Trong bài trước, chúng tôi đã nói tới cảnh nghèo và quan niệm của Léon Bloy về cảnh nghèo. Thiển nghĩ bài ấy vẫn chưa nói hết được quan điểm của Léo Bloy nhất là cung cách ông sử dụng thiên tài văn chương để nói về nó, sau đây chúng tôi lược dịch các chủ đề được chính ông soạn tác về cảnh nghèo, rút ra từ Tuyển tập The Pilgrim of the Absolute do vợ chồng triết gia Jacques và Raissa Maritain thu thập và hiệu đính.
[Ego sum Pauper (Tôi là người nghèo]. “Người nghèo luôn ở bên các ông”. Kể từ khi những Lời sâu thẳm này được thốt ra, không người nào có thể nói Cảnh Nghèo là gì.
Các vị Thánh, các vị từng kết duyên với nó vì tình yêu và sinh ra nhiều con cái từ nó khẳng định rằng nó đáng yêu vô hạn. Những ai sẽ không có người bạn đời như vậy đôi khi chết vì kinh hoàng hoặc vì tuyệt vọng vì nụ hôn của nó, và hàng đoàn lũ con người “từ trong bụng mẹ cho tới lúc xuống mồ” không hề biết phải nghĩ gì về con quái vật này.
Khi Thiên Chúa bị chất vấn, Người trả lời rằng Người là Người Nghèo: Ego sum pauper. Khi Người không bị chất vấn, Người biểu lộ sự tráng lệ của Người.
Tạo thế dường như là một bông hoa của Cảnh Nghèo vô hạn; và kiệt tác cuối cùng của Người, Đấng được gọi là Đấng Toàn năng, là để chính Người bị đóng đinh như một tên trộm, trong tình trạng Nhục Nhã tuyệt đối.
Các Thiên thần im lặng và Ác quỷ run rẩy xé lưỡi chúng để không nói. Chỉ những kẻ ngu ngốc của thế kỷ trước này mới đảm nhiệm việc làm sáng tỏ mầu nhiệm. Trong khi chờ đợi vực thẳm nuốt chửng họ, Cảnh Nghèo lặng lẽ di chuyển với chiếc mặt nạ và chiếc sàng của mình.
Lời lẽ trong Tin Mừng Thánh Gioan áp dụng vào nó một cách tuyệt vời xiết bao! “Nó là ánh sáng chân thực soi sáng cho mọi người sinh ra ở trên đời. Nó ở trong thế gian, và thế gian được tạo ra nhờ nó, nhưng thế gian không biết nó. Nó đến nhà nó, và nhà nó không tiếp nhận nó".
Nhà nó! Đúng, chắc chắn như thế. Há nhân loại không thuộc về Cảnh Nghèo hay sao? Không có con thú nào trần trụi như con người, và chuyện người giàu giống như người nghèo ra sai lạc nên trở thành phổ biến.
Khi sự hỗn loạn của thế giới đang đảo lộn này được làm rõ manh mối, khi các vì sao tìm kiếm cơm bánh của chúng và chỉ những thứ rác rưởi bị khinh miệt nhất mới được phép phản chiếu Sự Huy Hoàng; khi chúng ta biết rằng không có gì ở đúng vị trí của nó và loài người có lý trí của chúng ta chỉ sống dựa vào những bí ẩn và ảo tưởng, mới dễ dàng xảy ra việc những hành hạ của người khốn khổ có thể tiết lộ sự khốn khổ trong linh hồn của người triệu phú, một sự khốn khổ về mặt tinh thần tương ứng với những rách rưởi của người khốn khổ, theo các sách đánh giá mầu nhiệm tình Liên đới phổ quát của chúng ta.
Các quan to mặt lớn nói rằng, "Tôi không hề quan tâm đến người nghèo!" “Tốt lắm, cậu bé xinh trai của tôi,” Cảnh Nghèo nói như thế sau tấm màn che mặt, “tại sao anh không về nhà với em? Em có một ngọn lửa tốt, và một chiếc giường tốt...” Và nó dẫn anh ta tới chiếc giường trong một ngôi nhà bên cạnh kênh.
A, quả thật! Ghét người được bất tử là điều không đủ nếu không có bất ngờ nào, dù trước cả điều được chúng ta nhất trí gọi là cái chết, và nếu bữa ăn dọn cho những con chó của nữ công tước này hay của nữ công tước nọ và rồi bị chúng nôn mửa, một ngày kia không trở thành mối hy vọng duy nhất của dạ dầy ngàn đời đói meo của nàng!
“Ta là tổ phụ Ápraham của ngươi, hỡi Ladarô, đứa con đã chết thân yêu của ta, đứa con bé bỏng mà ta đã ru trong Lòng ta chờ ngày Phục sinh đầy phước hạnh. Con thấy đấy, phải không, sự Hỗn mang vĩ đại trải ra giữa chúng ta và người đàn ông giàu có độc ác. Đó là vực thẳm không có cầu nối của hiểu lầm, ảo tưởng, ngu dốt không thể khuất phục. Không ai biết tên thật của chính mình, không ai biết bộ mặt thật của chính mình. Mọi khuôn mặt và mọi trái tim đều bị phủ mây, như trán của kẻ giết cha, dưới lớp vải khó hiểu của các thiết bị Thống hối. Chúng ta không biết mình đang đau khổ vì ai và cũng không biết tại sao mình lại được phước hạnh. Người đàn ông nhẫn tâm có vụn bánh mà con thèm muốn và bây giờ đang cầu xin con cho một giọt Nước từ đầu ngón tay của con đã không thể biện phân được tình trạng khốn cùng của ông ta ngoại trừ dưới ánh sáng ngọn lửa đang hành khổ ông ta; nhưng điều cần thiết là Ta phải nâng con ra khỏi tay các Thiên Thần để sự giầu có của con, sự giầu có của chính con, được bày tỏ cho con trong tấm gương vĩnh cửu của bộ mặt lửa đó. Niềm hạnh phúc lâu dài mà linh hồn bị nguyền rủa đó đã trông cậy sẽ thực sự không chấm dứt, cũng như sự khốn cùng của con sẽ không chấm dứt. Nhưng bây giờ, sau khi Trật tự đã được tái lập, hai người các con đã thay đổi vị trí. Vì giữa hai người các con có một mối tương quan bị che giấu, hoàn toàn không được biết đến, đến nỗi chỉ có Chúa Thánh Thần, vị khách của xương cốt người chết, mới có sức mạnh để công bố nó ra trong tư thế con không ngừng mặt đối mặt!...”
Những người giàu kinh sợ Cảnh Nghèo vì họ có một điềm báo lờ mờ về sự trao đổi có tính chuộc tội ngụ hàm trong sự hiện hữu của nó. Nó làm họ kinh hoàng cũng như khuôn mặt chua ngoa của một chủ nợ không biết tha thứ. Đối với họ, và không phải không có lý do, sự khốn cùng đáng sợ mà họ giấu sâu trong họ rất có thể chỉ trong một cú đánh làm nổ tung những chiếc kiềng vàng và lớp bọc tội ác của nó và đến rơi nước mắt trước mặt Người được chọn làm Bạn đồng hành của Con Thiên Chúa!
Đồng thời, một bản năng xuất hiện từ Vùng sâu Bên dưới cảnh báo họ không được lây lan. Những kẻ khốn cùng ghê tởm này đoán rằng Cảnh Nghèo chính là Khuôn mặt của Chúa Kitô, khuôn mặt bị đầy đoạ đã khiến Hoàng tử của thế giới phải trốn chạy, và, trước sự hiện diện của nó, người ta không thể nuốt chửng trái tim của những kẻ nghèo khổ khốn cùng trong điệu sáo và đàn ôboa (hautboy). Chúng cảm thấy khu phố của nó nguy hiểm, các ngọn đèn bốc khói khi nó đến gần, các ngọn đuốc mang diện mạo của những cây nến đám ma, và mọi thú vui đều phai nhạt… Đó là sự lây lan của những nỗi buồn thần linh.
Nói theo kiểu nói thông thường chỉ chiều sâu gây bối rối, người nghèo mang lại xui xẻo, theo cùng nghĩa như Vua người nghèo đã tuyên bố Người đến để “mang theo gươm giáo”. Một cơn khổ cực nhanh chóng và chắc chắn đáng sợ được chất lên bất cứ người nào tìm kiếm thú vui mà áo sống của họ bị một người nghèo đụng vào, và họ từng nhìn thẳng vào mắt người nghèo này.
Đó là lý do tại sao thế giới tắc nghẽn với những bức tường, bắt đầu với Tháp Kinh thánh nhằm đụng tới Trời— một Tòa tháp nổi tiếng đến nỗi Chúa đã phải “xuống” để nhìn nó cho gần — và chắc chắn đã được xây dựng để vĩnh viễn tránh xa các Thiên thần trần trụi và vô gia cư đã và đang lang thang trên trái đất.
[Tội ác làm người nghèo.] Luật Xalic [1] không bao giờ được viết ra, bởi vì đó là luật quan yếu, chủ yếu của chế độ quân chủ Pháp, và bất kỳ nỗ lực nào nhằm viết ra luật đó bằng văn bản sẽ đặt giới hạn cho nó. Điều Tuyệt Đối không thể được viết ra.
Cũng vì cùng lý do này mà Tội làm người nghèo không được đề cập rõ ràng trong bất cứ bộ luật, trong bất cứ tuyển tập luật hình sự nào. Cùng lắm nó được xếp vào hàng những vi phạm đơn giản trong phạm vi các tòa án cảnh sát và được ví như lối sống lang thang, vốn chỉ là thành quả của cảnh nghèo.
Nhưng sự im lặng này tạo nên một sắc lệnh dứt khoát về phía khủng bố tổng quát vốn từ chối nêu rõ đối tượng của nó. Vượt lên trên mọi lý lẽ, cảnh nghèo là tội ác to lớn nhất, tội ác duy nhất và là tội ác độc nhất không có tình huống giảm khinh nào trong mắt một thẩm phán công bằng. Tội ác này tày trời đến nỗi tội phản quốc hoặc loạn luân, tội giết cha hoặc tội phạm thánh xem ra khó sánh bằng, và phải nài xin lòng trắc ẩn của xã hội.
Hơn nữa, nhân loại chưa bao giờ mắc sai lầm nào về nó, và bản năng không thể sai lầm của tất cả các dân tộc, ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đã giáng cùng một lời khiển trách y hệt nhau lên các hiệp sĩ mang tước hiệu giẻ rách và cái bụng rỗng.
Vì không có hình phạt cụ thể nào có thể được đưa ra chống lại thứ trọng tội mà các nhà lập pháp sợ sệt không dám nhất trí xác định, mọi người chất lên đầu Người Nghèo tất cả những hạ giá hoặc phiền não mà lòng thù hận phổ quát của họ có thể nghĩ ra. Để bảo đảm không bỏ lở cơ hội nào, các hình phạt chồng chất lên đầu Người rất đa dạng, không thể lựa chọn giữa chúng mà không có nguy cơ xác định tội phạm.
Người nghèo chính thức bị kết án không bị trói cọc hay phanh thây, không bị cho đi tầu bay [strappado] hoặc bị thiêu sống, không bị đâm hoặc thậm chí máy chém. Không có quy định pháp lý nào quy định họ phải bị treo cổ, bị thiến, bị xé móng tay, bị móc mắt, bị đổ chì nóng chảy xuống cổ họng, bị bôi mật đường rồi chường cho mặt trời trong những ngày nắng nhất trong năm, hoặc đơn thuần bị kéo, trong khi bị lột da, qua một cánh đồng linh lăng mới cắt…. Không một trong những cách tra tấn quyến rũ này từng được áp dụng theo đúng nghĩa đen đối với họ, vì thực tế là không có luật lệ minh nhiên nào.
Tuy nhiên, thiên tài tra tấn đó, người tự xưng là Quyền lực Xã hội đã thành công trong việc thu hoạch cho họ, thành một đống khổ nạn toàn quyền vô sánh, trọn danh mục những hình phạt hình sự rải rác này. Một cách thanh thản, thầm lặng, Người Nghèo đã bị vạ tuyệt thông, trục xuất khỏi cuộc sống và bị biến thành những con người đáng nguyền rủa.
Mọi người trên thế giới - dù anh ta có biết hay không - đều mang trong mình một sự khinh miệt tuyệt đối đối với Cảnh Nghèo, và đó là bí quyết sâu xa của danh dự vốn là nền tảng của giới đầu sỏ.
Tiếp đón vào bàn ăn một tên trộm, một kẻ giết người hoặc một diễn viên hạng hai, là một điều xem ra hợp lý và đáng khen ngợi — miễn là người đang làm ăn phát đạt. Người ta thậm chí còn chỉ định rằng một sự trinh trắng nào đó của linh hồn sẽ lấy lại được nhờ tiếp xúc với những kẻ đầu độc trẻ em — khoảnh khắc họ thừa mứa vàng bạc.
Nhưng sự nhục nhã do sự túng quẫn mang lại thì hoàn toàn không thể nói thành lời, bởi vì về cơ bản nó là sự nhơ bẩn duy nhất và tội lỗi duy nhất. Đó là một tội lỗi không đong đếm được đến nỗi Chúa là Thiên Chúa đã chọn nó làm của riêng Người khi Người trở thành người để tự mình gánh lấy mọi sự.
Người vô cùng muốn được gọi là Người nghèo và Thiên Chúa của người nghèo.
Đấng Cứu Rỗi phàm ăn này — homo devorator et potator (người ham ăn uống), như người Do Thái mô tả về Người —đến chỉ để uống say và tự chuốc lấy các tra tấn, đã khôn ngoan lựa chọn Cảnh Nghèo làm chủ quán của Người.
Thành thử, những người có danh dự đã đồng thanh lên án vụ tai tiếng của một kẻ cuồng say như vậy và đã nghiêm cấm mọi thời đại mọi liên kết với người chủ quán do sự chỉ định của thần linh này. Trong gần hai ngàn năm, Giáo hội đã ca ngợi cảnh nghèo. Vô số vị thánh đã kết duyên với cảnh nghèo để các ngài có thể giống với Chúa Giêsu Kitô, và cảnh nghèo bị ruồng bỏ tệ hại đó không làm tăng một phần triệu lòng quý trọng của những người đàng hoàng và được nuôi dạy tốt.
Thật vậy, sự thật là cảnh nghèo tự nguyện vẫn là một điều xa xỉ, và do đó không phải là cảnh nghèo thực sự, điều mà mọi người đều ghê tởm. Chắc chắn người ta có thể trở nên nghèo, nhưng với điều kiện là ý chí không liên quan gì đến nó. Thánh Phanxicô thành Assisi là một người tình chứ không phải một người nghèo. Ngài không cần điều gì cả, vì ngài sở hữu Thiên Chúa của ngài và đã sống, qua sự xuất thần của ngài, bên ngoài thế giới của cảm giác. Ngài tắm gội trong vàng bạc nơi những áo sống giẻ rách sáng chói của ngài.
Cảnh nghèo thực sự là không tự nguyện, và yếu tính của nó là không bao giờ có thể được mong muốn.
Kitô giáo đã thực hiện phép lạ kỳ diệu vĩ đại nhất bằng cách giúp con người chịu cảnh nghèo qua lời hứa được hưởng những phần thưởng về sau. Nếu không có phần thưởng, lúc đó để mọi thứ cho quỷ! Thật vô lý khi mong đợi bất cứ điều gì tốt hơn từ bản chất của chúng ta.
[Ngõ cụt ở Petit-Montrouge.] Trong cuộc sống hôn nhân của họ, Leopold và Clotilde biết những thay đổi tuyệt vọng khiến người ta phải rùng mình và bật khóc, việc bán từng đồ vật thân yêu mà họ nghĩ họ sẽ không bao giờ có thể chia tay với chúng, sự thay đổi của một số thói quen dường như gắn liền với chính động lực chính của khả năng cảm xúc của người ta, sự dẹp bỏ dần dần, hết sức đau đớn phải chịu đựng, mọi bảo vệ cho cuộc sống thân mật và ẩn giấu mà người nghèo không bao giờ với tới được. Và đặc biệt là họ phải di chuyển. Đó là khó khăn nhất cho đến nay.
Tổ ong xinh xắn của họ, yên bình và tươi sáng, gần Vườn Luxembourg, đối với Leopold và Clotilde, là điểm duy nhất và độc nhất, một nơi đặc quyền, một địa chỉ duy nhất mà họ có thể loan báo một cách hạnh phúc. Họ đã dành cho nó những cảm xúc yêu thương, hy vọng, ước mơ, lời cầu nguyện của họ. Cả những kỷ niệm buồn cũng không bị loại bỏ. Được giảm thiểu từng sợi một bởi một ơn phúc đến quá trễ, các buồn đau trước đây của họ được đan xen ở đó bằng những niềm vui mới, giống như những hình ảnh trong mơ mà tấm thảm, dù màu sắc của nó đã mờ đi, vẫn có thể đã nổi bật trên các bức tường.
Và rồi đứa con của họ đã được sinh ra ở đó. Nó đã sống ở đó mười một tháng, trong đó những rắc rối của họ lại bắt đầu, và sự hiện thân của lòng thương xót này nhìn chằm chằm vào họ từ mọi góc cạnh.
Vào thời điểm họ rời khỏi nơi ở này, những người kém may mắn của chúng ta tin rằng họ đã bị lưu đày khỏi nền hòa bình thần linh. Việc bị nhổ rễ càng tàn nhẫn hơn vì những khu ở mới mà sự cần thiết đã vận chuyển họ đến xem ra cực kỳ thảm hại đối với họ.
Khi họ nhìn nó dưới cái nắng âm ấm của một ngày cuối thu, họ đã coi nó có thể sống được; nhưng cơn mưa lạnh giá và bầu trời đen kịt trong ngày mà họ chuyển đến đã biến đổi nó, theo đôi mắt khiếp sợ của họ thành một loại túp lều ẩm ướt, tối tăm và độc hại khiến họ kinh hãi.
Đó là một ngôi nhà nhỏ ở cuối một con hẻm cụt ở Petit-Montrouge. Họ đã thuê nó vì sự căm ghét những căn hộ nhỏ, hy vọng như thế có thể thoát khỏi những tình thân mật xấu xí ghê tởm của những căn nhà chung cư. Ba hoặc bốn nhà ổ chuột khác cùng loại, nơi sinh sống của những người lao động ai mà biết có trái tim vô cảm và xấu số, cách đó vài mét nhô ra những mặt tiền ưu uất của họ, phủ đầy một lớp sơn trắng gây hiểu lầm và được ngăn cách với nhau bằng thảm thực vật đầy bụi bặm của một số nghĩa trang tồi tàn nào đó bốc mùi hôi thối vì gần một trạm xe chở hàng hay nhà máy sản xuất nến mỡ động vật.
Một loại cộng đồng tiểu tư sản, với cao vọng có vườn tược, như bạn thường thấy ở những khu vực hẻo lánh, nơi những tên địa chủ giết người đặt bẫy thích làm vườn cho những kẻ bị án tử hình.
Và bây giờ họ được chào đón ngay ở ngưỡng cửa với mọi điều khiến họ phải rùng mình. Ngã lòng và rùng mình vì lạnh, Clotilde ngay lập tức quấn Lazare bé bỏng của mình trong một đống khăn phủ và khăn choàng, chỉ nghĩ đến việc bảo vệ nó khỏi cái lạnh cóng và sự ẩm ướt đặc biệt, và chờ đợi, với một nỗi lo lắng mà nàng chưa bao giờ biết đến trước đó, để những người chuyển đồ kết thúc.
Chao ôi! Họ không bao giờ kết thúc, theo nghĩa, cho đến giây phút cuối cùng của đời nàng, người phụ nữ nghèo vẫn giữ lại ấn tượng hiện nay của mình về sự vô trật tự đáng buồn và rẻ tiền trong vài giờ đầu tiên này.
Bất hạnh là một bóng ma ẩn khuất ở những nơi ẩm thấp. Hai người lưu đầy khỏi Niềm Vui cảm thấy như thể đang trôi nổi trong tình trạng lấp lửng của sự nhớp nháp và chạng vạng. Ngọn lửa mạnh mẽ nhất vẫn không thành công trong việc làm khô các bức tường, vốn lạnh lẽo ở bên trong hơn ở bên ngoài, như trong ngục tối hoặc trong các ngôi mộ, và trên đó có một lớp giấy gián đã mục nát.
Từ một căn hầm đựng rượu nhỏ đáng ghét, chắc chắn không bao giờ được chọn làm nơi trú ẩn cho khí chất cao quý của bất cứ loại rượu nào, vào đầu đêm, dường như đã xuất hiện những vật đen đen, những con kiến đen tối, xổ ra dọc theo các vết nứt và chỗ nối của một sàn nhà đã rạn nứt với nhiều chỗ hở.
Chứng cớ bẩn thỉu quái dị kêu thấu trời cao. Ngôi nhà đó, được rửa một cách lừa dối bằng một vài thùng nước khi chờ khách đến thăm, thực sự sáng bóng từ trên xuống dưới mà nào có ai biết là cặn bẩn đáng sợ đã tích lũy đến nỗi phải cạo đến vô tận mới mong làm sạch. Gorgon (2) nôn mửa ngồi xổm trong bếp, điều mà chỉ có một đám cháy lớn may ra mới có thể thanh tẩy. Ngay từ đầu, một bếp nấu đã phải được thiết lập trong một căn phòng khác. Ở cuối khu vườn, và vườn tược gì đâu! ở đó lù lù một đống rác khủng khiếp mà chủ nhà hứa sẽ dọn dẹp, nhưng có bao giờ biến mất đâu.
Rồi, đột nhiên, cả là một ghê tởm. Một thứ mùi không thể tả được, giữa mùi hôi thối mốc meo của lối đi ngầm dưới đất đầy xác chết đã thối rữa và độ kiềm ngột ngạt của một cống rãnh lộ thiên, lén lút tấn công màng nhầy của những người thuê nhà tuyệt vọng.
Mùi này không chuyên biệt phát khởi từ nhà vệ sinh, một nhà vệ sinh dù sao gần như không được đưa vào sử dụng hoặc từ bất cứ điểm xác định nào khác. Nó luồn qua không gian hạn chế của ngôi nhà rồi tỏa ra như một dải khói mô tả các vòng tròn, hình bầu dục, hình xoắn ốc, hình chữ chi. Nó nhấp nhô xung quanh đồ đạc, lên đến trần nhà, chảy xuống dọc theo cửa ra vào, thoát vào cầu thang, lảng vảng từ phòng này sang phòng khác, để lại khắp nơi một loại hơi thối và phân.
Đôi khi nó dường như biến mất. Rồi, bạn gặp lại nó trong khu vườn, trong cái vườn thích hợp với bờ sông Cocytus (3), được bao bọc bởi một bức tường nhà tù được tính toán để khơi dậy nỗi ám ảnh muốn trốn thoát ngay cả nơi thầy tu đạo Hồi có chân vòng kiềng, người đảm nhận công việc hoàn lại xác chết của những con lạc đà mắc bệnh dịch hạch.
Cuộc sống của những người bị đắm tàu này như thế nào trong những ngày đầu tiên, chỉ có thiên thần phụ trách việc trừng phạt các Linh hồn mới có thể nói được.
Mùi hôi thối là tiền hô, kẻ chạy trước những Bóng ma độc ác khi những bóng ma này được phép tái xuất hiện từ đáy vực thẳm, và nó mang theo nỗi sợ hãi lạnh lẽo. Một số tình huống quá kinh hoàng đến không có thật, và dù sao, ngay sau đó là một vụ nổ kinh hoàng! không cho phép Clotilde trước tiên và sau đó là chồng nàng nghi ngờ rằng, vì sự tôi luyện siêu nhiên lòng can đảm của họ, họ đã rơi vào một trong những địa điểm đáng nguyền rủa mà không danh sách thuế nào chỉ định như vậy, nơi mà Kẻ thù của loài người lấy được khoái cảm của nó và trên đó nó dạng chân đứng lên.
Lazare bé bỏng dường như khó ở kể từ lúc bối rối gây kinh hoàng của ngày dọn nhà, mẹ em ngủ một mình, gần bên em, trong một căn phòng ở tầng trệt mà họ thấy ít thảm hại hơn những phòng khác. Leopold cẩn thận đóng tất cả các phương tiện ra vào và đi lên căn phòng hôi hám của chàng ở tầng trên.
Ngay từ đêm thứ hai, Clotilde đã bị phá giấc ngủ bởi những cú đập cực kỳ bạo lực từ cửa ngoài, như thể kẻ bất lương nào đó đang cố gắng đột nhập. Đứa trẻ đang ngủ, và người cha, người có tiếng thở đều và vang mà nàng nghĩ nàng có thể nghe thấy từ xa, dường như không bị quấy rầy. Do đó, tiếng ầm ĩ đã được dành cho một mình nàng. Cứng người vì kinh hoàng và không dám động đậy, nàng kêu gọi các linh hồn ngoan đạo của người chết, những người được cho là có sức mạnh xua đuổi những linh hồn đen tối. nàng không nói về điều này vào ngày hôm sau, nhưng từ lần viếng thăm đầu tiên của Kinh Hoàng ấy, nàng đã duy trì một nỗi lo lắng nặng nề, một nỗi sợ hãi như nỗi sợ hãi các hang toại đạo, khiến trái tim nàng như co thắt lại.
Những cảnh báo tương tự cũng đã đến với nàng vào những đêm sau đó. Nàng nghe thấy tiếng hoảng sợ hú thần chết. Những tiếng gõ bí nhiệm thiếu kiên nhẫn và tức giận khiến các bức tường rung rinh, và thậm chí cả chấn song giường nàng. Hoang mang, rối bời, nàng có cảm giác như có một móng vuốt nào đó vuốt vào tóc nàng, nhưng nàng sợ chia sẻ việc nếm trước sự hấp hối này với người chồng bất hạnh của mình; nàng đã mời một trong những cha xứ đến để làm phép ngôi nhà.
Còn 1 kỳ
_____________________________________________
Ghi chú
[1] luật Xalic của Pháp, không cho đàn bà làm vua
[2] Gorgon là một con vật trong thần thoại Hy Lạp, có tóc là những con rắn sống, có nọc độc, với bộ mặt xấu xí.
[3] Cocytus (hay Kokytos), nghĩa là "sông than khóc", là một con sông của thế giới giới người chết trong thần thoại Hy Lạp.