ĐÊM HOẠT CẢNH CANH THỨC MỪNG LỄ GIÁNG SINH NĂM 2006
CHỦ ĐỀ: NGÔI LỜI NHẬP THỂ - Nguồn và gương mẫu đời “Sống Đạo”
A. TỔNG QUÁT
* KHAI MẠC : Hát một bài đồng ca về Tâm tình Mùa Vọng (C.đ Giáo xứ)
* PHẦN 1: SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và phục vụ con người.
+ NHÂN VẬT: Ađam + Eva (G.L.V phụ trách)
Một số con vật, cây cối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú… (Do các em Mẫu giáo Tuổi thơ hoá trang – các Dì phụ trách).
+ HÌNH THỨC : Ca vũ cảnh.
+ KHUNG CẢNH : Sân khấu để trống, chuẩn bị điện phối hợp ca cảnh.
+ THỰC HIỆN : Các Dì + G.L.V.
* PHẦN 2: Gương Sống Đạo của Abraham: TRUNG THÀNH VÀ GẮN BÓ VỚI THIÊN CHÚA.
+ NHÂN VẬT : Giọng nói Thiên Chúa. Abraham, Sara, Isaác. 03 “Người của Thiên Chúa”.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm ba tiểu phẩm sau:
- Chúa gọi Abraham.
- Tiếp đón “Người của Thiên Chúa”
- Sát tế Isaác.
+ KHUNG CẢNH : cảnh vật tự nhiên, gia thất, đồi sát tế.
+ THỰC HIỆN : Gia trưởng và Hiền mẫu.
+ THÁNH CA PHỤ HOẠ : (C.đ Hiền mẫu).
* PHẦN 3: ĐỨC MARIA: Gương mẫu Sống đạo tuyệt vời.
+ NHÂN VẬT : Sứ thần, Maria, Giacaria, Êlisabet.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm 2 tiểu phẩm sau:
- Truyền tin.
- Thăm viếng.
+ KHUNG CẢNH : Cảnh gia thất Maria và Giacaria.
+ THỰC HIỆN : G.L.V.
+ THÁNH CA PHỤ HỌA : (C.đ Gia trưởng).
* PHẦN 4: CHÚA GIÁNG SINH: Đạo vào đời.
+ Nhân vật: Giuse, Maria, các Thiên thần, mục đồng, Ba Vua.
+ Hình thức: ca cảnh, diễn điệu, gồm các tiểu vũ sau:
- Giuse và Maria dìu nhau đến hang đá Bêlem.
- Thiên Thần múa hát mừng Chúa giáng sinh.
- Các mục đồng thờ lạy Chúa.
- Ba vua dâng lễ vật.
+ THỤC HIỆN : Quý Dì, các em mẫu giáo Tuổi thơ, Lễ sinh, GLV.
* PHẦN 5: Sống đạo hôm nay: YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ.
+ NỘI DUNG : Theo nội dung hoạt cảnh “Bài học yêu thương”
+ NHÂN VẬT : theo phân bố của kịch bản.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh.
+ THỰC HIỆN : Giới trẻ.
+ THÁNH CA PHỤ HỌA : (C.đ Thiếu nhi).
B. NỘI DUNG CỤ THỂ
KHAI MẠC :
* LỜI GIỚI THIỆU :
Kính thưa Quý Cha!
Quý Tu sĩ, Quý chức, cùng toàn thể Cộng đoàn!
Chúng ta đang chuẩn bị thật gần trong niềm hân hoan mừng Đại lễ Giáng sinh của Năm Phụng vụ mới 2006 – 2007. Năm Phụng vụ này, Giáo hội Việt Nam đã chọn chủ đề là “SỐNG ĐẠO HÔM NAY”. Trong thư Mục vụ năm 2006, Các vị chủ chăn đáng kính của chúng ta đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Qua thư Mục vụ 2004, chúng ta đã chiêm ngắm, suy tôn và sống Mầu nhiệm Thánh Thể, là “Nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô hữu” (LG 11). Tiếp theo, thư Mục vụ năm 2005 mời gọi chúng ta lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa. Và thư Mục vụ năm 2006 này chọn chủ đề “Sống đạo hôm nay” để mời gọi mỗi người sống niềm tin bằng những hành động cụ thể, như Thánh Giacôbê tông đồ đã viết “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”(Gc 2,17). Quả thật, đời sống đạo vừa cần phải gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập thể và Nhập thế đã nêu gương cho chúng ta” (Số 1).
Như vậy, từ lời Giáo huấn trên, các Giám mục Việt Nam đã làm sáng tỏ một chân lý: Thiên Chúa là Tình yêu, tình yêu ấy đã hướng tới việc phục vụ con người qua công trình sáng tạo vĩ đại, qua lịch sử Cứu độ và qua cuộc nhập Thể Cứu thế nơi Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta sẽ mừng kính Mầu nhiệm Giáng sinh của Ngài trong đêm nay. Theo Tin mừng của Thánh Gioan, khi trả lời thắc mắc của Tôma, Chúa Giêsu đã nói “Chính Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Vâng, chính Chúa là Đường, là Đạo, Ngài đã nhập thể làm người để đem đạo vào đời bằng chính thái độ gắn bó, vâng phục Thánh ý Chúa Cha và bằng sự phục vụ tự hiến đến chấp nhận cuộc tử nạn để cứu độ nhân loại; quả thật, chính Mầu nhiệm Nhập thể, nhập thế của Chúa Giêsu đã nên gương mẫu đời sống đạo hôm nay cho chúng ta: một thái độ sống “Gắn bó với Thiên Chúa và đi đến với anh em” như các Giám mục kính mến của chúng ta đã nhắc nhở trong thư Mục vụ.
Lần giở lại một vài đoạn Kinh thánh được diễn trong đêm hoạt cảnh – Canh thức hôm nay, chúng ta sẽ hiểu rõ lời Giáo huấn của các vị chủ chăn, sẽ nhận thức được rằng mình sẽ sống ra sao, sống như thế nào để gọi là “Sống đạo hôm nay”, và trong tâm tình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa tình yêu lời cảm mến tri ân, lòng hân hoan vui mừng nhân biến cố mừng Chúa Giáng sinh để ban Ơn Cứu độ cho chúng ta không chỉ trong Đêm cực Thánh này, không chỉ trong Mùa Giáng sinh hồng phúc, mà trong suốt hành trình của Giáo hội, trong suốt cuộc đời chúng ta.
Giờ đây, để cho đêm Hoạt cảnh – Canh thức được bắt đầu, Cộng đoàn chúng ta hãy hiệp lời cùng Ca đoàn để diễn tả tâm tình mong chờ Chúa đến.
* Ca đoàn hát đồng ca một bài về “Tâm tình Mùa Vọng”.
I. PHẦN MỘT : SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và phục vụ con người.
(Sân khấu để tối, chỉ cần đủ ánh sáng cho người dẫn).
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Câu đầu tiên của sách Sáng thế đã viết: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm” (St 1,1-2).
Vâng, khi Thiên Chúa chưa sáng tạo muôn vật, vũ trụ này chỉ là hư vô, trống rỗng, chỉ có một mình Thiên Chúa ngự trị. Thiên Chúa là Tình yêu, Ngài không muốn gói gọn tình yêu trong Trái tim của Ngài, Ngài chỉ muốn mở Tình yêu ra, trao ban tất cả; mà sáng kiến đầu tiên của Tình yêu ấy là công trình tạo dựng trời đất muôn vật cách quyền năng và lạ lùng khôn tả. Sách Sáng thế ghi rằng: Thiên Chúa đã dùng Lời quyền năng và Thần khí để sáng tạo ra ánh sáng xoá tan đêm tối (Bật điện sáng), Người phân rẽ ánh sáng bóng tối (Tắt điện một chút rồi bật sáng ngày), Người tạo nên vũ trụ bao la với đầy đủ tinh tú (Bật các bóng trang trí), Người phân rẽ đất nước và sinh ra trên đó biết bao sinh vật (Các em hoá trang nhảy ra). Thiên Chúa thấy mọi sự rất tốt đẹp. Tuy nhiên, Thiên Chúa thấy vẫn còn thiếu một cái gì đó, Ngài nhìn muôn vật bơ vơ chưa có ai cai quản, Ngài liền nghĩ và thực hiện ngay ý định: “Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Chúng Ta, giống như Chúng Ta để con người làm bá chủ chim trời, cá biển và mọi giống vật trên mặt đất” (St 1,26); và thế là con người, tạo vật cuối cùng và cao trọng nhất đã được dựng nên để thay Chúa cai quản mọi vật (Ađam, Eva nắm tay nhau hạnh phúc bước ra trong làn nhạc êm). Và thế là công trình tuyệt diệu của Tình yêu đã hoàn tất. Đối với muôn vật, tình yêu của Chúa đã được phủ đều, tuy nhiên Tình yêu ấy hầu như được kết tụ nơi con người khi ban cho họ hai đặc ân tuyệt hảo đó là được giống Chúa, mang hình ảnh của Ngài và được cai quản muôn vật.
Như thế đấy, muôn vật, mọi trật tự kỳ diệu của vũ trụ và cả loài người cao trọng chúng ta đã được hình thành từ trong quyền năng và Tình yêu của Chúa. Tình yêu muốn được chia sẻ, Tình yêu để phục vụ. Chúng ta hãy hiệp cùng Ông bà Nguyên tổ, cùng muôn vật, vũ trụ hát lên lời ca tụng Chúa, cùng loan tin vui sáng tạo cho muôn người ở khắp mọi nơi.
* Vào vũ khúc.
II. PHẦN HAI : Gương Sống Đạo của Abraham: TRUNG THÀNH VÀ GẮN BÓ VỚI THIÊN CHÚA.
* LỜI DẪN:
Thế rồi, theo lời Kinh thánh tường thuật, bản hoan ca phượng thờ của con người và muôn loài thụ tạo ở chốn địa đàng xưa dành cho Thiên Chúa tình yêu tưởng như là bất tận ấy đã mau chóng bị ngắt quãng mà nguyên nhân lại xuất phát từ phía con người – tạo vật lý tưởng của Thiên Chúa: nguyên tổ sa ngã, lòng ghen tương đố kỵ, tính ích kỷ, kiêu căng … đã đẩy con người đi vào con đường của ma quỷ: bội phản lại Thiên Chúa – Đấng vì yêu thương đã tạo dựng và phục vụ mình. Tuy nhiên, mặc cho con người tiếp tục dấn bước trên con đường bội phản, Thiên Chúa vẫn kiên trì tự mặc khải như một Đấng Thiên Chúa vô cùng chung thuỷ và thường hằng bất biến qua việc tuyển chọn và tinh luyện mà Ngài đã liên lỉ thực hiện dọc theo lịch sử Cứu độ để lôi kéo con người về lại với niềm tin đích thực.
Và trong dòng dõi bội phản, vẫn còn đó và sáng chói lên những khuôn mặt đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tinh luyện, để qua đó, Ngài làm sáng tỏ những mẫu gương Sống đạo giữa đời thật tuyệt hảo cho muôn đời hậu thế dọc theo lịch sử Cứu độ. Chúng ta hãy chiêm ngắm Abraham và gia đình ông, một mẫu gương sống đạo sáng chói bằng sự trung thành và gắn bó với Thiên Chúa giữa cuộc đời.
* VÀO HOẠT CẢNH :
a) MÀN 1: CHÚA GỌI ABRAHAM.
(Màn mở, cảnh cánh đồng với đàn súc vật, Abraham đang cầm gậy, đứng quan sát đàn súc vật, bỗng có ánh sáng loá từ trời, Abraham giật mình hoảng sợ, lùi lại vài bước và sụp quỳ xuống, dần dần ngước đầu lên nhìn về phía ánh sáng chói).
Tiếng Chúa: Abram! Abram!
Abraham: Dạ, dạ, …, tôi đây!
Tiếng Chúa: Abram hãy nghe đây, hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy và ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc!
Abraham: (Vẻ bất ngờ, ngơ ngác, bàng hoàng; ánh sáng lịm dần) – Vâng, tôi xin nghe, lạy Chúa! (Hấp tấp đứng dậy và vội vã lùa súc vật đi vào)
Dẫn nối: Bất ngờ, bàng hoàng, khó chấp nhận … nhưng thái độ của Abraham lại hoàn toàn ngược lại: Ông mau mắn hiểu ra Thánh ý tốt lành của Thiên Chúa – Đấng ông hằng tôn thờ mà thực thi không tính toán (Nhạc êm, Abraham cùng Sara, Lot, một số giai nhân, một số súc vật hồ hởi đi ra vẻ rất vui và háo hức. Cả nhà cùng đứng lại vẻ ngắm nhìn vùng đất, bỗng có tiếng gọi từ trời)
Tiếng Chúa: Abram, ngươi hãy coi, đây là phần đất mà Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi. Trên phần đất này, Ta sẽ là khiên thuẫn đỡ cho ngươi và dòng dõi ngươi.
Abraham: (Hấp tấp quỳ xuống, ngước mắt lên trời, mọi người làm theo) – Lạy Đức Chúa là Chúa thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì, con ra đi mà không có con cái? Chẳng lẽ kẻ gia nhân lại là người thừa tự của con hay sao?
Thiên Chúa: Không, kẻ đó không là người thừa kế mà là người do chính ngươi sinh ra mới là thừa kế của ngươi. Ngươi hãy nhìn lên trời mà xem, ngươi có đếm nổi hết số sao đó không, rồi đây, dòng dõi ngươi sẽ đông như sao trên trời, như cát bãi biển, sẽ sở hữu phần đất này làm gia nghiệp. Trên phần đất này, Ta sẽ làm cho ngươi thành cha của nhiều dân tộc, Ta sẽ gọi ngươi là Abraham vì ngươi sẽ là cha của nhiều dân tộc. Hãy nghe đây, Ta là Thiên chúa toàn năng, ngươi hãy bước đi trước mặt ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta, Ta sẽ cho ngươi trở nên đông thật đông, ngươi hãy tuân giữ giao ước của ta.
Abraham: (Cúi sấp mình xuống, mọi người cùng làm theo) – Lạy Thiên Chúa toàn năng, con tin và cảm tạ Ơn Người! (Mọi người ngẩng lên, đưa hai tay lên cao, ngước mặt lên trời).
b) MÀN 2: TIẾP ĐÓN NGƯỜI CỦA THIÊN CHÚA
(Màn mở, cảnh túp lều, một bụi cây, Sara ngồi trong lều, Abraham đang ngồi nghỉ mát nơi gốc cây, trong tiếng nhạc nền, bỗng có ba người chợt xuất hịên trước mặt Abraham).
Abraham: (giật mình, hốt hoảng đứng bật dậy, chạy vội ra và sụp lạy) – Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các Ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!
Ba vị khách: (Vẻ hân hoan) – Xin chào người công chính của Đức Chúa, xin Ông cứ làm những gì như ông vừa nói! (Vui vẻ ngồi vào các cục đá nơi gốc cây)
Abraham: (Hối hả chạy vào lều, vừa chạy vừa gọi): - Bà Sara ơi, người của Đức chúa đến viếng thăm chúng ta đây! (Abraham vào lều, nói vọng ra) – Bà mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi và làm bánh – (gọi tiếp) – Giai nhân đâu? – (Có tiếng thưa vọng ra) – Dạ! – Mau bắt một con bê sữa làm thịt ngay để nhà ta đãi khách quý! – Dạ!
(Trong tiếng nhạc, cảnh giai nhân chạy qua chạy lại tất bật, Abraham ngồi tiếp chuyện Người của Chúa, cảnh dọn cơm, ba người khách ngồi vào bàn, Abraham ngồi tiếp).
Abraham: (Xởi lởi) - Xin mời, xin mời, bữa cơm đạm bạc này xin được làm ấm lòng các vị, chúc các vị ngon miệng! – (Bốn người cụng ly, vui vẻ).
Người của Chúa: (Như chợt nhớ ra) – À, Abraham này, bà Sara vợ ông đâu rồi?
Abraham: Thưa các vị, nhà tôi hay ngại lắm, bà ấy ở trong lều.
Người của Chúa: (Dí dỏm) – Ông có tin hay không thì tùy, nhưng sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây, thì ông bà đã có một cu cậu con trai để bế rồi đấy! – (Cười)
Abraham: (Cười khẩy) – Các Ngài khéo đùa, tôi đã gần trăm tuổi, nhà tôi cũng đã là bà lão chín mươi, chuyện sinh đẻ ai lại dám mơ nữa!
(Bỗng văng vẳng tiếng cười khúc khích và tiếng nói vọng ra: Ôi dào, mình đã là một bà lão cằn cỗi, còn hưởng thú vui nữa sao? Ông ấy còn là một ông lão già nua, có mà chuyện lạ!)
Người của Chúa: (Nghiêm nét mặt) – Kìa Abraham, tại sao bà ấy lại không tin, lại cười chúng tôi mà nghĩ là người già mà sinh con có là chuyện lạ?
Abraham: (Ngạc nhiên, lúng túng, vẻ ngơ ngác)
Người của Chúa: Abraham, ông hãy nhớ một điều, Đức Chúa đã hứa với ông, mà Ngài thì luôn trung tín; vả lại, có điều gì kỳ diệu mà vượt được sức Đức Chúa hay không! Ông hãy nhớ kỹ điều này là: bằng giờ sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây thì Bà Sara đã có cho ông một cậu con trai đấy, thôi, cơm no rượu say rồi chúng tôi xin phép ra đi! (lục tục đi)
Sara: (ra khỏi lều, vẻ ngại ngùng) – Xin các Ngài hãy lưu lại đã, lúc nãy có vị bảo là tôi cười, nhưng nào tôi dám cười!
Người của Chúa: Bà đã cười, bà hãy nhờ lời chúng tôi đấy nhé! Thôi, chúng tôi đi!
Cả hai ông bà: Vâng, tạ ơn Đức Chúa, kính chúc các vị bằng an (Hai người nhìn nhau trìu mến, màn đóng).
c) MÀN 3 : SÁT TẾ ISAÁC.
(Màn mở, cảnh túp lều, trời nhá nhem tối, Abraham ngồi bên ngoài như nghỉ ngơi, bỗng có ánh chớp loè, Abraham hoảng hốt, ngơ ngác).
Tiếng chúa: Abraham, Abraham!
Abraham: (Vội vàng quỳ sụp xuống) – Lạy Đức Chúa, này con đây!
Tiếng Chúa: Này Abraham, Ta rất hài lòng về ngươi, vì ngươi luôn giữ giao ước với Ta. Ta chỉ còn một việc duy nhất muốn ngươi làm đó là sáng sớm mai, ngươi hãy đem Isaác – đứa con mà Ta đã ban cho ngươi đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu, ở trên một ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho ngươi!
Abraham: (Sụp ngồi xuống thất vọng) – Ôi, lạy chúa … (lại quỳ thẳng lên kiên quyết) – Vâng, lạy Đức Chúa, điều gì Đức Chúa muốn con xin thi hành! (Lại ngồi thụp xuống đau khổ, trời tối hẳn. Một lát sau, trời tảng sáng, tiếng gà gáy, có tiếng Abraham gọi trong lều)
Abraham: Bà ơi, Isaác ơi! Trời đã sáng rồi, dậy mau!
Sara: (Vẻ ngái ngủ) – Sao hôm nay ông lại dậy sớm thế!
Abraham: Dậy đi bà ơi, con trai ơi, tối hôm qua, Đức Chúa đã muốn tôi cùng Isaác đi tế lễ cho Người!
Sara: Vậy à, tôi dậy đây – (Gọi vọng) – Isaác ơi, dậy đi con, hôm nay con được cùng cha đi tế lễ cho Đức Chúa đấy!
Isaác: (Vẻ rất tỉnh) – Ôi, vậy à, con sướng quá, hôm nay thế là đã được đi tế lễ cùng cha rồi!
(Có tiếng Abraham thở dài, tiếng lục đục một lúc, trời tảng dần, Abraham cầm con dao cùng Isaác đeo bó củi bước ra. Abraham vẻ buồn rười rượi, Isaác vui vẻ vô tư, Sara bước ra có vẻ lo lắng vì thấy chồng không vui).
Sara: Ông ơi, sao hôm nay ông có vẻ hơi lạ, ông mệt à, hay là để tôi cho gia nhân đi cùng ông!
Abraham: Thôi bà, có gì đâu! Tôi đi đây – (Cao giọng) – Ta đi thôi con trai!
Isaác: Vâng! (ngoảnh lại) – Con đi mẹ nhé!
Sara: Được rồi, hai cha con đi bằng an! (Hai cha con vẫy chào đi thẳng, Sara vẫn đứng nhìn theo chưa hết vẻ lo ngại, cảnh dừng).
(Sân khấu tối một chút rồi sáng hẳn, cảnh tự nhiên, đã có một bàn thờ kê sẵn, hai cha con đang xếp củi lên bàn thờ, Abraham cặm cụi làm vẻ đau khổ, Isaác ngược lại hết sức vui vẻ, vô tư).
Isaác: Cha ơi, mình xếp củi xong rồi nhưng con có thấy lễ vật đâu Cha? – (Cười dí dỏm) – Không lẽ cha chỉ đốt củi xông khói cho Đức Chúa thôi sao! – (Giật mình vì thấy Cha sầu não, vội chuyển thái độ ân cần) – Cha, con xin lỗi vì đã vô ý đùa với Cha! Nhưng mà … nhưng mà sao hôm nay con thấy cha có vẻ gì … kỳ lạ lắm! Cha, cha có chuyện gì buồn, hay cha không khoẻ, hay cha đang giận con … hả cha?
Abraham: (Nhìn con trìu mến) - !!!
Isaác: (Vẻ lấy lòng) – Cha, con chỉ đùa có tí thôi mà, cha đừng giận con nữa nhé, thôi bây giờ để con chất nốt mấy cây củi này nữa là xong, rồi cha con ta đi bắt lấy một con dê núi làm của lễ cho Đức Chúa! (Cúi xuống nhặt củi).
Abraham: (Thả dao, ôm chầm lấy con) – Isaác con ơi, cha chẳng buồn con đâu, cha cũng chẳng đau bệnh gì hết, cha rất thương con vì con là cả cuộc đời của cha! Nhưng con ơi, hôm nay, Thánh ý của Đức Chúa là muốn cha dùng con làm của lễ toàn thiêu kính dâng lên Ngài …!
Isaác: (Hoảng sợ, dẫy ra khỏi tay cha, lùi lại hai ba bước) – Cha! …
Abraham: (Đau khổ, nói trong nước mắt) – Con yêu, cha thương con hơn bản thân cha – (Bước đến ôm con) – nhưng ý của Đức Chúa làm sao cha dám làm trái lại. Con ơi, Cha rất thương con, thương con lắm nhưng cha phải vâng lệnh Đức Chúa thôi con ơi!
(Abraham khóc nức lên, Isaác rời khỏi tay cha, lùi lại vài bước nữa rồi quỳ sụp xuống. Abraham với lấy con dao tiến vài bước đến gần Isaác lưỡng lự, sau đó dứt khoát vung dao lên, bỗng có ánh sáng chói loà, tiếng Thiên Chúa vang lên dứt khoát)
Tiếng Chúa: Abraham, Abraham, hãy dừng ngay lại!
(Abraham giật mình dừng tay, còn để nguyên vị trí, hai cha con ngước lên trời ngơ ngác)
Tiếng Chúa: Ngươi đừng giơ tay làm hại đứa trẻ, đừng đụng đến nó! Bây giờ Ta đã biết ngươi là kẻ hết lòng kính sợ Đức Chúa. Đối với Ta, đến đứa con đầu lòng duy nhất mà ngươi cũng chẳng tiếc. Hãy nghe đây, hỡi Abraham, vì ngươi đã làm điều đó nên Ta sẽ lấy Danh Ta mà thề rằng: Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông như sao trên trời, như cát bãi biển, dòng dõi ngươi sẽ chiếm được các thành trì của giặc. Mọi dân tộc trên địa cầu này sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi ngươi đã vâng lời Ta!
(Tiếng Chúa dứt, hai cha con bàng hoàng một lát rồi ôm chầm lấy nhau sung sướng, bỗng có tiếng dê kêu, hai cha con cùng chạy đi và quay lại với con dê trong tay, đặt dê lên đàn tế lễ, châm lửa rồi quỳ sụp xuống)
Hai cha con: Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chúng con tạ ơn Ngài! (Màn đóng)
III. PHẦN III : ĐỨC MARIA: GƯƠNG MẪU SỐNG ĐẠO TUYỆT VỜI
* LỜI DẪN :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta vừa chiêm ngắm Abraham – Tổ phụ dân tộc Thánh, dân riêng của Chúa. Abraham đã nêu cho chúng ta gương mẫu một đời sống đạo giữa đời: Ông luôn tín thác, tin tưởng và trung thành với Đức Chúa – Đấng đã làm cho ông biết bao điều kỳ diệu. Ông đã được mệnh danh là “Cha các kẻ tin”. Đi dọc Lịch sử Cứu độ, chúng ta còn được chiêm ngắm biết bao gương mẫu nữa nơi các Tổ phụ Israel, như Maisen, như các thủ lãnh, Các Vua Do thái … và, vào thời viên mãn, chúng ta cũng sẽ được chiêm ngắm một mẫu gương tuyệt vời nữa nơi Đức Maria – người nữ tì của Thiên Chúa – bóng dáng của Lời hứa Cứu độ. Đức Maria đã nên gương mẫu sống đạo tuyệt hảo cho chúng ta như thế nào, hai đoạn hoạt cảnh ngắn sau đây sẽ chỉ ra cho chúng ta một bài học sống đạo hôm nay thật quý giá.
* MÀN 1: TRUYỀN TIN
(Cảnh nội thất, Maria đang ngồi bên bàn đọc sách vẻ chăm chú, nhạc du dương êm đềm. Bỗng ánh chớp loà, ánh sáng quay cuồng, một Thiên thần xuất hiện uy nghi trước mặt Maria; Maria bàng hoàng, thả sách, đứng bật dậy lùi lại vài bước…)
Thiên thần: (Trịnh trọng chắp tay) – Kính chào trinh nữ đầy ân sủng! Trinh nữ hãy vui mừng lên vì Thiên Chúa luôn ở cùng trinh nữ!
Maria: (Từ sợ sệt ra bối rối) – Người … người là… ai, và … lời chào vừa rồi của người có ý gì mà phận nữ nhi của tôi không thấu hiểu được!
Thiên thần: Hỡi Trinh nữ Maria, xin đừng sợ! Ta là Thiên sứ Gabriel của Thiên Chúa; Ta được sai đến để báo cho Trinh nữ một tin vui mừng trọng đại: Trinh nữ rất đẹp lòng Thiên Chúa! Và này đây Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh một con trại, đặt tên là Giêsu! Chính Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít Tổ phụ, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!.
Maria: (Ngạc nhiên, bối rối hơn) – Thiên sứ đáng kính, việc mà Thiên sứ vừa nói xảy ra thế nào được, vì phận nữ tôi tuy đã đính hôn với Giuse nhưng nào đã biết đến việc vợ chồng?
Thiên thần: Trinh nữ hãy an tâm, người con mà trinh nữ sẽ cưu mang không bởi huyết tộc của Giuse, người bạn trăm năm của trinh nữ đâu!
Maria: Vậy thì chuyện Sứ thần nói càng không thể có!
Thiên thần: Không, có đấy! Chính Thánh thần sẽ ngự xuống trên Trinh nữ và quyền năng của Đức Chúa tối cao sẽ rợp bóng trên Trinh nữ. Vì vậy, Đấng mà Trinh nữ cưu mang và sinh ra chính là Đấng Thánh, là Con thiên Chúa!
Maria: Nhưng … !
Thiên thần: (Cắt ngang) – Trinh nữ hãy an tâm và vững tin! Kìa bà Elisabét, người chị họ của Trinh nữ tuy đã già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai. Người đã từng mang tiếng là hiếm hoi, vậy mà đã mang thai sáu tháng rồi! Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Từ từ quỳ gối, còn do dự, lo lắng …)
Thiên thần: Trinh nữ thân yêu, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Tự tin hơn, ngẩng lên nhìn Thiên thần) – Vâng, phận tôi là nữ tì bất xứng! Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Thiên thần vừa nói! (Cúi đầu, cung kính).
(Nhạc nổi du dương, Thiên thần cung kính cúi chào Maria rồi biến đi trong ánh chớp, Đức Maria thinh lặng)
* MÀN 2: THĂM VIẾNG.
Dẫn: Lời của Thiên thần quả là bấp bênh, một thực tai khó có thể chấp nhận được; hơn thế, đặt Đức Maria vào một hoàn cảnh thật đặc biệt … Tuy nhiên, niềm tin của một đời chiêm niệm, tín thác đã thúc giục Mẹ mau mắn “xin vâng”; niềm tin ấy đã làm sáng lên nơi Đức Mẹ gương mẫu sống gắn bó với Thiên Chúa, suy gẫm và nắm bắt Thánh ý của Thiên Chúa cách mau mắn. Hơn thế, niềm tin ấy còn thôi thúc Mẹ vui mừng và mang niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai … Gương sống đạo của Mẹ trở nên tuyệt hảo hơn, đẹp lòng Chúa hơn vì Mẹ đã biết đi đến với anh em trong mối tương quan với Thiên Chúa.
(Cảnh nhà Giacaria. Giacaria đang thẩn thơ quanh sân, Maria đi vào)
Maria: (Cao giọng) – Ôi, anh Giacaria! Nghe tin anh chị có tin vui nên em vội vã lên thăm đây!
Giacaria: (Vẻ mừng rỡ, chỉ diễn tả bằng tay và nét mặt vì bị câm) …
Elisabet: (Từ trong nhà chạy ra, vẻ mừng rỡ, bỗng chững lại xoa bụng ngạc nhiên) – Ôi, Maria, em của chị!
Maria: (Ôm choàng lấy Êlisabet) – Maria, em là người thật có phúc giữa các người phụ nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc!
Maria: (Ngại ngùng) – Kìa, chị nó gì vậy?
Êlisabet: (Cầm chặt tay Maria, rạng rỡ, xúc động) – Chị nói thật lòng đấy, chị cũng thật diễm phúc! Bởi đâu chị được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm? Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi đã nhảy mừng trong lòng chị! Em thật có phúc vì đã luôn tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em! (Cười sung sướng và gật đầu dí dỏm với Giacaria)
Giacaria: (Cười vui vẻ, ra hiệu rồi đi vào nhà)
Maria: Chị ơi, em thật hạnh phúc vì phận em hèn mọn mà Đức Chúa vẫn thương tuyển chọn. Không biết rồi đây em phải làm sao cho xứng đáng?
Êlisabet: Em không phải lo, Đức Chúa đã chọn em, Ngài sẽ lo lắng mọi sự cho em thôi!
Maria: Ôi, em sung sướng quá, sung sướng cho cả chị! Thôi, Chị ơi, Đức Chúa đã thương chị em ta, Ngài không kể đến phận hèn mọn của chị em ta, chị em ta hãy dâng lên Ngài lời tri ân và ngợi khen chị nhé!
(Hai chị em nhìn nhau trìu mến, quỳ xuống ngửa mặt lên, nghiêm trang sốt sắng hát kinh Magnificát)
Maria: (Đến nâng Êlisabet dậy) – Thôi, dậy đi chị, chị em ta cùng vào nhà xem anh Giacaria làm gì để đãi chị em ta!
Êlisabet: (Như chợt nhớ ra điều gì) – Thế em định ở chơi với chị có lâu không?
Maria: (Cười dí dỏm trêu) – Đã sợ tốn cơm à? Em nghe Thiên thần báo tin là chị đã có thai sáu tháng rồi, chị đã lớn tuổi, anh Giacaria lại lâm căn bệnh khó hiểu … nên em đã xin anh Giuse cho em lưu lại giúp đỡ chị cho tới lúc chị mãn nguyệt khai hoa thì em xin về!
Êlisabet: Đúng em là người của Thiên Chúa, chị cám ơn em nhiều lắm. Thôi ta đi vào thôi!
(Hai chị em dìu nhau vào nhà trong nền nhạc).
IV. PHẦN 4 : CHÚA GIÁNG SINH: ĐẠO VÀO ĐỜI.
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Đi dọc Lịch sử Cứu độ cho đến lúc này cho dù chỉ bằng một vài sự kiện, biến cố hoặc nhân vật hết sức khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể cảm nghiệm được rằng: Thiên Chúa là Đấng rất giàu Tình yêu. Ngài đã nên gương mẫu thật tuyệt hảo về tình yêu khi đã sáng tạo muôn loài, nhất là sáng tạo nên con người theo hình ảnh của Ngài, Ngài yêu thương và luôn trung thành với những giao ước mà lúc này lúc khác Ngài đã thiết lập để duy trì mối quan hệ hết sức yêu thương đối với loài người.
Thế còn đối với con người thì sao???
Trong phạm vi đêm hoạt cảnh hôm nay, chúng ta mới chỉ được xem vài gương mặt tiêu biểu coi như là gương mẫu lý tưởng của cách sống coi Thiên Chúa là Đạo, là Đường và đã sống một mực kiên trung, tin tưởng cũng như dám làm tất cả những gì mà Thánh ý Thiên Chúa mong muốn. Tuy nhiên đó chỉ là phần nổi rất nhỏ bé của tảng băng trên đại dương cuộc đời mà thôi. Buồn thay, phần chìm rất lớn của tảng băng lại là số đông nhân loại từ cổ chí kim thường chỉ cho Thiên Chúa là một phương tiện, một cứu cánh khi cần mà thôi, ví như vị thần đèn của chàng Alađanh chẳng hạn. Và như thế, khi gặp gian nan, đau khổ thì họ sùng kính, cầu khẩn Thiên Chúa, xin Ngài giúp; nhưng khi sung túc thoả thuê thì lại quên mất Thiên Chúa của mình, đôi khi còn phản bội, còn coi Ngài như một gánh nặng cản trở sự sung sướng, cản trở những toan tính lợi lộc, cản trở cái mà họ cho là sự hạnh phúc mà họ đáng được hưởng … Lịch sử Cứu độ ngay từ những ngày đầu tiên, nhất là đối với dân Israel – một dân tộc được Thiên Chúa hằng tuyển chọn đã là một chuỗi đầy rẫy những cách sống nhưng không theo Đạo, theo Đường của Thiên Chúa – Đấng sáng tạo yêu thương mà chỉ theo những đam mê, dục vọng của bản thân là phương thế hết sức thâm độc nhưng hiệu quả của ma quỷ – thế lực thù hận Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa chỉ đơn thuần như một con người thì có lẽ Ngài đã phải khóc hết bao nhiêu nước mắt vì nhân loại là người tình của Ngài nhưng lại luôn bất trung, bất tín, bất nghĩa và cả bất nhân nữa.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn là Đấng siêu việt và rất giàu tình yêu, Ngài luôn trung tín và tìm muôn vàn cách cứu vãn con người – tạo vật mà Ngài yêu thương.
Và rồi cũng đến thời viên mãn, Đấng Cứu tinh là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với thế gian trong cung lòng Trinh nữ Maria nơi Thánh Gia Nazareth. Chính Ngài là Thiên chúa đã đem Đạo vào đời bằng tình yêu, sự hiệp nhất, sự gắn bó và vâng phục Thánh ý Thiên Chúa cũng như thực thi đời bác ái phục vụ con người, phục vụ cách tuyệt đối. Vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập thể và nhập thế đã đem Đạo vào đời, đã nên gương sáng Tinh thần sống đạo ở giữa thế gian. Giờ đây, kính mời cộng đoàn cùng chiêm ngắm Mầu nhiệm Nhập thể của Chúa và hãy xác định thái độ sống Đạo hôm nay của mình như thế nào ở giữa thế gian dựa theo những tiểu phẩm hoạt cảnh sau đây.
* VÀO HOẠT CẢNH.
(Màn đêm bao trùm cảnh vật. Khung cảnh thành Bêlem hiện ra. Giuse tay cầm gậy, đeo hành trang trên vai. Đi sau là Maria đang nặng nề cất bước).
Giuse: Maria trông kìa: Bêlem kinh thành vua Đavít. Ta tiến vào để cho kịp ghi tên. Chiếu chỉ vua nào dám trái lệnh trên, phải đăng kí khắp mọi miền đất nước! (Quay lại Maria) – Maria! Chắc đường xa mình đã mệt.
Maria: Giuse ơi! Tới đâu rồi anh nhỉ! Lữ quán nào ta đến để nghỉ chân. Đường đi xa, mệt mỏi khắp châu thân, và có lẽ… như đã gần… anh ạ!
Giuse: (Giật mình lo ngại) – Ôi! Lạy Chúa! Đường xa xôi vất vả, lại đến ngày mình mãn nguyệt khai hoa, giữa đêm đông giá buốt lại không nhà, tìm đâu được chỗ cho nàng trú ngụ (Im lặng trầm tư trong chốc lát) – Kìa, lữ quán xa xa ta đến liều hỏi thử (đưa tay chỉ) – Chỉ mong rằng được lưu ngụ qua đêm! (Cả hai người dìu nhau tới gõ cửa lữ quán, cửa mở, chủ quán bước ra, vẻ đon đả).
Chủ quán 1: Ồ, hân hạnh, thật hân hạnh, xin chào ông bà! Chắc ông bà cần quán trọ?
Giuse: Xin chào ông, chúng tôi là lữ khách, đường đi xa đêm tối lại không nhà, xin rộng lòng giúp đỡ bước can qua, cho trú tạm trong nhà qua đêm vắng.
Chủ quán 1: (Khoác lác, vừa nói vừa làm cử điệu) – Quán của tôi có tên là ánh sáng, cứ bước vào sang trọng lắm đi thôi, mọi tiện nghi có đầy đủ khắp nơi. Khỏi lo sợ, khỏi ngại ngùng băng giá. Quán của tôi khắp vùng đều biết cả, mấy hôm nay khách tất cả về đây mà hễ đến là có chỗ ở ngay! (Cười hề hề) – Nhưng… cũng phải có đầy túi bạc!
Giuse: Thưa ông chủ quán… chúng tôi xin ông… (ngập ngừng).
Chủ quán 1: (Ngắt lời, chăm chú ngắm nhìn hai ông bà từ đầu đến chân rồi lắc đầu bĩu môi) – Ồ, không được, không được! Ông có biết là kinh thành ánh sáng, lữ quán đây dành cho kẻ có tiền, chứ ông bà kẻ đói khó nghèo hèn, sao cả dám mon men mà gõ cửa… Thôi! Đi đi, đi mà kiếm nơi khác!
Maria: (Tiến lên một bước nói xen vào) – Ông chủ quán, xin làm ơn giúp đỡ…
(Chủ quán không trả lời, đóng ập cửa lại. Giuse và Maria lủi thủi đi ra không ai nói với ai lời nào. Bước sang quán thứ hai gõ cửa).
Chủ quán 2: (Mở cửa bước ra xum xoe đon đả) – Xin chào ông bà! Quý hoá quá, mời ông bà vào quán trọ chúng tôi! Quán chúng tôi lừng tiếng khắp nơi nơi, đã tìm đến không thể rời chân bước!
Giuse: Bà chủ quán! Giữa mùa đông giá buốt, bà làm phúc cho trú tạm đêm nay, ơn cao dày ghi khắc mãi từ đây, xin mở rộng lòng nhân từ giúp đỡ…
Chủ quán 2: (Nói kéo dài giọng, nguýt mắt, hai tay chống nạnh) – Ôi dào, vậy mà tôi cứ ngỡ ông bà đây là những kẻ có tiền… trời ơi! Nhìn đói khổ thế này, mà dám đến làm phiền, lếu láo thật, đi! Đi liền cho khuất mắt! (Giuse và Maria cúi đầu lủi thủi bước ra, Giuse ngao ngán ngước mắt nhìn trời, giọng tư lự)
Giuse: Đêm thanh vắng, bốn bề sương giá buốt, đường gập ghềnh thêm mỏi bước chồn chân. Thương cho nàng, lòng tôi thật phân vân, ngày mãn nguyệt lại trăm phần đau khổ… (Nhìn Maria âu yếm, lo lắng) – Trong kinh thành không tìm ra chỗ trọ, nơi hoang vu nào biết ngỏ cùng ai (Ngước mắt nhìn lên trời xướng cao giọng) – Cảnh khốn cùng xin trợ giúp Chúa ơi!
Maria: Này anh ơi, ta hãy kíp đi thôi, đằng xa ấy hình như là ánh sáng (Đưa tay chỉ về phía hang đá).
Giuse: (Nhìn theo hướng Maria chỉ) – Ồ, đúng rồi! Cánh đồng xa bát ngát! Xa xa kia, từng ánh lửa lập loè, trẻ mục đồng chắc đốt lửa đêm khuya, để sưởi ấm giữa bốn bề sương tuyết.
Maria: Thôi nhanh lên! Trong mình tôi cảm biết, sắp đến rồi, giờ mãn nguyệt khai hoa. Hang bò lừa ta trú ngụ làm nhà, cho qua khỏi giờ khai hoa mãn nguyệt.
Giuse: Nào ta đi thôi. (Giuse dìu Maria từ từ vào hậu trườngtrong tiếng gió rít).
* LỜI DẪN NỐI :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta không nên để ý nhiều đến thái độ của những người đại diện cho dân Israel, cũng chỉ nên đồng cảm và trầm lắng lòng mình lại một chút thôi trước hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã của Thánh gia Nazarét trên cánh đồng Bêlem năm xưa… chúng ta hãy để tâm trí chúng ta đi ngược thời gian, đi đến tận thành Bêlem xa xôi của xứ Palestin năm xưa để cùng say sưa với vũ trụ, với muôn loài, với Israel, với toàn nhân loại và với muôn ngàn Cơ binh Thiên quốc trong niềm hân hoan sung sướng vì Ngôi Lời – Đấng Cứu độ của chúng ta đã Giáng sinh – Tin mừng trong đại của muôn dân.
(Bật điện hang đá, giật chuông, tấu nhạc, phát tiếng khóc của trẻ sơ sinh, có thể mời Cộng đoàn đứng, vỗ tay).
* Vào vũ khúc Thiên thần.
* LỜI DẪN NỐI :
Khi Chúa Giêsu Giáng sinh, trên cánh đồng Bêlem lúc ấy thanh vắng và cô tịch vì đang là mùa đông lạnh giá. Hoàn cảnh Giáng sinh của Người chúng ta đã nghe rất nhiều lần. Điều đáng chú ý là trên cánh đồng thanh vắng ấy vẫn có một nhóm mục đồng cũng đang run rẩy, co ro vì lạnh lẽo, những đứa trẻ có hoàn cảnh giống y như Chúa Giáng sinh. Thế mà chúng lại là những người đầu tiên được loan báo và được chứng kiến Tin mừng Chúa ra đời. Chúa không chỉ chọn thân phận người nghèo mà xuống thế, Người còn chọn ngay những kẻ nghèo hèn nhất để tỏ ra mầu nhiệm kỳ diệu này, Người quả thật đã đồng hình đồng dạng với họ, với nhân loại mà Người sẽ Cứu độ. Điều quan trọng là những con người nhỏ bé, những chú mục đồng ngây ngô ấy đã là những đại diện đầu tiên của nhân loại đón Đạo vào đời ra sao?
* ĐỌC LỜI CHÚA :
Bài trích Phúc âm theo Thánh Luca (Lc 2,8-15). :
“Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đàn vật mình. Bỗng có Thiên Thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng Thiên Thần Chúa bảo họ rằng: Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, tức tin mừng cho toàn dân là: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu thế đã Giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi mới sinh ra bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ. Và bỗng chốc cùng với Thiên Thần, có một số đông thuộc đạo binh Thiên quốc đang đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Khi các Thiên Thần từ giã họ mà về, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta hãy sang Bêlem và coi sự việc đã xảy ra mà Chúa đã tỏ cho chúng ta biết”. Rồi họ tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hai nhi này và tất cả những người nghe đều ngạc nhiên về các điều mà các mục tử đã thuật lại cho họ”.
Đó là lời Chúa.
* VÀO HOẠT CẢNH :
(4 mục đồng lùa chiên từ hậu trường ra, đi co ro sát nhau vì lạnh).
Mục đồng 1: Anh Ba ơi! Ngủ đàng kia lạnh quá, đốt lửa sưởi mà cũng chẳng ăn thua gì. Bây giờ chúng ta đi đâu?
Mục đồng 2: Chúng ta sẽ tới mấy hốc đá đàng kia, lùa chiên vào đó cho đỡ lạnh, rồi ta đốt lửa sưởi, không biết sao đêm nay lạnh quá, cứ thao thức hồi hộp bồn chồn. Không biết rồi có chuyện gì xảy ra không.
Mục đồng 3: Các anh có biết không, mấy hôm nay, người ta từ khắp nơi đổ về đây để khai nhận hộ khẩu. Nhiều người ghé nhà em bàn về chuyện Đấng Cứu thế. Còn ông nội em thì bảo rằng Theo Kinh thánh, Đấng Cứu thế sẽ sinh ra tại Bêlem, xứ Giuđêa.
Mục đồng 1: Như vậy là sinh ra ở miền này! Mà có sinh ra thì anh em mình cũng không làm sao biết được. Chắc là Ngài sang trọng lắm, giàu có lắm, Ngài sẽ sinh ra trong lâu đài ở kinh thành.
Mục đồng 4: Biết đâu được! Biết đâu! Ngày Đấng cứu thế sinh ra, Giavê hoá phép cho bọn ta tàng hình đi kính viếng Ngài thì sao.
Mục đồng 2: Thôi đừng nói sảng nữa, đêm đã khuya và lạnh lắm rồi, ta tới mấy tảng đá kia nằm ngủ, còn chú mày (chỉ mục đồng 1) lùa đàn chiên vào trong hang đá đàng kia.
(Mục đồng 1 đi lùa chiên vào hậu trường, đàn chiên vừa đi vừa kêu be be, húc đầu vào nhau vì lạnh. Mục đồng 1 lùa chiên vào xong trở ra, nhập bọn vừa nằm xuống lại nhổm lên).
Mục đồng 1: Anh Ba ơi! Áo khoác thì đã rách nát, còn chăn thì như thế này làm sao chịu lạnh cho nổi.
Mục đồng 2: Thân phận chúng ta là như thế, có than trách thì cũng chẳng ích gì đâu. Thôi! Ngủ đi.
(Mục đồng đang ngủ, bỗng Thiên Thần xuất hiện. Mục đồng 2 đứng dậy ngơ ngác… Thiên Thần hát: “Kìa trông huy hoàng vì sao… Mau đến Bêlem kính thờ”).
Thiên Thần: Hỡi các mục tử, đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, tức tin mừng cho toàn dân, là hôm nay, Chúa Kitô Đấng Cứu thế đã Giáng sinh cho các ngươi trong thành Đavít, và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.
(Thiên Thần biến đi, cả 4 mục đồng ngơ ngác nhìn nhau).
Mục đồng 3: Nào anh em, thế là đúng rồi. Ông nội em nói đúng thật, Đấng Cứu thế đã Giáng sinh tại Bêlem. Mau lên anh em, nhanh chân chúng ta đi tìm Chúa.
Mục đồng 1, 2, 3, 4: (Cả 4 mục đồng nói cùng lúc thật đều) – Thiên Thần đã báo tin cho chúng ta là Đấng Cứu thế đã Giáng sinh, bọc trong khăn, nằm trong máng cỏ, chắc là ở hang đá đàng kia (cùng đưa tay chỉ).
(4 mục đồng nói xong cùng hát: “Bêlem kìa sương tuyết ta ngại chi, mau lên nào, mau bước ta cùng đi, cùng đi xem rõ vua nhân trần, Người sinh trong cảnh cơ hàn. Nào anh em hãy nghe Thiên Thần, đi viếng Chúa ta giáng trần”).
(Vừa đi vừa chỉ trỏ theo từng nhịp bước. Khi đó tiếng hát vọng xa xa từ hậu trường:
“Sáng danh Thiên Chúa trên trời, bằng an cho khắp nhân loại…” “Sáng danh Thiên Chúa trên trời, bằng an cho khắp nhân loại…”).
Mục đồng 2: Đó! Anh em có nghe thấy gì không?
Mục đồng 1, 3, 4: Chúng em nghe tiếng hát, chắc là tiếng hát của các Thiên Thần.
(4 mục đồng hát: “Mau mau vào hang đá ta quì chân mau tôn thờ Thiên Chúa nơi trần gian, đàn lên đi hỡi muôn Thiên Thần, thay tiếng muôn dân kính Ngài”.Hát xong, 4 mục đồng quì xuống thờ lạy).
Mục đồng 2: (Đứng dậy cởi áo khoác ngoài dâng lên Chúa Hài Đồng và hát bài) – “Giờ tôi đã thấy, đã hiểu và đã tin, tin rằng Thiên Chúa đã nghe lời tôi xin. Đưa đường cho tôi tới chốn này. Thoả lòng chờ mong ao ước bấy lâu. Tôi quyết trung thành trọn cả cuộc đời, dù gian lao đắng cay, thề chẳng khi nào dám phai”.
Mục đồng 1: (Dâng chăn, cầm hai tay vừa hát vừa trải lên hang đá, hát bài): “Chúa ôi con biết làm gì để đáp lại lòng xót thương nhường ấy. Đời tôi xây đắp trên dặp đường dài. Một lớp chiên đàn, một lớp chăn gai”.
(Sau đó cả 4 mục đồng đứng lên trước hang đá đọc lời nguyện)
Mục đồng 1, 2, 3, 4: Lạy Chúa Hài đồng, chúng con hết lòng kính tin thờ lạy. Đêm đông như vậy, giá buốt lạnh lùng, sinh xuống gian trần, không nhà không cửa. Lấy làm chỗ ở hang đá bò lừa. Loài người thờ ơ, cố tình không biết hồng ân siêu việt. Chúa gọi chúng con, kẻ chăn lừa chiên đến đây thờ lạy. Chúng con cậy trông lòng Chúa xót thương, lời nguyện đêm trường xin dâng lên Chúa.
Mục đồng 3: Này anh em, bây giờ ta hãy kíp chạy về thành loan báo cho toàn dân biết Chúa Cứu thế đã sinh ra trong hang đá. Nhanh lên anh em.
(Cả 4 mục đồng vội vã đi ra giữa sân khấu, xếp thành hàng ngang, quay mặt về phía giáo dân rồi hát bài) – “Đêm đông”.
* LỜI DẪN NỐI :
Vinh quang của Đấng giáng thế không chỉ được loan báo và đón nhận tại đất nước Israel nhỏ bé. Ánh vinh quang của Người còn được chiếu toả đi khắp nơi. Ở tận Phương đông xa xôi, ánh sao lạ đã thu hút sự chú ý của Ba nhà chiêm tinh học mà xưa nay ta vẫn quen gọi là Ba Vua. Ánh sao này đã rọi ngay vào tim họ nơi đang thổn thức, khao khát tìm sự Công chính. Và thế là họ liền lên đường với đầy đủ lễ vật, bởi theo quan niệm của họ, ánh sao này phải là “Sao chiếu mệnh” của một bậc quân vương, của một vĩ nhân chưa từng có bao giờ. Điều này chứng tỏ lời của Thiên sứ nói với các mục đồng trong đêm Giáng sinh “tin mừng cho muôn dân”. Chúng ta hãy dõi bước theo Ba Vua đi tìm Chúa.
* ĐỌC LỜI CHÚA : (Mt 2,6-13).
Bài trích Phúc âm theo Thánh Matthêô:
“Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của ta. Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy người đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi thăm về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cùng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường và kìa, ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương lại đi trước họ mãi cho tới khi dừng lại trên chỗ Hài nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào, họ đã gặp thấy Hài nhi cùng với Maria mẹ Người, và đã quì gối xuống sụp lạy Người. Rồi mở kho tàng ra, họ dâng tiến Người lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược”.
Đó là lời Chúa.
* Vào hoạt cảnh:
(3 đạo sĩ lần lượt đi ra từ hai bên sân khấu, cỡi trên lưng lạc đà, hành lý lỉnh kỉnh).
Đạo sĩ 1: Mấy ngàn năm mong đợi, vì Cứu thế giáng sinh. Nay từ chốn thiên đình một vì sao xuất hiện, ta phải mau tìm đến, nhằm sao lạ mà đi. Kìa sao lạ đàng kia, tiến mau về kính bái.
Đạo sĩ 2: (Tay dắt lạc đà tiến vào, trên lưng lạc đà là lễ vật màu mè. Hai đạo sĩ gặp nhau) – Kính chào Ngài ạ! Có phải Ngài cất bước về vùng đất Bêlem, có phải ngài đi tìm theo một vì sao lạ?
Đạo sĩ 1: Ồ đúng rồi ngài ạ! Ngôi sao lạ phương Đông, Đấng nhân loại chờ mong đã giáng sinh thì phải. Những bước đường còn lại tôi phải quyết nhanh chân tìm cứu Chúa giáng trần để kính tôn thờ lạy.
Đạo sĩ 2: Và tôi đây cũng vậy, ánh sao lạ dẫn đường đi qua bao dặm đường về Bêlem tìm kiếm.
Đạo sĩ 1: Thật dịp may hoạ hiếm, vậy ta hãy cùng đi.
(Đang nói thì đạo sĩ 3 tiến vào, xuống khỏi lạc đà).
Đạo sĩ 3: Chào các ngài ạ! Thật vui mừng khôn tả tôi được gặp các ngài. Xin dừng bước quan hài cho hỏi thăm tí chút, có phải đường phía trước là hướng tới Bêlem, nơi sao lạ hiện lên dẫn đường tôi cất bước.
Đạo sĩ 1: Ôi có duyên kỳ thật, sao ta lại gặp nhau. Theo sao lạ dẫn đầu, bước đi tìm cứu Chúa.
Đạo sĩ 2: Bêlem kia rồi đó, vậy ta hãy cùng đi đừng có quản ngại chi dù đường đi khóc nhọc.
Đạo sĩ 3: Ánh sao kỳ diệu thật, lơ lửng giữa bầu trời ánh sao toả sáng ngời, nơi nơi về kính bái.
(Sau đó 3 đạo sĩ nhìn theo ánh sao, tay dắt lạc đà vừa đi vừa chỉ trỏ cho tới hang đá, quì xuống bái thờ. Rồi đọc lời dâng)
3 đạo sĩ: Chúng tôi là đạo sĩ từ vùng đất Đông phương, trải qua bao dặm đường tiến về đây thờ lạy trong hang lừa như vậy, Ngài đã giang sinh ra. Ôi! Tình yêu thiết tha, Ngài cứu nhân độ thế vàng ròng làm làm của lễ (đưa ra, dâng lên) – Xin thành kính dâng lên mộc dược thật dịu êm (đưa ra, dâng lên) – Cùng nhũ hương thơm ngát (đưa ra, dâng lên) – Tin yêu và phó thác dâng cả tấm lòng thành, xin Ngài ban ơn lành và luôn luôn phù trợ.
(Dứt lời dâng, 3 đạo sĩ đứng dậy. Sau khi đã tôn thờ và dâng lễ vật, lần lượt các con lạc đà đứng dậy. 3 đạo sĩ dắt lạc đà vào hậu trường, trong tiếng hát bài: “Ánh Sao Lạ”).
V. PHẦN 5 : Sống đạo hôm nay: YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ.
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Chúng ta vừa được chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Nhập thể, Ngài là Đạo đã đến giữa thế giới hôm qua, hôm nay và tồn tại mãi mãi cho đến ngày hoàn tất chương trình Cứu độ trong ngày cánh chung. Chúng ta cũng được nhìn ngắm nhiều mẫu gương đón nhận và sống Đạo giữa thế gian. Tuy nhiên cách đón nhận và cách sống của mỗi mẫu gương lại trở nên những bài học đáng để ta suy nghĩ, chọn lựa và hành động. Giáo huấn của hàng Giáo phẩm Việt Nam mà chúng ta được nghe nhắc tới ngay từ đầu đêm hoạt cảnh chính là kim chỉ nam, là người dẫn lối để chúng ta định hướng chọn lựa. Ước mong phần hoạt cảnh sau đây tiếp tục là sự hướng dẫn, hơn thế như là lời mời gọi mỗi người chúng ta cách “sống đạo hôm nay”.
* Vào hoạt cảnh: Diễn hoạt cảnh “Vị Đạo sĩ thứ tư” gặp gỡ ĐỨC KI-TÔ.
PHẦN MỞ:
Kính thưa cộng đoàn,
Mỗi năm vào dịp lễ Giáng Sinh, chắc cộng đoàn đều nghe nhắc lại câu chuyện về ba ông vua cưỡi lạc đà từ phương xa đến thăm hài nhi Giê-su tại Bê-lem. Theo thánh Mát-thêu, họ là các nhà chiêm tinh hoặc còn được gọi là ba nhà đạo sĩ ở phương Đông, bởi vì từ lâu, họ đã theo dõi điềm trời, và phát hiện ra một ngôi sao lạ chói ngời. Họ biết đó là dấu hiệu cho biết có một vị vua người Do thái mới sinh ra, Người sẽ là Đấng Cứu Tinh của toàn nhân loại.
Người ta nói có 3 nhà đạo sĩ, có lẽ là vì người ta muốn chọn tượng trưng cho 3 màu da chính trên thế giới: da vàng, da trắng và da đen. Thật ra, chính xác mà nói, trong Kinh Thánh, tác giả Mát-thêu chỉ ghi: “có mấy nhà đạo sĩ” chứ không hề xác định con số là 3 vị. Riêng hôm nay, chúng tôi muốn kể cho cộng đoàn nghe một câu chuyện có tới 4 vị đạo sĩ đã tới thăm Chúa Giê-su.
Chắc cộng đoàn đang thầm bảo rằng chúng tôi lại bịa chuyện cho vui. Không, thưa cộng đoàn, câu chuyện chúng tôi sắp kể, rất có thể là câu chuyện có thật ngay trong đời sống của chúng ta, hôm nay, vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 này. Câu chuyện đầu đuôi như thế này. ( Tiếng nói xôn xao, các đạo sĩ xuất hiện cả 4 vị... )
* MÀN 1: TẠI NHÀ VỊ ĐẠO SĨ THỨ TƯ
Đạo sĩ 1: Này, anh đã biết gì chưa ?
Đạo sĩ 4: Chuyện gì vậy ?
Đạo sĩ 1: À, hóa ra anh chẳng có biết tý ty gì cả ! Cũng phải thôi, lúc nào anh cũng bận bịu công việc, nào là giới trẻ, nào là công tác xã hội, nào là tập hát ca đoàn… ôi thôi, đủ thứ chuyện ! Thế là anh quên bẵng mất rằng anh đã thỏa thuận với ba anh em chúng tôi một việc…
Đạo sĩ 4: Nhưng... chuyện gì mới được chứ ? Nói mau cho rồi, người ta đang bận bù đầu đủ thứ chuyện đây này !
Đạo sĩ 2: Nghe cho rõ đây ( Nhấn mạnh từng chữ ) Một tin vui trọng đại !
Đạo sĩ 4: ( Vẻ kinh ngạc... ) Một tin vui ?
Đạo sĩ 2: Đúng, một tin vui trọng đại ! Vậy chứ anh có nhớ bọn chúng mình từ lâu vẫn nghiên cứu thiên văn, đã dõi tìm các vì sao lạ để phân tích, tiên đoán vận mệnh thế giới. Mặc cho người đời chế giễu, xếp bọn mình vào loại khùng khùng hâm hẩm, ta vẫn cứ khao khát một dấu chỉ, một điềm lạ trên trời khai mở một kỷ nguyên mới, cho thế giới này vơi bớt đi những tuyệt vọng và bất hạnh… Thì đây này, chiều nay, trời mới vừa xập tối, chúng tôi đã phát hiện ra ở phương Đông một vì sao lạ tuyệt đẹp và chói lọi kỳ diệu. Tôi xem bản đồ thì chúng ta hẳn sẽ gặp được Đấng Cứu Tinh ở khu vực các nước Trung Đông như Pa-lét-tin chẳng hạn. Ba anh em chúng tôi quyết định đến rủ anh, phải lên đường ngay, không thể bỏ qua cơ hội ngàn vàng này để tìm đến chiêm ngắm và thờ lạy Đấng Cứu Tinh của nhân loại. Anh còn chần chừ gì nữa mà không lên đường với chúng tôi ?
Đạo sĩ 4: Trời ơi ! Một vì sao lạ mới xuất hiện ư ? Đúng là Đấng Cứu Tinh đã ra đời rồi ! Phải đi tìm gặp Người cho bằng được chứ. Tôi vào sửa soạn ngay đây. ( Chạy vội vào trong, nhưng rồi lại quay ra ngay, dáng vẻ như chần chư đắn đo, nói với ba vị kia ) Ái chà ! Thật là rách việc ! Lát nữa tôi còn phải dạy một lớp Giáo Lý ở Giáo điểm Khiết tâm, Chúa Nhật này bọn trẻ chịu phép Thêm Sức rồi.
Đạo sĩ 3: Vậy chứ anh không thể lên đường ngay với chúng tôi được sao ?
Đạo sĩ 4: Thôi, các anh cứ việc đi trước đi. Dạy Giáo Lý xong chiều nay là tôi đi ngay, hy vọng sẽ theo kịp các anh dọc đường.
Đạo sĩ 3: ( Nói với nhau ) Đây, các anh thấy chưa, tôi đã bảo các anh mà, đâu có sai ! Cái anh chàng này lúc nào cũng công kia việc nọ. Bận bịu như thế rồi làm sao mà có thời giờ đi tìm gặp Đấng Cứu Tinh ? Thôi chúng ta đi trước vậy ! ( Nói với Đạo sĩ thứ tư ) Này, anh đi sau thì nhớ mau mau lên đấy nhé. Chúng tôi sẽ cố đi chậm chậm một chút để đợi anh theo. À, tý nữa thì quên ! Anh có định mang quà gì dâng cho Đấng Cứu Tinh không ? Ba anh em chúng tôi có mang theo Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược rồi, còn anh tính sao ? Gấp quá coi chừng đi tay không, kỳ lắm đấy nhé !
Đạo sĩ 4: Được rồi, được rồi, tôi sẽ nhớ mà, yên tâm đi trước đi, tôi xin hứa danh dự với các anh: dạy Giáo Lý xong là tôi đi ngay ! ( Ba đạo sĩ ra đi, đạo sĩ thứ tư quay qua làm như phân bua biện giải với khán giả… ) Cộng đoàn thấy đó, Đấng Cứu Tinh đã giáng trần, chính tôi cũng đã từng ngày đêm trông ngóng tin vui trọng đại này. Vậy mà... giờ đây tôi không thể tức tốc ra đi theo các bạn tôi. Dứt khoát là tôi không thể lỗi hẹn với các học sinh Giáo Lý của tôi ở họ đạo. Bọn trẻ cũng đang rất cần tôi, mình là Giáo Lý viên mà. Kẹt quá nhỉ ! Nhưng mà... tôi tin rằng Chúa Cứu Thế sẽ không chấp nhất gì tôi về chuyện này. Người sẽ chờ đợi tôi. Thôi, tới giờ rồi, phải tới điểm dạy Giáo Lý không thôi trễ ! Rồi, bữa nay, tôi cũng sẽ báo cho bọn trẻ tin vui này: Đấng Cứu Tinh của toàn nhân loại đã ra đời.
( Đèn tắt, nhạc trổi lên rồi từ từ nhỏ lại... Tại lớp Giáo Lý, Đạo sĩ thứ 4 đọc Kinh Thánh một đoạn trong Sách Ngôn sứ I-sai-a cho các em nghe... Có thể cho một giọng đọc trong hậu trường thay cho vị đạo sĩ, chậm rãi dõng dạc... )
“Dân đang lần bước giữa tối tăm,
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
Đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” ( Is 9, 1 )
Này đây, người trinh nữ sẽ mang thai,
sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en,
nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta....” ( Is 7, 14 )
( Nhạc lại trổi lên rồi nhỏ dần… Đạo sĩ thứ tư trở ra, làm như vừa từ nơi dạy Giáo Lý trở về nhà... )
Đạo sĩ 4: Bây giờ thì mình đã có thể lên đường được rồi đó. Để xem mình phải mang theo những gì làm hành trang nào ? Đường xa, lại chắc chắn sẽ rất là khó đi, cần phải có một cây gậy chống này ! Một ít lương khô nữa, thôi, có ổ bánh mì này cũng được ! Thêm một cây nến cầm tay. Còn của lễ nữa chứ, đúng rồi, mẹ mình có cho mình một bình dấu thơm loại quý, mình cất nó từ lâu rồi, bây giờ sẽ dùng để kính dâng Đấng Cứu Tinh, coi như là của ít lòng nhiều. Đi thôi, quá trễ rồi ( Bước tới, ngước nhìn lên cao, làm như dõi tìm ngôi sao lạ. Nhạc nhẹ nền trổi lên một lúc... ) Ta cứ nhìn thẳng ngôi sao ở hướng đông mà đi, ba ông bạn chí cốt của mình chắc là đã đi xa lắm rồi. Chà, đường hôm nay khuya sao mà vắng vẻ quá nhỉ ? ( Mới dợm bước định đi thì chợt dừng lại lắng nghe, vẻ quan tâm thắc mắc... ) Ơ kìa, hình như có ai đang đi tới phía trước mình kìa ! ( Một người mù đang đưa hai tay về phía trước, quờ quạng bước đi về phía đạo sĩ... )
* MÀN 2: GẶP NGƯỜI MÙ
Đạo sĩ 4: Này, anh ơi, anh đi đâu một mình giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này ?
Người mù: Tôi... tôi cũng không biết tôi đi đâu bây giờ nữa…
Đạo sĩ 4: Hình như... anh không nhìn thấy đường thì phải ?
Người mù: Dạ, tôi bị mù từ hồi mới sinh. Rồi bố mẹ tôi lần lượt qua đời, bỏ tôi lại một mình, tứ cố vô thân, nghèo xơ nghèo xác !
Đạo sĩ 4: Rồi anh có làm nghề gì độ nhật không ?
Người mù: Tôi bán vé số ngoài bến xe thị xã.
Đạo sĩ 4: Vậy chứ anh có đủ sống không ?
Người mù: Kể ra thì cũng tạm nuôi thân. Nhưng hồi chiều này, đang lúc tôi cầm xấp vé số trên tay thì một thằng du côn nào đó đã giựt mấp của tôi, lại còn đá văng mất cây gậy của tôi nữa chứ… Tới giờ, đói quá, tôi không biết tìm cái gì mà ăn đây… Trời ơi là trời !
Đạo sĩ 4: Anh này, nói thật với anh, tôi cũng chỉ là khách đi đường thôi, tôi cũng nghèo, nhưng mà tôi cũng muốn giúp anh chút đỉnh. Đây, anh cầm đỡ ít tiền làm vốn và kiếm cái gì ăn lót dạ. Mà nữa, tôi tặng anh luôn cây gậy của tôi nữa này. Kể ra thì tôi cũng cần đấy, nhưng xem ra anh còn cần nó hơn tôi nhiều.
Người mù: Ông thì ít cần tới cây gậy, là vì ông còn có ánh sáng. Đối với ông thì có ngày có đêm, còn với tôi thì...
Đạo sĩ 4: Phần tôi, tôi chỉ có thể cho anh được cây gậy này để dò đường mà đi, chứ làm sao tôi có thể cho anh ánh sáng ? Nhưng tôi biết có một Đấng sẽ trả lại cho anh ánh sáng đã mất, mà hơn vậy nữa, Người còn có thể chỉ cho anh một con đường nào đó để anh tìm được một chỗ nương thân trong bình an hạnh phúc.
Người mù: Ai ? Đấng đó là ai vậy ? Xin hãy cho tôi gặp Người được không ?
Đạo sĩ 4: Đấng ấy mới vừa sinh xuống cõi đời khốn cùng này của chúng ta. Người là Đấng Cứu Tinh của anh, của tôi và của mọi người chẳng trừ ai. Tôi tin điều đó, và anh, anh cũng hãy tin và đi tìm cho được gặp Người một lần thôi cũng đủ để đổi đời. Bệnh tật phần xác của anh sẽ hết và anh sẽ tìm được nơi nương thân tới trọn đời. Trên trời bây giờ hiện đang có một ngôi sao lạ, sáng rực rỡ một cách kỳ diệu, dọc đường, anh cứ nhờ người ta chỉ hướng cho, rồi cứ theo đó mà đi tìm gặp Người.
Người mù: Thật vậy sao ? Được rồi, tôi sẽ cố gắng chống cây gậy mà ông đã cho để đi tìm gặp Đấng Cứu Tinh. Cám ơn ông, ông đã đối xử quá tốt đối với tôi. Tôi hy vọng rất nhiều nơi Đấng mà ông vừa nói, vì thật tình, tôi cũng chẳng còn biết hy vọng vào ai nữa bây giờ... ( Người mù chống gậy ra đi. Nhạc trổi lên dần... Vị đạo sĩ tự thoại... )
Đạo sĩ 4: Một người mù đáng thương ! Mình đã chỉ cho anh ta một con đường mà chính mình cũng đang còn phải đi tìm. Quả thật, chỉ có Lòng Tin mới giúp được anh ta và cả mình nữa, để cố mà đi cho tới cùng. Lạy Thiên Chúa, xin Ngài hãy dẫn bước con đi. Kìa ánh sao vẫn ngời chiếu phía trời đông, mình phải tiếp tục đi thôi ( Bước đi một đoạn chầm chậm, nhạc trổi lên một lúc... Vị đạo sĩ bất chợt dừng lại, nhạc nền tắt ngang, Đạo sĩ thấy một người hành khất quỳ bên vệ đường, chìa tay cầu khẩn ).
* MÀN 3 : GẶP CHỊ HÀNH KHẤT
Hàng khất: Lạy ngài, xin đoái thương tôi !
Đạo sĩ 4: Tôi có thể giúp được gì cho chị ? Mà chị đừng có gọi tôi bằng ngài một cách trang trọng như vậy.
Hành khất:Không, thưa ngài, nếu tôi không lầm, ngài là một tu sĩ, ngài giàu lòng từ bi nhân hậu, xin hãy cho tôi chút gì để ăn. Tôi đói, tôi khát, tôi lạnh, tôi khổ quá, tôi chán sống lắm rồi...
Đạo sĩ 4: Chị ơi, tôi cảm thông thật sự với chị trong cái đói khát giá lạnh, trong cái khổ đau bế tắc của chị, bởi tôi cũng chẳng giàu có gì hơn chị. Nhưng mà thôi, để xem tôi có chút gì chia sẻ với chị không. Đây rồi, tôi có mang theo một ổ bánh mì nhỏ để ăn dọc đường, chị cầm lấy ăn đỡ nhé ! ( Người hành khất giựt mạnh lấy ổ bánh, ăn ngấu nghiến... rồi như chợt nhớ ra, chị bẻ một nửa cất vào cái túi rách đeo trên vai. Đạo sĩ thắc mắc... ) Ơ kìa, sao chị không ăn hết ổ bánh đi mà còn cất làm gì ? Chị đang đói lắm cơ mà ?!?
Hành khất:Hôm nay tôi may mắn gặp được ngài cho tôi ổ bánh, nhưng biết rồi ngày mai tôi có còn gặp được ai cho tôi như vậy nữa không, tôi phải để dành vì sợ sẽ còn nhiều lúc đói nữa chứ...
Đạo sĩ 4: Này, tôi nói chị nghe nhé, tôi biết có một Đấng có thể ban cho chị một điều còn quý giá hơn gấp bội lần cái ăn cái uống đời này nữa.
Hành khất:Đấng đó là ai vậy ? Tôi biết tìm Người ở đâu để gõ cửa để xin Người ban cho điều đó ? Mà điều đó là gì vậy, thưa ngài ?
Đạo sĩ 4: Người mà tôi vừa nói với chị là một em bé mới chào đời, nhưng rồi một mai kia, Người sẽ làm vua dân Do Thái, làm vua của muôn dân, trong đó có tôi và có chị. Người sẽ ban cho chị thứ Bánh Hằng Sống để chị sẽ không bao giờ còn phải lo đói nữa ! Kìa chị nhìn xem, đó là ánh sao sẽ dẫn chị đến gặp Đấng ấy, chắc chắn Người sẽ thết đãi chị cũng như mọi kẻ cùng khổ trên thế gian này một bữa đại tiệc. Nào, chị đã bớt đói chưa ? Hãy nghe tôi mà lên đường tìm gặp Người đi. ( Chị hành khất vội chỗi dậy ra đi... )
Đạo sĩ 4: Lạy Đấng Cứu Tinh con hằng trông đợi, giờ đây con chẳng còn gì để ăn nữa, con cũng sẽ rơi vào cảnh đói khát cùng quẫn dọc đường. Nhưng, như con đã nói với chị hành khất, con tin Ngài cũng đang chờ gặp con để ban cho con Bánh- Hằng-Sống. Thôi mình tiếp tục đi thôi, trễ lắm rồi ! ( Đạo sĩ dõi nhìn ra xa, nhạc trổi lên nhè nhẹ một lúc rồi nhỏ dần. Vị đạo sĩ lại chợt thấy có ai bên đầu cây cầu nên tiến tới hỏi thăm... Đó là một người cùi đang ngồi gục đầu tuyệt vọng... )
* MÀN 4: GẶP NGƯỜI PHONG CÙI
Đạo sĩ 4: Này anh ơi, tại sao giờ này mà anh lại còn ngồi đây một mình thế này ? ( Im lặng... Đạo sĩ tỏ vẻ thắc mắc, tới gần đưa tay lay nhẹ vai người lạ ) Này, anh có nghe tôi hỏi gì không ? Sao anh lại ngồi đây ?
Người cùi: Ông là ai mà hỏi tôi ? Tôi sống, tôi chết, mặc xác tôi, liên quan gì đến ông mà ông hỏi ! Tôi đợi nước thủy triều lên rồi nhảy xuống cầu tự tử có được không ?
Đạo sĩ 4: Tại sao anh lại chán đời và có ý muốn kết thúc đời mình một cách oan uổng như thế nhỉ ?
Người cùi: Oan uổng cái nỗi gì ! Còn sống nữa làm gì nữa khi thân xác tôi cùi hủi như thế này ? Ai cũng ruồng bỏ tôi, kể cả vợ con tôi. Cái xã hội lạnh lùng này không còn chấp nhận tôi nữa, họ cho rằng trời đất đã nguyền rủa tôi, đã trừng phạt tôi. Họ đối xử với tôi còn hơn là với một con chó ghẻ !
Đạo sĩ 4: Rồi anh tính dùng cái chết để chấm dứt mọi thứ đau khổ trên đời này phải không ? Nhưng theo tôi, anh còn có nhiều lý do để sống hơn là chết kiểu đó, anh có biết không ? ( Đạo sĩ lại gần lay mạnh vai người cùi ) Anh phải sống !
Người cùi: ( Cười khảy... ) Anh phải sống ! Bộ ông định đánh lừa tôi đấy hả ? Hừ ! Cái cuộc đời này là một bóng đêm tăm tối, chẳng còn chút hy vọng gì dành cho một kẻ khốn nạn như tôi...
Đạo sĩ 4: Đây ! Nếu anh cần ánh sáng, thì tôi trao cho anh ngọn đèn để đi đường của tôi. Anh thấy đó, chỉ với một chút ánh sáng nhỏ nhoi được thắp lên như thế này thôi, anh đã thấy bớt lẻ loi và u ám rồi. Anh thử nghe tôi một lần xem nào.
Người cùi: Hừ ! Một ngọn nến leo lét như thế này đâu đã là niềm hy vọng đủ cho tôi tìm lại được cuộc sống khỏe mạnh và lành lặn như ngày xưa ?
Đạo sĩ 4: Đúng, tôi không thể làm gì cho anh hơn, nhưng tôi lại có thể chỉ cho anh tìm gặp một Đấng Toàn Năng, không những Người có thể chữa lành được bệnh tật thể xác của anh mà còn tha thứ hết mọi lỗi lầm của anh bấy lâu nay, kể cả cái ý tưởng định giết đi chính mạng sống quý giá của anh. Kìa, anh hãy nhìn lên bầu trời, có một ngôi sao sáng đàng kia, đó là ngôi sao báo hiệu Đấng đó đã đến trong cuộc đời này rồi đó. Anh hãy cố gắng nghe tôi, cầm lấy ngọn nến sáng này mà lên đường tìm gặp Người, một Hài Nhi mới giáng sinh, Người sẽ giải thoát cho anh, cho chúng ta khỏi nỗi ám ảnh của sự chết. ( Người cùi ngước nhìn đăm đăm về phía ánh sao như thể bị thu hút, tay cầm nến lần bước đi... ) Lạy Đấng Cứu Tinh là niềm hy vọng của mọi người trên trần gian này, lại thêm một con người đáng thương đã nghe lời con mà hướng về Ngài. Con mong sẽ gặp được Người cùng với những con người tưởng như đã tuyệt vọng này, để cuối cùng, con và họ cũng sẽ nhận được ơn giải thoát nơi Người. ( Nhạc trổi lên nhè nhẹ... Vị đạo sĩ đứng lên, tiếp tục đi mấy bước thì gặp ngay một cô gái quần áo không đứng đắn và phấn son lòe loẹt đang tiến tới sát bên mình, mở lời với giọng thật lả lơi mời chào... )
* MÀN 5 : GẶP CÔ GÁI ĐIẾM
Cô gái: ( Giọng lả lơi mời chào ) Anh Hai ơi, anh đi đâu giữa đêm hôm khuya khoắt thế này ?
Đạo sĩ 4: ( Đạo sĩ lui lại một bước, hơi ngượng nhưng bình tĩnh ) À, tôi đã lỡ khởi hành khá trễ và tôi còn cả một lộ trình rất dài phải đi.
Cô gái: Thế... em đi chung với anh Hai một đoạn đường có được không nào ?
Đạo sĩ 4: Vâng, có thêm một người làm bạn đồng hành, chắc cũng vui hơn. Xin mời cô cứ tự nhiên.
Cô gái: Mà... lát nữa, chừng nào tới quán trọ dọc đường, anh Hai cũng dừng lại qua đêm với em nhé ?
Đạo sĩ 4: ( Đạo sĩ chợt hiểu ý cô gái điếm, hơi ấp úng để minh oan ) Ơ... ơ... tôi không hề có ý định như thế, cô... cô hiểu lầm tôi rồi !
Cô gái: ( Cô gái điếm lùi xa ra một bước, nhìn nhà đạo sĩ từ đầu tới chân rồi cười rũ rượi, vẻ mỉa mai khinh bỉ ) Kính thưa quý ông đáng kính, tôi xin lỗi nhé, tôi đã lầm... Một tu sĩ đạo mạo như ông vậy mà tôi lại dám quyến rũ sao chứ ? Thôi, tôi xin ông cút xéo đi chỗ khác cho chị em chúng tôi làm ăn kiếm sống ! Tôi nói thật với ông, tôi khinh bỉ tất cả cái bọn đạo đức giả như ông...
Đạo sĩ 4: Còn tôi, ngược lại, tôi không hề có ý khinh bỉ cô một chút nào cả, cô vẫn là một con người có phẩm giá !
Cô gái: Phẩm giá ? ( Cười sặc sụa... ) Phải, trước đây khi tôi còn có chút nhan sắc thì tôi cũng còn hấp dẫn lôi cuốn được quý ông đáng kính như ông, còn bây giờ thì tôi chỉ còn là một thứ đồ chơi rẻ tiền không hơn không kém. Phẩm giá ? Hừ ! Phẩm giá cái chỗ quỷ quái nào bây giờ ? Tôi thật là không còn tin nổi miệng lưỡi bọn đàn ông các ông một chút nào nữa !
Đạo sĩ 4: Vâng, phần nào đúng là như vậy. Nhưng... dù cho chị không còn tin vào bất cứ người đàn ông nào trên thế gian, kể cả tôi đi nữa, thì... vẫn còn đó một em bé trai vô tội trong trắng. Em bé ấy rồi sẽ là một người đàn ông như mọi người đàn ông, nhưng người đàn ông này sẽ trổi vượt trên tất cả, vì Người sẽ là một Vị Vua Nhân Ái, Người sẽ đón nhận chị như đón nhận một con người xứng đáng với phẩm giá cao quý, Người sẽ mang lại cho chị một cuộc sống mới, Người sẽ tha thứ hết mọi lỗi lầm sa ngã đã qua của chị.
Cô gái: ( Bỡ ngỡ lạ lùng, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi... ) Thật vậy sao ? Nhưng tôi biết tìm cậu ấy, cái người đàn ông tuyệt vời ở đâu bây giờ ?
Đạo sĩ 4: Chị hãy cứ theo dấu ánh sao kỳ diệu trên trời đàng kia, rồi chị sẽ tìm gặp được một hài nhi mới sinh. Tôi tin chị sẽ được tất cả những gì chị mong ước.
Cô gái: Nhưng chẳng lẽ tôi lại mangcái tấm thân đã ô uế như thế này làm của lễ để triều bái một Đấng Thánh như Người ?
Đạo sĩ 4: Chỉ cần chị thật lòng sám hối và tin vào Người. Đây, tôi tặng chị chiếc bình đựng đầy dầu thơm rất quý này, để chị kính dâng Người. Thôi, chị hãy lên đường đi kẻo trễ. Chúc chị gặp được Người. ( Cô gái điếm cầm lấy chiếc bình, đi về hướng có ánh sao... Đạo sĩ nói một mình ) Ừ, đã trễ lắm rồi, chắc ba anh bạn của mình đã đến nơi rồi không chừng, còn mình thì lại cứ mãi bận bịu, dừng lại giúp đỡ người này người kia. Biết sao hơn ? Mình đâu có thể làm khác được, đâu có thể nhắm mắt làm ngơ trước những thảm kịch cuộc đời như thế. ( Nhìn lên trời tìm ánh sao, giựt mình... ) Ơ kìa, ánh sao đã biến mất từ lâu rồi sao ? Thôi ta cứ việc theo hướng đông mà tiến, hy vọng sẽ có người chỉ giúp chỗ Chúa sinh ra cho mình ( Nhạc trổi lên. Vị đạo sĩ bước đi tiếp... Một người đi ngang qua, tay cầm cuốn sổ lớn, Đạo sĩ chặn lại hỏi thăm... )
* MÀN 6: GẶP NHÂN VIÊN HỘ TỊCH
Đạo sĩ 4: Ông ơi, làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút.
Nhân viên:Ông cần gì ? Hình như ông là người ở xa mới tới thì phải ?
Đạo sĩ 4: Dạ, xin ông chỉ giúp tôi đường đến nhà một em bé mới sinh ra trong vùng này.
Nhân viên: Chà ! Ông hỏi nhằm đúng người đúng chỗ rồi đó ! Chẳng giấu gì ông, tôi là cán bộ thống kê dân số. Tất cả những kẻ chết đi hoặc mới được sinh ra đều được tôi ghi chép đầy đủ và chính xác trong cuốn sổ này. Chẳng hay đứa bé mà ông hỏi, tên là gì ? con cái nhà ai ? sinh quán tỉnh huyện thôn làng xã ấp nào ?
Đạo sĩ 4: Rất tiếc là tôi lại chẳng biết rõ lý lịch em bé thế nào. Tôi chỉ biết là em bé mới sinh ra, lớn lên sẽ trở thành Vua dân Do Thái và còn là Đấng Cứu Thế nữa.
Nhân viên:Cái ông này nói chuyện tếu sao chứ... Em bé đó sẽ trở thành Vua dân Do Thái hả ? Nếu vậy, chắc phải là con trai vua Hê-rô-đê Ăng-ti-pa hiện nay của nước Pa-lét-tin rồi đó ? Vô lý, mà không thể nào có chuyện đó được, nếu có thì tôi phải biết chứ ! Ông lầm rồi !
Đạo sĩ 4: Không, tôi xin cam đoan, đó là Vua dân Do Thái mà ! Hơn nữa, đó còn phải là Vua của toàn nhân loại ! Ông coi kỹ lại sổ sách giúp tôi với.
Nhân viên:Ừ, thì coi lại sổ cho chắc ăn… Thật, chả có em bé nào như ông vừa nói mà lại sinh ra ở đây, trong những ngày này. Ái chà, hay là ông muốn nói tới một tên tội phạm mới bị kết án tử hình, ban nãy, nó phải vác thập giá ngang qua đây, đi về hướng ngọn đồi gọi là đồi Gôn-ga-ta ở đằng kia kìa ! Tôi áng chừng chính là cái tên đó đó, bởi tôi thấy người ta có đồn rằng: hắn ta dám tự xưng mình tên là “Giê-su, Vua dân Do Thái”.
Đạo sĩ 4: Thôi đúng rồi ! Cám ơn ông, chắc đúng là người đó rồi ! ( Vội quay đi, rảo bước, miệng lẩm bẩm có vẻ còn bán tín bán nghi ) Giê-su, Vua dân Do Thái... Giê-su đó sao ? Một hài nhi mới sinh ra cơ mà ? Sao lại là một người đàn ông, lại còn là một người bị quân lính bắt đưa đi đóng đinh như một tử tội nữa chứ ? Giê-su, Vua dân Do Thái, có thật đúng là Ngài đó chăng ?
Nhân viên:( Ông cán bộ về dân số lắc đầu ngao ngán... ) Trời đất ơi ! Đúng là một tên khùng ! Sao dạo này có lắm tên khùng khùng quá vậy nhỉ ? Một tên thợ mộc dám tự nhận mình là Vua dân Do Thái, rồi bây giờ lại còn thêm một anh coi bộ cũng trí thức, lại khăng khăng bảo tên thợ mộc đó là Đấng Cứu Thế nữa cơ chứ ? Thật, hết chỗ nói ! Đúng là thời buổi đảo điên có khác ! ( Anh ta nhún vai bĩu môi bỏ đi. Vị đạo sĩ tiến tới phía có bóng của Đức Giê-su dang tay trên thập giá in trên tấm màn căng ).
* MÀN CUỐI : GẶP ĐỨC GIÊ-SU
Đạo sĩ 4: Thưa Ngài, có thật Ngài chính là ông Giê-su, Vua dân Do Thái không ? ( Đạo sĩ tiến lại gần tấm màn có hình rọi, nhìn kỹ... ) Nhưng không thể nào được, vì ông là một người trung niên, còn tôi thì lại đang cần tìm một em bé sơ sinh, Người đó mới thực sự là Vua dân Do Thái. Chính ngôi sao lạ trời Đông đã dẫn tôi đến nơi đây cơ mà...
Đức Giê-su: Này người bạn đáng yêu, anh quên rằng đã hơn 30 năm trôi qua rồi sao ?
Đạo sĩ 4: Trời ơi ! ( đạo sĩ quay lại phía khán giả, tỏ vẻ bàng hoàng ngẩn ngơ... ) Đã hơn 30 năm tôi đi tìm Người rồi sao ? Vậy mà tôi cứ ngỡ chỉ mới hôm qua ! Vậy Hài nhi năm xưa, giờ đây chính là Ngài ư ? ( Đạo sĩ quay lại phía hình bóng Chúa, quỳ xụp xuống cầu nguyện ) Lạy Ngài, con đã đến quá trễ, xin tha thứ cho con !
Đức Giê-su:Anh không có lỗi gì cả ! Hôm nay anh đã được gặp chính tôi, nhưng tôi thì đã từng... gặp anh rất nhiều lần rồi !
Đạo sĩ 4: Thưa Ngài, thật vậy sao ? Ngài mà lại từng gặp con ở đâu đó rồi sao ?
Đức Giê-su:Tôi đói, anh đã cho tôi ăn. Tôi khát, anh đã cho tôi uống. Tôi là khách lạ, anh đã tiếp rước tôi vào nhà. Tôi mình trần, anh đã cho tôi áo mặc. Tôi ngồi tù, anh đã thăm nuôi tôi...
Đạo sĩ 4: Nhưng thưa Ngài, thiệt ra thì con cũng có đôi lần làm những việc nho nhỏ đó cho người này người nọ mà con gặp trong họ đạo hoặc con tình cờ gặp dọc đường, thế nhưng... thực sự con đã bao giờ gặp Ngài và làm cho Ngài như thế đâu ?
Đức Giê-su:Mỗi lần anh làm như thế cho một trong những người anh em đồng loại là anh đã làm cho chính tôi đó !
Anh đã chỉ đường cho một người mù đến gặp tôi, người ấy đã được tôi chữa cho sáng mắt. Và để tỏ lòng biết ơn, người ấy đã tặng tôi cây gậy làm kỷ niệm, trên đó tôi thấy có khắc tên anh...
Rồi một người hành khất tìm đến với tôi, trao cho tôi một mẩu bánh mì mà anh đã chia sẻ cho chị ấy, chính mẩu bánh nhỏ bé này tôi đã dùng trong bữa Tiệc Ly để hóa nên chính Thịt Máu của tôi đem Sự Sống vĩnh cửu cho muôn người...
Rồi một người phong cùi đã đến với tôi với ngọn nến sáng trong tay, và khi anh ta lành mạnh rồi, cũng chỉ có một mình anh là quay trở lại tạ ơn tôi, còn chín người bạn đồng cảnh ngộ với anh ta thì không. Anh ta đã thuật lại đầu đuôi cuộc gặp gỡ với anh trước đó...
Lại còn một chị phụ nữ đã mạnh dạn chạy vào giữa bàn tiệc của một người Pha-ri-sêu đang thết đãi tôi để quỳ xuống, khóc lóc chân thành, lại còn đổ một bình dầu thơm rồi lấy tóc mà lau chân tôi...
Tất cả những con người đáng thương ấy đều đã gặp anh và được anh giúp đỡ, được anh chỉ dẫn cho biết đường mà tìm đến gặp tôi để được đổi đời...
Đạo sĩ 4: Nhưng lạy Ngài, Ngài tốt lành và đầy quyền năng như thế, cớ sao Ngài lại bị đóng đinh như một phạm nhân nhục nhã như thế này ?
Đức Giê-su:Tôi đã đến nhà của mình, nhưng người nhà lại chẳng muốn đón nhận tôi.
Đạo sĩ 4: Vậy là người ta đã nỡ vu cáo và giết chết Ngài chỉ vì Ngài đã quá đỗi yêu thương họ, vì Ngài đã muốn đem lại cho họ Sự Sống vĩnh cửu ư ? Vậy, bây giờ con còn có thể làm được gì cho Ngài đây ?
Đức Giê-su:Anh hãy quay về sống cuộc đời bình thường của mình. Tôi chỉ nhờ anh một việc, anh hãy thuật lại Tin Mừng trọng đại này cho mọi người anh gặp: đó là Đấng Cứu Thế đã giáng sinh, đã sống đời con người như mọi người, đã yêu thương hết mọi người chẳng trừ ai, Người đã chết để làm chứng về Tình Yêu, về mối tình bất diệt muôn thuở ấy, và rồi chắc chắn Người đã Phục Sinh. Nước Của Người sẽ rộng mở và các dân tộc trên toàn thế giới này sẽ biết Người và theo Người... ( Nhạc trổi lên vui tươi, hùng mạnh, vị Đạo sĩ cúi lạy Đức Giê-su rồi bước tới trước khán giả, nói dõng dạc... )
PHẦN KẾT:
Kính thưa cộng đoàn,
Vâng, chính tôi và những người anh em tật nguyền, bất hạnh và tội lỗi, chúng tôi đã được gặp gỡ Đức Giê-su như thế đó. Chúng tôi tin chắc rằng: chính quý ông bà, chính các bạn trẻ cũng đã hơn một lần gặp gỡ Đức Giê-su Cứu Chúa ngay trong cuộc sống, bởi vì, chính cộng đoàn cũng đã đến quây quần nơi đây, trong ngôi nhà thờ thân yêu này ngày hôm nay, như là một dấu chỉ sống động của Tình Yêu Hiệp Nhất.
Vậy, xin cộng đoàn hãy cùng ngẩng cao đầu để đón lấy Ánh Sáng của Chúa Ki-tô Giê-su, Anh sáng ngôi sao lạ ngày Chúa giáng trần, Ánh Sáng vinh hiển ngày Chúa phục sinh và cũng sẽ là Ánh Sáng cánh chung, ngày Chúa sẽ trở lại đưa chúng ta vào Nước của Người...
( Đèn cung thánh bật sáng, người đóng vai đạo sĩ tiến ra thắp sáng ngọn nến Phục sinh trên giá, mời cộng đoàn đứng lên hát chung bài Gặp Gỡ Đức Ki-tô).
VI.LỜI KẾT :
Kính thưa cộng đoàn!
Phần hoạt cảnh mà chúng ta vừa theo dõi trong đêm canh thức mừng Chúa Giáng sinh năm nay, đã chỉ cho chúng ta một cách sống đạo giữa đời theo hướng dẫn của Giáo hội là Mẹ yêu dấu của chúng ta. Ước gì mỗi người chúng ta biết luôn lắng nghe Lời Chúa, lắng nghe Giáo huấn của Giáo hội để chọn cho mình một cách Sống đạo đúng đắn nhất. Giờ đây, chúng ta hãy hiệp cùng các em thiếu nhi lời reo mừng, lòng hân hoan mừng Chúa Giáng sinh cho chúng ta.
CHỦ ĐỀ: NGÔI LỜI NHẬP THỂ - Nguồn và gương mẫu đời “Sống Đạo”
A. TỔNG QUÁT
* KHAI MẠC : Hát một bài đồng ca về Tâm tình Mùa Vọng (C.đ Giáo xứ)
* PHẦN 1: SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và phục vụ con người.
+ NHÂN VẬT: Ađam + Eva (G.L.V phụ trách)
Một số con vật, cây cối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú… (Do các em Mẫu giáo Tuổi thơ hoá trang – các Dì phụ trách).
+ HÌNH THỨC : Ca vũ cảnh.
+ KHUNG CẢNH : Sân khấu để trống, chuẩn bị điện phối hợp ca cảnh.
+ THỰC HIỆN : Các Dì + G.L.V.
* PHẦN 2: Gương Sống Đạo của Abraham: TRUNG THÀNH VÀ GẮN BÓ VỚI THIÊN CHÚA.
+ NHÂN VẬT : Giọng nói Thiên Chúa. Abraham, Sara, Isaác. 03 “Người của Thiên Chúa”.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm ba tiểu phẩm sau:
- Chúa gọi Abraham.
- Tiếp đón “Người của Thiên Chúa”
- Sát tế Isaác.
+ KHUNG CẢNH : cảnh vật tự nhiên, gia thất, đồi sát tế.
+ THỰC HIỆN : Gia trưởng và Hiền mẫu.
+ THÁNH CA PHỤ HOẠ : (C.đ Hiền mẫu).
* PHẦN 3: ĐỨC MARIA: Gương mẫu Sống đạo tuyệt vời.
+ NHÂN VẬT : Sứ thần, Maria, Giacaria, Êlisabet.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm 2 tiểu phẩm sau:
- Truyền tin.
- Thăm viếng.
+ KHUNG CẢNH : Cảnh gia thất Maria và Giacaria.
+ THỰC HIỆN : G.L.V.
+ THÁNH CA PHỤ HỌA : (C.đ Gia trưởng).
* PHẦN 4: CHÚA GIÁNG SINH: Đạo vào đời.
+ Nhân vật: Giuse, Maria, các Thiên thần, mục đồng, Ba Vua.
+ Hình thức: ca cảnh, diễn điệu, gồm các tiểu vũ sau:
- Giuse và Maria dìu nhau đến hang đá Bêlem.
- Thiên Thần múa hát mừng Chúa giáng sinh.
- Các mục đồng thờ lạy Chúa.
- Ba vua dâng lễ vật.
+ THỤC HIỆN : Quý Dì, các em mẫu giáo Tuổi thơ, Lễ sinh, GLV.
* PHẦN 5: Sống đạo hôm nay: YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ.
+ NỘI DUNG : Theo nội dung hoạt cảnh “Bài học yêu thương”
+ NHÂN VẬT : theo phân bố của kịch bản.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh.
+ THỰC HIỆN : Giới trẻ.
+ THÁNH CA PHỤ HỌA : (C.đ Thiếu nhi).
B. NỘI DUNG CỤ THỂ
KHAI MẠC :
* LỜI GIỚI THIỆU :
Kính thưa Quý Cha!
Quý Tu sĩ, Quý chức, cùng toàn thể Cộng đoàn!
Chúng ta đang chuẩn bị thật gần trong niềm hân hoan mừng Đại lễ Giáng sinh của Năm Phụng vụ mới 2006 – 2007. Năm Phụng vụ này, Giáo hội Việt Nam đã chọn chủ đề là “SỐNG ĐẠO HÔM NAY”. Trong thư Mục vụ năm 2006, Các vị chủ chăn đáng kính của chúng ta đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Qua thư Mục vụ 2004, chúng ta đã chiêm ngắm, suy tôn và sống Mầu nhiệm Thánh Thể, là “Nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô hữu” (LG 11). Tiếp theo, thư Mục vụ năm 2005 mời gọi chúng ta lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa. Và thư Mục vụ năm 2006 này chọn chủ đề “Sống đạo hôm nay” để mời gọi mỗi người sống niềm tin bằng những hành động cụ thể, như Thánh Giacôbê tông đồ đã viết “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”(Gc 2,17). Quả thật, đời sống đạo vừa cần phải gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập thể và Nhập thế đã nêu gương cho chúng ta” (Số 1).
Như vậy, từ lời Giáo huấn trên, các Giám mục Việt Nam đã làm sáng tỏ một chân lý: Thiên Chúa là Tình yêu, tình yêu ấy đã hướng tới việc phục vụ con người qua công trình sáng tạo vĩ đại, qua lịch sử Cứu độ và qua cuộc nhập Thể Cứu thế nơi Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta sẽ mừng kính Mầu nhiệm Giáng sinh của Ngài trong đêm nay. Theo Tin mừng của Thánh Gioan, khi trả lời thắc mắc của Tôma, Chúa Giêsu đã nói “Chính Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Vâng, chính Chúa là Đường, là Đạo, Ngài đã nhập thể làm người để đem đạo vào đời bằng chính thái độ gắn bó, vâng phục Thánh ý Chúa Cha và bằng sự phục vụ tự hiến đến chấp nhận cuộc tử nạn để cứu độ nhân loại; quả thật, chính Mầu nhiệm Nhập thể, nhập thế của Chúa Giêsu đã nên gương mẫu đời sống đạo hôm nay cho chúng ta: một thái độ sống “Gắn bó với Thiên Chúa và đi đến với anh em” như các Giám mục kính mến của chúng ta đã nhắc nhở trong thư Mục vụ.
Lần giở lại một vài đoạn Kinh thánh được diễn trong đêm hoạt cảnh – Canh thức hôm nay, chúng ta sẽ hiểu rõ lời Giáo huấn của các vị chủ chăn, sẽ nhận thức được rằng mình sẽ sống ra sao, sống như thế nào để gọi là “Sống đạo hôm nay”, và trong tâm tình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa tình yêu lời cảm mến tri ân, lòng hân hoan vui mừng nhân biến cố mừng Chúa Giáng sinh để ban Ơn Cứu độ cho chúng ta không chỉ trong Đêm cực Thánh này, không chỉ trong Mùa Giáng sinh hồng phúc, mà trong suốt hành trình của Giáo hội, trong suốt cuộc đời chúng ta.
Giờ đây, để cho đêm Hoạt cảnh – Canh thức được bắt đầu, Cộng đoàn chúng ta hãy hiệp lời cùng Ca đoàn để diễn tả tâm tình mong chờ Chúa đến.
* Ca đoàn hát đồng ca một bài về “Tâm tình Mùa Vọng”.
I. PHẦN MỘT : SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và phục vụ con người.
(Sân khấu để tối, chỉ cần đủ ánh sáng cho người dẫn).
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Câu đầu tiên của sách Sáng thế đã viết: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm” (St 1,1-2).
Vâng, khi Thiên Chúa chưa sáng tạo muôn vật, vũ trụ này chỉ là hư vô, trống rỗng, chỉ có một mình Thiên Chúa ngự trị. Thiên Chúa là Tình yêu, Ngài không muốn gói gọn tình yêu trong Trái tim của Ngài, Ngài chỉ muốn mở Tình yêu ra, trao ban tất cả; mà sáng kiến đầu tiên của Tình yêu ấy là công trình tạo dựng trời đất muôn vật cách quyền năng và lạ lùng khôn tả. Sách Sáng thế ghi rằng: Thiên Chúa đã dùng Lời quyền năng và Thần khí để sáng tạo ra ánh sáng xoá tan đêm tối (Bật điện sáng), Người phân rẽ ánh sáng bóng tối (Tắt điện một chút rồi bật sáng ngày), Người tạo nên vũ trụ bao la với đầy đủ tinh tú (Bật các bóng trang trí), Người phân rẽ đất nước và sinh ra trên đó biết bao sinh vật (Các em hoá trang nhảy ra). Thiên Chúa thấy mọi sự rất tốt đẹp. Tuy nhiên, Thiên Chúa thấy vẫn còn thiếu một cái gì đó, Ngài nhìn muôn vật bơ vơ chưa có ai cai quản, Ngài liền nghĩ và thực hiện ngay ý định: “Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Chúng Ta, giống như Chúng Ta để con người làm bá chủ chim trời, cá biển và mọi giống vật trên mặt đất” (St 1,26); và thế là con người, tạo vật cuối cùng và cao trọng nhất đã được dựng nên để thay Chúa cai quản mọi vật (Ađam, Eva nắm tay nhau hạnh phúc bước ra trong làn nhạc êm). Và thế là công trình tuyệt diệu của Tình yêu đã hoàn tất. Đối với muôn vật, tình yêu của Chúa đã được phủ đều, tuy nhiên Tình yêu ấy hầu như được kết tụ nơi con người khi ban cho họ hai đặc ân tuyệt hảo đó là được giống Chúa, mang hình ảnh của Ngài và được cai quản muôn vật.
Như thế đấy, muôn vật, mọi trật tự kỳ diệu của vũ trụ và cả loài người cao trọng chúng ta đã được hình thành từ trong quyền năng và Tình yêu của Chúa. Tình yêu muốn được chia sẻ, Tình yêu để phục vụ. Chúng ta hãy hiệp cùng Ông bà Nguyên tổ, cùng muôn vật, vũ trụ hát lên lời ca tụng Chúa, cùng loan tin vui sáng tạo cho muôn người ở khắp mọi nơi.
* Vào vũ khúc.
II. PHẦN HAI : Gương Sống Đạo của Abraham: TRUNG THÀNH VÀ GẮN BÓ VỚI THIÊN CHÚA.
* LỜI DẪN:
Thế rồi, theo lời Kinh thánh tường thuật, bản hoan ca phượng thờ của con người và muôn loài thụ tạo ở chốn địa đàng xưa dành cho Thiên Chúa tình yêu tưởng như là bất tận ấy đã mau chóng bị ngắt quãng mà nguyên nhân lại xuất phát từ phía con người – tạo vật lý tưởng của Thiên Chúa: nguyên tổ sa ngã, lòng ghen tương đố kỵ, tính ích kỷ, kiêu căng … đã đẩy con người đi vào con đường của ma quỷ: bội phản lại Thiên Chúa – Đấng vì yêu thương đã tạo dựng và phục vụ mình. Tuy nhiên, mặc cho con người tiếp tục dấn bước trên con đường bội phản, Thiên Chúa vẫn kiên trì tự mặc khải như một Đấng Thiên Chúa vô cùng chung thuỷ và thường hằng bất biến qua việc tuyển chọn và tinh luyện mà Ngài đã liên lỉ thực hiện dọc theo lịch sử Cứu độ để lôi kéo con người về lại với niềm tin đích thực.
Và trong dòng dõi bội phản, vẫn còn đó và sáng chói lên những khuôn mặt đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tinh luyện, để qua đó, Ngài làm sáng tỏ những mẫu gương Sống đạo giữa đời thật tuyệt hảo cho muôn đời hậu thế dọc theo lịch sử Cứu độ. Chúng ta hãy chiêm ngắm Abraham và gia đình ông, một mẫu gương sống đạo sáng chói bằng sự trung thành và gắn bó với Thiên Chúa giữa cuộc đời.
* VÀO HOẠT CẢNH :
a) MÀN 1: CHÚA GỌI ABRAHAM.
(Màn mở, cảnh cánh đồng với đàn súc vật, Abraham đang cầm gậy, đứng quan sát đàn súc vật, bỗng có ánh sáng loá từ trời, Abraham giật mình hoảng sợ, lùi lại vài bước và sụp quỳ xuống, dần dần ngước đầu lên nhìn về phía ánh sáng chói).
Tiếng Chúa: Abram! Abram!
Abraham: Dạ, dạ, …, tôi đây!
Tiếng Chúa: Abram hãy nghe đây, hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy và ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc!
Abraham: (Vẻ bất ngờ, ngơ ngác, bàng hoàng; ánh sáng lịm dần) – Vâng, tôi xin nghe, lạy Chúa! (Hấp tấp đứng dậy và vội vã lùa súc vật đi vào)
Dẫn nối: Bất ngờ, bàng hoàng, khó chấp nhận … nhưng thái độ của Abraham lại hoàn toàn ngược lại: Ông mau mắn hiểu ra Thánh ý tốt lành của Thiên Chúa – Đấng ông hằng tôn thờ mà thực thi không tính toán (Nhạc êm, Abraham cùng Sara, Lot, một số giai nhân, một số súc vật hồ hởi đi ra vẻ rất vui và háo hức. Cả nhà cùng đứng lại vẻ ngắm nhìn vùng đất, bỗng có tiếng gọi từ trời)
Tiếng Chúa: Abram, ngươi hãy coi, đây là phần đất mà Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi. Trên phần đất này, Ta sẽ là khiên thuẫn đỡ cho ngươi và dòng dõi ngươi.
Abraham: (Hấp tấp quỳ xuống, ngước mắt lên trời, mọi người làm theo) – Lạy Đức Chúa là Chúa thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì, con ra đi mà không có con cái? Chẳng lẽ kẻ gia nhân lại là người thừa tự của con hay sao?
Thiên Chúa: Không, kẻ đó không là người thừa kế mà là người do chính ngươi sinh ra mới là thừa kế của ngươi. Ngươi hãy nhìn lên trời mà xem, ngươi có đếm nổi hết số sao đó không, rồi đây, dòng dõi ngươi sẽ đông như sao trên trời, như cát bãi biển, sẽ sở hữu phần đất này làm gia nghiệp. Trên phần đất này, Ta sẽ làm cho ngươi thành cha của nhiều dân tộc, Ta sẽ gọi ngươi là Abraham vì ngươi sẽ là cha của nhiều dân tộc. Hãy nghe đây, Ta là Thiên chúa toàn năng, ngươi hãy bước đi trước mặt ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta, Ta sẽ cho ngươi trở nên đông thật đông, ngươi hãy tuân giữ giao ước của ta.
Abraham: (Cúi sấp mình xuống, mọi người cùng làm theo) – Lạy Thiên Chúa toàn năng, con tin và cảm tạ Ơn Người! (Mọi người ngẩng lên, đưa hai tay lên cao, ngước mặt lên trời).
b) MÀN 2: TIẾP ĐÓN NGƯỜI CỦA THIÊN CHÚA
(Màn mở, cảnh túp lều, một bụi cây, Sara ngồi trong lều, Abraham đang ngồi nghỉ mát nơi gốc cây, trong tiếng nhạc nền, bỗng có ba người chợt xuất hịên trước mặt Abraham).
Abraham: (giật mình, hốt hoảng đứng bật dậy, chạy vội ra và sụp lạy) – Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các Ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!
Ba vị khách: (Vẻ hân hoan) – Xin chào người công chính của Đức Chúa, xin Ông cứ làm những gì như ông vừa nói! (Vui vẻ ngồi vào các cục đá nơi gốc cây)
Abraham: (Hối hả chạy vào lều, vừa chạy vừa gọi): - Bà Sara ơi, người của Đức chúa đến viếng thăm chúng ta đây! (Abraham vào lều, nói vọng ra) – Bà mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi và làm bánh – (gọi tiếp) – Giai nhân đâu? – (Có tiếng thưa vọng ra) – Dạ! – Mau bắt một con bê sữa làm thịt ngay để nhà ta đãi khách quý! – Dạ!
(Trong tiếng nhạc, cảnh giai nhân chạy qua chạy lại tất bật, Abraham ngồi tiếp chuyện Người của Chúa, cảnh dọn cơm, ba người khách ngồi vào bàn, Abraham ngồi tiếp).
Abraham: (Xởi lởi) - Xin mời, xin mời, bữa cơm đạm bạc này xin được làm ấm lòng các vị, chúc các vị ngon miệng! – (Bốn người cụng ly, vui vẻ).
Người của Chúa: (Như chợt nhớ ra) – À, Abraham này, bà Sara vợ ông đâu rồi?
Abraham: Thưa các vị, nhà tôi hay ngại lắm, bà ấy ở trong lều.
Người của Chúa: (Dí dỏm) – Ông có tin hay không thì tùy, nhưng sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây, thì ông bà đã có một cu cậu con trai để bế rồi đấy! – (Cười)
Abraham: (Cười khẩy) – Các Ngài khéo đùa, tôi đã gần trăm tuổi, nhà tôi cũng đã là bà lão chín mươi, chuyện sinh đẻ ai lại dám mơ nữa!
(Bỗng văng vẳng tiếng cười khúc khích và tiếng nói vọng ra: Ôi dào, mình đã là một bà lão cằn cỗi, còn hưởng thú vui nữa sao? Ông ấy còn là một ông lão già nua, có mà chuyện lạ!)
Người của Chúa: (Nghiêm nét mặt) – Kìa Abraham, tại sao bà ấy lại không tin, lại cười chúng tôi mà nghĩ là người già mà sinh con có là chuyện lạ?
Abraham: (Ngạc nhiên, lúng túng, vẻ ngơ ngác)
Người của Chúa: Abraham, ông hãy nhớ một điều, Đức Chúa đã hứa với ông, mà Ngài thì luôn trung tín; vả lại, có điều gì kỳ diệu mà vượt được sức Đức Chúa hay không! Ông hãy nhớ kỹ điều này là: bằng giờ sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây thì Bà Sara đã có cho ông một cậu con trai đấy, thôi, cơm no rượu say rồi chúng tôi xin phép ra đi! (lục tục đi)
Sara: (ra khỏi lều, vẻ ngại ngùng) – Xin các Ngài hãy lưu lại đã, lúc nãy có vị bảo là tôi cười, nhưng nào tôi dám cười!
Người của Chúa: Bà đã cười, bà hãy nhờ lời chúng tôi đấy nhé! Thôi, chúng tôi đi!
Cả hai ông bà: Vâng, tạ ơn Đức Chúa, kính chúc các vị bằng an (Hai người nhìn nhau trìu mến, màn đóng).
c) MÀN 3 : SÁT TẾ ISAÁC.
(Màn mở, cảnh túp lều, trời nhá nhem tối, Abraham ngồi bên ngoài như nghỉ ngơi, bỗng có ánh chớp loè, Abraham hoảng hốt, ngơ ngác).
Tiếng chúa: Abraham, Abraham!
Abraham: (Vội vàng quỳ sụp xuống) – Lạy Đức Chúa, này con đây!
Tiếng Chúa: Này Abraham, Ta rất hài lòng về ngươi, vì ngươi luôn giữ giao ước với Ta. Ta chỉ còn một việc duy nhất muốn ngươi làm đó là sáng sớm mai, ngươi hãy đem Isaác – đứa con mà Ta đã ban cho ngươi đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu, ở trên một ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho ngươi!
Abraham: (Sụp ngồi xuống thất vọng) – Ôi, lạy chúa … (lại quỳ thẳng lên kiên quyết) – Vâng, lạy Đức Chúa, điều gì Đức Chúa muốn con xin thi hành! (Lại ngồi thụp xuống đau khổ, trời tối hẳn. Một lát sau, trời tảng sáng, tiếng gà gáy, có tiếng Abraham gọi trong lều)
Abraham: Bà ơi, Isaác ơi! Trời đã sáng rồi, dậy mau!
Sara: (Vẻ ngái ngủ) – Sao hôm nay ông lại dậy sớm thế!
Abraham: Dậy đi bà ơi, con trai ơi, tối hôm qua, Đức Chúa đã muốn tôi cùng Isaác đi tế lễ cho Người!
Sara: Vậy à, tôi dậy đây – (Gọi vọng) – Isaác ơi, dậy đi con, hôm nay con được cùng cha đi tế lễ cho Đức Chúa đấy!
Isaác: (Vẻ rất tỉnh) – Ôi, vậy à, con sướng quá, hôm nay thế là đã được đi tế lễ cùng cha rồi!
(Có tiếng Abraham thở dài, tiếng lục đục một lúc, trời tảng dần, Abraham cầm con dao cùng Isaác đeo bó củi bước ra. Abraham vẻ buồn rười rượi, Isaác vui vẻ vô tư, Sara bước ra có vẻ lo lắng vì thấy chồng không vui).
Sara: Ông ơi, sao hôm nay ông có vẻ hơi lạ, ông mệt à, hay là để tôi cho gia nhân đi cùng ông!
Abraham: Thôi bà, có gì đâu! Tôi đi đây – (Cao giọng) – Ta đi thôi con trai!
Isaác: Vâng! (ngoảnh lại) – Con đi mẹ nhé!
Sara: Được rồi, hai cha con đi bằng an! (Hai cha con vẫy chào đi thẳng, Sara vẫn đứng nhìn theo chưa hết vẻ lo ngại, cảnh dừng).
(Sân khấu tối một chút rồi sáng hẳn, cảnh tự nhiên, đã có một bàn thờ kê sẵn, hai cha con đang xếp củi lên bàn thờ, Abraham cặm cụi làm vẻ đau khổ, Isaác ngược lại hết sức vui vẻ, vô tư).
Isaác: Cha ơi, mình xếp củi xong rồi nhưng con có thấy lễ vật đâu Cha? – (Cười dí dỏm) – Không lẽ cha chỉ đốt củi xông khói cho Đức Chúa thôi sao! – (Giật mình vì thấy Cha sầu não, vội chuyển thái độ ân cần) – Cha, con xin lỗi vì đã vô ý đùa với Cha! Nhưng mà … nhưng mà sao hôm nay con thấy cha có vẻ gì … kỳ lạ lắm! Cha, cha có chuyện gì buồn, hay cha không khoẻ, hay cha đang giận con … hả cha?
Abraham: (Nhìn con trìu mến) - !!!
Isaác: (Vẻ lấy lòng) – Cha, con chỉ đùa có tí thôi mà, cha đừng giận con nữa nhé, thôi bây giờ để con chất nốt mấy cây củi này nữa là xong, rồi cha con ta đi bắt lấy một con dê núi làm của lễ cho Đức Chúa! (Cúi xuống nhặt củi).
Abraham: (Thả dao, ôm chầm lấy con) – Isaác con ơi, cha chẳng buồn con đâu, cha cũng chẳng đau bệnh gì hết, cha rất thương con vì con là cả cuộc đời của cha! Nhưng con ơi, hôm nay, Thánh ý của Đức Chúa là muốn cha dùng con làm của lễ toàn thiêu kính dâng lên Ngài …!
Isaác: (Hoảng sợ, dẫy ra khỏi tay cha, lùi lại hai ba bước) – Cha! …
Abraham: (Đau khổ, nói trong nước mắt) – Con yêu, cha thương con hơn bản thân cha – (Bước đến ôm con) – nhưng ý của Đức Chúa làm sao cha dám làm trái lại. Con ơi, Cha rất thương con, thương con lắm nhưng cha phải vâng lệnh Đức Chúa thôi con ơi!
(Abraham khóc nức lên, Isaác rời khỏi tay cha, lùi lại vài bước nữa rồi quỳ sụp xuống. Abraham với lấy con dao tiến vài bước đến gần Isaác lưỡng lự, sau đó dứt khoát vung dao lên, bỗng có ánh sáng chói loà, tiếng Thiên Chúa vang lên dứt khoát)
Tiếng Chúa: Abraham, Abraham, hãy dừng ngay lại!
(Abraham giật mình dừng tay, còn để nguyên vị trí, hai cha con ngước lên trời ngơ ngác)
Tiếng Chúa: Ngươi đừng giơ tay làm hại đứa trẻ, đừng đụng đến nó! Bây giờ Ta đã biết ngươi là kẻ hết lòng kính sợ Đức Chúa. Đối với Ta, đến đứa con đầu lòng duy nhất mà ngươi cũng chẳng tiếc. Hãy nghe đây, hỡi Abraham, vì ngươi đã làm điều đó nên Ta sẽ lấy Danh Ta mà thề rằng: Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông như sao trên trời, như cát bãi biển, dòng dõi ngươi sẽ chiếm được các thành trì của giặc. Mọi dân tộc trên địa cầu này sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi ngươi đã vâng lời Ta!
(Tiếng Chúa dứt, hai cha con bàng hoàng một lát rồi ôm chầm lấy nhau sung sướng, bỗng có tiếng dê kêu, hai cha con cùng chạy đi và quay lại với con dê trong tay, đặt dê lên đàn tế lễ, châm lửa rồi quỳ sụp xuống)
Hai cha con: Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chúng con tạ ơn Ngài! (Màn đóng)
III. PHẦN III : ĐỨC MARIA: GƯƠNG MẪU SỐNG ĐẠO TUYỆT VỜI
* LỜI DẪN :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta vừa chiêm ngắm Abraham – Tổ phụ dân tộc Thánh, dân riêng của Chúa. Abraham đã nêu cho chúng ta gương mẫu một đời sống đạo giữa đời: Ông luôn tín thác, tin tưởng và trung thành với Đức Chúa – Đấng đã làm cho ông biết bao điều kỳ diệu. Ông đã được mệnh danh là “Cha các kẻ tin”. Đi dọc Lịch sử Cứu độ, chúng ta còn được chiêm ngắm biết bao gương mẫu nữa nơi các Tổ phụ Israel, như Maisen, như các thủ lãnh, Các Vua Do thái … và, vào thời viên mãn, chúng ta cũng sẽ được chiêm ngắm một mẫu gương tuyệt vời nữa nơi Đức Maria – người nữ tì của Thiên Chúa – bóng dáng của Lời hứa Cứu độ. Đức Maria đã nên gương mẫu sống đạo tuyệt hảo cho chúng ta như thế nào, hai đoạn hoạt cảnh ngắn sau đây sẽ chỉ ra cho chúng ta một bài học sống đạo hôm nay thật quý giá.
* MÀN 1: TRUYỀN TIN
(Cảnh nội thất, Maria đang ngồi bên bàn đọc sách vẻ chăm chú, nhạc du dương êm đềm. Bỗng ánh chớp loà, ánh sáng quay cuồng, một Thiên thần xuất hiện uy nghi trước mặt Maria; Maria bàng hoàng, thả sách, đứng bật dậy lùi lại vài bước…)
Thiên thần: (Trịnh trọng chắp tay) – Kính chào trinh nữ đầy ân sủng! Trinh nữ hãy vui mừng lên vì Thiên Chúa luôn ở cùng trinh nữ!
Maria: (Từ sợ sệt ra bối rối) – Người … người là… ai, và … lời chào vừa rồi của người có ý gì mà phận nữ nhi của tôi không thấu hiểu được!
Thiên thần: Hỡi Trinh nữ Maria, xin đừng sợ! Ta là Thiên sứ Gabriel của Thiên Chúa; Ta được sai đến để báo cho Trinh nữ một tin vui mừng trọng đại: Trinh nữ rất đẹp lòng Thiên Chúa! Và này đây Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh một con trại, đặt tên là Giêsu! Chính Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít Tổ phụ, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!.
Maria: (Ngạc nhiên, bối rối hơn) – Thiên sứ đáng kính, việc mà Thiên sứ vừa nói xảy ra thế nào được, vì phận nữ tôi tuy đã đính hôn với Giuse nhưng nào đã biết đến việc vợ chồng?
Thiên thần: Trinh nữ hãy an tâm, người con mà trinh nữ sẽ cưu mang không bởi huyết tộc của Giuse, người bạn trăm năm của trinh nữ đâu!
Maria: Vậy thì chuyện Sứ thần nói càng không thể có!
Thiên thần: Không, có đấy! Chính Thánh thần sẽ ngự xuống trên Trinh nữ và quyền năng của Đức Chúa tối cao sẽ rợp bóng trên Trinh nữ. Vì vậy, Đấng mà Trinh nữ cưu mang và sinh ra chính là Đấng Thánh, là Con thiên Chúa!
Maria: Nhưng … !
Thiên thần: (Cắt ngang) – Trinh nữ hãy an tâm và vững tin! Kìa bà Elisabét, người chị họ của Trinh nữ tuy đã già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai. Người đã từng mang tiếng là hiếm hoi, vậy mà đã mang thai sáu tháng rồi! Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Từ từ quỳ gối, còn do dự, lo lắng …)
Thiên thần: Trinh nữ thân yêu, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Tự tin hơn, ngẩng lên nhìn Thiên thần) – Vâng, phận tôi là nữ tì bất xứng! Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Thiên thần vừa nói! (Cúi đầu, cung kính).
(Nhạc nổi du dương, Thiên thần cung kính cúi chào Maria rồi biến đi trong ánh chớp, Đức Maria thinh lặng)
* MÀN 2: THĂM VIẾNG.
Dẫn: Lời của Thiên thần quả là bấp bênh, một thực tai khó có thể chấp nhận được; hơn thế, đặt Đức Maria vào một hoàn cảnh thật đặc biệt … Tuy nhiên, niềm tin của một đời chiêm niệm, tín thác đã thúc giục Mẹ mau mắn “xin vâng”; niềm tin ấy đã làm sáng lên nơi Đức Mẹ gương mẫu sống gắn bó với Thiên Chúa, suy gẫm và nắm bắt Thánh ý của Thiên Chúa cách mau mắn. Hơn thế, niềm tin ấy còn thôi thúc Mẹ vui mừng và mang niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai … Gương sống đạo của Mẹ trở nên tuyệt hảo hơn, đẹp lòng Chúa hơn vì Mẹ đã biết đi đến với anh em trong mối tương quan với Thiên Chúa.
(Cảnh nhà Giacaria. Giacaria đang thẩn thơ quanh sân, Maria đi vào)
Maria: (Cao giọng) – Ôi, anh Giacaria! Nghe tin anh chị có tin vui nên em vội vã lên thăm đây!
Giacaria: (Vẻ mừng rỡ, chỉ diễn tả bằng tay và nét mặt vì bị câm) …
Elisabet: (Từ trong nhà chạy ra, vẻ mừng rỡ, bỗng chững lại xoa bụng ngạc nhiên) – Ôi, Maria, em của chị!
Maria: (Ôm choàng lấy Êlisabet) – Maria, em là người thật có phúc giữa các người phụ nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc!
Maria: (Ngại ngùng) – Kìa, chị nó gì vậy?
Êlisabet: (Cầm chặt tay Maria, rạng rỡ, xúc động) – Chị nói thật lòng đấy, chị cũng thật diễm phúc! Bởi đâu chị được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm? Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi đã nhảy mừng trong lòng chị! Em thật có phúc vì đã luôn tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em! (Cười sung sướng và gật đầu dí dỏm với Giacaria)
Giacaria: (Cười vui vẻ, ra hiệu rồi đi vào nhà)
Maria: Chị ơi, em thật hạnh phúc vì phận em hèn mọn mà Đức Chúa vẫn thương tuyển chọn. Không biết rồi đây em phải làm sao cho xứng đáng?
Êlisabet: Em không phải lo, Đức Chúa đã chọn em, Ngài sẽ lo lắng mọi sự cho em thôi!
Maria: Ôi, em sung sướng quá, sung sướng cho cả chị! Thôi, Chị ơi, Đức Chúa đã thương chị em ta, Ngài không kể đến phận hèn mọn của chị em ta, chị em ta hãy dâng lên Ngài lời tri ân và ngợi khen chị nhé!
(Hai chị em nhìn nhau trìu mến, quỳ xuống ngửa mặt lên, nghiêm trang sốt sắng hát kinh Magnificát)
Maria: (Đến nâng Êlisabet dậy) – Thôi, dậy đi chị, chị em ta cùng vào nhà xem anh Giacaria làm gì để đãi chị em ta!
Êlisabet: (Như chợt nhớ ra điều gì) – Thế em định ở chơi với chị có lâu không?
Maria: (Cười dí dỏm trêu) – Đã sợ tốn cơm à? Em nghe Thiên thần báo tin là chị đã có thai sáu tháng rồi, chị đã lớn tuổi, anh Giacaria lại lâm căn bệnh khó hiểu … nên em đã xin anh Giuse cho em lưu lại giúp đỡ chị cho tới lúc chị mãn nguyệt khai hoa thì em xin về!
Êlisabet: Đúng em là người của Thiên Chúa, chị cám ơn em nhiều lắm. Thôi ta đi vào thôi!
(Hai chị em dìu nhau vào nhà trong nền nhạc).
IV. PHẦN 4 : CHÚA GIÁNG SINH: ĐẠO VÀO ĐỜI.
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Đi dọc Lịch sử Cứu độ cho đến lúc này cho dù chỉ bằng một vài sự kiện, biến cố hoặc nhân vật hết sức khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể cảm nghiệm được rằng: Thiên Chúa là Đấng rất giàu Tình yêu. Ngài đã nên gương mẫu thật tuyệt hảo về tình yêu khi đã sáng tạo muôn loài, nhất là sáng tạo nên con người theo hình ảnh của Ngài, Ngài yêu thương và luôn trung thành với những giao ước mà lúc này lúc khác Ngài đã thiết lập để duy trì mối quan hệ hết sức yêu thương đối với loài người.
Thế còn đối với con người thì sao???
Trong phạm vi đêm hoạt cảnh hôm nay, chúng ta mới chỉ được xem vài gương mặt tiêu biểu coi như là gương mẫu lý tưởng của cách sống coi Thiên Chúa là Đạo, là Đường và đã sống một mực kiên trung, tin tưởng cũng như dám làm tất cả những gì mà Thánh ý Thiên Chúa mong muốn. Tuy nhiên đó chỉ là phần nổi rất nhỏ bé của tảng băng trên đại dương cuộc đời mà thôi. Buồn thay, phần chìm rất lớn của tảng băng lại là số đông nhân loại từ cổ chí kim thường chỉ cho Thiên Chúa là một phương tiện, một cứu cánh khi cần mà thôi, ví như vị thần đèn của chàng Alađanh chẳng hạn. Và như thế, khi gặp gian nan, đau khổ thì họ sùng kính, cầu khẩn Thiên Chúa, xin Ngài giúp; nhưng khi sung túc thoả thuê thì lại quên mất Thiên Chúa của mình, đôi khi còn phản bội, còn coi Ngài như một gánh nặng cản trở sự sung sướng, cản trở những toan tính lợi lộc, cản trở cái mà họ cho là sự hạnh phúc mà họ đáng được hưởng … Lịch sử Cứu độ ngay từ những ngày đầu tiên, nhất là đối với dân Israel – một dân tộc được Thiên Chúa hằng tuyển chọn đã là một chuỗi đầy rẫy những cách sống nhưng không theo Đạo, theo Đường của Thiên Chúa – Đấng sáng tạo yêu thương mà chỉ theo những đam mê, dục vọng của bản thân là phương thế hết sức thâm độc nhưng hiệu quả của ma quỷ – thế lực thù hận Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa chỉ đơn thuần như một con người thì có lẽ Ngài đã phải khóc hết bao nhiêu nước mắt vì nhân loại là người tình của Ngài nhưng lại luôn bất trung, bất tín, bất nghĩa và cả bất nhân nữa.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn là Đấng siêu việt và rất giàu tình yêu, Ngài luôn trung tín và tìm muôn vàn cách cứu vãn con người – tạo vật mà Ngài yêu thương.
Và rồi cũng đến thời viên mãn, Đấng Cứu tinh là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với thế gian trong cung lòng Trinh nữ Maria nơi Thánh Gia Nazareth. Chính Ngài là Thiên chúa đã đem Đạo vào đời bằng tình yêu, sự hiệp nhất, sự gắn bó và vâng phục Thánh ý Thiên Chúa cũng như thực thi đời bác ái phục vụ con người, phục vụ cách tuyệt đối. Vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập thể và nhập thế đã đem Đạo vào đời, đã nên gương sáng Tinh thần sống đạo ở giữa thế gian. Giờ đây, kính mời cộng đoàn cùng chiêm ngắm Mầu nhiệm Nhập thể của Chúa và hãy xác định thái độ sống Đạo hôm nay của mình như thế nào ở giữa thế gian dựa theo những tiểu phẩm hoạt cảnh sau đây.
* VÀO HOẠT CẢNH.
(Màn đêm bao trùm cảnh vật. Khung cảnh thành Bêlem hiện ra. Giuse tay cầm gậy, đeo hành trang trên vai. Đi sau là Maria đang nặng nề cất bước).
Giuse: Maria trông kìa: Bêlem kinh thành vua Đavít. Ta tiến vào để cho kịp ghi tên. Chiếu chỉ vua nào dám trái lệnh trên, phải đăng kí khắp mọi miền đất nước! (Quay lại Maria) – Maria! Chắc đường xa mình đã mệt.
Maria: Giuse ơi! Tới đâu rồi anh nhỉ! Lữ quán nào ta đến để nghỉ chân. Đường đi xa, mệt mỏi khắp châu thân, và có lẽ… như đã gần… anh ạ!
Giuse: (Giật mình lo ngại) – Ôi! Lạy Chúa! Đường xa xôi vất vả, lại đến ngày mình mãn nguyệt khai hoa, giữa đêm đông giá buốt lại không nhà, tìm đâu được chỗ cho nàng trú ngụ (Im lặng trầm tư trong chốc lát) – Kìa, lữ quán xa xa ta đến liều hỏi thử (đưa tay chỉ) – Chỉ mong rằng được lưu ngụ qua đêm! (Cả hai người dìu nhau tới gõ cửa lữ quán, cửa mở, chủ quán bước ra, vẻ đon đả).
Chủ quán 1: Ồ, hân hạnh, thật hân hạnh, xin chào ông bà! Chắc ông bà cần quán trọ?
Giuse: Xin chào ông, chúng tôi là lữ khách, đường đi xa đêm tối lại không nhà, xin rộng lòng giúp đỡ bước can qua, cho trú tạm trong nhà qua đêm vắng.
Chủ quán 1: (Khoác lác, vừa nói vừa làm cử điệu) – Quán của tôi có tên là ánh sáng, cứ bước vào sang trọng lắm đi thôi, mọi tiện nghi có đầy đủ khắp nơi. Khỏi lo sợ, khỏi ngại ngùng băng giá. Quán của tôi khắp vùng đều biết cả, mấy hôm nay khách tất cả về đây mà hễ đến là có chỗ ở ngay! (Cười hề hề) – Nhưng… cũng phải có đầy túi bạc!
Giuse: Thưa ông chủ quán… chúng tôi xin ông… (ngập ngừng).
Chủ quán 1: (Ngắt lời, chăm chú ngắm nhìn hai ông bà từ đầu đến chân rồi lắc đầu bĩu môi) – Ồ, không được, không được! Ông có biết là kinh thành ánh sáng, lữ quán đây dành cho kẻ có tiền, chứ ông bà kẻ đói khó nghèo hèn, sao cả dám mon men mà gõ cửa… Thôi! Đi đi, đi mà kiếm nơi khác!
Maria: (Tiến lên một bước nói xen vào) – Ông chủ quán, xin làm ơn giúp đỡ…
(Chủ quán không trả lời, đóng ập cửa lại. Giuse và Maria lủi thủi đi ra không ai nói với ai lời nào. Bước sang quán thứ hai gõ cửa).
Chủ quán 2: (Mở cửa bước ra xum xoe đon đả) – Xin chào ông bà! Quý hoá quá, mời ông bà vào quán trọ chúng tôi! Quán chúng tôi lừng tiếng khắp nơi nơi, đã tìm đến không thể rời chân bước!
Giuse: Bà chủ quán! Giữa mùa đông giá buốt, bà làm phúc cho trú tạm đêm nay, ơn cao dày ghi khắc mãi từ đây, xin mở rộng lòng nhân từ giúp đỡ…
Chủ quán 2: (Nói kéo dài giọng, nguýt mắt, hai tay chống nạnh) – Ôi dào, vậy mà tôi cứ ngỡ ông bà đây là những kẻ có tiền… trời ơi! Nhìn đói khổ thế này, mà dám đến làm phiền, lếu láo thật, đi! Đi liền cho khuất mắt! (Giuse và Maria cúi đầu lủi thủi bước ra, Giuse ngao ngán ngước mắt nhìn trời, giọng tư lự)
Giuse: Đêm thanh vắng, bốn bề sương giá buốt, đường gập ghềnh thêm mỏi bước chồn chân. Thương cho nàng, lòng tôi thật phân vân, ngày mãn nguyệt lại trăm phần đau khổ… (Nhìn Maria âu yếm, lo lắng) – Trong kinh thành không tìm ra chỗ trọ, nơi hoang vu nào biết ngỏ cùng ai (Ngước mắt nhìn lên trời xướng cao giọng) – Cảnh khốn cùng xin trợ giúp Chúa ơi!
Maria: Này anh ơi, ta hãy kíp đi thôi, đằng xa ấy hình như là ánh sáng (Đưa tay chỉ về phía hang đá).
Giuse: (Nhìn theo hướng Maria chỉ) – Ồ, đúng rồi! Cánh đồng xa bát ngát! Xa xa kia, từng ánh lửa lập loè, trẻ mục đồng chắc đốt lửa đêm khuya, để sưởi ấm giữa bốn bề sương tuyết.
Maria: Thôi nhanh lên! Trong mình tôi cảm biết, sắp đến rồi, giờ mãn nguyệt khai hoa. Hang bò lừa ta trú ngụ làm nhà, cho qua khỏi giờ khai hoa mãn nguyệt.
Giuse: Nào ta đi thôi. (Giuse dìu Maria từ từ vào hậu trườngtrong tiếng gió rít).
* LỜI DẪN NỐI :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta không nên để ý nhiều đến thái độ của những người đại diện cho dân Israel, cũng chỉ nên đồng cảm và trầm lắng lòng mình lại một chút thôi trước hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã của Thánh gia Nazarét trên cánh đồng Bêlem năm xưa… chúng ta hãy để tâm trí chúng ta đi ngược thời gian, đi đến tận thành Bêlem xa xôi của xứ Palestin năm xưa để cùng say sưa với vũ trụ, với muôn loài, với Israel, với toàn nhân loại và với muôn ngàn Cơ binh Thiên quốc trong niềm hân hoan sung sướng vì Ngôi Lời – Đấng Cứu độ của chúng ta đã Giáng sinh – Tin mừng trong đại của muôn dân.
(Bật điện hang đá, giật chuông, tấu nhạc, phát tiếng khóc của trẻ sơ sinh, có thể mời Cộng đoàn đứng, vỗ tay).
* Vào vũ khúc Thiên thần.
* LỜI DẪN NỐI :
Khi Chúa Giêsu Giáng sinh, trên cánh đồng Bêlem lúc ấy thanh vắng và cô tịch vì đang là mùa đông lạnh giá. Hoàn cảnh Giáng sinh của Người chúng ta đã nghe rất nhiều lần. Điều đáng chú ý là trên cánh đồng thanh vắng ấy vẫn có một nhóm mục đồng cũng đang run rẩy, co ro vì lạnh lẽo, những đứa trẻ có hoàn cảnh giống y như Chúa Giáng sinh. Thế mà chúng lại là những người đầu tiên được loan báo và được chứng kiến Tin mừng Chúa ra đời. Chúa không chỉ chọn thân phận người nghèo mà xuống thế, Người còn chọn ngay những kẻ nghèo hèn nhất để tỏ ra mầu nhiệm kỳ diệu này, Người quả thật đã đồng hình đồng dạng với họ, với nhân loại mà Người sẽ Cứu độ. Điều quan trọng là những con người nhỏ bé, những chú mục đồng ngây ngô ấy đã là những đại diện đầu tiên của nhân loại đón Đạo vào đời ra sao?
* ĐỌC LỜI CHÚA :
Bài trích Phúc âm theo Thánh Luca (Lc 2,8-15). :
“Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đàn vật mình. Bỗng có Thiên Thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng Thiên Thần Chúa bảo họ rằng: Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, tức tin mừng cho toàn dân là: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu thế đã Giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi mới sinh ra bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ. Và bỗng chốc cùng với Thiên Thần, có một số đông thuộc đạo binh Thiên quốc đang đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Khi các Thiên Thần từ giã họ mà về, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta hãy sang Bêlem và coi sự việc đã xảy ra mà Chúa đã tỏ cho chúng ta biết”. Rồi họ tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hai nhi này và tất cả những người nghe đều ngạc nhiên về các điều mà các mục tử đã thuật lại cho họ”.
Đó là lời Chúa.
* VÀO HOẠT CẢNH :
(4 mục đồng lùa chiên từ hậu trường ra, đi co ro sát nhau vì lạnh).
Mục đồng 1: Anh Ba ơi! Ngủ đàng kia lạnh quá, đốt lửa sưởi mà cũng chẳng ăn thua gì. Bây giờ chúng ta đi đâu?
Mục đồng 2: Chúng ta sẽ tới mấy hốc đá đàng kia, lùa chiên vào đó cho đỡ lạnh, rồi ta đốt lửa sưởi, không biết sao đêm nay lạnh quá, cứ thao thức hồi hộp bồn chồn. Không biết rồi có chuyện gì xảy ra không.
Mục đồng 3: Các anh có biết không, mấy hôm nay, người ta từ khắp nơi đổ về đây để khai nhận hộ khẩu. Nhiều người ghé nhà em bàn về chuyện Đấng Cứu thế. Còn ông nội em thì bảo rằng Theo Kinh thánh, Đấng Cứu thế sẽ sinh ra tại Bêlem, xứ Giuđêa.
Mục đồng 1: Như vậy là sinh ra ở miền này! Mà có sinh ra thì anh em mình cũng không làm sao biết được. Chắc là Ngài sang trọng lắm, giàu có lắm, Ngài sẽ sinh ra trong lâu đài ở kinh thành.
Mục đồng 4: Biết đâu được! Biết đâu! Ngày Đấng cứu thế sinh ra, Giavê hoá phép cho bọn ta tàng hình đi kính viếng Ngài thì sao.
Mục đồng 2: Thôi đừng nói sảng nữa, đêm đã khuya và lạnh lắm rồi, ta tới mấy tảng đá kia nằm ngủ, còn chú mày (chỉ mục đồng 1) lùa đàn chiên vào trong hang đá đàng kia.
(Mục đồng 1 đi lùa chiên vào hậu trường, đàn chiên vừa đi vừa kêu be be, húc đầu vào nhau vì lạnh. Mục đồng 1 lùa chiên vào xong trở ra, nhập bọn vừa nằm xuống lại nhổm lên).
Mục đồng 1: Anh Ba ơi! Áo khoác thì đã rách nát, còn chăn thì như thế này làm sao chịu lạnh cho nổi.
Mục đồng 2: Thân phận chúng ta là như thế, có than trách thì cũng chẳng ích gì đâu. Thôi! Ngủ đi.
(Mục đồng đang ngủ, bỗng Thiên Thần xuất hiện. Mục đồng 2 đứng dậy ngơ ngác… Thiên Thần hát: “Kìa trông huy hoàng vì sao… Mau đến Bêlem kính thờ”).
Thiên Thần: Hỡi các mục tử, đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, tức tin mừng cho toàn dân, là hôm nay, Chúa Kitô Đấng Cứu thế đã Giáng sinh cho các ngươi trong thành Đavít, và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.
(Thiên Thần biến đi, cả 4 mục đồng ngơ ngác nhìn nhau).
Mục đồng 3: Nào anh em, thế là đúng rồi. Ông nội em nói đúng thật, Đấng Cứu thế đã Giáng sinh tại Bêlem. Mau lên anh em, nhanh chân chúng ta đi tìm Chúa.
Mục đồng 1, 2, 3, 4: (Cả 4 mục đồng nói cùng lúc thật đều) – Thiên Thần đã báo tin cho chúng ta là Đấng Cứu thế đã Giáng sinh, bọc trong khăn, nằm trong máng cỏ, chắc là ở hang đá đàng kia (cùng đưa tay chỉ).
(4 mục đồng nói xong cùng hát: “Bêlem kìa sương tuyết ta ngại chi, mau lên nào, mau bước ta cùng đi, cùng đi xem rõ vua nhân trần, Người sinh trong cảnh cơ hàn. Nào anh em hãy nghe Thiên Thần, đi viếng Chúa ta giáng trần”).
(Vừa đi vừa chỉ trỏ theo từng nhịp bước. Khi đó tiếng hát vọng xa xa từ hậu trường:
“Sáng danh Thiên Chúa trên trời, bằng an cho khắp nhân loại…” “Sáng danh Thiên Chúa trên trời, bằng an cho khắp nhân loại…”).
Mục đồng 2: Đó! Anh em có nghe thấy gì không?
Mục đồng 1, 3, 4: Chúng em nghe tiếng hát, chắc là tiếng hát của các Thiên Thần.
(4 mục đồng hát: “Mau mau vào hang đá ta quì chân mau tôn thờ Thiên Chúa nơi trần gian, đàn lên đi hỡi muôn Thiên Thần, thay tiếng muôn dân kính Ngài”.Hát xong, 4 mục đồng quì xuống thờ lạy).
Mục đồng 2: (Đứng dậy cởi áo khoác ngoài dâng lên Chúa Hài Đồng và hát bài) – “Giờ tôi đã thấy, đã hiểu và đã tin, tin rằng Thiên Chúa đã nghe lời tôi xin. Đưa đường cho tôi tới chốn này. Thoả lòng chờ mong ao ước bấy lâu. Tôi quyết trung thành trọn cả cuộc đời, dù gian lao đắng cay, thề chẳng khi nào dám phai”.
Mục đồng 1: (Dâng chăn, cầm hai tay vừa hát vừa trải lên hang đá, hát bài): “Chúa ôi con biết làm gì để đáp lại lòng xót thương nhường ấy. Đời tôi xây đắp trên dặp đường dài. Một lớp chiên đàn, một lớp chăn gai”.
(Sau đó cả 4 mục đồng đứng lên trước hang đá đọc lời nguyện)
Mục đồng 1, 2, 3, 4: Lạy Chúa Hài đồng, chúng con hết lòng kính tin thờ lạy. Đêm đông như vậy, giá buốt lạnh lùng, sinh xuống gian trần, không nhà không cửa. Lấy làm chỗ ở hang đá bò lừa. Loài người thờ ơ, cố tình không biết hồng ân siêu việt. Chúa gọi chúng con, kẻ chăn lừa chiên đến đây thờ lạy. Chúng con cậy trông lòng Chúa xót thương, lời nguyện đêm trường xin dâng lên Chúa.
Mục đồng 3: Này anh em, bây giờ ta hãy kíp chạy về thành loan báo cho toàn dân biết Chúa Cứu thế đã sinh ra trong hang đá. Nhanh lên anh em.
(Cả 4 mục đồng vội vã đi ra giữa sân khấu, xếp thành hàng ngang, quay mặt về phía giáo dân rồi hát bài) – “Đêm đông”.
* LỜI DẪN NỐI :
Vinh quang của Đấng giáng thế không chỉ được loan báo và đón nhận tại đất nước Israel nhỏ bé. Ánh vinh quang của Người còn được chiếu toả đi khắp nơi. Ở tận Phương đông xa xôi, ánh sao lạ đã thu hút sự chú ý của Ba nhà chiêm tinh học mà xưa nay ta vẫn quen gọi là Ba Vua. Ánh sao này đã rọi ngay vào tim họ nơi đang thổn thức, khao khát tìm sự Công chính. Và thế là họ liền lên đường với đầy đủ lễ vật, bởi theo quan niệm của họ, ánh sao này phải là “Sao chiếu mệnh” của một bậc quân vương, của một vĩ nhân chưa từng có bao giờ. Điều này chứng tỏ lời của Thiên sứ nói với các mục đồng trong đêm Giáng sinh “tin mừng cho muôn dân”. Chúng ta hãy dõi bước theo Ba Vua đi tìm Chúa.
* ĐỌC LỜI CHÚA : (Mt 2,6-13).
Bài trích Phúc âm theo Thánh Matthêô:
“Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của ta. Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy người đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi thăm về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cùng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường và kìa, ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương lại đi trước họ mãi cho tới khi dừng lại trên chỗ Hài nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào, họ đã gặp thấy Hài nhi cùng với Maria mẹ Người, và đã quì gối xuống sụp lạy Người. Rồi mở kho tàng ra, họ dâng tiến Người lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược”.
Đó là lời Chúa.
* Vào hoạt cảnh:
(3 đạo sĩ lần lượt đi ra từ hai bên sân khấu, cỡi trên lưng lạc đà, hành lý lỉnh kỉnh).
Đạo sĩ 1: Mấy ngàn năm mong đợi, vì Cứu thế giáng sinh. Nay từ chốn thiên đình một vì sao xuất hiện, ta phải mau tìm đến, nhằm sao lạ mà đi. Kìa sao lạ đàng kia, tiến mau về kính bái.
Đạo sĩ 2: (Tay dắt lạc đà tiến vào, trên lưng lạc đà là lễ vật màu mè. Hai đạo sĩ gặp nhau) – Kính chào Ngài ạ! Có phải Ngài cất bước về vùng đất Bêlem, có phải ngài đi tìm theo một vì sao lạ?
Đạo sĩ 1: Ồ đúng rồi ngài ạ! Ngôi sao lạ phương Đông, Đấng nhân loại chờ mong đã giáng sinh thì phải. Những bước đường còn lại tôi phải quyết nhanh chân tìm cứu Chúa giáng trần để kính tôn thờ lạy.
Đạo sĩ 2: Và tôi đây cũng vậy, ánh sao lạ dẫn đường đi qua bao dặm đường về Bêlem tìm kiếm.
Đạo sĩ 1: Thật dịp may hoạ hiếm, vậy ta hãy cùng đi.
(Đang nói thì đạo sĩ 3 tiến vào, xuống khỏi lạc đà).
Đạo sĩ 3: Chào các ngài ạ! Thật vui mừng khôn tả tôi được gặp các ngài. Xin dừng bước quan hài cho hỏi thăm tí chút, có phải đường phía trước là hướng tới Bêlem, nơi sao lạ hiện lên dẫn đường tôi cất bước.
Đạo sĩ 1: Ôi có duyên kỳ thật, sao ta lại gặp nhau. Theo sao lạ dẫn đầu, bước đi tìm cứu Chúa.
Đạo sĩ 2: Bêlem kia rồi đó, vậy ta hãy cùng đi đừng có quản ngại chi dù đường đi khóc nhọc.
Đạo sĩ 3: Ánh sao kỳ diệu thật, lơ lửng giữa bầu trời ánh sao toả sáng ngời, nơi nơi về kính bái.
(Sau đó 3 đạo sĩ nhìn theo ánh sao, tay dắt lạc đà vừa đi vừa chỉ trỏ cho tới hang đá, quì xuống bái thờ. Rồi đọc lời dâng)
3 đạo sĩ: Chúng tôi là đạo sĩ từ vùng đất Đông phương, trải qua bao dặm đường tiến về đây thờ lạy trong hang lừa như vậy, Ngài đã giang sinh ra. Ôi! Tình yêu thiết tha, Ngài cứu nhân độ thế vàng ròng làm làm của lễ (đưa ra, dâng lên) – Xin thành kính dâng lên mộc dược thật dịu êm (đưa ra, dâng lên) – Cùng nhũ hương thơm ngát (đưa ra, dâng lên) – Tin yêu và phó thác dâng cả tấm lòng thành, xin Ngài ban ơn lành và luôn luôn phù trợ.
(Dứt lời dâng, 3 đạo sĩ đứng dậy. Sau khi đã tôn thờ và dâng lễ vật, lần lượt các con lạc đà đứng dậy. 3 đạo sĩ dắt lạc đà vào hậu trường, trong tiếng hát bài: “Ánh Sao Lạ”).
V. PHẦN 5 : Sống đạo hôm nay: YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ.
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Chúng ta vừa được chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Nhập thể, Ngài là Đạo đã đến giữa thế giới hôm qua, hôm nay và tồn tại mãi mãi cho đến ngày hoàn tất chương trình Cứu độ trong ngày cánh chung. Chúng ta cũng được nhìn ngắm nhiều mẫu gương đón nhận và sống Đạo giữa thế gian. Tuy nhiên cách đón nhận và cách sống của mỗi mẫu gương lại trở nên những bài học đáng để ta suy nghĩ, chọn lựa và hành động. Giáo huấn của hàng Giáo phẩm Việt Nam mà chúng ta được nghe nhắc tới ngay từ đầu đêm hoạt cảnh chính là kim chỉ nam, là người dẫn lối để chúng ta định hướng chọn lựa. Ước mong phần hoạt cảnh sau đây tiếp tục là sự hướng dẫn, hơn thế như là lời mời gọi mỗi người chúng ta cách “sống đạo hôm nay”.
* Vào hoạt cảnh: Diễn hoạt cảnh “Vị Đạo sĩ thứ tư” gặp gỡ ĐỨC KI-TÔ.
PHẦN MỞ:
Kính thưa cộng đoàn,
Mỗi năm vào dịp lễ Giáng Sinh, chắc cộng đoàn đều nghe nhắc lại câu chuyện về ba ông vua cưỡi lạc đà từ phương xa đến thăm hài nhi Giê-su tại Bê-lem. Theo thánh Mát-thêu, họ là các nhà chiêm tinh hoặc còn được gọi là ba nhà đạo sĩ ở phương Đông, bởi vì từ lâu, họ đã theo dõi điềm trời, và phát hiện ra một ngôi sao lạ chói ngời. Họ biết đó là dấu hiệu cho biết có một vị vua người Do thái mới sinh ra, Người sẽ là Đấng Cứu Tinh của toàn nhân loại.
Người ta nói có 3 nhà đạo sĩ, có lẽ là vì người ta muốn chọn tượng trưng cho 3 màu da chính trên thế giới: da vàng, da trắng và da đen. Thật ra, chính xác mà nói, trong Kinh Thánh, tác giả Mát-thêu chỉ ghi: “có mấy nhà đạo sĩ” chứ không hề xác định con số là 3 vị. Riêng hôm nay, chúng tôi muốn kể cho cộng đoàn nghe một câu chuyện có tới 4 vị đạo sĩ đã tới thăm Chúa Giê-su.
Chắc cộng đoàn đang thầm bảo rằng chúng tôi lại bịa chuyện cho vui. Không, thưa cộng đoàn, câu chuyện chúng tôi sắp kể, rất có thể là câu chuyện có thật ngay trong đời sống của chúng ta, hôm nay, vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 này. Câu chuyện đầu đuôi như thế này. ( Tiếng nói xôn xao, các đạo sĩ xuất hiện cả 4 vị... )
* MÀN 1: TẠI NHÀ VỊ ĐẠO SĨ THỨ TƯ
Đạo sĩ 1: Này, anh đã biết gì chưa ?
Đạo sĩ 4: Chuyện gì vậy ?
Đạo sĩ 1: À, hóa ra anh chẳng có biết tý ty gì cả ! Cũng phải thôi, lúc nào anh cũng bận bịu công việc, nào là giới trẻ, nào là công tác xã hội, nào là tập hát ca đoàn… ôi thôi, đủ thứ chuyện ! Thế là anh quên bẵng mất rằng anh đã thỏa thuận với ba anh em chúng tôi một việc…
Đạo sĩ 4: Nhưng... chuyện gì mới được chứ ? Nói mau cho rồi, người ta đang bận bù đầu đủ thứ chuyện đây này !
Đạo sĩ 2: Nghe cho rõ đây ( Nhấn mạnh từng chữ ) Một tin vui trọng đại !
Đạo sĩ 4: ( Vẻ kinh ngạc... ) Một tin vui ?
Đạo sĩ 2: Đúng, một tin vui trọng đại ! Vậy chứ anh có nhớ bọn chúng mình từ lâu vẫn nghiên cứu thiên văn, đã dõi tìm các vì sao lạ để phân tích, tiên đoán vận mệnh thế giới. Mặc cho người đời chế giễu, xếp bọn mình vào loại khùng khùng hâm hẩm, ta vẫn cứ khao khát một dấu chỉ, một điềm lạ trên trời khai mở một kỷ nguyên mới, cho thế giới này vơi bớt đi những tuyệt vọng và bất hạnh… Thì đây này, chiều nay, trời mới vừa xập tối, chúng tôi đã phát hiện ra ở phương Đông một vì sao lạ tuyệt đẹp và chói lọi kỳ diệu. Tôi xem bản đồ thì chúng ta hẳn sẽ gặp được Đấng Cứu Tinh ở khu vực các nước Trung Đông như Pa-lét-tin chẳng hạn. Ba anh em chúng tôi quyết định đến rủ anh, phải lên đường ngay, không thể bỏ qua cơ hội ngàn vàng này để tìm đến chiêm ngắm và thờ lạy Đấng Cứu Tinh của nhân loại. Anh còn chần chừ gì nữa mà không lên đường với chúng tôi ?
Đạo sĩ 4: Trời ơi ! Một vì sao lạ mới xuất hiện ư ? Đúng là Đấng Cứu Tinh đã ra đời rồi ! Phải đi tìm gặp Người cho bằng được chứ. Tôi vào sửa soạn ngay đây. ( Chạy vội vào trong, nhưng rồi lại quay ra ngay, dáng vẻ như chần chư đắn đo, nói với ba vị kia ) Ái chà ! Thật là rách việc ! Lát nữa tôi còn phải dạy một lớp Giáo Lý ở Giáo điểm Khiết tâm, Chúa Nhật này bọn trẻ chịu phép Thêm Sức rồi.
Đạo sĩ 3: Vậy chứ anh không thể lên đường ngay với chúng tôi được sao ?
Đạo sĩ 4: Thôi, các anh cứ việc đi trước đi. Dạy Giáo Lý xong chiều nay là tôi đi ngay, hy vọng sẽ theo kịp các anh dọc đường.
Đạo sĩ 3: ( Nói với nhau ) Đây, các anh thấy chưa, tôi đã bảo các anh mà, đâu có sai ! Cái anh chàng này lúc nào cũng công kia việc nọ. Bận bịu như thế rồi làm sao mà có thời giờ đi tìm gặp Đấng Cứu Tinh ? Thôi chúng ta đi trước vậy ! ( Nói với Đạo sĩ thứ tư ) Này, anh đi sau thì nhớ mau mau lên đấy nhé. Chúng tôi sẽ cố đi chậm chậm một chút để đợi anh theo. À, tý nữa thì quên ! Anh có định mang quà gì dâng cho Đấng Cứu Tinh không ? Ba anh em chúng tôi có mang theo Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược rồi, còn anh tính sao ? Gấp quá coi chừng đi tay không, kỳ lắm đấy nhé !
Đạo sĩ 4: Được rồi, được rồi, tôi sẽ nhớ mà, yên tâm đi trước đi, tôi xin hứa danh dự với các anh: dạy Giáo Lý xong là tôi đi ngay ! ( Ba đạo sĩ ra đi, đạo sĩ thứ tư quay qua làm như phân bua biện giải với khán giả… ) Cộng đoàn thấy đó, Đấng Cứu Tinh đã giáng trần, chính tôi cũng đã từng ngày đêm trông ngóng tin vui trọng đại này. Vậy mà... giờ đây tôi không thể tức tốc ra đi theo các bạn tôi. Dứt khoát là tôi không thể lỗi hẹn với các học sinh Giáo Lý của tôi ở họ đạo. Bọn trẻ cũng đang rất cần tôi, mình là Giáo Lý viên mà. Kẹt quá nhỉ ! Nhưng mà... tôi tin rằng Chúa Cứu Thế sẽ không chấp nhất gì tôi về chuyện này. Người sẽ chờ đợi tôi. Thôi, tới giờ rồi, phải tới điểm dạy Giáo Lý không thôi trễ ! Rồi, bữa nay, tôi cũng sẽ báo cho bọn trẻ tin vui này: Đấng Cứu Tinh của toàn nhân loại đã ra đời.
( Đèn tắt, nhạc trổi lên rồi từ từ nhỏ lại... Tại lớp Giáo Lý, Đạo sĩ thứ 4 đọc Kinh Thánh một đoạn trong Sách Ngôn sứ I-sai-a cho các em nghe... Có thể cho một giọng đọc trong hậu trường thay cho vị đạo sĩ, chậm rãi dõng dạc... )
“Dân đang lần bước giữa tối tăm,
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
Đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” ( Is 9, 1 )
Này đây, người trinh nữ sẽ mang thai,
sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en,
nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta....” ( Is 7, 14 )
( Nhạc lại trổi lên rồi nhỏ dần… Đạo sĩ thứ tư trở ra, làm như vừa từ nơi dạy Giáo Lý trở về nhà... )
Đạo sĩ 4: Bây giờ thì mình đã có thể lên đường được rồi đó. Để xem mình phải mang theo những gì làm hành trang nào ? Đường xa, lại chắc chắn sẽ rất là khó đi, cần phải có một cây gậy chống này ! Một ít lương khô nữa, thôi, có ổ bánh mì này cũng được ! Thêm một cây nến cầm tay. Còn của lễ nữa chứ, đúng rồi, mẹ mình có cho mình một bình dấu thơm loại quý, mình cất nó từ lâu rồi, bây giờ sẽ dùng để kính dâng Đấng Cứu Tinh, coi như là của ít lòng nhiều. Đi thôi, quá trễ rồi ( Bước tới, ngước nhìn lên cao, làm như dõi tìm ngôi sao lạ. Nhạc nhẹ nền trổi lên một lúc... ) Ta cứ nhìn thẳng ngôi sao ở hướng đông mà đi, ba ông bạn chí cốt của mình chắc là đã đi xa lắm rồi. Chà, đường hôm nay khuya sao mà vắng vẻ quá nhỉ ? ( Mới dợm bước định đi thì chợt dừng lại lắng nghe, vẻ quan tâm thắc mắc... ) Ơ kìa, hình như có ai đang đi tới phía trước mình kìa ! ( Một người mù đang đưa hai tay về phía trước, quờ quạng bước đi về phía đạo sĩ... )
* MÀN 2: GẶP NGƯỜI MÙ
Đạo sĩ 4: Này, anh ơi, anh đi đâu một mình giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này ?
Người mù: Tôi... tôi cũng không biết tôi đi đâu bây giờ nữa…
Đạo sĩ 4: Hình như... anh không nhìn thấy đường thì phải ?
Người mù: Dạ, tôi bị mù từ hồi mới sinh. Rồi bố mẹ tôi lần lượt qua đời, bỏ tôi lại một mình, tứ cố vô thân, nghèo xơ nghèo xác !
Đạo sĩ 4: Rồi anh có làm nghề gì độ nhật không ?
Người mù: Tôi bán vé số ngoài bến xe thị xã.
Đạo sĩ 4: Vậy chứ anh có đủ sống không ?
Người mù: Kể ra thì cũng tạm nuôi thân. Nhưng hồi chiều này, đang lúc tôi cầm xấp vé số trên tay thì một thằng du côn nào đó đã giựt mấp của tôi, lại còn đá văng mất cây gậy của tôi nữa chứ… Tới giờ, đói quá, tôi không biết tìm cái gì mà ăn đây… Trời ơi là trời !
Đạo sĩ 4: Anh này, nói thật với anh, tôi cũng chỉ là khách đi đường thôi, tôi cũng nghèo, nhưng mà tôi cũng muốn giúp anh chút đỉnh. Đây, anh cầm đỡ ít tiền làm vốn và kiếm cái gì ăn lót dạ. Mà nữa, tôi tặng anh luôn cây gậy của tôi nữa này. Kể ra thì tôi cũng cần đấy, nhưng xem ra anh còn cần nó hơn tôi nhiều.
Người mù: Ông thì ít cần tới cây gậy, là vì ông còn có ánh sáng. Đối với ông thì có ngày có đêm, còn với tôi thì...
Đạo sĩ 4: Phần tôi, tôi chỉ có thể cho anh được cây gậy này để dò đường mà đi, chứ làm sao tôi có thể cho anh ánh sáng ? Nhưng tôi biết có một Đấng sẽ trả lại cho anh ánh sáng đã mất, mà hơn vậy nữa, Người còn có thể chỉ cho anh một con đường nào đó để anh tìm được một chỗ nương thân trong bình an hạnh phúc.
Người mù: Ai ? Đấng đó là ai vậy ? Xin hãy cho tôi gặp Người được không ?
Đạo sĩ 4: Đấng ấy mới vừa sinh xuống cõi đời khốn cùng này của chúng ta. Người là Đấng Cứu Tinh của anh, của tôi và của mọi người chẳng trừ ai. Tôi tin điều đó, và anh, anh cũng hãy tin và đi tìm cho được gặp Người một lần thôi cũng đủ để đổi đời. Bệnh tật phần xác của anh sẽ hết và anh sẽ tìm được nơi nương thân tới trọn đời. Trên trời bây giờ hiện đang có một ngôi sao lạ, sáng rực rỡ một cách kỳ diệu, dọc đường, anh cứ nhờ người ta chỉ hướng cho, rồi cứ theo đó mà đi tìm gặp Người.
Người mù: Thật vậy sao ? Được rồi, tôi sẽ cố gắng chống cây gậy mà ông đã cho để đi tìm gặp Đấng Cứu Tinh. Cám ơn ông, ông đã đối xử quá tốt đối với tôi. Tôi hy vọng rất nhiều nơi Đấng mà ông vừa nói, vì thật tình, tôi cũng chẳng còn biết hy vọng vào ai nữa bây giờ... ( Người mù chống gậy ra đi. Nhạc trổi lên dần... Vị đạo sĩ tự thoại... )
Đạo sĩ 4: Một người mù đáng thương ! Mình đã chỉ cho anh ta một con đường mà chính mình cũng đang còn phải đi tìm. Quả thật, chỉ có Lòng Tin mới giúp được anh ta và cả mình nữa, để cố mà đi cho tới cùng. Lạy Thiên Chúa, xin Ngài hãy dẫn bước con đi. Kìa ánh sao vẫn ngời chiếu phía trời đông, mình phải tiếp tục đi thôi ( Bước đi một đoạn chầm chậm, nhạc trổi lên một lúc... Vị đạo sĩ bất chợt dừng lại, nhạc nền tắt ngang, Đạo sĩ thấy một người hành khất quỳ bên vệ đường, chìa tay cầu khẩn ).
* MÀN 3 : GẶP CHỊ HÀNH KHẤT
Hàng khất: Lạy ngài, xin đoái thương tôi !
Đạo sĩ 4: Tôi có thể giúp được gì cho chị ? Mà chị đừng có gọi tôi bằng ngài một cách trang trọng như vậy.
Hành khất:Không, thưa ngài, nếu tôi không lầm, ngài là một tu sĩ, ngài giàu lòng từ bi nhân hậu, xin hãy cho tôi chút gì để ăn. Tôi đói, tôi khát, tôi lạnh, tôi khổ quá, tôi chán sống lắm rồi...
Đạo sĩ 4: Chị ơi, tôi cảm thông thật sự với chị trong cái đói khát giá lạnh, trong cái khổ đau bế tắc của chị, bởi tôi cũng chẳng giàu có gì hơn chị. Nhưng mà thôi, để xem tôi có chút gì chia sẻ với chị không. Đây rồi, tôi có mang theo một ổ bánh mì nhỏ để ăn dọc đường, chị cầm lấy ăn đỡ nhé ! ( Người hành khất giựt mạnh lấy ổ bánh, ăn ngấu nghiến... rồi như chợt nhớ ra, chị bẻ một nửa cất vào cái túi rách đeo trên vai. Đạo sĩ thắc mắc... ) Ơ kìa, sao chị không ăn hết ổ bánh đi mà còn cất làm gì ? Chị đang đói lắm cơ mà ?!?
Hành khất:Hôm nay tôi may mắn gặp được ngài cho tôi ổ bánh, nhưng biết rồi ngày mai tôi có còn gặp được ai cho tôi như vậy nữa không, tôi phải để dành vì sợ sẽ còn nhiều lúc đói nữa chứ...
Đạo sĩ 4: Này, tôi nói chị nghe nhé, tôi biết có một Đấng có thể ban cho chị một điều còn quý giá hơn gấp bội lần cái ăn cái uống đời này nữa.
Hành khất:Đấng đó là ai vậy ? Tôi biết tìm Người ở đâu để gõ cửa để xin Người ban cho điều đó ? Mà điều đó là gì vậy, thưa ngài ?
Đạo sĩ 4: Người mà tôi vừa nói với chị là một em bé mới chào đời, nhưng rồi một mai kia, Người sẽ làm vua dân Do Thái, làm vua của muôn dân, trong đó có tôi và có chị. Người sẽ ban cho chị thứ Bánh Hằng Sống để chị sẽ không bao giờ còn phải lo đói nữa ! Kìa chị nhìn xem, đó là ánh sao sẽ dẫn chị đến gặp Đấng ấy, chắc chắn Người sẽ thết đãi chị cũng như mọi kẻ cùng khổ trên thế gian này một bữa đại tiệc. Nào, chị đã bớt đói chưa ? Hãy nghe tôi mà lên đường tìm gặp Người đi. ( Chị hành khất vội chỗi dậy ra đi... )
Đạo sĩ 4: Lạy Đấng Cứu Tinh con hằng trông đợi, giờ đây con chẳng còn gì để ăn nữa, con cũng sẽ rơi vào cảnh đói khát cùng quẫn dọc đường. Nhưng, như con đã nói với chị hành khất, con tin Ngài cũng đang chờ gặp con để ban cho con Bánh- Hằng-Sống. Thôi mình tiếp tục đi thôi, trễ lắm rồi ! ( Đạo sĩ dõi nhìn ra xa, nhạc trổi lên nhè nhẹ một lúc rồi nhỏ dần. Vị đạo sĩ lại chợt thấy có ai bên đầu cây cầu nên tiến tới hỏi thăm... Đó là một người cùi đang ngồi gục đầu tuyệt vọng... )
* MÀN 4: GẶP NGƯỜI PHONG CÙI
Đạo sĩ 4: Này anh ơi, tại sao giờ này mà anh lại còn ngồi đây một mình thế này ? ( Im lặng... Đạo sĩ tỏ vẻ thắc mắc, tới gần đưa tay lay nhẹ vai người lạ ) Này, anh có nghe tôi hỏi gì không ? Sao anh lại ngồi đây ?
Người cùi: Ông là ai mà hỏi tôi ? Tôi sống, tôi chết, mặc xác tôi, liên quan gì đến ông mà ông hỏi ! Tôi đợi nước thủy triều lên rồi nhảy xuống cầu tự tử có được không ?
Đạo sĩ 4: Tại sao anh lại chán đời và có ý muốn kết thúc đời mình một cách oan uổng như thế nhỉ ?
Người cùi: Oan uổng cái nỗi gì ! Còn sống nữa làm gì nữa khi thân xác tôi cùi hủi như thế này ? Ai cũng ruồng bỏ tôi, kể cả vợ con tôi. Cái xã hội lạnh lùng này không còn chấp nhận tôi nữa, họ cho rằng trời đất đã nguyền rủa tôi, đã trừng phạt tôi. Họ đối xử với tôi còn hơn là với một con chó ghẻ !
Đạo sĩ 4: Rồi anh tính dùng cái chết để chấm dứt mọi thứ đau khổ trên đời này phải không ? Nhưng theo tôi, anh còn có nhiều lý do để sống hơn là chết kiểu đó, anh có biết không ? ( Đạo sĩ lại gần lay mạnh vai người cùi ) Anh phải sống !
Người cùi: ( Cười khảy... ) Anh phải sống ! Bộ ông định đánh lừa tôi đấy hả ? Hừ ! Cái cuộc đời này là một bóng đêm tăm tối, chẳng còn chút hy vọng gì dành cho một kẻ khốn nạn như tôi...
Đạo sĩ 4: Đây ! Nếu anh cần ánh sáng, thì tôi trao cho anh ngọn đèn để đi đường của tôi. Anh thấy đó, chỉ với một chút ánh sáng nhỏ nhoi được thắp lên như thế này thôi, anh đã thấy bớt lẻ loi và u ám rồi. Anh thử nghe tôi một lần xem nào.
Người cùi: Hừ ! Một ngọn nến leo lét như thế này đâu đã là niềm hy vọng đủ cho tôi tìm lại được cuộc sống khỏe mạnh và lành lặn như ngày xưa ?
Đạo sĩ 4: Đúng, tôi không thể làm gì cho anh hơn, nhưng tôi lại có thể chỉ cho anh tìm gặp một Đấng Toàn Năng, không những Người có thể chữa lành được bệnh tật thể xác của anh mà còn tha thứ hết mọi lỗi lầm của anh bấy lâu nay, kể cả cái ý tưởng định giết đi chính mạng sống quý giá của anh. Kìa, anh hãy nhìn lên bầu trời, có một ngôi sao sáng đàng kia, đó là ngôi sao báo hiệu Đấng đó đã đến trong cuộc đời này rồi đó. Anh hãy cố gắng nghe tôi, cầm lấy ngọn nến sáng này mà lên đường tìm gặp Người, một Hài Nhi mới giáng sinh, Người sẽ giải thoát cho anh, cho chúng ta khỏi nỗi ám ảnh của sự chết. ( Người cùi ngước nhìn đăm đăm về phía ánh sao như thể bị thu hút, tay cầm nến lần bước đi... ) Lạy Đấng Cứu Tinh là niềm hy vọng của mọi người trên trần gian này, lại thêm một con người đáng thương đã nghe lời con mà hướng về Ngài. Con mong sẽ gặp được Người cùng với những con người tưởng như đã tuyệt vọng này, để cuối cùng, con và họ cũng sẽ nhận được ơn giải thoát nơi Người. ( Nhạc trổi lên nhè nhẹ... Vị đạo sĩ đứng lên, tiếp tục đi mấy bước thì gặp ngay một cô gái quần áo không đứng đắn và phấn son lòe loẹt đang tiến tới sát bên mình, mở lời với giọng thật lả lơi mời chào... )
* MÀN 5 : GẶP CÔ GÁI ĐIẾM
Cô gái: ( Giọng lả lơi mời chào ) Anh Hai ơi, anh đi đâu giữa đêm hôm khuya khoắt thế này ?
Đạo sĩ 4: ( Đạo sĩ lui lại một bước, hơi ngượng nhưng bình tĩnh ) À, tôi đã lỡ khởi hành khá trễ và tôi còn cả một lộ trình rất dài phải đi.
Cô gái: Thế... em đi chung với anh Hai một đoạn đường có được không nào ?
Đạo sĩ 4: Vâng, có thêm một người làm bạn đồng hành, chắc cũng vui hơn. Xin mời cô cứ tự nhiên.
Cô gái: Mà... lát nữa, chừng nào tới quán trọ dọc đường, anh Hai cũng dừng lại qua đêm với em nhé ?
Đạo sĩ 4: ( Đạo sĩ chợt hiểu ý cô gái điếm, hơi ấp úng để minh oan ) Ơ... ơ... tôi không hề có ý định như thế, cô... cô hiểu lầm tôi rồi !
Cô gái: ( Cô gái điếm lùi xa ra một bước, nhìn nhà đạo sĩ từ đầu tới chân rồi cười rũ rượi, vẻ mỉa mai khinh bỉ ) Kính thưa quý ông đáng kính, tôi xin lỗi nhé, tôi đã lầm... Một tu sĩ đạo mạo như ông vậy mà tôi lại dám quyến rũ sao chứ ? Thôi, tôi xin ông cút xéo đi chỗ khác cho chị em chúng tôi làm ăn kiếm sống ! Tôi nói thật với ông, tôi khinh bỉ tất cả cái bọn đạo đức giả như ông...
Đạo sĩ 4: Còn tôi, ngược lại, tôi không hề có ý khinh bỉ cô một chút nào cả, cô vẫn là một con người có phẩm giá !
Cô gái: Phẩm giá ? ( Cười sặc sụa... ) Phải, trước đây khi tôi còn có chút nhan sắc thì tôi cũng còn hấp dẫn lôi cuốn được quý ông đáng kính như ông, còn bây giờ thì tôi chỉ còn là một thứ đồ chơi rẻ tiền không hơn không kém. Phẩm giá ? Hừ ! Phẩm giá cái chỗ quỷ quái nào bây giờ ? Tôi thật là không còn tin nổi miệng lưỡi bọn đàn ông các ông một chút nào nữa !
Đạo sĩ 4: Vâng, phần nào đúng là như vậy. Nhưng... dù cho chị không còn tin vào bất cứ người đàn ông nào trên thế gian, kể cả tôi đi nữa, thì... vẫn còn đó một em bé trai vô tội trong trắng. Em bé ấy rồi sẽ là một người đàn ông như mọi người đàn ông, nhưng người đàn ông này sẽ trổi vượt trên tất cả, vì Người sẽ là một Vị Vua Nhân Ái, Người sẽ đón nhận chị như đón nhận một con người xứng đáng với phẩm giá cao quý, Người sẽ mang lại cho chị một cuộc sống mới, Người sẽ tha thứ hết mọi lỗi lầm sa ngã đã qua của chị.
Cô gái: ( Bỡ ngỡ lạ lùng, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi... ) Thật vậy sao ? Nhưng tôi biết tìm cậu ấy, cái người đàn ông tuyệt vời ở đâu bây giờ ?
Đạo sĩ 4: Chị hãy cứ theo dấu ánh sao kỳ diệu trên trời đàng kia, rồi chị sẽ tìm gặp được một hài nhi mới sinh. Tôi tin chị sẽ được tất cả những gì chị mong ước.
Cô gái: Nhưng chẳng lẽ tôi lại mangcái tấm thân đã ô uế như thế này làm của lễ để triều bái một Đấng Thánh như Người ?
Đạo sĩ 4: Chỉ cần chị thật lòng sám hối và tin vào Người. Đây, tôi tặng chị chiếc bình đựng đầy dầu thơm rất quý này, để chị kính dâng Người. Thôi, chị hãy lên đường đi kẻo trễ. Chúc chị gặp được Người. ( Cô gái điếm cầm lấy chiếc bình, đi về hướng có ánh sao... Đạo sĩ nói một mình ) Ừ, đã trễ lắm rồi, chắc ba anh bạn của mình đã đến nơi rồi không chừng, còn mình thì lại cứ mãi bận bịu, dừng lại giúp đỡ người này người kia. Biết sao hơn ? Mình đâu có thể làm khác được, đâu có thể nhắm mắt làm ngơ trước những thảm kịch cuộc đời như thế. ( Nhìn lên trời tìm ánh sao, giựt mình... ) Ơ kìa, ánh sao đã biến mất từ lâu rồi sao ? Thôi ta cứ việc theo hướng đông mà tiến, hy vọng sẽ có người chỉ giúp chỗ Chúa sinh ra cho mình ( Nhạc trổi lên. Vị đạo sĩ bước đi tiếp... Một người đi ngang qua, tay cầm cuốn sổ lớn, Đạo sĩ chặn lại hỏi thăm... )
* MÀN 6: GẶP NHÂN VIÊN HỘ TỊCH
Đạo sĩ 4: Ông ơi, làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút.
Nhân viên:Ông cần gì ? Hình như ông là người ở xa mới tới thì phải ?
Đạo sĩ 4: Dạ, xin ông chỉ giúp tôi đường đến nhà một em bé mới sinh ra trong vùng này.
Nhân viên: Chà ! Ông hỏi nhằm đúng người đúng chỗ rồi đó ! Chẳng giấu gì ông, tôi là cán bộ thống kê dân số. Tất cả những kẻ chết đi hoặc mới được sinh ra đều được tôi ghi chép đầy đủ và chính xác trong cuốn sổ này. Chẳng hay đứa bé mà ông hỏi, tên là gì ? con cái nhà ai ? sinh quán tỉnh huyện thôn làng xã ấp nào ?
Đạo sĩ 4: Rất tiếc là tôi lại chẳng biết rõ lý lịch em bé thế nào. Tôi chỉ biết là em bé mới sinh ra, lớn lên sẽ trở thành Vua dân Do Thái và còn là Đấng Cứu Thế nữa.
Nhân viên:Cái ông này nói chuyện tếu sao chứ... Em bé đó sẽ trở thành Vua dân Do Thái hả ? Nếu vậy, chắc phải là con trai vua Hê-rô-đê Ăng-ti-pa hiện nay của nước Pa-lét-tin rồi đó ? Vô lý, mà không thể nào có chuyện đó được, nếu có thì tôi phải biết chứ ! Ông lầm rồi !
Đạo sĩ 4: Không, tôi xin cam đoan, đó là Vua dân Do Thái mà ! Hơn nữa, đó còn phải là Vua của toàn nhân loại ! Ông coi kỹ lại sổ sách giúp tôi với.
Nhân viên:Ừ, thì coi lại sổ cho chắc ăn… Thật, chả có em bé nào như ông vừa nói mà lại sinh ra ở đây, trong những ngày này. Ái chà, hay là ông muốn nói tới một tên tội phạm mới bị kết án tử hình, ban nãy, nó phải vác thập giá ngang qua đây, đi về hướng ngọn đồi gọi là đồi Gôn-ga-ta ở đằng kia kìa ! Tôi áng chừng chính là cái tên đó đó, bởi tôi thấy người ta có đồn rằng: hắn ta dám tự xưng mình tên là “Giê-su, Vua dân Do Thái”.
Đạo sĩ 4: Thôi đúng rồi ! Cám ơn ông, chắc đúng là người đó rồi ! ( Vội quay đi, rảo bước, miệng lẩm bẩm có vẻ còn bán tín bán nghi ) Giê-su, Vua dân Do Thái... Giê-su đó sao ? Một hài nhi mới sinh ra cơ mà ? Sao lại là một người đàn ông, lại còn là một người bị quân lính bắt đưa đi đóng đinh như một tử tội nữa chứ ? Giê-su, Vua dân Do Thái, có thật đúng là Ngài đó chăng ?
Nhân viên:( Ông cán bộ về dân số lắc đầu ngao ngán... ) Trời đất ơi ! Đúng là một tên khùng ! Sao dạo này có lắm tên khùng khùng quá vậy nhỉ ? Một tên thợ mộc dám tự nhận mình là Vua dân Do Thái, rồi bây giờ lại còn thêm một anh coi bộ cũng trí thức, lại khăng khăng bảo tên thợ mộc đó là Đấng Cứu Thế nữa cơ chứ ? Thật, hết chỗ nói ! Đúng là thời buổi đảo điên có khác ! ( Anh ta nhún vai bĩu môi bỏ đi. Vị đạo sĩ tiến tới phía có bóng của Đức Giê-su dang tay trên thập giá in trên tấm màn căng ).
* MÀN CUỐI : GẶP ĐỨC GIÊ-SU
Đạo sĩ 4: Thưa Ngài, có thật Ngài chính là ông Giê-su, Vua dân Do Thái không ? ( Đạo sĩ tiến lại gần tấm màn có hình rọi, nhìn kỹ... ) Nhưng không thể nào được, vì ông là một người trung niên, còn tôi thì lại đang cần tìm một em bé sơ sinh, Người đó mới thực sự là Vua dân Do Thái. Chính ngôi sao lạ trời Đông đã dẫn tôi đến nơi đây cơ mà...
Đức Giê-su: Này người bạn đáng yêu, anh quên rằng đã hơn 30 năm trôi qua rồi sao ?
Đạo sĩ 4: Trời ơi ! ( đạo sĩ quay lại phía khán giả, tỏ vẻ bàng hoàng ngẩn ngơ... ) Đã hơn 30 năm tôi đi tìm Người rồi sao ? Vậy mà tôi cứ ngỡ chỉ mới hôm qua ! Vậy Hài nhi năm xưa, giờ đây chính là Ngài ư ? ( Đạo sĩ quay lại phía hình bóng Chúa, quỳ xụp xuống cầu nguyện ) Lạy Ngài, con đã đến quá trễ, xin tha thứ cho con !
Đức Giê-su:Anh không có lỗi gì cả ! Hôm nay anh đã được gặp chính tôi, nhưng tôi thì đã từng... gặp anh rất nhiều lần rồi !
Đạo sĩ 4: Thưa Ngài, thật vậy sao ? Ngài mà lại từng gặp con ở đâu đó rồi sao ?
Đức Giê-su:Tôi đói, anh đã cho tôi ăn. Tôi khát, anh đã cho tôi uống. Tôi là khách lạ, anh đã tiếp rước tôi vào nhà. Tôi mình trần, anh đã cho tôi áo mặc. Tôi ngồi tù, anh đã thăm nuôi tôi...
Đạo sĩ 4: Nhưng thưa Ngài, thiệt ra thì con cũng có đôi lần làm những việc nho nhỏ đó cho người này người nọ mà con gặp trong họ đạo hoặc con tình cờ gặp dọc đường, thế nhưng... thực sự con đã bao giờ gặp Ngài và làm cho Ngài như thế đâu ?
Đức Giê-su:Mỗi lần anh làm như thế cho một trong những người anh em đồng loại là anh đã làm cho chính tôi đó !
Anh đã chỉ đường cho một người mù đến gặp tôi, người ấy đã được tôi chữa cho sáng mắt. Và để tỏ lòng biết ơn, người ấy đã tặng tôi cây gậy làm kỷ niệm, trên đó tôi thấy có khắc tên anh...
Rồi một người hành khất tìm đến với tôi, trao cho tôi một mẩu bánh mì mà anh đã chia sẻ cho chị ấy, chính mẩu bánh nhỏ bé này tôi đã dùng trong bữa Tiệc Ly để hóa nên chính Thịt Máu của tôi đem Sự Sống vĩnh cửu cho muôn người...
Rồi một người phong cùi đã đến với tôi với ngọn nến sáng trong tay, và khi anh ta lành mạnh rồi, cũng chỉ có một mình anh là quay trở lại tạ ơn tôi, còn chín người bạn đồng cảnh ngộ với anh ta thì không. Anh ta đã thuật lại đầu đuôi cuộc gặp gỡ với anh trước đó...
Lại còn một chị phụ nữ đã mạnh dạn chạy vào giữa bàn tiệc của một người Pha-ri-sêu đang thết đãi tôi để quỳ xuống, khóc lóc chân thành, lại còn đổ một bình dầu thơm rồi lấy tóc mà lau chân tôi...
Tất cả những con người đáng thương ấy đều đã gặp anh và được anh giúp đỡ, được anh chỉ dẫn cho biết đường mà tìm đến gặp tôi để được đổi đời...
Đạo sĩ 4: Nhưng lạy Ngài, Ngài tốt lành và đầy quyền năng như thế, cớ sao Ngài lại bị đóng đinh như một phạm nhân nhục nhã như thế này ?
Đức Giê-su:Tôi đã đến nhà của mình, nhưng người nhà lại chẳng muốn đón nhận tôi.
Đạo sĩ 4: Vậy là người ta đã nỡ vu cáo và giết chết Ngài chỉ vì Ngài đã quá đỗi yêu thương họ, vì Ngài đã muốn đem lại cho họ Sự Sống vĩnh cửu ư ? Vậy, bây giờ con còn có thể làm được gì cho Ngài đây ?
Đức Giê-su:Anh hãy quay về sống cuộc đời bình thường của mình. Tôi chỉ nhờ anh một việc, anh hãy thuật lại Tin Mừng trọng đại này cho mọi người anh gặp: đó là Đấng Cứu Thế đã giáng sinh, đã sống đời con người như mọi người, đã yêu thương hết mọi người chẳng trừ ai, Người đã chết để làm chứng về Tình Yêu, về mối tình bất diệt muôn thuở ấy, và rồi chắc chắn Người đã Phục Sinh. Nước Của Người sẽ rộng mở và các dân tộc trên toàn thế giới này sẽ biết Người và theo Người... ( Nhạc trổi lên vui tươi, hùng mạnh, vị Đạo sĩ cúi lạy Đức Giê-su rồi bước tới trước khán giả, nói dõng dạc... )
PHẦN KẾT:
Kính thưa cộng đoàn,
Vâng, chính tôi và những người anh em tật nguyền, bất hạnh và tội lỗi, chúng tôi đã được gặp gỡ Đức Giê-su như thế đó. Chúng tôi tin chắc rằng: chính quý ông bà, chính các bạn trẻ cũng đã hơn một lần gặp gỡ Đức Giê-su Cứu Chúa ngay trong cuộc sống, bởi vì, chính cộng đoàn cũng đã đến quây quần nơi đây, trong ngôi nhà thờ thân yêu này ngày hôm nay, như là một dấu chỉ sống động của Tình Yêu Hiệp Nhất.
Vậy, xin cộng đoàn hãy cùng ngẩng cao đầu để đón lấy Ánh Sáng của Chúa Ki-tô Giê-su, Anh sáng ngôi sao lạ ngày Chúa giáng trần, Ánh Sáng vinh hiển ngày Chúa phục sinh và cũng sẽ là Ánh Sáng cánh chung, ngày Chúa sẽ trở lại đưa chúng ta vào Nước của Người...
( Đèn cung thánh bật sáng, người đóng vai đạo sĩ tiến ra thắp sáng ngọn nến Phục sinh trên giá, mời cộng đoàn đứng lên hát chung bài Gặp Gỡ Đức Ki-tô).
VI.LỜI KẾT :
Kính thưa cộng đoàn!
Phần hoạt cảnh mà chúng ta vừa theo dõi trong đêm canh thức mừng Chúa Giáng sinh năm nay, đã chỉ cho chúng ta một cách sống đạo giữa đời theo hướng dẫn của Giáo hội là Mẹ yêu dấu của chúng ta. Ước gì mỗi người chúng ta biết luôn lắng nghe Lời Chúa, lắng nghe Giáo huấn của Giáo hội để chọn cho mình một cách Sống đạo đúng đắn nhất. Giờ đây, chúng ta hãy hiệp cùng các em thiếu nhi lời reo mừng, lòng hân hoan mừng Chúa Giáng sinh cho chúng ta.