Phép lạ thần thánh hay phép lạ con người?

(Bức tường Bá Linh sập, khối CS quốc đổ)

Một chiều dài của tiến trình duy vật của thế kỷ 19 dẫn tới CS

Tại Âu-Châu, sau một chiều dài lịch sử phát triển mạnh của tôn giáo, với kỷ nghệ hóa của thế kỷ XIX, con người có vẻ hưóng về duy vật. Duy vật xem vật chất xây dựng tất cả thực tại và chống đối duy tâm. Duy tâm xem thần trí chế ngự vật chất. Không nên lẫn lộn sự chống đối ấy với với sự chống đối giữa lý tưởng và thực tế. Nói chung, duy vật bác bỏ sự hiện diện của linh hồn, thần trí sự sống vĩnh hằng và sự hằng hữu của đứng tạo hóa (Chúa). Duy vật xem tâm linh, tư duy và các xúc cảm là những hậu quả máy móc vật chất. Đối với duy vật, sự chết của thân thể vật chất lôi theo sự biến mất của tâm linh và cảm giác hiện hữu. Duy vật xem thế giới là kết qủa của máy móc vật thể, không mục tiêu và vô nghiã và tâm linh chỉ là một ảo mộng.

Thế kỷ XIX là thế kỷ của kỷ nghệ hóa. Mức tăng trưởng rất lớn vào đợt đầu xảy ra giữa các năm 1920 tới 1850 và đợt thứ hai bắt đầu từ năm 1880 trở đi. Kỷ nghệ hóa cần nhiều cơ xưởng mà ở đó các công nhân làm việc trong những điều kiện vô nhân bản. Một loại duy vật không vô thần.

Karl Marx là một triết gia và sinh vào năm 1818. Ông ta gặp Engels vào năm 1844. Karl Marx nhắm bảo vệ tả phái và khuyến khích các thợ thuyền nỗi loạn chống tự bản bóc lột qua giá trị thặng dư. Một loại duy vật vô thần.

Thế kỷ XIX cũng có thể xem là thế kỷ của đụng độ giửa duy vật không vô thần và duy vật vô thần. Nhưng duy vật không vô thần đã đạt được một số cải thiện cho thợ thuyền. Vào năm 1864 quyền đình công đuợc cho phép tại Pháp. Trước đó các đình công bị cấm chỉ. Tại Đức bảo hiểm xã hội được bắt đầu vào năm 1884. Vào năm 1919 làm việc tối đa tám giờ được luật pháp quy định tại Pháp. Nghiệp đoàn lao động bắt đầu có vào đầu thế kỷ XIX để ủng hộ các thợ thuyền thuờng bị các chủ bóc lột. Khi Marx viết cuốn Tư Bản Luận, Marx không đoán được hướng thay đổi ấy cho thợ thuyền. Nên CS chỉ có thành công tại Nga và không thành công tại các nước khác tại Âu-Châu qua một cuộc cách mạng vô sản.

Con người lang lang đó đây của Lénine

Vladimir Ilitch Oulianov (nga ngữ: Влади́мир Ильи́ч Улья́нов ) sinh ngày 22/04/ 1870 ( lịch grégorien) hay 10/04/1870 (lịch julien) và tạ thế ngày 21/01/1924, đuợc nhiều người biết tới qua tên Lénine (Ле́нин). Ông ta tham gia hoạt động cho đảng Thợ Thuyền Xã Hội Dân Chủ Nga, khối Đệ II Quốc Tế. Sau đó ông thành lập và điều khiển đảng Bolchevik và một trong các nhà lãnh đạo cuộc cánh mạng tháng 10. Ông ta là kiến trúc sư Liên Bang Xô Viết: Từ tên Lénine sinh ra danh từ Léninisme. Thân sinh ông ta là Ilia Nikolaïevitch Oulianov (1831-1886), thuộc ý thức hệ quân chủ ôn hòa. Ông lo giáo dục tại Nga và được vào qúy tộc vào năm 1882 do Nga hoàng ban tặng. Mẹ của Lénine là bà Maria Alexandrovna Blank (1835-1916) chỉ lo nội trợ và con cái. Lénine có người anh tên là Alexandre Oulianov bị treo cổ vào ngày 11/05/1887 tại một đoạn đầu đài dựng ngay tại sân của pháo đài của thành phố Schlüsselburg gần Saint-Pétersbourg, vì đã tham gia vào toan tính ám sát Nga hoàng Alexandre Đệ III. Như phần đông dân Nga, nguồn gốc chủng tộc và tôn giáo của Lénine thuộc lai giống. Xuất thân từ một gia đình có văn hóa, giòng dõi Kamoult do ông bà bên nội. Ba nội là dân Đức thuộc hệ phái Tin Lành Lüther và con cháu giòng giống Do Thái trở lại đạo Chính Thống do bố của mẹ. Chính Vladimir Oulianov (Lénine) được rửa tội vào đạo Chính Thống Nga. Nên Lénine là một con người có đạo Thiên Chúa giống Staline.

Lúc học, ông Lénine rất giỏi tiếng La Tanh và tiếng Hy Lạp. Hai cái chết liên tiếp hai năm của thân sinh vào năm 1886 và anh đầu là Alexandre vào năm 1887 đã cực đoan hóa Lénine. Ông ta kinh tởm lối cách mạng lãng mạn của đám người luật lệ. Sau đó cùng năm Lénine bị bắt và bị đuổi ra khỏi Đại Học Kazan, vì đã tham gia biểu tình của sinh viên. Ông ta sau đó tự học và thi đậu cử nhân luật vào năm 1891 và hành nghề luật tại Samara.

Về hoạt động, Lénine saz đó trở về Saint-Pétersbourg và đâm đầu vào phổ biến các ý tưởng cách mạng và học thuyết Marx. Lập hội lập hè và thống nhất 20 nhóm Marxisme đã có tại Moscou. Từ đó sinh ra Tập Hợp tranh đấu gỉai phóng giai cấp thợ thuyền. Phong trào được Lénine xem là bầu thai của đảng cách mạng lãnh đạo đấu tranh chống tư bản và chính phủ chuyên chế và độc đoán.

Vào đầu năm 1895, Lénine lang thang qua Thúy-Sĩ để gặp các ông Gueorgui Plekhanov et Pavel Axelrod của tiểu tồ Marxisme Nga. Tại đây Lénine âm thầm chẳng gây được một tí ảnh hưởng hay ủng hộ nào cả. Vào tháng tháng 12 1895, Lénine bị bắt tại Nga và bị giam tù 14 tháng trước khi bị đày 3 năm tại làng Chouchenskoïe Sibérie. Sau khi ra khỏi tù, Lénine lại qua Âu-Châu và tham gia lập tờ báo Iskra ( Tia Lửa). Lénine tham gia tích cực đảng Thợ Thuyền Dân Chủ Xã Hội (POSDR) và 1903 cầm đầu cánh « Bolcheviks » của đảng ấy, sau khi có sự chia cắt với các Mencheviks. Tháng 5/1905 Lénine được bầu vào Trung Ưng đảng do đại hội thứ III. Rồi năm 1907 lại chạy trốn qua Phần Lan vì lý do an ninh. Ông ta tham gia tờ báo Pravda ( Sự Thật). Sau khi loại được Alexandre Bogdanov khỏi cánh Bolchevik, Lénine qua Paris từ tháng 7/1909 tới tháng 6/1912. Hai dân chủ Thúy-sĩ và Pháp là hai quốc gia cho Lénine nương náu. Cho Lénine một giây thừng để treo cổ tư bản và dân chủ !

Con đường phản bội tổ quốc Nga và cấu với giặc Đức của Lénine và ông Hồ bắt chước sau nầy

Khi thấy đại chiến thứ I là một cuộc thư hùng giữa các đế quốc cạnh tranh chia nhau thế giới (đề quốc là bực cao nhất của tư bản), Lénine tìm cách dùng chiến tranh nầy như là một đấu tranh giữa các giai cấp.

Khi cách mạng bùng nổ vào tháng 2/1917 tại Nga sau khi Nga hoàng Nicolas II đổ, Lénine còn ở tại Montreux Thúy-Sĩ như bao kẻ ly hương khác gốc Nga. Sau khi đã thiết kế ra nhiều lộ trình khó khăn, Lénine từ bỏ Thúy-sĩ để về Pétrograd Nga. Lénien băng qua Đức còn chiến tranh với Nga. Ông ta cùng đi với một nhóm cách mạng Nga gồm đủ khuynh huớng tam bành lục tặc. Chuyến xe lử mà Lénine dùng là một xe lửa với quyền bất khả xâm phạm ngoại giao gọi và có «niêm phong ».

Giai thoại ấy tạo một bút chiến. Một số tố cáo Lénine đã bị chính phủ Đức mua chuộc. Thật thế, chính phủ Đức đã tổ chức và đài thọ cho Lénine và phân bộ lưu vong Bolchevik trở về Nga. Trong hồi ký, cựu tư lệnh chiến truờng Erich Ludendorff của Đức quốc có ghi lại là ông ta hy vọng cuộc cách mạng tại Nga vào lúc ấy sẽ dẫn tới sự phân hóa quân đội Nga hoàng. Sự trở lại Nga của các nhà cách mạng sẽ thuận lợi cho một ký kết hòa bình riêng biệt với Đức.

Vế điểm phản bội tổ quốc làm lợi cho giặc và cùng loài vô tổ quốc như Lénine, ông Hồ cũng dâng đảo và đất liền cho bọn xâm lăng Hán triều để có súng đạn đánh VNCH.

Lénine chết vì bệnh giang mai (Syphilis), chứng cớ là bác sĩ của Lénine cho Lénine thuốc Salvarsan, vào thời điểm tại thị truớng chỉ có thư thuốc ấy để trị giang mai và cũng cho Lénine thêm loại thuốc Iodure de Potassium, thứ thuốc hay dùng trị bệnh ấy. Đảng cộng sản Nga dấu diếm điểm nầy qua các bàn cãi có tính cách tung hỏa mù.

Mãi sau nầy qua một khám nghiệm của hai bác sĩ tâm lý và thần kinh đảm nhiệm, hai bác đã đi tới kết quả được phổ biến trong Journal of Neurology là Lénine đã chết vì giang mai. Còn ông Hồ chết vì bệnh gi? Nhưng xác của Lénine được tẩm thuốc thơm và nằm trong lăng mộ Lénine tại quảng truờng đỏ Moscou.

Lý do đặc biệt nào đã cho phép Lénine chỉ thành công tại Nga

Cuộc cách mạng Nga là cuối đường của những biến cố xảy ra vào năm 1917, đã dẫn tới việc lật đổ chế độ Nga hoàng vào tháng giêng, rồi thành lập chế độ Léninisme vào tháng mười. Nhưng đâu là những lý do thuận tiện cho cuộc cách mạng ấy?

Lý do xa tạo cách mạng 1917:

Trước năm 1917, Nga từ mười thế kỷ bị đặt dưới chế độ chuyên chế đàn áp của Nga hoàng. Vào năm 1861, việc Nga hoàng Alexandre II bại bỏ nô lệ làm xuất hiện những rạn nứt của chế độ lạc hậu phong kiến. Sau khi được giải thoát, các nộ lệ bị đẩy ra thành phố. Ở đó họ là những lao công cho cách mạng kỷ nghệ.

Vào đầu thế kỷ XX, nước Nga có một phát triển kỷ nghệ ngoạn mục. Sự phát tiển ấy kéo theo một phát triển thành thị và một sôi sục lớn về văn hóa: trật tự củ của hội bị rung chuyển, làm trầm trọng những khó khăn của kẻ nghèo. Kỷ nghệ nở hoa, giai cấp thợ thuyền tập trung tại thành phố lớn. Nhưng, sự phồn thịnh ấy của xứ sở không mang lợi lộc cho dân chúng. Kinh tế nói chung còn cổ hủ. Vào năm 1913 tại Nga, gía sản xuất kỳ nghệ tại Nga hơn Pháp 2.5 lần, hơn Đức 6 lần, hơn Mỹ 14 lần. Kỷ nghệ hóa xứ sở thật tàn bạo và khó chấp nhận đối với từng lớp dân quê đột ngột bị bần cùng hóa. Lớp thợ thuyền do kỷ nghệ hóa sinh ra, mặc dầu yếu về số luợng, được tập trung vào các trong các khu tập trung kỷ nghệ tạo dễ dàng ganh đua cách mạng và đảng viên Bolchevik chun vào khích động.

Nước Nga luôn là một xứ nông nghệp là chính (85 % dân số là nông dân). Nếu một phần của nông dân, lớp người koulaks, trở thành giàu có và tạo ra thành phần nông dân trung lưu. Họ ủng hộ chế độ. Còn số nông dân không có ruộng đất lại tăng lên. Sự kiện ấy tạo ra một lớp vô sản dệ thụ cảm các ý tưởng cách mạng. Sau khi có thể có thêm một ít vốn liếng văn hóa qua trường trại được mở rộng vài năm truớc, một phần thợ thuyền bị tư tưởng marxisme xâm nhập và ý thức hệ cách mạng. Như quyền lực Nga hoàng nằm bất động. Petrograd là ổ cách mạng vào các năm 1905 và 1917, tại thời điểm của các thể kỷ XIX và XX, các phong trào sinh viên hay thợ thuyền, dân quê hay thượng lưu đã thử lật đổ chính phủ vả thất bại. Nhiều nhà cách mạng bị tù tội hay lưu đày, nhiều số kác trốn thoát được và sống lưu vong. Với tình trạng ấy, cuộc cách mạng 1917 chỉ là kết cục của một liên tục của các nỗi dậy. Những cải cách cần thiết, mà các nỗi loạn của dân quê, các mưu sát chính trị, các hoạt động nghị trường của Douma, không thành công đem vào đuợc. Cuối cùng đã tới bằng một cuộc cách mạng do vô sản chủ động. Nhưng cũng tại Nga hoàng bị lấm chiến và không thức thời nên Lénine mới làm được như vậy. Một cuộc cách mạng vừa vô thần và duy vật hết chổ nói.

Lý do gần tạo cách mạng tháng giêng 1917

Các thất trận liên tiếp của Nga trong Đệ I thế chiến là một trong các lý do tạo ra cách mạng tháng giêng của 1917. Khi vào lâm chiến, tất cả các đảng ủng hộ, trừ đảng Xã Hội Dân Chủ (POSDR), đảng độc nhất tại Âu-Châu với đảng Xã hội Serbe từ chối bỏ phiếu cho ngân quỹ chiến tranh. Song le cũng báo trước ý định là đàng sẽ không tìm cách phá hoại cố gắng cho cuộc chiến. Vào lúc sơ khởi, sau vài chiến thắng ban đầu, quân Nga sau đó bị nhiều thất trận tại Đông Phổ. Tiếp tế khí giới và thực phầm què quặt do các sưởng sản xuất không đủ, hệ thống xe lửa lũng củng. Tại chiến trường số quân nhân tử trận lên tới 1'700'000 và số quân nhân bị thương xấp xỉ 5’ 950’ 000. Nên nhiểu nỗi loạn xảy ra. Tinh thần lính tráng bệ rạc và thảm thương. Các sĩ quan tỏ ra thiếu khả năng. Một số đơn vị xung trận với đạn dược không hợp với cở súng. Chỉ có khiển trách và hình phạt thân thể thông dụng trong quân đội.

Nạn đói gào thét và hàng hóa hiếm hoi. Kinh tế Nga bị cắt khỏi thị trường Âu-Châu. Hạ viện Nga Douma, do hai đảng Tự Do và Cấp Tiến chiếm giữ, khuyến cáo Nga hoàng Nicolas II thành lập một chính phủ lập hiến. Nhưng Nga hoàng làm ngơ và đang ở chiến trường xa xôi. Nên mất liện hệ với thực trạng của xứ sở. Rồi cố vấn của bà hoàng hậu là Raspoutine lại bị ám sát.

Tháng hai 1917 là tháng tập hợp tất cả điều kiện cho một cuộc nỗi loạn quần chúng. Nga hoàng dùng quân đội đàn áp tạo ra một chuỗi rối loạn kéo dài cho tới tháng mười. Cung điện Mùa Đông bị tấn công vào đêm 24 rạng 25 tháng 10 của. Sau đó Lénine, chiến thắng vào 7 tháng 11, tuyến bố lập trật tự Xã Hội và tàn sát cũng như đày ải. Vô thần và duy vật bắt đầu gieo rắc đau khổ cho nhân loại kể từ ngày 7/11/1917 (lịch grégorien) hay 25/10/1917 (lịch julien, hai lịch khác nhau 13 ngày) cho tới ngày tàn là 25/12/1991, tiếp theo biến cố bức tường Bá Linh đổ vào đêm 9/11/1989.

Ai là đạo diễn đã hạ màn Đệ III quốc tế CS?

Bức tường Bá Linh đổ vào đêm 9/11/1989 và kéo theo sụp đổ giây chuyền, như một tòa nhà xây bằng các tấm Cartes, cả khối Đông Âu và sau cùng làm tan hàng CS Nga. Một kết cục như một nhiệm mầu của những giai thoại xảy ra tại nhiều chổ và không cùng thời đểm trước đó.

Các giai thoại từ phía CS

1.- Một loạt biến cố liên tiếp xảy ra một cách khác thường. Nói tới các TBT của đảng Bolchevik, sau triều đại dài lê thê và hiếu thắng của Leonid Illich Brejnev (1964-1982), TBT Youri Andropov lên nắm quyền. Vì bệnh hoạn, ông nắm quyền chỉ võn vẹn có hai năm (1982-1984). Rồi TBT Constantin Tchernenko mắc bệnh chết ẻo, nên không thọ hơn (1984-1985). Sau Tchernenko là TBT Mikhaïl Gorbatchev (1985-1991).

2.- Vừa lên nắm quyền, Mikhaïl GORBATCHEV lấy một quyết định táo bạo. Một quyết định xem như là bẻ khóa và thả trôi anh em chủ nghĩa khối Đông Âu. Qua một cuộc phỏng vấn gần đây tại Genèv2 (12/10/2009) do ba kỷ gỉa của báo Figaro thực hiện,Ông GORBATCHEV đã thổ lộ một bí mật như sau: «Khi người tiền nhiệm của tôi là ông Konstantin Tchernenko qua đời vào năm 1985, các lãnh tụ của các quốc gia thuộc thỏa ước phòng thủ Varsovie tới phúng điếu tại Moscou.

Chúng tôi họp nhau lại tại văn phòng của tôi. Tôi cám ơn họ và nói thẳng với với mấy vị ấy: Chúng ta sẽ không làm gì hết có thể làm rối reng mối liên lạc của chúng tôi với qúy vị. Chúng tôi tôn trọng những bó buộc, những qúy vị phải chịu trách nhiệm chính trị của qúy vị, của qúy quốc, và chúng tôi chịu trách nhiệm chính trị của chúng tôi, của xứ sờ chúng tôi.

Vào năm 1985, chính tôi đã hứa là chúng tôi (Liên Xô) không can thiệp và chúng tôi đã không bao giờ can thiệp. Nếu chúng tôi đã can thiệp, thời có lẽ ngày hôm nay tôi đã không có ở đây với các ông. Cai đó tôi có thể cam đoan với các ông.

3.- Vào năm 1986, TBT Gorbatchev cho thi hành hai chiến lược Glasnost ( trong sáng trong thông tin) và Pérestroïka tại Liên Bang Xô Viết. Chiến lược thứ hai nhắm vào cải tổ (hay tái phối trí) Liên Bang Xô Viết: « Thay đổi dân chủ, mở cựa xứ sở, cải tổ chính trị Liên Bang Xô Viết cũng như kinh tế, trả lại tự do đi lại cho người dân, tiến dẫn tự do ngôn luận và tôn giáo ». Hai quyết định xem như làm nổ chính cái nôi của CS tại Nga và làm tiêu luôn CS tại Đông Âu.

4.- Tiếp theo TBT GORBATCHEV cải thiện mối giao hảo giữa Mỹ và Liên Bang Xô Viết. Các mối giao hảo đã bị gián đoạn suốt trong sáu năm kéo dài từ phần cuối của Brejnev qua Anhdropov và Tchernenko. Cùng lúc ông ta đặt khái niệm xây dựng chung sống hòa bình dừơi mái nhà chungÂu-Châu và đặt vấn đề thống nhất Đức quốc.

5.- Tuy vào tháng 01/1989 TBT Honecker Đông Đức còn hung hăng tuyên bố: « Bức tuờng Bá Linh sẽ còn hiện diện chừng 50 tới 100 năm nữa ». Nhưng vào ngày 07/10/2009, Honecker tiếp đón Gorbatchev vào dịp Đông Đức kỷ niệm sinh nhật thứ 40 thành lập Dân Chủ Cộng Hòa Đống Đức, Gorbatchev trước khi chi tay đã tặng cho Honecker một cái hôn báo hiệu sự chết của CS Đông Đức và một gáo nước lạnh vào mặt: « Đồng chí Honecker, chiến tranh lạnh đã chấm dứt! Sao không thấy gì hết ? ».

Trong khi xứ sở của Honecker thật ra đang mất thăng bằng trầm trọng bởi những phong trào dân chủ hóa tại Ba Lan và Hung Gia Lợi và 11 ngày sau, Honecker bị hạ từng công tác toàn diện do quyết định của trung ương đảng SED. Ví lý không chịu thay đổi gì hết và cứng đầu cũng như ngoan cố trước dư luận quần chúng.

6.- Ngày 02/05/1989, cảnh sát biên giời Hung Gia Lợi cắt rào thép gai để cho 100’ 000 dân Đông Đức qua Áo.

7.- Đêm 09/11/1989 vào lúc 18.57 giờ, ông Günter Schabowski, phát ngôn viên của trung ương đảng CS Đông Đức, tuyên bố cụt lũn, tại truyền hình, lệnh cho phép tự do qua lại tại Bá Linh và không chuẩn xác gì thêm..

8.- Ngày 03/12/1989 Honecker bị khai trừ ra khỏi đảng. Năm sau bị pháp luật tố cáo các tội: «phản bội, lạm dụng quyền hành và tham nhũng ». Lâm trọng bệnh, Honecker được nhà thương quân đội Xô Viết tại Đông Đức cho nương náu trước khi được bí mật chyển qua Nga vào ngày 13/03/2009.

Sợ bị Boris Yeltsin nỗi chứng trả lại cho Đức, Erich Honecker vào ngày 12/12/1991 xin tị nạn vào tòa đại sứ Chí Lợi. Nhưng vẫn bị áp giải vế Bá Linh vào ngày 29/07/1992 và bị truy tố về tội giết người - nạn nhân bị tàn sát tại bức tường- và bị tống tù. Sau khi phiên tòa bắt đầu xử vào ngày 12/1171992 và bị đình chỉ vào ngày 13/0171993 vì lý do vì Honecker bị ung thư gan.

Sau đó Honnecker đi qua Chí Lợi và mất tại đó. Ngày 31/05/1994 một ngàn đồng chí cộng sản Chí Lợi bao quanh quan tài và hát bài quốc tế cộng sản như một vinh danh chót cho một kẻ không bao giờ chối bỏ niềm tin của ông ta.

9.- Đêm 09/11/1989 bức tuờng Bá Linh đổ.

10.- Ngày 01/12/ 1989 TBT Chủ Tịch Gorbatchev tời thắm Giáo Hoàng Jean-Paul II tại Vatican

11.- Ngày 07/02/1990, giải thể vai trò lãnh đạo của đảng CS Liên Xô.

12.- Ngày 31/06/1990 Đức quốc thống nhất.

13.- Ngày 01/07/1991 giải tán tổ chức khối phòng thủ Varsovie.

14.- Lợi dụng Chủ Tịch và TBT Gorbatchev nghỉ mát tại Crimée, ngày 18/08/1991 bộ trưởng quốc phòng Dimitri Yazov, phó chủ tịch Gennadi Yanaïev, Oleg Baklanov, giám đốc KGB Vladimir Krioutchkov, thủ tướng Valentin Pavlov và một số khác đảo chánh tại Moscou. Nhưng thất bại. TT Elisine cứu TBT và Chủ Tịch Gorbatchev. Sau đó hai ông đồng tình cho CS Nga đi tàu suốt và nhất định cho đi.

15.- Ngày 24/08/1991 Gorbatchev từ chức Chủ Tịch và TBT Xô Viết.

16.- Ngày 06/11/1991 giải tán đàng CS Liên Bang Xô Viết.

17.- Ngày 26/12/1991 giải tán Liên Bang của 15 Cộng Hòa Liên Sô Viết.

18- Ngày 31/12/1991 giải tán quân đội Xô Viết. Cái dùi cui củ bạo lực CS.

Các giai thoại trên, tuy xảy ra tại nhiều nơi và vào thời điểm khác nhau, xem ra có một bàn tay nhiệm mầu nào đó đang lái đi cùng một hướng: Giả thể CS Quốc Tế.

Các giai thoại từ phiá các dân chủ

1.- Cố TT Reagan từ lúc nhận chức vào ngày 20/01/1981 không ngừng thổi lạnh và thổi nóng vào các liện lạc với khối CS Đệ III Quốc Tế.

2.- Trong một buổi họp tại Nhà Trắng. Theo báo cáo của CIA, chiến tranh nguyên tử do CS gây ra sẽ không có. Nhưng nếu có chiến tranh cổ điển, thời khối CS sẽ thắng. Vì khối CS vượt hẵn Mỹ về tại phạm trù khí giới cổ điển và số người nguời. Cố TT Reagna rầu rầu và hỏi: «chúng ta hơn CS cái gì?». CIA đáp: «hơn tiền ». Cố TT Reagan nói: « như vậy phải làm cho CS kệt quệ kinh tế vì phải chạy theo chúng ta ». Nên ngày 23/03/1983 cố TT Reagan tuyên bố chương trình phòng thủ Star War và tăng ngân quỹ quốc phòng một cách chóng mặt.

3.- Cố vấn Zbignieww Brzezinski của TT Carter cảnh báo: Mỹ rất mạnh về tình báo quân sự, trái lại Vatican rất giỏi về thẩm định tình hình chính trị tại Ba Lan. Vì Vatican có đuờng giây liên lạc rất đặc biệt với dân Ba Lan. Trong mục tiêu làm rồi loạn CS Ba Lan và ủng hộ Công Đoàn Độc Lập Solodarnocs, Mỹ và Vatican hợp tác trao đổi tin tức qua một Holy Alliance. Mặt khác Cố TT Reagn cươung quyết dùng biện pháp chế tài đối với CS Ba Lan.

4.- Từ ngày 2-10/06/1979, Cố Giáo Hoàng Jean-Paul II về thăm quê hương Ba Lan của Ngài với câu nói bất hủ « Các Con Đứng Sợ ». Có lẽ là cố Giáo Hoàng có xem thông điệp Fatima nói về Nga và trong bá n và bá n nghi nên tạm nói vậy (xin xem đoạn sau »

6.- Vào năm 1982 cố TT Reagan ngang tàng bước qua làn chỉ trắng phân chia Tây và Đông Bá Linh.

7.- Vào năm 1987, cố TT Reagan có mặt tại cựa Brandebourg Bá Linh và bảo TBT Chủ Tịch Gorbatchev: «Tear Down This Wall».

8.- Cũng vào năm 1987, Cố TT Reagan và TBT Chủ Tịch Gorbatchev ký kết tài giảm khí giới nguyên tử.

9.-Ngày 31/08/1980 thành lập Công Đoàn Độc Lập Solidarnosc do Lech Walsela.

10.- Vào tháng 01/1981, cựu TT Lech Walesa tới Vatican thăm viếng Giáo Hoàng Jaen-Paul II.

Trước khi Lénine thành công tại Nga đạo diễn nào đả loan báo Nga sẽ trở lại ?

Lénine thành công tại Nga vào ngày 7/11/1917 và trước đó khoảng 4 tháng, ngày 13/07/1917, tại Fatima Đức Mẹ đã gửi cho nhân loại một thông điệp qua ba em bé chăn chiên mù chữ: Lucia Dos Santos sinh ngày 22/03/1907, Françoia Marto sinh ngày 11/06/1908 và Jacinthe Marto sinh ngày 10/03/1910. So với năm 1917, ba em bé chăn chiên còn rất nhỏ và chỉ có 10, 9 và 7 tuổi thôi.

Thông điệp gồm ba phần do chị Lucia trao lại cho tòa Thánh Vatican với xác định thời giờ cho phép mở. Nhưng thông điệp nầy lại trở thành ba bí mật Fatima, vì tòa Thánh Vatican do dự phổ biến, vì nhiều lý do, nhất là bí mật thứ ba, Giáo Hoàng Jean XXIII không phổ biến, rồi tới Paul VI cũng không, mãi tới năm 2000 Giáo Hoàng Jean-Paul mới quyết định cho phổ biến. Vì các vị cũng run lắm.

Chị Lucia viết phần thứ nhất vào năm 1935, phần thứ hai vào năm 1937 và phần ba vào năm 1941. Hai phần đầu được phỏ biến sớm hơn phần ba. Trong ba phần, chỉ có phần thứ hai liên quan tới Nga.

Phần đầu liên quan tới sự có hỏa ngục và cảnh rùng rợn của hỏa ngục. Trong phần hai, Mẹ Maria báo tin chấm dứt đại chiến thư I, làm sao để có hòa bình, đại chiến thứ hai bùng nổ, dấu hiệu báo trước cũng như sự trở lại của Nga. Còn phần ba Đức Mẹ cho ba em bé chăn chiên thấy một viễn ảnh khủng khiếp. Những để cắt nghiã ám chỉ sự kiện gì thời có nhiều giải thích khác nhau. Hiện đang là một vấn nạn.

Đặt trọng tâm vào bí mật thứ hai liên quan tới nuớc Nga được loan báo vào năm 1942. Cũng vào một lần hiện ra trong sáu lần tất cả kéo dài từ tháng năm tới tháng mười của năm 1919, Đức Mẹ loan báo riêng cho chị Lucia hay là Mẹ sẽ đưa hai em François và Yacinthe về thiên đường rất sớm và chỉ lưu lại lâu hơn tại trần thế chị Luica, để chị hòan tất sứ mệnh truyền đạt thông điệp Fatima cho loài người.

« Vous avez vu l'enfer où vont les âmes des pauvres pécheurs. Pour les sauver, Dieu veut établir dans le monde la dévotion à mon Cœur immaculé. Si l'on fait ce que je vais vous dire, beaucoup d'âmes seront sauvées et on aura la paix. La guerre va finir. Mais si l'on ne cesse d'offenser Dieu, sous le pontificat de Pie XI en commencera une autre pire encore.

Lorsque vous verrez une nuit illuminée par une lumière inconnue, sachez que c'est le grand signe que Dieu vous donne, qu'Il va punir le monde de ses crimes par le moyen de la guerre, de la faim et des persécutions contre l'Église et le Saint-Père.

Pour empêcher cette guerre, je viendrai demander la consécration de la Russie à mon Cœur immaculé et la communion réparatrice des premiers samedis. Si on accepte mes demandes, la Russie se convertira et on aura la paix; sinon elle répandra ses erreurs à travers le monde, provoquant des guerres et des persécutions contre l'Église. Les bons seront martyrisés, le Saint-Père aura beaucoup à souffrir, diverses nations seront détruites.

À la fin, mon Cœur immaculé triomphera. Le Saint-Père me consacrera la Russie, qui se convertira, et il sera concédé au monde un certain temps de paix. »

Các con đã thấy hỏa ngục mà các linh hồn của các kẻ tội lội đáng thương đi vào. Để cứu thoát các linh hồn ấy, Chúa muốn kiến lập sự tôn sùng trái tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ trên thế giới. Nếu nhạn loại thi hành điều Mẹ nói với các con, nhiều linh hồn sẽ được cứu thoát và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt (đại chiến thứ I 1914-1918). Nhưng nếu loài người không chấm dút xúc phạm tới Chúa, dưới triều đại Giáo Hoàng Phê Rô XI một chiến tranh xấu xa hơn sẽ bắt đầu.

Khi các con sẽ thấy một đêm đuợc soi sáng bởi một ánh sáng kỳ lạ. Các con phải biết rằng đó là dấu tín rõ ràng mà Chúa báo cho các con hay là Ngài sắp giáng phạt thế giới vì các trọng tội của con người bằng chiến tranh, đói kém và các ngược đại đối vời Giáo Hội và Giáo Hoàng.

Để ngăn chặn chiến tranh ấy, Mẹ sẽ tới xin sự dâng hiến nước Nga cho trái tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ và rước lễ sửa đổi những thứ bảy đầu tháng. Nếu loài người thỏa mãn các yêu cầu của Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ có hòa bình. Nếu không Nuớc Nga sẽ gieo rắc những sai trái trên thế giới, tạo chiến tranh và các bách hại chống Giáo Hội. Các kẻ ngay lành sẽ tử đạo, Giáo Hoàng sẽ chịu nhiều đau khổ, nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt.

Cuối cùng trái tim Mẹ sẽ thắng. Giáo Hoàng sẽ tận hiến nước Nga cho trái tim Mẹ, nước Nha sẽ trở lại và thế giới sẽ có một thời gian hòa bình.

Phù hợp giữa các lời loan báo và các thể hiện xảy ra

1.- Về sự ra đi sớm của hai em François và Yacinthe, em François bị bạo bệnh cúm và mất vào năm 1919, hưởng dương 11 tuổi, còn em Yacinthe cũng bị bao bệnh và mất năm 1920, hưởng dương 10 tuổi. Điều này có sự trùng hợp.

2.- Riêng chị Lucia có sứ mệnh truyền đạt thông điệp qua đời vào ngày 13/02/2005, hưởng thọ 88 tuổi. Điểu này cũng trùng hợp.

3.- Báo tin vào năm 1917 là đại chiến thứ I sẽ sắp chấm dứt. Thật thế đại chiến nầy chấm dứt vào năm 1918. Điều nầy cũng trùng hợp.

4.- Báo tin vào năm 1917 là sẽ có một đại chiến kinh khủng hơn đại chiến thứ I là đại chiến 1939-1945. Điều nầy cũng có sự trùng hợp.

5.- Báo tin chiến tranh sẽ xảy ra dưới triều đại Phê Rô XI. Giáo Hoàng Phê Rô được bầu vào ngày 06/02/1922 và mất vào ngày 10/02/1939. Còn đại chiến thứ II bùng nổ vào ngày 01/09/1939 khi quân Đức xâm lăng Ba Lan. Điều nầy cũng trùng hợp.

6.- Báo tin sẽ có ánh sáng kỳ lạ báo hiệu chiến tranh và ánh sáng nầy đã xảy ra vào đêm 26/01 rạng 27/01/1938 tại giữa Âu Châu. Ánh sáng nầy gọi là rạng đông bắc cực (Aurore Boréal) có tính cách huyền bí mà các khoa học gia cho là do hiện tượng nhiễu loãn từ truờng chỉ xảy ra tại bắc cực thôi và sự thường không xảy ra tại trời Âu-Châu.

7.- Lời Mẹ báo cuối cùng là nước Nga sẽ trởi lại và thật thế nước Nga đã tử bỏ CS vào ngày 26/12/1991.

Lời kết

Câu chyện sập đổ khối Quốc Tế CS có nét nhiệm mầu và đột biến. Khó thấy trước ngay chính cho các kịch sĩ đóng vai chính như Giáo Hoàng Jean-Paul II, Reagan, Gorbatchev, Bush và Kohl. Họ cũng ngỡ ngàng lắm.

Bảy lời báo trước của Đức Mẹ vào trưa ngày 13/07/1917 tại Fatima cho ba em bé chăn chiên đã xảy ra. Một trùng hợp xem ra hòan hảo và nhiệm mầu qua ống kính con người. Nhất là sự kiện CS Nga có một lực luợng võ khí kinh khủng và đã tan rã không mất một viên đạn. Sự việc nầy qúa sức tưởng tuợng và làm kinh ngạc con người.

Nay kỷ niệm 20 năm bức tường Bá Linh sập đổ trong một đêm 09/1/1989.

Một vấn đề cần được nêu ra. Thành phần chính của màn bi hùng kịch nầy gồm Đức Mẹ loan báo với ba em bé chăn chiên tại Fatima và 5 đạo diễn hay 5 kịch sĩ.

Ngoài Đức Mẹ với 3 em bé chăn chiên, 5 nhận vật ấy là: Giáo Hoàng Jean-Paul II, TT Reagan và TT Bush cha, Chủ Tịch và TBTGorbatchev và cuối cùnh là Thủ Tuớng Kohl.

Đức Mẹ đã nhắn gửi là Mẹ sẽ làm cho Nga CS trở lại. Tuy không báo biến cố ấy sẽ xảy ra vào thời điểm nào và do ai là các kịch sĩ chính. Nhưng xem raĐức Mẹ đóng vai chủ động thay đổi tình thế. Nên Đức Mẹ phảo là đạo diện của màn bi hùnhg kịch nầy.

Cố Giáo Hoàng Jean-Paul II biết trước lời loan báo Fatima, và có thể vì thế khi qua Ba Lan, Ngài đã nói «Các con đừng sợ ». Khi ấy Nga còn qúa mạnh. Nhưng Giáo Hoàng Jean-Paul II không biết CS có đổ hay không. Cho nên Cố Giáo Hoàng Jean-Paul không phải là nhà đạo diễn cho màn bi hùng kịch ầy. Một vai trò quan trọng kịch sĩ không chối cãi.

Cố TT Reagan không nghĩ là CS sẽ đổ, dầu có Holy allicance va Star War. Nên chỉ là một kịch sĩ quan trọng. Chứ chưa phải là đạo diễn.

TBT và Chủ Tịch Gorbatchev, khi đem chiến lược Perestroïka, không có viễn kiến cáo chung CS Nga. Nên ông ta là mộ kịch sĩ chủ chốt. Nhưng không phải là dạo diễn.

TT Bush cũng ngỡ ngàng vì biến cố, tuy có biết ít nhiều. Nên chì là một trong các kịch sĩ của màn bi hùng kịch thôi.

Thủ Tuớng Kohl chỉ lo lắng cho việc thống nhất nước Đức là chính và lo lắng không biết có thành công không trong đêm bức tuờng Bá Linh đổ. Hơn nữa đêm ấy ông ta đang có mặt tại Ba Lan. Nên ông chỉ là một trong 5 kịch sĩ thôi.

Qua các sự trùng hợp kể trên và với quyền bính nhiệm mầu, Đức Mẹ phải là đạo diễn của màn bi hùng kịch và đã dùng 5 kịch sĩ ấy đễ diễn xuất để tiêu diệt luôn một thể vừa duy vật và vô thần.