Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Ngài vừa có bài viết nhan đề “The 7 Last Words of Christ and the Nicene Creed: ‘Father, Forgive Them, for They Know Not What They Do’”, nghĩa là “7 Lời Cuối Cùng của Chúa Kitô và Kinh Tin Kính Nicê: 'Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm' đăng trên tờ National Catholic Register ngày 13 tháng Tư, 2025.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

“Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người. Khi đến nơi gọi là ‘Đồi Sọ’, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: ‘Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.’” (Lc 23:32-34)

Lúc đó là buổi trưa nhưng bóng tối bao trùm khắp miền Giêrusalem, vì Con Người đã bị treo trên Thập giá (Mc 15:33).

Ở những nơi khác, như thường lệ, mặt trời chắc chắn đã chiếu sáng vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên ấy. Khi đó, cũng như bây giờ, ngày này không có vẻ gì khác biệt so với những ngày khác. Khi đó, cũng như bây giờ, mọi người vẫn tiếp tục công việc của mình, vì một ngày lễ đã đến gần, và những công việc chuẩn bị cuối cùng phải được thực hiện. Nhưng Phúc âm cho chúng ta biết rằng mặt trời không chiếu sáng ở Giêrusalem từ trưa cho đến ba giờ chiều vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên. Nhiều người khi đó, cũng như bây giờ, không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng Chúa, Đấng đặt mặt trời và các vì sao vào đúng vị trí của chúng, biết chuyện gì đang xảy ra. Và thế là bóng tối bao trùm khắp vùng đất.

Lúc đó là giữa trưa và Con Người đã bị giương cao. Trong những giờ phút này, không chỉ Chúa Giêsu bị treo trên Thập giá, mà toàn bộ lịch sử cũng bị treo trên bản lề của nó. Thập giá trên đồi Canvê đứng ở điểm trung tâm của lịch sử. Toàn thể thế giới quay xung quanh Thập giá. Và từ Thập giá này, Thượng tế của Giao ước Mới và Vĩnh cửu — được nâng lên bục giảng đau đớn nhất từng được xây dựng — đã lên tiếng xin tha cho họ, vì “họ không biết việc họ làm.”

Bạn phải đến gần để nghe những lời này, vì khi một người bị đóng đinh đang cố gắng nói, phổi của người ấy bị đè bẹp dưới áp lực của chính trọng lượng của mình, ngay cả cơ thể người ấy cũng hét lên với anh ta trong đau đớn. Cơ thể hét lên, giọng nói thì im lặng. Chúng ta lắng nghe những lời đó, bảy lần Chúa Giêsu nói từ Thập giá.

Khi chúng ta lắng nghe Chúa Giêsu nói từ Thập giá, chúng ta đặt trước lòng mình Kinh Tin Kính Nicê vì năm nay, 2025, đánh dấu kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicê năm 325, công đồng chung đầu tiên trong số các công đồng chung lớn của Giáo hội. Kinh Tin Kính Nicê lấy tên từ công đồng đầu tiên năm 325. Chúng ta cùng nhau tuyên xưng trong Thánh lễ Chúa Nhật. Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta không tuyên xưng Kinh Tin Kính Nicê. Chúng ta lắng nghe Bảy Lời Cuối Cùng.

Lời đầu tiên từ Thập giá là “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”

Lời đầu tiên từ Thập giá được nói với Chúa Cha. Chúa Con nói với Chúa Cha và tương tự như vậy, Kinh Tin Kính Nicê bắt đầu bằng lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Cha. Những lời đầu tiên của Kinh Tin Kính là, “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình.”

Chúng ta gọi đó là Creed hay Kinh Tin Kính. Từ “Creed”, một từ tiếng Anh mà chúng ta dùng để chỉ một tập hợp các niềm tin, bắt nguồn từ credo, từ tiếng Latin có nghĩa là “Tôi tin”. Tín điều Nicê bắt đầu bằng Credo in unum Deum — “Tôi tin kính một Thiên Chúa”.

Kinh Tin Kính là một tuyên bố và là bản tóm lược đức tin. Đức tin là một cách để biết. Tôi biết mọi thứ bằng đức tin; đó là hoạt động của trí tuệ tôi.

Có những thứ chúng ta biết từ quan sát và đo lường trực tiếp. Chúng ta thường gọi đó là kiến thức tự nhiên hoặc khoa học. Tôi biết một điều gì đó vì tôi có thể quan sát và đo lường nó. Sau đó, tôi áp dụng logic vào những gì tôi đã quan sát và đo lường. Tôi lặp lại điều đó để có được và kiểm tra kiến thức của mình; chúng ta gọi đó là phương pháp khoa học.

Đó không phải là cách duy nhất để biết mọi thứ. Có những điều chúng ta biết bằng đức tin, và chúng ta thực sự biết chúng. Đức tin không phải là kiến thức đến từ những quan sát của tôi; nó đến từ sự tin tưởng. Tôi tin tưởng người đang nói với tôi điều gì đó, vì vậy tôi tin rằng điều đó là đúng. Đó cũng là một cách để biết. Trên thực tế, đó là cách biết phổ biến nhất. Hầu hết những gì chúng ta biết đến từ đức tin, vì chúng ta không có nguồn lực hoặc thời gian để quan sát và đo lường trực tiếp.

Tôi có thể đo khoảng cách từ nhà tôi đến nhà thờ địa phương. Tôi có thể đo khoảng cách và sau đó tôi sẽ biết khoảng cách đó. Nhưng tôi không biết bất kỳ ai đã từng làm điều đó. Chúng ta nhìn vào một bản đồ, do một số nguồn đáng tin cậy tạo ra, và sau đó chúng ta biết khoảng cách là bao nhiêu. Hoặc chúng ta sử dụng GPS của mình ngay bây giờ. Đó là một hành động của đức tin. Bản đồ có thể sai, GPS có thể được hiệu chuẩn sai. Tuy nhiên, tôi thực hiện một hành động của lòng tin. Khi tôi thực hiện chuyến đi, sau đó tôi biết bằng cách quan sát những gì tôi đã biết bằng đức tin trước tiên. Đức tin thường đến trước.

Hầu hết những gì chúng ta biết đều đến từ đức tin, vì chúng ta không có thời gian cũng như nguồn lực để quan sát và đo lường mọi thứ. Cuộc sống hàng ngày là không thể nếu không có đức tin. Tôi muốn gặp một người bạn, và người bạn đó nói rằng anh ta sẽ gặp tôi lúc 6 giờ tối Làm sao tôi biết anh ta sẽ ở đó? Tôi tin anh ta. Tôi có thể thuê ai đó để quan sát và theo dõi anh ta, nhưng tôi không làm vậy. Nếu anh ta không xuất hiện nhiều lần, thì tôi học cách không còn tin vào lời anh ta nữa và khi lòng tin bị xói mòn, kiến thức cũng bị xói mòn.

Tôi hình dung rằng mọi thứ bạn biết về ông bà cố của mình không qua quan sát hoặc xác minh, nhưng bạn đã được kể lại. Và vì ông bà và cha mẹ của bạn đáng tin cậy, bạn có niềm tin vào họ. Đó là cách duy nhất để biết về quá khứ. Đức tin là cần thiết cho cuộc sống — cuộc sống bình thường, hàng ngày. Để sống được, hàng ngày, chúng ta cần thực hiện nhiều hành động đức tin.

Điều này thậm chí còn cần thiết hơn cho sự sống vĩnh cửu, vì như chúng ta nói trong Kinh Tin Kính đó là một thế giới, nơi “trời và đất”, vượt quá những gì chúng ta có thể đo lường. Điều cốt yếu là phải biết về thế giới đó và chúng ta chỉ có thể có được kiến thức đó từ một người có thể tiết lộ nó cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta bắt đầu Kinh Tin Kính, “Tôi tin kính một Thiên Chúa.” Ngài là Đấng mặc khải đáng tin cậy.

Kinh Tin Kính khẳng định rằng Thiên Chúa này là “một Thiên Chúa duy nhất”. Sau đó, chúng ta nói ngay “Chúa Cha toàn năng”. “Thiên Chúa duy nhất” là “Cha”.

Không thể tự mình làm cha. Một người cha chỉ có thể làm cha khi liên quan đến một người con trai, một đứa con. Ngay trong những lời đầu tiên của Kinh Tin Kính, chúng ta thừa nhận rằng Thiên Chúa là một, nhưng cũng là số nhiều — chỉ một nhưng không phải là một cô độc một mình. Điều đó sẽ được giải thích trong phần còn lại của Kinh Tin Kính.

Nói “Chúa Cha toàn năng” có nghĩa là có một loại hiệp thông nào đó, một sự hiệp thông của các ngôi vị. Thiên Chúa này là một loại cộng đồng nào đó. Kinh Tin Kính Nicê là về Chúa Ba Ngôi. Ngay từ đầu, chúng ta tuyên xưng rằng Đấng mà chúng ta tin cậy, Đấng mà lòng tin cậy của chúng ta làm nảy sinh đức tin của chúng ta, là Chúa Cha — điều này đòi hỏi phải có một Chúa Con.

Sau đó, chúng ta tuyên xưng rằng Thiên Chúa này là “Đấng tạo thành trời và đất, muôn vật hữu hình và vô hình.” Có một thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy — thế giới hữu hình. Nói rộng hơn, đó là thế giới mà chúng ta có thể đo lường. Ngày nay, với các công cụ tiên tiến hơn, chúng ta không còn chỉ dựa vào đôi mắt tự nhiên của mình nữa; các công cụ có thể đo lường những thứ rất nhỏ hoặc rất xa. Thế giới hữu hình là tất cả những thứ mà chúng ta có thể quan sát và đo lường.

Cho dù các thiết bị của chúng ta có mạnh đến đâu, cho dù kính thiên văn hay kính hiển vi có mạnh đến đâu, vẫn có một số thứ không thể đo lường được. Đó là thế giới vô hình, thế giới nằm ngoài tầm quan sát và đo lường của chúng ta. Trong thời đại công nghệ của chúng ta, chúng ta rất tin tưởng vào những thứ mà chúng ta có thể đo lường và thao tác được và do đó chúng ta có xu hướng bỏ qua hoặc quên đi những thứ mà chúng ta không thể nhìn thấy.

Khoa học và công nghệ có thể trả lời rất nhiều câu hỏi, một số trong số đó rất quan trọng, nhưng cũng có những câu hỏi quan trọng khác không thể trả lời bằng phép đo. Ví dụ, cha mẹ tôi có yêu tôi không? Đó là một câu hỏi rất quan trọng và câu trả lời cho câu hỏi đó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời của một người. Nó không thể đo lường được; không có công cụ nào có thể hiệu chuẩn tình yêu. Tình yêu thuộc về thế giới vô hình.

Lời đầu tiên trên Thập giá nói về sự tha thứ tội lỗi: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ.” Sự tha thứ cũng vô hình; không có thước dây nào đo được điều đó. Bài thánh ca của Cha Frederick Faber nói rằng “lòng thương xót của Chúa rộng lớn như biển cả.” Sẽ rất khó để đo được độ rộng của đại dương, nhưng có thể làm được. Đơn giản là không thể đo được lòng thương xót.

Tội lỗi cũng vô hình; không có kính thiên văn nào có thể đo được điều đó. Chúng ta không thể đo được khoảng cách mà tội lỗi tạo ra giữa chúng ta và Chúa, nhưng nó là có thật.

Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm. Những kẻ không biết việc họ làm, những kẻ không biết tội lỗi mà họ đang phạm phải — điều đó có thể mô tả tất cả những người ở mọi thời đại và mọi nơi đang sống như thể thế giới tội lỗi và sự tha thứ không tồn tại. Họ không biết thế giới vô hình mà Thiên Chúa đã tạo nên.

Nhiều năm trước, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nói rằng “một trong những điểm yếu lớn nhất của thời đại chúng ta là mất đi cảm giác về tội lỗi”. Vì nó không thể đo lường được, nên chúng ta có thể nghĩ rằng nó không tồn tại. Nếu tội lỗi không tồn tại thì toàn bộ thế giới của sự tha thứ và cứu rỗi trở nên không cần thiết, thậm chí không thể hiểu nổi.

Nhưng nếu tội lỗi tồn tại, thì chúng ta cần sự cứu rỗi, chúng ta cần sự tha thứ. Nếu chúng ta đã quên tội lỗi, thì chúng ta có thể bi thảm hơn là quên đi lòng thương xót và sự cứu rỗi. CS Lewis là một trong nhiều bậc thầy tâm linh đã nói:

“Thành công lớn nhất của ma quỷ là thuyết phục mọi người rằng hắn không tồn tại chỉ vì họ không thể nhìn thấy hắn.”

Chúa Giêsu làm gì? Chúa Giêsu làm cho điều vô hình trở nên hữu hình. Thiên Chúa là vô hình. Con vĩnh cửu của Chúa Cha là vô hình. Chúa Giêsu, Con Nhập Thể của Chúa Cha, Con của Đức Maria, là hữu hình. Ngài làm cho thế giới vô hình của Thiên Chúa, của tinh thần, trở nên hữu hình đối với chúng ta.

Hơn tất cả các dấu chỉ và phép lạ mà Người thực hiện, Người mang đến cho chúng ta một Thiên Chúa mà chúng ta có thể nhìn thấy. Người mặc khải cho chúng ta diện mạo của Chúa Cha. Thánh Gioan nói với chúng ta trong lời mở đầu của phúc âm của mình rằng không ai từng thấy Thiên Chúa, ngoại trừ Chúa Con và những ai mà Chúa Con chọn để mặc khải Người cho (Ga 1:18).

Trên Thập giá, Chúa Giêsu làm sáng tỏ hai thực tại — tội lỗi và tình yêu — mà chúng ta không thể nhìn thấy bên trong và chính chúng, nhưng chúng ta có thể quan sát thấy tác động của chúng.

Ngài làm cho thực tại của tội lỗi trở nên hữu hình. Thánh Phaolô viết rằng Chúa Giêsu Kitô đã trở nên tội lỗi vì chúng ta ( 2 Cr 5:21). Chúng ta biết rằng tội lỗi vô hình làm suy thoái và hủy diệt, và chúng ta thấy rõ điều đó trong những gì nó đã làm với Chúa Giêsu treo trên Thập giá. Đó chính là hình ảnh của tội lỗi.

Chúng ta có thể tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại đến vào thời điểm đó? Có lẽ Ngài đã đến vào thời điểm và địa điểm mà người ta có thể bị đóng đinh. Người Rôma đã hoàn thiện hình thức hành quyết đó, được thiết kế không chỉ để mang lại cái chết mà còn để làm mất danh dự và sự hạ thấp phẩm giá; sự đóng đinh làm biến dạng chính nhân tính của người bị đóng đinh. Thực tế vô hình của tội lỗi được thể hiện rõ ràng trong Chúa Giêsu Kitô, trong Chúa Kitô bị đóng đinh.

Thực tại khác là thực tại của tình yêu, tình yêu thương xót, tình yêu hy sinh. Chúng ta không thể đo lường tình yêu, nhưng chúng ta biết điều đó. Tôi biết khi nào tôi thực sự được yêu và tôi biết khi nào tôi thực sự yêu.

Thước đo tình yêu là sự hy sinh. Làm sao tôi biết được rằng ai đó yêu tôi? Bởi vì người đó hy sinh vì tôi. Một đứa trẻ, một đứa trẻ nhỏ, nghĩ rằng cha mẹ mình tồn tại chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình. Khi lớn lên, đứa trẻ nhận ra những hy sinh mà cha mẹ dành cho mình. Nếu nó tự hỏi liệu mình có được yêu không, những hy sinh đó sẽ chứng minh rõ ràng là nó được yêu.

Sự hy sinh của Thập giá làm cho tình yêu trở nên hữu hình, làm cho sự tha thứ trở nên hữu hình, làm cho lòng thương xót trở nên hữu hình. Có lẽ có một công cụ có thể đo lường thế giới vô hình. Không phải kính hiển vi, cũng không phải kính thiên văn, cũng không phải máy đo địa chấn hay ống nghe. Thập giá là công cụ đo lường thế giới vô hình.

Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.


Source:National Catholic Register