâu. Những linh mục đó chỉ được coi như là "những chức năng" là người ban phát ân sủng Thiên Chúa.

Vì vậy, các chủng sinh phải là những ứng sinh linh mục có cả hai nhân đức tự nhiên và siêu nhiên. Cụ thể mà nói, điều này có nghĩa việc huấn luyện phải giúp họ phát triển một đặc tính chắc chắn và trở nên con cái Thiên Chúa một cách nhiệt thành, là những người sống theo giáo huấn của Chúa Giê-su. Ðây phải là một sự đào tạo cả hai mặt.

Liên quan đến những đức tính nhân bản, ứng sinh linh mục phải biết đưa ra những phán đoán hợp lý, biết lắng nghe và đối thoại với con người, và có một ý chí mãnh liệt. Họ có thể lãnh đạo xã hội trong tinh thần phục vụ cho mọi người-- kính trọng mọi người, đối xử dịu dàng và cởi mở tới mọi giá trị đúng đắn mà không màng tới căn nguyên của nó.

Ðối với cá nhân, các linh mục nên ngoan ngoãn trước Thiên Chúa (docibilis Dei) qua việc cầu nguyện và sãn sàng làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố nhỏ hay lớn trong đời tu trì, trong xã hội và trong mọi thời. Họ nên đối xử nhã nhặn và có kỷ luật, làm việc hăng say và vui vẻ. Ðặc biệt, họ nên có một sự tương quan thân mật với Chúa Giêsu luôn mãi và khắp mọi nơi.

PS: Văn bản bằng tiếng Anh, cho nên bản dịch không sao tránh khỏi những mạch văn không được đúng theo như ý của Ðức Cha