ĐỒNG TRÁCH NHIỆM

“Trách nhiệm” là một từ quen thuộc mà chúng ta thường nói và thường được nghe – có khi là câu nói cửa miệng được phát và nhận từ vô thức. Nhưng ý nghĩa của nó bao hàm trường nghĩa của những từ cùng đi với nó: đồng hành, đồng cảm, đồng sinh, đồng tử,…Tất cả những từ này đều nằm trong phạm trù “trách nhiệm”.

“Đồng trách nhiệm”, câu nói đã được Đức Cha Giu-se Trần Xuân Tiếu – Giám Mục giáo phận Long Xuyên lặp lại ba lần trong bài giảng của Ngài vào Lễ kỷ niệm Kim Khánh giáo phận và 150 năm Thánh Quí và Thánh Phụng tại nhà thờ Cù Lao Giêng, vào hồi 9:00 ngày 31 tháng 7 năm 2010 nhằm nhắn gửi đến các các tu sỹ nam, nữ, và giáo dân thuộc đia phận của Ngài.

Trách nhiệm là gì?

Trách nhiệm là tự xác nhận mình là chủ thể mọi hành vi của mình và cam chịu tất mọi hậu quả của nó. Như vậy trách nhiệm có nghĩa là chúng ta phải trả lời hành vi của chúng ta trước mọi uy quyền: uy quyền của lương tâm, uy quyền của tòa án hay xã hội. Do đó chúng ta phải nhận biết chúng ta là tác giả của các hành động và lãnh nhận những phán xét của lương tâm và xã hội.

Trách nhiệm có thể chia thành hai loại:

Trách nhiệm bện trong.

Trách nhiệm bện trong hay còn gọi là trách nhiệm tinh thần, là thứ trách nhiệm trước tòa án lương tâm hay thần linh. Đối với tín hữu Ki-tô giáo đó là trách nhiệm trước Thiên Chúa.

Trách nhiệm bên ngoài.

Trách nhiệm bên ngoài hay còn gọi là trách nhiệm xã, là trách nhiệm mà con người phải chịu trước đồng loại như dư luận, trước tòa án tức luật pháp.

Khi Đức Giám mục Giu-se nói “đồng trách nhiệm” là Ngài muốn giáo huấn các Ki-tô hữu phải ý thức tinh thần trách nhiệm của bản thân trước tiên là trách nhiệm bên trong đối với Giáo Hội và trách nhiệm bên ngoài – xã hội.

Nhưng hai loại trách nhiệm này thường không có sự trùng hợp vì chúng tùy thuộc vào những điều kiện khác nhau. Có thể có trách nhiệm lương tâm mà không có trách nhiệm pháp luật hay ngược lại. Có khi có trách nhiệm xã hội mà không có trách nhiệm lương tâm. Chúng ta chưa nói đến trường hợp hai loại trách nhiệm này đối chọi nhau.

Những điều kiện của trách nhiệm:

Trách nhiệm lương tâm đòi hỏi phải có nhận thức về pháp luật, trong khi trách nhiệm xã hội thì không cần có sự hiểu biết hay không biết pháp luật vì không ai được coi như không biết pháp luật ((nul n’est cencé ignorer la loi).

Trách nhiệm lương tâm chỉ có đối với hành vi tự ý do ý muốn của mình. Trái lại trách nhiệm luật pháp thì ap dụng cho cả những hành vi không do ý muốn hay hành vi cưỡng bách (actes involontaire).

Những điều kiện tổng quát của trách nhiệm là:

Ý chí: muốn chịu trách nhiệm về một hành vi cần phải có ý muốn trong hành động.

Tự do: phải có tự do nội tâm hay tự do tâm lý nghĩa là tự do quyết định hành động. Con người chỉ chịu trách nhiệm về những hành vi tự mình đã tự do quyết định.

Nhận thức: là khả năng kiểm điểm những hậu quả và tầm quan trọng của hành vi. Trẻ con không có trách nhiệm trước pháp luật vì hành động của nó xuất phát từ vô thức.

Lương tâm: con người không có lương tâm thì không có trách nhiệm vì không thể phán đoán giá trị của hành vi.

Đức Cha Giu-se khi nhấn mạnh ý thức “đồng trách nhiệm” là Ngài muốn nói đến các Ki-tô hữu hôm nay phải đồng hành một cách có ý thức với xã hội để duy trì đời sống đạo đức phục vụ Giáo Hội trên nền tảng đức tin Ki-tô giáo.

Xã hội chỉ có thể giúp cá nhân phát triển đạo đức chứ không thể làm cứu cánh cho đạo đức cá nhân.

Ngài muốn nói rằng trong đời sống đạo đức luôn phải có sự hiện diện của Thiên Chúa vì nếu không, đạo đức sẽ không còn ý nghĩa. Tiêu chuẩn cho đời sống đạo đức với lý tưởng cộng đồng thường ở mức trung bình, tầm thường mà lý tưởng của đạo đức phải là sự hoàn hảo tức là chí thiện.

Ngài nói “đồng trách nhiệm” phải dựa trên căn bản của sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội theo tinh thần Công Đồng Vatican II mà Đức Thánh Cha Gio-an XXIII đã đề xướng (Il Consilio Vaticano II). Đoàn kết chung xây, bảo vệ và kiện toàn Giáo Hội trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong cuộc sống như gương hai Thánh Ammanuel Lê Văn Phụng và Phê-rô Đoàn Công Quí của họ đạo Cù lao Giêng.