Một giáo hoàng tu sĩ
Đức Phanxicô là vị giáo hoàng thuộc dòng tu đầu tiên kể từ Đức Grêgôriô XVI, một đan sĩ thuộc Dòng Camaldoli, lên ngôi năm 1831. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “đâu là vị trí chuyên biệt của tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội ngày nay?”
Đức Giáo Hoàng cho biết: “Tu sĩ nam nữ là các tiên tri. Họ là những người đã quyết định theo Chúa Giêsu bằng cách mô phỏng cuộc sống của Người trong vâng lời Chúa Cha, nghèo khó, cuộc sống cộng đoàn và khiết tịnh. Trong chiều hướng này, các lời khấn không thể kết cục như các biếm họa; nếu không, đời sống cộng đoàn, chẳng hạn, sẽ trở thành hỏa ngục, và khiết tịnh sẽ trở thành lối sống của những anh chàng độc thân khô cằn. Lời khấn khiết tịnh phải là lời khấn sinh hoa kết trái. Trong Giáo Hội, tu sĩ được kêu gọi làm tiên tri, đặc biệt bằng cách chứng tỏ Chúa Giêsu đã sống trên trần gian ra sao, và công bố Nước Thiên Chúa sẽ như thế nào lúc thành toàn. Tu sĩ không bao giờ được từ bỏ việc nói tiên tri. Điều này không có nghĩa đi ngược lại phẩm trật Giáo Hội, dù chức năng tiên tri và cơ cấu phẩm trật không trùng hợp với nhau. Tôi đang nói tới một đề xuất luôn tích cực nhưng không nên gây ra nhút nhát. Ta hãy nghĩ tới công trình của biết bao vị thánh vĩ đại, các đan sĩ và tu sĩ nam nữ, từ Thánh Antôn viện tu trở về sau. Là tiên tri đôi khi gây nên sóng gió. Tôi không biết nên nói thế nào... Nói tiên tri quả có gây ồn ào, náo động, nhiều người còn cho là “xáo trộn” (a mess) nữa. Nhưng trên thực tế, đặc sủng của tu sĩ giống như men bột: nói tiên tri là thông báo tinh thần của Tin Mừng”.
Giáo triều Rôma
Cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem ngài nghĩ gì về các bộ sở của Giáo Triều Rôma, các cơ quan khác nhau đang trợ giúp Đức Giáo Hoàng trong sứ mệnh của ngài.
Ngài cho hay “Các bộ sở trong Giáo Triều Rôma là để phục vụ Đức Giáo Hoàng và các giám mục. Chúng phải trợ giúp cả các Giáo Hội địa phương lẫn các hội đồng giám mục. Chúng là các dụng cụ trợ giúp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vì không hành xử đúng chức năng, chúng có nguy cơ trở thành các định chế kiểm duyệt. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy các tố cáo thiếu chính thống được đưa tới Rôma. Tôi nghĩ những trường hợp này nên được các hội đồng giám mục địa phương điều tra; các hội đồng này có thể được Rôma hỗ trợ một cách đáng kể. Thực thế, các trường hợp này được xử lý tốt hơn tại địa phương. Các bộ sở tại Rôma chỉ là các trung gian; chúng không phải là mối lái hay cơ quan quản trị”.
Ngày 29 tháng Sáu, trong buổi lễ chúc lành và trao dây pallium cho 34 tổng giám mục các giáo tỉnh, Đức Phanxicô nói tới “con đường hợp đoàn” như là con đường dẫn Giáo Hội “lớn lên trong sự hòa hợp với việc phục vụ của quyền tối thượng”. Bởi thế, Cha Sparado hỏi ngài “Ta có thể giao hòa ra sao quyền tối thượng của Phêrô và tính hợp đoàn? Những con đường nào khả thi cả trong viễn tượng đại kết nữa?”
Đức Phanxicô trả lời: “Ta phải cùng sánh bước với nhau: giáo dân, giám mục và giáo hoàng. Tính công đồng phải được sống trên nhiều bình diện khác nhau. Có lẽ nay là lúc phải thay đổi các phương pháp của Thượng Hội Đồng Giám Mục, vì đối với tôi, hình như phương pháp hiện thời không được năng động lắm. Việc này cũng sẽ có giá trị đại kết nữa, nhất là với các anh em Chính Thống Giáo của ta. Ta có thể học được từ họ nhiều điều hơn về ý nghĩa của tình hợp đoàn giám mục và truyền thống công đồng. Các cố gắng suy tư chung, về việc phải cai quản Giáo Hội ra sao trong các thế kỷ đầu tiên, trước khi có sự chia cách Đông Tây, sẽ đem lại hoa trái đúng lúc. Trong các liên hệ đại kết, điều quan trọng không những là phải biết nhau tốt hơn mà còn phải nhìn nhận những gì Chúa Thánh Thần từng gieo vãi nơi người khác như là hồng phúc đối với ta. Tôi muốn tiếp tục cuộc thảo luận vốn đã bắt đầu vào năm 2007 của ủy ban hỗn hợp [giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo] về vấn đề phải thi hành quyền tối thượng của Phêrô ra sao, một cuộc thảo luận đã đưa tới việc ký kết Văn Kiện Ravenna. Ta phải tiếp tục đi con đường này”.
Cha Sparado hỏi xem Đức Phanxicô dự phóng ra sao việc hợp nhất Giáo Hội trong tương lai dưới ánh sáng câu trả lời của ngài, thì ngài cho biết: “Ta phải tiến bước bằng cách hợp nhất trong dị biệt: không có đường nào khác để trở nên một cả. Đó là con đường của Chúa Giêsu”.
Phụ nữ trong đời sống Giáo Hội
Và đâu là vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội? Đức Phanxicô từng nhiều lần đề cập tới vấn đề này. Ngài nhắc đến nó trong chuyến bay trở về từ Rio de Janeiro, khi cho rằng Giáo Hội vẫn còn thiếu một nền thần học sâu sắc về phụ nữ. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “Vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội phải nên như thế nào? Ta phải làm vai trò của họ trở nên hiển hiện ra sao trong lúc này?”
Ngài trả lời: “Ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội. Tôi lo lắng trước giải pháp muốn giản lược nó vào một thứ chủ nghĩa cao ngạo nữ giới (female machismo), vì phụ nữ có một thể trạng (make-up) khác với nam giới. Nhưng điều tôi nghe về vai trò của phụ nữ thường được gợi hứng từ ý thức hệ cao ngạo. Phụ nữ đang đặt ra các câu hỏi sâu sắc cần được trả lời. Giáo Hội không thể là chính mình nếu không có phụ nữ và vai trò của họ. Phụ nữ rất chủ yếu đối với Giáo Hội. Đức Maria, một phụ nữ, vốn quan yếu hơn các giám mục. Tôi nói điều này vì ta không nên lẫn lộn chức năng với phẩm giá. Cho nên ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội. Ta phải cố gắng hơn nữa để khai triển ra một nền thần học sâu sắc về phụ nữ. Thiên tài phụ nữ được cần tới ở bất cứ nơi nào ta đưa ra các quyết định quan trọng. Thách thức hiện nay là: suy nghĩ về chỗ đứng chuyên biệt của phụ nữ cả ở những nơi thẩm quyền của Giáo Hội được thi hành trong các phạm vi khác nhau của Giáo Hội”
Công Đồng Vatican II
Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Công Đồng Vatican II thực hiện được những gì ?”. Ngài. đáp: “Vatican II là một cuộc đọc lại Tin Mừng dưới ánh sáng văn hóa đương thời. Nó tạo ra một phong trào canh tân đơn thuần phát khởi từ cùng một Tin Mừng này. Hoa trái của nó thật lớn lao. Chỉ cần nhắc tới phụng vụ. Công trình canh tân mục vụ là nhằm giúp tín hữu đọc lại Tin Mừng từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đúng là có những nền giải thích liên tục và gián đoạn, nhưng điều rõ ràng là: tính năng động của việc đọc Tin Mừng, hiện thực hóa sứ điệp của nó vào hôm nay, một công việc hết sức đặc trưng của Vatican II, là điều tuyệt đối không thể nào đảo ngược được. Rồi còn có các vấn đề đặc biệt như phụng vụ theo Vetus Ordo (lễ qui cũ). Tôi nghĩ quyết định của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô [tức quyết định ngày 7 tháng Bẩy, 2007 cho phép việc sử dụng rộng rãi hơn Thánh Lễ theo Công Đồng Triđentinô] là một quyết định khôn ngoan và đước thúc đẩy bởi ý muốn giúp những người vốn nhạy cảm về khía cạnh này. Dù, điều khiến người ta ưu tư là nguy cơ biến Vetus Ordo thành một ý thức hệ, để khai thác nó”.
Kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự
Tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Rio de Janeiro, Đức Phanxicô nhiều lần tuyên bố rằng: “Thiên Chúa có thật. Người tự mạc khải Người ra hôm nay. Người ở khắp nơi”. Những mệnh đề này khiến ta nhớ tới kiểu nói của Thánh Inhã “kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự”. Dựa vào câu này, Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Đức Thánh Cha kiếm và tìm thây Thiên Chúa trong mọi sự ra sao?”.
Ngài trả lời: “Điều tôi nói tại Rio có ý nói tới thời điểm ta đang đi kiếm Thiên Chúa. Thực vậy, ta vốn bị cám dỗ đi kiếm Thiên Chúa ở dĩ vãng hay ở một tương lai khả hữu nào đó. Thiên Chúa quả có ở trong quá khứ thật vì ta có thể nhìn ra dấu chân của Người. Và Thiên Chúa cũng ở trong tương lai như một hứa hẹn. Nhưng Thiên Chúa ‘cụ thể’, có thể nói như thế, thì đang ở đây hôm nay. Chính vì vậy, than vãn không bao giờ giúp ta kiếm Thiên Chúa. Các than vãn ngày nay về việc thế giới hiện đại ‘man rợ’ biết chừng nào, những than vãn này đôi khi chỉ kết thúc bằng việc cho ra đời, trong lòng Giáo Hội, các ước muốn thiết lập trật tự theo nghĩa bảo tồn đơn thuần, như một thứ phòng ngự. Không, Thiên Chúa cần được gặp gỡ trong thế giới ngày nay.
“Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong mạc khải lịch sử, trong lịch sử. Thời gian khởi diễn các diễn trình, và không gian kết tinh chúng. Thiên Chúa ở trong lịch sử, ở trong các diễn trình.
“Ta không nên tập chú vào việc chiếm hữu các không gian để thi hành quyền lực, mà đúng hơn nên khởi diễn các diễn trình lịch sử lâu dài. Ta phải khởi diễn các diễn trình hơn là chiếm hữu các không gian. Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thời gian và đang hiện diện trong các diễn trình của lịch sử. Điều này dành ưu tiên cho các hành động nào biết phát sinh ra những năng động tính lịch sử mới mẻ. Và việc này đòi phải kiên nhẫn, chờ đợi.
“Tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự không phải là một phát kiến thực nghiệm (‘empirical eureka’). Khi muốn gặp gỡ Thiên Chúa, ta thường hay tìm cách chứng thực về Người ngay tức khắc bằng phương pháp thực nghiệm. Nhưng cha không thể gặp Thiên Chúa cách đó. Thiên Chúa được tìm thấy trong cơn gió nhẹ như Elijah từng thấy. Các giác quan tìm ra Thiên Chúa là các giác quan được Thánh Inhã gọi là giác quan thiêng liêng. Thánh Inhã yêu cầu ta mở rộng sự nhạy cảm thiêng liêng để gặp gỡ Thiên Chúa quá bên kia phương thức hoàn toàn thực nghiệm. Điều cần phải có là thái độ chiêm niệm: cảm nhận được rằng cha đang chuyển động trên con đường hiểu biết và qúy mến đúng, hướng tới các sự việc và hoàn cảnh. Bình an sâu xa, an ủi thiêng liêng, yêu Chúa và yêu mọi sự trong Chúa, đó chính là các dấu hiệu cho thấy cha đang đi trên con đường đúng này”.
Chắc chắn và sai lầm
Cha Sparado hỏi thêm: “Như thế, nếu cuộc gặp gỡ Thiên Chúa không phải là một phát kiến thực nghiệm và nếu nó là một hành trình nhìn bằng con mắt lịch sử, thì ta cũng có thể mắc nhiều sai lầm?”
Đức Phanxicô trả lời: “Đúng, trong cố gắng kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự này, vẫn có một phạm vi không chắc chắn. Nhất định như thế. Nếu ai đó bảo họ gặp Thiên Chúa một cách hoàn toàn chắc chắn và không bị khuấy động bởi bất cứ biên tế không chắc chắn nào, thì điều này không đúng. Đối với tôi, điều này là chìa khóa quan trọng. Nếu ai đó có câu trả lời cho mọi câu hỏi, thì rõ ràng đây là bằng chứng Thiên Chúa không ở trong họ. Nó chỉ có nghĩa họ là một tiên tri giả, chuyên lợi dụng tôn giáo cho riêng mình. Các nhà lãnh đạo vĩ đại của dân Chúa, như Môsê chẳng hạn, luôn dành chỗ cho hoài nghi. Cha phải dành chỗ cho Chúa, chứ không dành chỗ cho các điều chắc chắn của ta; ta phải khiêm nhường. Trong mọi biện phân, sự không chắc chắn giúp ta mở lòng ra đi tìm xác nhận trong ủi an thiêng liêng.
“Như thế, nguy cơ trong việc kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự là quyết tâm giải thích quá nhiều, là nói với sự chắc chắn và cao ngạo của con người: ‘Thiên Chúa đang ở đây nè’. Ta sẽ chỉ thấy một Thiên Chúa phù hợp với kích thước của ta mà thôi. Thái độ đúng là thái độ của Thánh Augustinô: kiếm Thiên Chúa để tìm thấy Người, và tìm thấy Thiên Chúa để tiếp tục kiếm tìm Người mãi mãi. Ta phải kiếm tìm như thể là những người mù, như thường thấy trong Thánh Kinh. Và đây là kinh nghiệm của các cha ông vĩ đại của ta trong đức tin; họ vốn là mẫu mực của ta. Ta cần đọc lại Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11. Ápraham bỏ quê hương mà không biết mình đi đâu, chỉ cậy vào niềm tin. Các tổ tiên trong đức tin của ta đều đã chết sau khi thoáng thấy sự thiện từng được hứa cho mình, nhưng chỉ thấy từ xa... Đời ta được ban cho ta không phải như một opera libretto (bản nhạc kịch), trong đó, mọi điều đều được viết ra; mà như một ra đi, tiến bước, làm, tìm kiếm, thấy... Ta phải bước vào cuộc phiêu lưu đi tìm gặp Thiên Chúa; ta phải để Thiên Chúa tìm và gặp ta.
“Vì Thiên Chúa là thứ nhất; Thiên Chúa luôn là thứ nhất và đi bước thứ nhất. Antoniô ạ, Thiên Chúa giống như bông hoa hạnh đào xứ Sicily của cha vậy, luôn nở đầu tiên. Ta đọc được điều này trong các tiên tri. Thiên Chúa được gặp gỡ trong lúc đang đi, đang ở trên đường. Về phương diện này, ai đó dám cho rằng đây là chủ nghĩa duy tương đối. Phải duy tương đối không? Đúng, nếu hiểu nó như một thứ đa thần thuyết lộn xộn. Nhưng đó không phải là duy tương đối nếu hiểu nó theo nghĩa Thánh Kinh: Thiên Chúa luôn là một ngạc nhiên, thành thử cha không bao giờ biết cha sẽ tìm thấy Người ở đâu và bằng cách nào. Cha không định được thời gian và không gian cho cuộc gặp gỡ Người. Trái lại, cha phải biện phân được cuộc gặp gỡ này. Biện phân là điều chủ yếu.
“Nếu Kitô hữu theo thuyết phục nguyên (restorationism), theo thuyết duy luật lệ, nếu họ muốn mọi sự phải rõ ràng và an toàn, thì họ sẽ chẳng tìm thấy chi. Truyền thống và ký ức quá khứ phải giúp ta can đảm mở ra các phạm vi mới mẻ cho Thiên Chúa. Những ai ngày nay cứ luôn đi tìm các giải pháp có tính kỷ luật, những ai cứ luôn mong mỏi sự ‘an toàn’ tín lý quá trớn, những ai cứ luôn khư khư tìm cách khôi phục một quá khứ không còn hiện hữu nữa, tất cả đều có cái nhìn tĩnh tụ và hướng nội về sự vật. Theo lối này, đức tin trở thành một ý thức hệ giống như mọi ý thức hệ khác. Tôi có sự chắc chắn đúng tín lý sau: Thiên Chúa ở trong đời sống mọi con người. Thiên Chúa ở trong đời sống mọi người. Dù cho đời sống của người ta gặp thảm họa, dù cho đời ấy bị thói xấu, ma túy hay bất cứ điều gì khác phá hủy, Thiên Chúa vẫn ở trong đời sống họ. Cha có thể, cha phải cố gắng kiếm tìm Thiên Chúa trong mọi cuộc sống nhân linh. Dù đời sống một ai đó đầy gai nhọn và cỏ dại, nó vẫn luôn có chỗ để hạt giống tốt nẩy mầm. Cha phải tin tưởng vào Thiên Chúa”.
Ta có nên lạc quan không?
Lời Đức Giáo Hoàng khiến Cha Sparado nhớ lại một số suy tư trong quá khứ của ngài, trong đó, lúc còn là một Hồng Y, ngài viết rằng Thiên Chúa đã đang sống trong chốn đô hội rồi, giữa mọi người và kết hợp với từng người. Theo ý kiến Cha Sparado, đây là cách nói khác của điều chính Thánh Inhã đã viết trong Linh Thao, tức việc Thiên Chúa “lao nhọc và làm việc” trong thế giới của ta. Bởi thế, Cha đã hỏi Đức Giáo Hoàng: “Ta có nên lạc quan hay không? Đâu là các dấu hy vọng trong thế giới ngày nay? Con làm sao lạc quan được trong một thế giới đang khủng hoảng?”
Đức Giáo Hoàng cho hay: “Tôi không thích dùng chữ lạc quan vì lạc quan đề cập tới một thái độ tâm lý. Thay vào đó, tôi thích dùng chữ hy vọng, theo điều ta đọc được trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11, mà tôi đã nhắc đến ở trên. Các cha ông ta trong đức tin tiếp tục tiến bước, sẵn sàng đương đầu với khó khăn. Và hy vọng đã không làm họ nản lòng, như ta đọc thấy trong Thư gửi tín hữu Rôma. Thay vào đó, cha nên nghĩ tới các câu đố đầu tiên trong vở ‘Turandot’ của Puccini”.
Ngay lúc ấy, cha Sparado thoáng nhớ lại trong lòng các câu thơ đố nói về vị công chúa trong vở kịch đó, mà giải đáp là hy vọng: “Trong đêm ảm đạm này, một bóng ma lấp lánh bay./ Nó lên cao rồi tung cánh/ trên nhân loại đen bất tận./ Toàn thế giới khẩn cầu/ và toàn thế giới nài nỉ nó./ Nhưng bóng ma biến mất với rạng đông/ để tái sinh trong tâm hồn./ Và mỗi đêm mỗi sinh ra/ và mỗi ngày mỗi chết đi!”
Đức Phanxicô bảo: “Thấy không, niềm hy vọng Kitô Giáo không phải là bóng ma và nó không lừa dối ai. Nó là một nhân đức đối thần và do đó, xét cho cùng, là một ơn phúc của Thiên Chúa mà ta không được giản lược vào chủ nghĩa lạc quan, một chủ nghĩa chỉ có tính nhân bản. Thiên Chúa không hướng dẫn sai về hy vọng; Thiên Chúa không thể tự bác bỏ chính mình. Thiên Chúa hứa hẹn mọi sự”
Nghệ thuật và óc sáng tạo
Cha Sparado rất ngạc nhiên lúc Đức Phanxicô nhắt tới vở “Turandot” của Puccini khi nói đến mầu nhiệm hy vọng. Cha muốn hiểu hơn các tham chiếu của ngài về nghệ thuật và văn chương. Nên đã nhắc lại việc năm 2006 ngài có nói rằng các họa sĩ biết cách trình bày các thực tại bi đát và đau thương của đời người một cách đẹp đẽ. Và cha đã hỏi Đức Giáo Hoàng xem những ai là các nghệ sĩ và văn sĩ được ngài ưa thích, và liệu họ có gì chung không.
Ngài trả lời: “Tôi thực sự yêu thích một loạt các tác giả khác nhau. Tôi rất yêu Dostoevsky và Hölderlin. Tôi nhớ Hölderlin vì bài thơ ông viết nhân dịp sinh nhật của bà ông, một bài thơ rất hay và rất phong phú về thiêng liêng đối với tôi. Bài thơ kết thúc bằng câu thơ sau: ‘Ước chi người đàn ông giữ vững điều đứa nhỏ đã hứa’. Tôi có ấn tượng sâu xa vì tôi yêu bà Rosa của tôi, và vì bài thơ của Hölderlin đã so sánh người bà của ông với Đức Trinh Nữ Maria, đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu, người bạn của trần thế vốn không coi ai là người xa lạ.
“Tôi đã đọc cuốn The Betrothed (Người Đính Hôn) của Alessandro Manzoni, đến ba lần, và hiện tôi đang để nó trên bàn vì muốn đọc lại lần nữa. Manzoni mang lại cho tôi rất nhiều. Khi còn bé, bà tôi dạy tôi thuộc lòng đoạn đầu của cuốn The Betrothed: ‘nhánh Hồ Como rẽ về hướng nam giữa hai dẫy núi điệp trùng...’. Tôi cũng rất thích (thi sĩ) Gerard Manley Hopkins (của Dòng Tên).
“Trong số các họa sĩ trứ danh, tôi thán phục Caravaggio; các bức tranh của ông như nói với tôi. Nhưng cả Chagall nữa, với bức ‘Đóng Đinh Trắng’. Trong số các nhạc sĩ, tôi yêu Mozart do Clara Haskil trình bày. Mozart tràn ngập tôi. Nhưng tôi không thể suy nghĩ về âm nhạc của ông; tôi phải lắng nghe thôi. Tôi thích lắng nghe Beethoven, nhưng theo cung cách sáng tạo (Promethean way), và người giải thích sáng tạo nhất đối với tôi là Furtwängler. Và còn Khổ Nạn của Bach nữa. Tác phẩm của Bach được tôi thích nhất là ‘Erbarme Dich’, nước mắt Phêrô trong ‘Khổ Nạn Theo Thánh Mátthêu’. Quả là tuyệt diệu. Rồi tôi yêu cả Wagner nữa, trên một bình diện khác, không hẳn thân thiết như thế. Tôi thích lắng nghe ông, nhưng không phải bất cứ lúc nào. Buổi biểu diễn tác phẩm ‘Ring’ của Wagner do Furtwängler trình bày tại La Scala ở Milan năm 1950, đối với tôi, là tuyệt diệu hơn cả. Nhưng cả tác phẩm ‘Parsifal’ của Knappertsbusch năm 1962 nữa.
“Ta cũng nên nói về phim ảnh. ‘La Strada’ của Fellini là cuốn phim có lẽ tôi thích nhất. Tôi đồng nhất với cuốn phim, theo nghĩa: cùng mặc nhiên nhắc tới Thánh Phanxicô. Tôi cũng tin rằng tôi đã xem hết mọi cuốn phim của Ý cùng với Anna Magnani và Aldo Fabrizi trong các năm từ lúc tôi 10 tuổi tới lúc lên 12. Một cuốn phim khác được tôi yêu thích là cuốn ‘Rôma, Kinh Thành Mở Cửa’ (Rome, Open City). Tôi có được nền văn hóa phim ảnh là nhờ cha mẹ tôi, các vị thường dẫn chúng tôi đi xem phim rất nhiều lần.
“Dù sao, nói chung, tôi yêu các nghệ sĩ bi đát, nhất là các nghệ sĩ cổ điển. Có một câu rất hay được Cervantes đặt lên môi chàng độc thân Carrasco để khen câu truyện Don Quixote: ‘Trẻ em có nó trong tay, thiếu niên đọc nó, người lớn hiểu nó, người già ca ngợi nó’. Đối với tôi, câu này là câu định nghĩa hay về các tác giả cổ điển”.
Hỏi Đức Giáo Hoàng về việc dạy văn chương cho các học sinh trung học của ngài
Ngài cho hay: “Hơi nguy hiểm một chút. Tôi phải nắm chắc các học sinh của tôi chịu đọc El Cid. Nhưng chúng không chịu. Chúng muốn đọc Garcia Lorca. Thành thử tôi quyết định chúng sẽ đọc El Cid tại nhà, còn ở trong lớp tôi sẽ dạy chúng các tác giả chúng thích hơn cả. Dĩ nhiên, người trẻ muốn đọc các tác phẩm văn chương hơi ‘sỗ’ (racy) một chút, như cuốn La Casada Infiel lúc đó hay các tác phẩm cổ điển như La Celestina của Fernando de Rojas. Nhưng nhờ đọc những truyện này, chúng thủ đắc được một khiếu thưởng ngoạn văn chương, thi ca, và cứ thế chúng tôi tiến qua các tác giả khác. Và đối với tôi đó là một kinh nghiệm lớn lao. Tôi hoàn tất chương trình, nhưng một cách không có cấu trúc, nghĩa là không theo thứ tự mà chúng tôi đã dự tính lúc ban đầu, mà là theo một thứ tự đến rất tự nhiên nhờ đọc các tác giả này. Và cung cách này rất hợp với tôi: tôi không thích có một lịch trình cứng ngắc, nhưng đúng hơn, tôi muốn biết nơi phải đến với những sách đọc này, với một cảm thức đại cương về điểm mình đang đi tới. Sau đó, tôi bắt đầu bắt chúng phải viết. Cuối cùng, tôi quyết định gửi tới Borges hai cuốn truyện do các học sinh của tôi sáng tác. Tôi biết người thư ký của ông ta; người này vốn là thầy dạy dương cầm của tôi. Borges rất thích hai cuốn truyện này. Và thế là ông ta viết lời giới thiệu cho bộ truyện này”.
Cha Sparado hỏi thêm: “Như thế, thưa Đức Thánh Cha, tính sáng tạo là điều quan trọng đối với đời sống người ta hay sao?”. Ngài cười và trả lời: “đối với một tu sĩ Dòng Tên, nó cực kỳ quan trọng! Tu sĩ Dòng Tên phải có óc sáng tạo”.
Các biên cương và phòng thí nghiệm
Trong một cuộc viếng thăm của các cha và nhân viên tờ La Civiltà Cattolica, Đức Giáo Hoàng có nói tới sự quan trọng của bộ ba “đối thoại, biện phân, biên cương”. Và ngài đặc biệt nhấn mạnh tới điểm cuối cùng, qua việc trưng dẫn Đức Phaolô VI, và điều ngài nói trước đó trong một bài diễn văn về các tu sĩ Dòng Tên: “Bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, dù là trong các môi trường khó khăn nhất và cùng cực nhất, trong các ngã ba ý thức hệ, trong các giao thông hào xã hội, bất cứ nơi nào từng có và hiện có cuộc thảo luận giữa khát vọng sâu xa nhất của con người nhân bản và sứ điệp muôn đời của Tin Mừng, thì tu sĩ Dòng Tên đều đã có mặt và hiện có mặt ở đó cả”. Nên cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem đâu là các ưu tiên đối với các tập san do Dòng Tên xuất bản.
“Các ưu tiên của ta không phải là ‘phòng thí nghiệm đức tin’ mà là ‘hành trình đức tin’, một đức tin lịch sử”
Ngài cho hay: “Ba chữ chủ yếu tôi ủy nhiệm cho La Civiltà Cattolica có thể được mở rộng cho mọi tập san của Dòng, có lẽ với những nhấn mạnh khác nhau tùy theo bản chất và mục tiêu của chúng. Khi tôi nhấn mạnh tới chữ biên cương, tôi muốn nói cách riêng tới nhu cầu của những ai đang làm việc trong thế giới văn hóa, họ cần hội nhập vào ngữ cảnh trong đó họ đang hoạt động và đang suy nghĩ về. Luôn có mối nguy hiểm rình rập của việc sống trong phòng thí nghiệm. Các ưu tiên của ta không phải là ‘phòng thí nghiệm đức tin’, nhưng là ‘hành trình đức tin’, một đức tin lịch sử. Thiên Chúa vốn tự mặc khải như là lịch sử, chứ không như là bản tóm lược các chân lý trừu tượng. Tôi rất sợ các phòng thí nghiệm vì trong phòng thí nghiệm, cha lấy các vấn đề rồi đem chúng về nhà để khuất phục chúng, tô vẽ chúng, bên ngoài ngữ cảnh. Trong khi biên cương, cha làm sao mang về nhà được, cha phải sống trên biên giới chứ, phải gan dạ chứ”.
Xin Đức Giáo Hoàng các điển hình của kinh nghiệm bản thân
Đức Phanxicô cho biết: “Khi đụng tới các vấn đề xã hội, thì tổ chức một cuộc họp để nghiên cứu vấn đề ma túy tại một khu ổ chuột là một chuyện, mà đi tới đó, sống ở đó và hiểu vấn đề từ bên trong và nghiên cứu nó lại là một chuyện khác hẳn. Có một lá thư tuyệt vời do Cha Arrupe gửi cho Các Trung Tâm Nghiên Cứu và Hành Động Xã Hội về nghèo đói, trong đó, ngài nói rõ ràng rằng người ta không thể nói về nghèo đói nếu không trải nghiệm chính sự nghèo đói, qua việc nối kết trực tiếp với những nơi nghèo đói. Chữ hội nhập (insertion) khá nguy hiểm vì một số tu sĩ coi nó như một thứ thời thượng (fad), và nhiều tai họa đã xẩy ra chỉ vì thiếu biện phân. Nhưng điều đó mới quan trọng thực sự.
“Biên cương thì có rất nhiều. Ta hãy nghĩ tới các nữ tu đang sống tại các bệnh viện. Họ quả đang sống ở biên cương. Tôi sống sót là nhờ một trong số họ. Lúc tôi kinh qua bệnh phổi tại bệnh viện, bác sĩ chích penicillin và streptomycin theo một liều lượng nào đó. Nữ tu trực hôm đó tăng gấp ba liều lượng cho tôi vì bà nhanh trí một cách mạnh dạn; bà biết phải làm gì vì bà sống với người bệnh suốt ngày. Bác sĩ, tuy là người tốt, nhưng sống tại phòng thí nghiệm; nữ tu mới là người sống ở biên cương và đối thoại với biên cương hàng ngày. Thuần hóa biên cương có nghĩa chỉ biết lấy từ một nơi xa xăm, giam mình vào một phòng thí nghiệm. Phòng thí nghiệm hữu ích, nhưng với ta, suy nghĩ luôn phải bắt đầu từ kinh nghiệm”.
Việc con người hiểu mình
Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô về các thay đổi lớn lao đang xẩy ra trong xã hội và cách thế con người nhân bản đang tự tái giải thích mình. Đến lúc này, ngài bỗng đứng dậy, đi lấy cuốn sách nguyện để trên bàn. Cuốn sách này bằng tiếng La Tinh và đã cũ mòn vì sử dụng. Ngài mở tới phần Kinh Phụng Vụ Thứ Sáu tuần 27 của Mùa Thường Niên, rồi đọc cho tôi nghe một đoạn trong bài Commonitorium Primum của Thánh Vincent thành Lerins: “Ngay các tín điều của Kitô Giáo cũng phải tuân theo các luật này, củng cố trong nhiều năm, khai tiển với thời gian, thâm hậu với thời gian”
“Quan điểm coi giáo huấn của Giáo Hội như một nguyên khối (monolith) cần phải bảo vệ bất chấp sắc thái hay các hiểu biết khác nhau là quan điểm sai lầm”.
Đức Giáo Hoàng nhận định rằng: “Thánh Vincent thành Lerins đưa ra so sánh giữa việc phát triển về sinh học của con người và việc chuyển giao kho tàng đức tin từ thời kỳ này qua thời kỳ nọ, một kho tàng vốn tăng trưởng và được củng cố với thời gian. Ở đây, việc con người tự hiểu về mình thay đổi theo thời gian và ý thức con người cũng thâm hậu cách đó. Ta hãy nghĩ tới thời kỳ khi nạn nô lệ còn được chấp nhận và án tử hình còn được phép thi hành không bị ai chất vấn. Bởi thế, ta quả lớn lên trong việc hiểu biết chân lý. Các nhà chú giải và các nhà thần học giúp Giáo Hội trưởng thành trong các phê phán của mình. Ngay các khoa học khác và các khai triển của chúng cũng giúp Giáo Hội tiến bộ trong cái hiểu của mình. Có những qui luật và giới điều của Giáo Hội hữu hiệu lúc ấy, nhưng nay đã mất giá trị hoặc ý nghĩa. Quan điểm coi giáo huấn của Giáo Hội như một nguyên khối cần phải bảo vệ bất chấp sắc thái hay các hiểu biết khác nhau là quan điểm sai lầm.
“Dù sao, trong mọi thời kỳ lịch sử, con người nhân bản đều cố gắng tự hiểu biết và phát biểu mình tốt hơn. Nhờ thế, với thời gian, con người nhân bản thay đổi cách mình nhìn mình. Có cách riêng để tự phát biểu đối với người tạc bức ‘Thần Chiến Thắng Có Cánh Của Samothrace’, lại có cách khác đối với Caravaggio, Chagall và lại cách khác nữa đối với Dalí. Ngay các hình thức phát biểu chân lý cũng muôn hình muôn vẻ, và điều này quả là cần thiết đối với việc loan truyền Tin Mừng trong ý nghĩa vượt thời gian của nó.
“Con người nhân bản luôn tự đi tìm mình, và dĩ nhiên, trong cuộc đi tìm này, họ có thể phạm nhiều lầm lỗi. Giáo Hội đã trải nghiệm nhiều thời kỳ chói sáng, như thời Thánh Tôma Aquinô. Nhưng Giáo Hội cũng đã sống nhiều thời kỳ sa sút trong khả năng suy nghĩ của mình. Thí dụ, ta không được lẫn lộn thiên tài Tôma Aquinô với thời kỳ sa sút của các chú giải có tính duy Tôma (thomist). Bất hạnh thay, tôi từng phải học triết lý từ các sách giáo khoa phát xuất từ chủ nghĩa duy Tôma sa sút và phần lớn băng hoại này. Cho nên, khi suy nghĩ về con người nhân bản, Giáo Hội phải cố vươn tới thiên tài, chứ không sa sút.
“Khi nào thì việc lên công thức cho tư tưởng hết còn giá trị? Khi nó không còn nhìn ra nét nhân bản và ngay cả lúc nó sợ điều nhân bản hoặc bị lừa đảo về nó. Có thể ví tư tưởng bị lừa như Ulysses gặp bài ca Nhân Ngư, hay như Tannhäuser trong cơn truy hoan vây quanh bởi những kẻ cuồng dâm và chè chén, hay như Parsifal, trong màn hai của kịch bản Wagner tại lâu đài Klingsor. Việc suy nghĩ của Giáo Hội phải phục hồi được nét thiên tài và hiểu tốt hơn cách con người nhân bản tự hiểu về chính mình hiện nay, để có thể khai triển và thâm hậu hóa được giáo huấn của Giáo Hội”.
Việc cầu nguyện
Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô về cách cầu nguyện ưa thích hơn của ngài. Ngài cho hay: “Tôi đọc sách nguyện mỗi buổi sáng. Tôi thích cầu nguyện bằng thánh vịnh. Rồi, trễ hơn, tôi cử hành Thánh Lễ. Đọc Kinh Mân Côi. Điều tôi thực sự ưa thích là thờ lạy vào buổi tối, ngay cả lúc đang chia trí và suy nghĩ nhiều việc khác, thậm chí còn ngủ gật lúc cầu nguyện. Như thế, vào buổi tối, giữa khoảng từ 7 tới 8 giờ, tôi qùy trước Mình Thánh một giờ để thờ lạy. Nhưng tôi luôn cầu nguyện trong trí ngay cả khi đang chờ gặp nha sĩ hay bất cứ lúc nào khác trong ngày.
“Với tôi, cầu nguyện luôn là cầu nguyện với trọn trí nhớ, hồi tâm, ngay cả nhớ tới dĩ vãng của mình hay điều Chúa làm trong Giáo Hội hay trong một giáo xứ đặc thù nào đó. Với tôi, đó là trí nhớ những điều Thánh Inhã nói tới trong Tuần Đầu Linh Thao tức cuộc gặp gỡ Chúa Kitô từ nhân chịu đóng đinh. Và tôi tự hỏi: ‘Tôi đã làm gì cho Chúa Kitô? Tôi đang làm gì cho Người? Tôi nên làm gì cho Chúa Kitô?’. Đó là trí nhớ những điều Thánh Inhã nói ở phần ‘Chiêm Niệm để Cảm Nghiệm Tình Yêu Thiên Chúa’ khi ngài yêu cầu ta nhớ lại các ơn phúc ta đã nhận được. Nhưng trên hết, tôi cũng biết rằng Chúa nhớ đến tôi. Tôi có thể quên Người, nhưng tôi biết Người không bao giờ, không khi nào quên tôi. Trí nhớ có vai trò nền tảng đối với trái tim tu sĩ Dòng Tên: nhớ tới ơn thánh, một trí nhớ được Đệ Nhị Luật nhắc đến, nhớ đến các kỳ công của Thiên Chúa làm căn bản cho giao ước giữa Người và dân riêng. Chính trí nhớ này làm tôi trở thành người con của Người, và nó cũng làm tôi thành người cha nữa”.
Nguồn: http://www.americamagazine.org/pope-interview
Đức Phanxicô là vị giáo hoàng thuộc dòng tu đầu tiên kể từ Đức Grêgôriô XVI, một đan sĩ thuộc Dòng Camaldoli, lên ngôi năm 1831. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “đâu là vị trí chuyên biệt của tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội ngày nay?”
Đức Giáo Hoàng cho biết: “Tu sĩ nam nữ là các tiên tri. Họ là những người đã quyết định theo Chúa Giêsu bằng cách mô phỏng cuộc sống của Người trong vâng lời Chúa Cha, nghèo khó, cuộc sống cộng đoàn và khiết tịnh. Trong chiều hướng này, các lời khấn không thể kết cục như các biếm họa; nếu không, đời sống cộng đoàn, chẳng hạn, sẽ trở thành hỏa ngục, và khiết tịnh sẽ trở thành lối sống của những anh chàng độc thân khô cằn. Lời khấn khiết tịnh phải là lời khấn sinh hoa kết trái. Trong Giáo Hội, tu sĩ được kêu gọi làm tiên tri, đặc biệt bằng cách chứng tỏ Chúa Giêsu đã sống trên trần gian ra sao, và công bố Nước Thiên Chúa sẽ như thế nào lúc thành toàn. Tu sĩ không bao giờ được từ bỏ việc nói tiên tri. Điều này không có nghĩa đi ngược lại phẩm trật Giáo Hội, dù chức năng tiên tri và cơ cấu phẩm trật không trùng hợp với nhau. Tôi đang nói tới một đề xuất luôn tích cực nhưng không nên gây ra nhút nhát. Ta hãy nghĩ tới công trình của biết bao vị thánh vĩ đại, các đan sĩ và tu sĩ nam nữ, từ Thánh Antôn viện tu trở về sau. Là tiên tri đôi khi gây nên sóng gió. Tôi không biết nên nói thế nào... Nói tiên tri quả có gây ồn ào, náo động, nhiều người còn cho là “xáo trộn” (a mess) nữa. Nhưng trên thực tế, đặc sủng của tu sĩ giống như men bột: nói tiên tri là thông báo tinh thần của Tin Mừng”.
Giáo triều Rôma
Cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem ngài nghĩ gì về các bộ sở của Giáo Triều Rôma, các cơ quan khác nhau đang trợ giúp Đức Giáo Hoàng trong sứ mệnh của ngài.
Ngài cho hay “Các bộ sở trong Giáo Triều Rôma là để phục vụ Đức Giáo Hoàng và các giám mục. Chúng phải trợ giúp cả các Giáo Hội địa phương lẫn các hội đồng giám mục. Chúng là các dụng cụ trợ giúp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vì không hành xử đúng chức năng, chúng có nguy cơ trở thành các định chế kiểm duyệt. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy các tố cáo thiếu chính thống được đưa tới Rôma. Tôi nghĩ những trường hợp này nên được các hội đồng giám mục địa phương điều tra; các hội đồng này có thể được Rôma hỗ trợ một cách đáng kể. Thực thế, các trường hợp này được xử lý tốt hơn tại địa phương. Các bộ sở tại Rôma chỉ là các trung gian; chúng không phải là mối lái hay cơ quan quản trị”.
Ngày 29 tháng Sáu, trong buổi lễ chúc lành và trao dây pallium cho 34 tổng giám mục các giáo tỉnh, Đức Phanxicô nói tới “con đường hợp đoàn” như là con đường dẫn Giáo Hội “lớn lên trong sự hòa hợp với việc phục vụ của quyền tối thượng”. Bởi thế, Cha Sparado hỏi ngài “Ta có thể giao hòa ra sao quyền tối thượng của Phêrô và tính hợp đoàn? Những con đường nào khả thi cả trong viễn tượng đại kết nữa?”
Đức Phanxicô trả lời: “Ta phải cùng sánh bước với nhau: giáo dân, giám mục và giáo hoàng. Tính công đồng phải được sống trên nhiều bình diện khác nhau. Có lẽ nay là lúc phải thay đổi các phương pháp của Thượng Hội Đồng Giám Mục, vì đối với tôi, hình như phương pháp hiện thời không được năng động lắm. Việc này cũng sẽ có giá trị đại kết nữa, nhất là với các anh em Chính Thống Giáo của ta. Ta có thể học được từ họ nhiều điều hơn về ý nghĩa của tình hợp đoàn giám mục và truyền thống công đồng. Các cố gắng suy tư chung, về việc phải cai quản Giáo Hội ra sao trong các thế kỷ đầu tiên, trước khi có sự chia cách Đông Tây, sẽ đem lại hoa trái đúng lúc. Trong các liên hệ đại kết, điều quan trọng không những là phải biết nhau tốt hơn mà còn phải nhìn nhận những gì Chúa Thánh Thần từng gieo vãi nơi người khác như là hồng phúc đối với ta. Tôi muốn tiếp tục cuộc thảo luận vốn đã bắt đầu vào năm 2007 của ủy ban hỗn hợp [giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo] về vấn đề phải thi hành quyền tối thượng của Phêrô ra sao, một cuộc thảo luận đã đưa tới việc ký kết Văn Kiện Ravenna. Ta phải tiếp tục đi con đường này”.
Cha Sparado hỏi xem Đức Phanxicô dự phóng ra sao việc hợp nhất Giáo Hội trong tương lai dưới ánh sáng câu trả lời của ngài, thì ngài cho biết: “Ta phải tiến bước bằng cách hợp nhất trong dị biệt: không có đường nào khác để trở nên một cả. Đó là con đường của Chúa Giêsu”.
Phụ nữ trong đời sống Giáo Hội
Và đâu là vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội? Đức Phanxicô từng nhiều lần đề cập tới vấn đề này. Ngài nhắc đến nó trong chuyến bay trở về từ Rio de Janeiro, khi cho rằng Giáo Hội vẫn còn thiếu một nền thần học sâu sắc về phụ nữ. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “Vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội phải nên như thế nào? Ta phải làm vai trò của họ trở nên hiển hiện ra sao trong lúc này?”
Ngài trả lời: “Ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội. Tôi lo lắng trước giải pháp muốn giản lược nó vào một thứ chủ nghĩa cao ngạo nữ giới (female machismo), vì phụ nữ có một thể trạng (make-up) khác với nam giới. Nhưng điều tôi nghe về vai trò của phụ nữ thường được gợi hứng từ ý thức hệ cao ngạo. Phụ nữ đang đặt ra các câu hỏi sâu sắc cần được trả lời. Giáo Hội không thể là chính mình nếu không có phụ nữ và vai trò của họ. Phụ nữ rất chủ yếu đối với Giáo Hội. Đức Maria, một phụ nữ, vốn quan yếu hơn các giám mục. Tôi nói điều này vì ta không nên lẫn lộn chức năng với phẩm giá. Cho nên ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội. Ta phải cố gắng hơn nữa để khai triển ra một nền thần học sâu sắc về phụ nữ. Thiên tài phụ nữ được cần tới ở bất cứ nơi nào ta đưa ra các quyết định quan trọng. Thách thức hiện nay là: suy nghĩ về chỗ đứng chuyên biệt của phụ nữ cả ở những nơi thẩm quyền của Giáo Hội được thi hành trong các phạm vi khác nhau của Giáo Hội”
Công Đồng Vatican II
Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Công Đồng Vatican II thực hiện được những gì ?”. Ngài. đáp: “Vatican II là một cuộc đọc lại Tin Mừng dưới ánh sáng văn hóa đương thời. Nó tạo ra một phong trào canh tân đơn thuần phát khởi từ cùng một Tin Mừng này. Hoa trái của nó thật lớn lao. Chỉ cần nhắc tới phụng vụ. Công trình canh tân mục vụ là nhằm giúp tín hữu đọc lại Tin Mừng từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đúng là có những nền giải thích liên tục và gián đoạn, nhưng điều rõ ràng là: tính năng động của việc đọc Tin Mừng, hiện thực hóa sứ điệp của nó vào hôm nay, một công việc hết sức đặc trưng của Vatican II, là điều tuyệt đối không thể nào đảo ngược được. Rồi còn có các vấn đề đặc biệt như phụng vụ theo Vetus Ordo (lễ qui cũ). Tôi nghĩ quyết định của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô [tức quyết định ngày 7 tháng Bẩy, 2007 cho phép việc sử dụng rộng rãi hơn Thánh Lễ theo Công Đồng Triđentinô] là một quyết định khôn ngoan và đước thúc đẩy bởi ý muốn giúp những người vốn nhạy cảm về khía cạnh này. Dù, điều khiến người ta ưu tư là nguy cơ biến Vetus Ordo thành một ý thức hệ, để khai thác nó”.
Kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự
Tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Rio de Janeiro, Đức Phanxicô nhiều lần tuyên bố rằng: “Thiên Chúa có thật. Người tự mạc khải Người ra hôm nay. Người ở khắp nơi”. Những mệnh đề này khiến ta nhớ tới kiểu nói của Thánh Inhã “kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự”. Dựa vào câu này, Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Đức Thánh Cha kiếm và tìm thây Thiên Chúa trong mọi sự ra sao?”.
Ngài trả lời: “Điều tôi nói tại Rio có ý nói tới thời điểm ta đang đi kiếm Thiên Chúa. Thực vậy, ta vốn bị cám dỗ đi kiếm Thiên Chúa ở dĩ vãng hay ở một tương lai khả hữu nào đó. Thiên Chúa quả có ở trong quá khứ thật vì ta có thể nhìn ra dấu chân của Người. Và Thiên Chúa cũng ở trong tương lai như một hứa hẹn. Nhưng Thiên Chúa ‘cụ thể’, có thể nói như thế, thì đang ở đây hôm nay. Chính vì vậy, than vãn không bao giờ giúp ta kiếm Thiên Chúa. Các than vãn ngày nay về việc thế giới hiện đại ‘man rợ’ biết chừng nào, những than vãn này đôi khi chỉ kết thúc bằng việc cho ra đời, trong lòng Giáo Hội, các ước muốn thiết lập trật tự theo nghĩa bảo tồn đơn thuần, như một thứ phòng ngự. Không, Thiên Chúa cần được gặp gỡ trong thế giới ngày nay.
“Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong mạc khải lịch sử, trong lịch sử. Thời gian khởi diễn các diễn trình, và không gian kết tinh chúng. Thiên Chúa ở trong lịch sử, ở trong các diễn trình.
“Ta không nên tập chú vào việc chiếm hữu các không gian để thi hành quyền lực, mà đúng hơn nên khởi diễn các diễn trình lịch sử lâu dài. Ta phải khởi diễn các diễn trình hơn là chiếm hữu các không gian. Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thời gian và đang hiện diện trong các diễn trình của lịch sử. Điều này dành ưu tiên cho các hành động nào biết phát sinh ra những năng động tính lịch sử mới mẻ. Và việc này đòi phải kiên nhẫn, chờ đợi.
“Tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự không phải là một phát kiến thực nghiệm (‘empirical eureka’). Khi muốn gặp gỡ Thiên Chúa, ta thường hay tìm cách chứng thực về Người ngay tức khắc bằng phương pháp thực nghiệm. Nhưng cha không thể gặp Thiên Chúa cách đó. Thiên Chúa được tìm thấy trong cơn gió nhẹ như Elijah từng thấy. Các giác quan tìm ra Thiên Chúa là các giác quan được Thánh Inhã gọi là giác quan thiêng liêng. Thánh Inhã yêu cầu ta mở rộng sự nhạy cảm thiêng liêng để gặp gỡ Thiên Chúa quá bên kia phương thức hoàn toàn thực nghiệm. Điều cần phải có là thái độ chiêm niệm: cảm nhận được rằng cha đang chuyển động trên con đường hiểu biết và qúy mến đúng, hướng tới các sự việc và hoàn cảnh. Bình an sâu xa, an ủi thiêng liêng, yêu Chúa và yêu mọi sự trong Chúa, đó chính là các dấu hiệu cho thấy cha đang đi trên con đường đúng này”.
Chắc chắn và sai lầm
Cha Sparado hỏi thêm: “Như thế, nếu cuộc gặp gỡ Thiên Chúa không phải là một phát kiến thực nghiệm và nếu nó là một hành trình nhìn bằng con mắt lịch sử, thì ta cũng có thể mắc nhiều sai lầm?”
Đức Phanxicô trả lời: “Đúng, trong cố gắng kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự này, vẫn có một phạm vi không chắc chắn. Nhất định như thế. Nếu ai đó bảo họ gặp Thiên Chúa một cách hoàn toàn chắc chắn và không bị khuấy động bởi bất cứ biên tế không chắc chắn nào, thì điều này không đúng. Đối với tôi, điều này là chìa khóa quan trọng. Nếu ai đó có câu trả lời cho mọi câu hỏi, thì rõ ràng đây là bằng chứng Thiên Chúa không ở trong họ. Nó chỉ có nghĩa họ là một tiên tri giả, chuyên lợi dụng tôn giáo cho riêng mình. Các nhà lãnh đạo vĩ đại của dân Chúa, như Môsê chẳng hạn, luôn dành chỗ cho hoài nghi. Cha phải dành chỗ cho Chúa, chứ không dành chỗ cho các điều chắc chắn của ta; ta phải khiêm nhường. Trong mọi biện phân, sự không chắc chắn giúp ta mở lòng ra đi tìm xác nhận trong ủi an thiêng liêng.
“Như thế, nguy cơ trong việc kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự là quyết tâm giải thích quá nhiều, là nói với sự chắc chắn và cao ngạo của con người: ‘Thiên Chúa đang ở đây nè’. Ta sẽ chỉ thấy một Thiên Chúa phù hợp với kích thước của ta mà thôi. Thái độ đúng là thái độ của Thánh Augustinô: kiếm Thiên Chúa để tìm thấy Người, và tìm thấy Thiên Chúa để tiếp tục kiếm tìm Người mãi mãi. Ta phải kiếm tìm như thể là những người mù, như thường thấy trong Thánh Kinh. Và đây là kinh nghiệm của các cha ông vĩ đại của ta trong đức tin; họ vốn là mẫu mực của ta. Ta cần đọc lại Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11. Ápraham bỏ quê hương mà không biết mình đi đâu, chỉ cậy vào niềm tin. Các tổ tiên trong đức tin của ta đều đã chết sau khi thoáng thấy sự thiện từng được hứa cho mình, nhưng chỉ thấy từ xa... Đời ta được ban cho ta không phải như một opera libretto (bản nhạc kịch), trong đó, mọi điều đều được viết ra; mà như một ra đi, tiến bước, làm, tìm kiếm, thấy... Ta phải bước vào cuộc phiêu lưu đi tìm gặp Thiên Chúa; ta phải để Thiên Chúa tìm và gặp ta.
“Vì Thiên Chúa là thứ nhất; Thiên Chúa luôn là thứ nhất và đi bước thứ nhất. Antoniô ạ, Thiên Chúa giống như bông hoa hạnh đào xứ Sicily của cha vậy, luôn nở đầu tiên. Ta đọc được điều này trong các tiên tri. Thiên Chúa được gặp gỡ trong lúc đang đi, đang ở trên đường. Về phương diện này, ai đó dám cho rằng đây là chủ nghĩa duy tương đối. Phải duy tương đối không? Đúng, nếu hiểu nó như một thứ đa thần thuyết lộn xộn. Nhưng đó không phải là duy tương đối nếu hiểu nó theo nghĩa Thánh Kinh: Thiên Chúa luôn là một ngạc nhiên, thành thử cha không bao giờ biết cha sẽ tìm thấy Người ở đâu và bằng cách nào. Cha không định được thời gian và không gian cho cuộc gặp gỡ Người. Trái lại, cha phải biện phân được cuộc gặp gỡ này. Biện phân là điều chủ yếu.
“Nếu Kitô hữu theo thuyết phục nguyên (restorationism), theo thuyết duy luật lệ, nếu họ muốn mọi sự phải rõ ràng và an toàn, thì họ sẽ chẳng tìm thấy chi. Truyền thống và ký ức quá khứ phải giúp ta can đảm mở ra các phạm vi mới mẻ cho Thiên Chúa. Những ai ngày nay cứ luôn đi tìm các giải pháp có tính kỷ luật, những ai cứ luôn mong mỏi sự ‘an toàn’ tín lý quá trớn, những ai cứ luôn khư khư tìm cách khôi phục một quá khứ không còn hiện hữu nữa, tất cả đều có cái nhìn tĩnh tụ và hướng nội về sự vật. Theo lối này, đức tin trở thành một ý thức hệ giống như mọi ý thức hệ khác. Tôi có sự chắc chắn đúng tín lý sau: Thiên Chúa ở trong đời sống mọi con người. Thiên Chúa ở trong đời sống mọi người. Dù cho đời sống của người ta gặp thảm họa, dù cho đời ấy bị thói xấu, ma túy hay bất cứ điều gì khác phá hủy, Thiên Chúa vẫn ở trong đời sống họ. Cha có thể, cha phải cố gắng kiếm tìm Thiên Chúa trong mọi cuộc sống nhân linh. Dù đời sống một ai đó đầy gai nhọn và cỏ dại, nó vẫn luôn có chỗ để hạt giống tốt nẩy mầm. Cha phải tin tưởng vào Thiên Chúa”.
Ta có nên lạc quan không?
Lời Đức Giáo Hoàng khiến Cha Sparado nhớ lại một số suy tư trong quá khứ của ngài, trong đó, lúc còn là một Hồng Y, ngài viết rằng Thiên Chúa đã đang sống trong chốn đô hội rồi, giữa mọi người và kết hợp với từng người. Theo ý kiến Cha Sparado, đây là cách nói khác của điều chính Thánh Inhã đã viết trong Linh Thao, tức việc Thiên Chúa “lao nhọc và làm việc” trong thế giới của ta. Bởi thế, Cha đã hỏi Đức Giáo Hoàng: “Ta có nên lạc quan hay không? Đâu là các dấu hy vọng trong thế giới ngày nay? Con làm sao lạc quan được trong một thế giới đang khủng hoảng?”
Đức Giáo Hoàng cho hay: “Tôi không thích dùng chữ lạc quan vì lạc quan đề cập tới một thái độ tâm lý. Thay vào đó, tôi thích dùng chữ hy vọng, theo điều ta đọc được trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11, mà tôi đã nhắc đến ở trên. Các cha ông ta trong đức tin tiếp tục tiến bước, sẵn sàng đương đầu với khó khăn. Và hy vọng đã không làm họ nản lòng, như ta đọc thấy trong Thư gửi tín hữu Rôma. Thay vào đó, cha nên nghĩ tới các câu đố đầu tiên trong vở ‘Turandot’ của Puccini”.
Ngay lúc ấy, cha Sparado thoáng nhớ lại trong lòng các câu thơ đố nói về vị công chúa trong vở kịch đó, mà giải đáp là hy vọng: “Trong đêm ảm đạm này, một bóng ma lấp lánh bay./ Nó lên cao rồi tung cánh/ trên nhân loại đen bất tận./ Toàn thế giới khẩn cầu/ và toàn thế giới nài nỉ nó./ Nhưng bóng ma biến mất với rạng đông/ để tái sinh trong tâm hồn./ Và mỗi đêm mỗi sinh ra/ và mỗi ngày mỗi chết đi!”
Đức Phanxicô bảo: “Thấy không, niềm hy vọng Kitô Giáo không phải là bóng ma và nó không lừa dối ai. Nó là một nhân đức đối thần và do đó, xét cho cùng, là một ơn phúc của Thiên Chúa mà ta không được giản lược vào chủ nghĩa lạc quan, một chủ nghĩa chỉ có tính nhân bản. Thiên Chúa không hướng dẫn sai về hy vọng; Thiên Chúa không thể tự bác bỏ chính mình. Thiên Chúa hứa hẹn mọi sự”
Nghệ thuật và óc sáng tạo
Cha Sparado rất ngạc nhiên lúc Đức Phanxicô nhắt tới vở “Turandot” của Puccini khi nói đến mầu nhiệm hy vọng. Cha muốn hiểu hơn các tham chiếu của ngài về nghệ thuật và văn chương. Nên đã nhắc lại việc năm 2006 ngài có nói rằng các họa sĩ biết cách trình bày các thực tại bi đát và đau thương của đời người một cách đẹp đẽ. Và cha đã hỏi Đức Giáo Hoàng xem những ai là các nghệ sĩ và văn sĩ được ngài ưa thích, và liệu họ có gì chung không.
Ngài trả lời: “Tôi thực sự yêu thích một loạt các tác giả khác nhau. Tôi rất yêu Dostoevsky và Hölderlin. Tôi nhớ Hölderlin vì bài thơ ông viết nhân dịp sinh nhật của bà ông, một bài thơ rất hay và rất phong phú về thiêng liêng đối với tôi. Bài thơ kết thúc bằng câu thơ sau: ‘Ước chi người đàn ông giữ vững điều đứa nhỏ đã hứa’. Tôi có ấn tượng sâu xa vì tôi yêu bà Rosa của tôi, và vì bài thơ của Hölderlin đã so sánh người bà của ông với Đức Trinh Nữ Maria, đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu, người bạn của trần thế vốn không coi ai là người xa lạ.
“Tôi đã đọc cuốn The Betrothed (Người Đính Hôn) của Alessandro Manzoni, đến ba lần, và hiện tôi đang để nó trên bàn vì muốn đọc lại lần nữa. Manzoni mang lại cho tôi rất nhiều. Khi còn bé, bà tôi dạy tôi thuộc lòng đoạn đầu của cuốn The Betrothed: ‘nhánh Hồ Como rẽ về hướng nam giữa hai dẫy núi điệp trùng...’. Tôi cũng rất thích (thi sĩ) Gerard Manley Hopkins (của Dòng Tên).
“Trong số các họa sĩ trứ danh, tôi thán phục Caravaggio; các bức tranh của ông như nói với tôi. Nhưng cả Chagall nữa, với bức ‘Đóng Đinh Trắng’. Trong số các nhạc sĩ, tôi yêu Mozart do Clara Haskil trình bày. Mozart tràn ngập tôi. Nhưng tôi không thể suy nghĩ về âm nhạc của ông; tôi phải lắng nghe thôi. Tôi thích lắng nghe Beethoven, nhưng theo cung cách sáng tạo (Promethean way), và người giải thích sáng tạo nhất đối với tôi là Furtwängler. Và còn Khổ Nạn của Bach nữa. Tác phẩm của Bach được tôi thích nhất là ‘Erbarme Dich’, nước mắt Phêrô trong ‘Khổ Nạn Theo Thánh Mátthêu’. Quả là tuyệt diệu. Rồi tôi yêu cả Wagner nữa, trên một bình diện khác, không hẳn thân thiết như thế. Tôi thích lắng nghe ông, nhưng không phải bất cứ lúc nào. Buổi biểu diễn tác phẩm ‘Ring’ của Wagner do Furtwängler trình bày tại La Scala ở Milan năm 1950, đối với tôi, là tuyệt diệu hơn cả. Nhưng cả tác phẩm ‘Parsifal’ của Knappertsbusch năm 1962 nữa.
“Ta cũng nên nói về phim ảnh. ‘La Strada’ của Fellini là cuốn phim có lẽ tôi thích nhất. Tôi đồng nhất với cuốn phim, theo nghĩa: cùng mặc nhiên nhắc tới Thánh Phanxicô. Tôi cũng tin rằng tôi đã xem hết mọi cuốn phim của Ý cùng với Anna Magnani và Aldo Fabrizi trong các năm từ lúc tôi 10 tuổi tới lúc lên 12. Một cuốn phim khác được tôi yêu thích là cuốn ‘Rôma, Kinh Thành Mở Cửa’ (Rome, Open City). Tôi có được nền văn hóa phim ảnh là nhờ cha mẹ tôi, các vị thường dẫn chúng tôi đi xem phim rất nhiều lần.
“Dù sao, nói chung, tôi yêu các nghệ sĩ bi đát, nhất là các nghệ sĩ cổ điển. Có một câu rất hay được Cervantes đặt lên môi chàng độc thân Carrasco để khen câu truyện Don Quixote: ‘Trẻ em có nó trong tay, thiếu niên đọc nó, người lớn hiểu nó, người già ca ngợi nó’. Đối với tôi, câu này là câu định nghĩa hay về các tác giả cổ điển”.
Hỏi Đức Giáo Hoàng về việc dạy văn chương cho các học sinh trung học của ngài
Ngài cho hay: “Hơi nguy hiểm một chút. Tôi phải nắm chắc các học sinh của tôi chịu đọc El Cid. Nhưng chúng không chịu. Chúng muốn đọc Garcia Lorca. Thành thử tôi quyết định chúng sẽ đọc El Cid tại nhà, còn ở trong lớp tôi sẽ dạy chúng các tác giả chúng thích hơn cả. Dĩ nhiên, người trẻ muốn đọc các tác phẩm văn chương hơi ‘sỗ’ (racy) một chút, như cuốn La Casada Infiel lúc đó hay các tác phẩm cổ điển như La Celestina của Fernando de Rojas. Nhưng nhờ đọc những truyện này, chúng thủ đắc được một khiếu thưởng ngoạn văn chương, thi ca, và cứ thế chúng tôi tiến qua các tác giả khác. Và đối với tôi đó là một kinh nghiệm lớn lao. Tôi hoàn tất chương trình, nhưng một cách không có cấu trúc, nghĩa là không theo thứ tự mà chúng tôi đã dự tính lúc ban đầu, mà là theo một thứ tự đến rất tự nhiên nhờ đọc các tác giả này. Và cung cách này rất hợp với tôi: tôi không thích có một lịch trình cứng ngắc, nhưng đúng hơn, tôi muốn biết nơi phải đến với những sách đọc này, với một cảm thức đại cương về điểm mình đang đi tới. Sau đó, tôi bắt đầu bắt chúng phải viết. Cuối cùng, tôi quyết định gửi tới Borges hai cuốn truyện do các học sinh của tôi sáng tác. Tôi biết người thư ký của ông ta; người này vốn là thầy dạy dương cầm của tôi. Borges rất thích hai cuốn truyện này. Và thế là ông ta viết lời giới thiệu cho bộ truyện này”.
Cha Sparado hỏi thêm: “Như thế, thưa Đức Thánh Cha, tính sáng tạo là điều quan trọng đối với đời sống người ta hay sao?”. Ngài cười và trả lời: “đối với một tu sĩ Dòng Tên, nó cực kỳ quan trọng! Tu sĩ Dòng Tên phải có óc sáng tạo”.
Các biên cương và phòng thí nghiệm
Trong một cuộc viếng thăm của các cha và nhân viên tờ La Civiltà Cattolica, Đức Giáo Hoàng có nói tới sự quan trọng của bộ ba “đối thoại, biện phân, biên cương”. Và ngài đặc biệt nhấn mạnh tới điểm cuối cùng, qua việc trưng dẫn Đức Phaolô VI, và điều ngài nói trước đó trong một bài diễn văn về các tu sĩ Dòng Tên: “Bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, dù là trong các môi trường khó khăn nhất và cùng cực nhất, trong các ngã ba ý thức hệ, trong các giao thông hào xã hội, bất cứ nơi nào từng có và hiện có cuộc thảo luận giữa khát vọng sâu xa nhất của con người nhân bản và sứ điệp muôn đời của Tin Mừng, thì tu sĩ Dòng Tên đều đã có mặt và hiện có mặt ở đó cả”. Nên cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem đâu là các ưu tiên đối với các tập san do Dòng Tên xuất bản.
“Các ưu tiên của ta không phải là ‘phòng thí nghiệm đức tin’ mà là ‘hành trình đức tin’, một đức tin lịch sử”
Ngài cho hay: “Ba chữ chủ yếu tôi ủy nhiệm cho La Civiltà Cattolica có thể được mở rộng cho mọi tập san của Dòng, có lẽ với những nhấn mạnh khác nhau tùy theo bản chất và mục tiêu của chúng. Khi tôi nhấn mạnh tới chữ biên cương, tôi muốn nói cách riêng tới nhu cầu của những ai đang làm việc trong thế giới văn hóa, họ cần hội nhập vào ngữ cảnh trong đó họ đang hoạt động và đang suy nghĩ về. Luôn có mối nguy hiểm rình rập của việc sống trong phòng thí nghiệm. Các ưu tiên của ta không phải là ‘phòng thí nghiệm đức tin’, nhưng là ‘hành trình đức tin’, một đức tin lịch sử. Thiên Chúa vốn tự mặc khải như là lịch sử, chứ không như là bản tóm lược các chân lý trừu tượng. Tôi rất sợ các phòng thí nghiệm vì trong phòng thí nghiệm, cha lấy các vấn đề rồi đem chúng về nhà để khuất phục chúng, tô vẽ chúng, bên ngoài ngữ cảnh. Trong khi biên cương, cha làm sao mang về nhà được, cha phải sống trên biên giới chứ, phải gan dạ chứ”.
Xin Đức Giáo Hoàng các điển hình của kinh nghiệm bản thân
Đức Phanxicô cho biết: “Khi đụng tới các vấn đề xã hội, thì tổ chức một cuộc họp để nghiên cứu vấn đề ma túy tại một khu ổ chuột là một chuyện, mà đi tới đó, sống ở đó và hiểu vấn đề từ bên trong và nghiên cứu nó lại là một chuyện khác hẳn. Có một lá thư tuyệt vời do Cha Arrupe gửi cho Các Trung Tâm Nghiên Cứu và Hành Động Xã Hội về nghèo đói, trong đó, ngài nói rõ ràng rằng người ta không thể nói về nghèo đói nếu không trải nghiệm chính sự nghèo đói, qua việc nối kết trực tiếp với những nơi nghèo đói. Chữ hội nhập (insertion) khá nguy hiểm vì một số tu sĩ coi nó như một thứ thời thượng (fad), và nhiều tai họa đã xẩy ra chỉ vì thiếu biện phân. Nhưng điều đó mới quan trọng thực sự.
“Biên cương thì có rất nhiều. Ta hãy nghĩ tới các nữ tu đang sống tại các bệnh viện. Họ quả đang sống ở biên cương. Tôi sống sót là nhờ một trong số họ. Lúc tôi kinh qua bệnh phổi tại bệnh viện, bác sĩ chích penicillin và streptomycin theo một liều lượng nào đó. Nữ tu trực hôm đó tăng gấp ba liều lượng cho tôi vì bà nhanh trí một cách mạnh dạn; bà biết phải làm gì vì bà sống với người bệnh suốt ngày. Bác sĩ, tuy là người tốt, nhưng sống tại phòng thí nghiệm; nữ tu mới là người sống ở biên cương và đối thoại với biên cương hàng ngày. Thuần hóa biên cương có nghĩa chỉ biết lấy từ một nơi xa xăm, giam mình vào một phòng thí nghiệm. Phòng thí nghiệm hữu ích, nhưng với ta, suy nghĩ luôn phải bắt đầu từ kinh nghiệm”.
Việc con người hiểu mình
Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô về các thay đổi lớn lao đang xẩy ra trong xã hội và cách thế con người nhân bản đang tự tái giải thích mình. Đến lúc này, ngài bỗng đứng dậy, đi lấy cuốn sách nguyện để trên bàn. Cuốn sách này bằng tiếng La Tinh và đã cũ mòn vì sử dụng. Ngài mở tới phần Kinh Phụng Vụ Thứ Sáu tuần 27 của Mùa Thường Niên, rồi đọc cho tôi nghe một đoạn trong bài Commonitorium Primum của Thánh Vincent thành Lerins: “Ngay các tín điều của Kitô Giáo cũng phải tuân theo các luật này, củng cố trong nhiều năm, khai tiển với thời gian, thâm hậu với thời gian”
“Quan điểm coi giáo huấn của Giáo Hội như một nguyên khối (monolith) cần phải bảo vệ bất chấp sắc thái hay các hiểu biết khác nhau là quan điểm sai lầm”.
Đức Giáo Hoàng nhận định rằng: “Thánh Vincent thành Lerins đưa ra so sánh giữa việc phát triển về sinh học của con người và việc chuyển giao kho tàng đức tin từ thời kỳ này qua thời kỳ nọ, một kho tàng vốn tăng trưởng và được củng cố với thời gian. Ở đây, việc con người tự hiểu về mình thay đổi theo thời gian và ý thức con người cũng thâm hậu cách đó. Ta hãy nghĩ tới thời kỳ khi nạn nô lệ còn được chấp nhận và án tử hình còn được phép thi hành không bị ai chất vấn. Bởi thế, ta quả lớn lên trong việc hiểu biết chân lý. Các nhà chú giải và các nhà thần học giúp Giáo Hội trưởng thành trong các phê phán của mình. Ngay các khoa học khác và các khai triển của chúng cũng giúp Giáo Hội tiến bộ trong cái hiểu của mình. Có những qui luật và giới điều của Giáo Hội hữu hiệu lúc ấy, nhưng nay đã mất giá trị hoặc ý nghĩa. Quan điểm coi giáo huấn của Giáo Hội như một nguyên khối cần phải bảo vệ bất chấp sắc thái hay các hiểu biết khác nhau là quan điểm sai lầm.
“Dù sao, trong mọi thời kỳ lịch sử, con người nhân bản đều cố gắng tự hiểu biết và phát biểu mình tốt hơn. Nhờ thế, với thời gian, con người nhân bản thay đổi cách mình nhìn mình. Có cách riêng để tự phát biểu đối với người tạc bức ‘Thần Chiến Thắng Có Cánh Của Samothrace’, lại có cách khác đối với Caravaggio, Chagall và lại cách khác nữa đối với Dalí. Ngay các hình thức phát biểu chân lý cũng muôn hình muôn vẻ, và điều này quả là cần thiết đối với việc loan truyền Tin Mừng trong ý nghĩa vượt thời gian của nó.
“Con người nhân bản luôn tự đi tìm mình, và dĩ nhiên, trong cuộc đi tìm này, họ có thể phạm nhiều lầm lỗi. Giáo Hội đã trải nghiệm nhiều thời kỳ chói sáng, như thời Thánh Tôma Aquinô. Nhưng Giáo Hội cũng đã sống nhiều thời kỳ sa sút trong khả năng suy nghĩ của mình. Thí dụ, ta không được lẫn lộn thiên tài Tôma Aquinô với thời kỳ sa sút của các chú giải có tính duy Tôma (thomist). Bất hạnh thay, tôi từng phải học triết lý từ các sách giáo khoa phát xuất từ chủ nghĩa duy Tôma sa sút và phần lớn băng hoại này. Cho nên, khi suy nghĩ về con người nhân bản, Giáo Hội phải cố vươn tới thiên tài, chứ không sa sút.
“Khi nào thì việc lên công thức cho tư tưởng hết còn giá trị? Khi nó không còn nhìn ra nét nhân bản và ngay cả lúc nó sợ điều nhân bản hoặc bị lừa đảo về nó. Có thể ví tư tưởng bị lừa như Ulysses gặp bài ca Nhân Ngư, hay như Tannhäuser trong cơn truy hoan vây quanh bởi những kẻ cuồng dâm và chè chén, hay như Parsifal, trong màn hai của kịch bản Wagner tại lâu đài Klingsor. Việc suy nghĩ của Giáo Hội phải phục hồi được nét thiên tài và hiểu tốt hơn cách con người nhân bản tự hiểu về chính mình hiện nay, để có thể khai triển và thâm hậu hóa được giáo huấn của Giáo Hội”.
Việc cầu nguyện
Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô về cách cầu nguyện ưa thích hơn của ngài. Ngài cho hay: “Tôi đọc sách nguyện mỗi buổi sáng. Tôi thích cầu nguyện bằng thánh vịnh. Rồi, trễ hơn, tôi cử hành Thánh Lễ. Đọc Kinh Mân Côi. Điều tôi thực sự ưa thích là thờ lạy vào buổi tối, ngay cả lúc đang chia trí và suy nghĩ nhiều việc khác, thậm chí còn ngủ gật lúc cầu nguyện. Như thế, vào buổi tối, giữa khoảng từ 7 tới 8 giờ, tôi qùy trước Mình Thánh một giờ để thờ lạy. Nhưng tôi luôn cầu nguyện trong trí ngay cả khi đang chờ gặp nha sĩ hay bất cứ lúc nào khác trong ngày.
“Với tôi, cầu nguyện luôn là cầu nguyện với trọn trí nhớ, hồi tâm, ngay cả nhớ tới dĩ vãng của mình hay điều Chúa làm trong Giáo Hội hay trong một giáo xứ đặc thù nào đó. Với tôi, đó là trí nhớ những điều Thánh Inhã nói tới trong Tuần Đầu Linh Thao tức cuộc gặp gỡ Chúa Kitô từ nhân chịu đóng đinh. Và tôi tự hỏi: ‘Tôi đã làm gì cho Chúa Kitô? Tôi đang làm gì cho Người? Tôi nên làm gì cho Chúa Kitô?’. Đó là trí nhớ những điều Thánh Inhã nói ở phần ‘Chiêm Niệm để Cảm Nghiệm Tình Yêu Thiên Chúa’ khi ngài yêu cầu ta nhớ lại các ơn phúc ta đã nhận được. Nhưng trên hết, tôi cũng biết rằng Chúa nhớ đến tôi. Tôi có thể quên Người, nhưng tôi biết Người không bao giờ, không khi nào quên tôi. Trí nhớ có vai trò nền tảng đối với trái tim tu sĩ Dòng Tên: nhớ tới ơn thánh, một trí nhớ được Đệ Nhị Luật nhắc đến, nhớ đến các kỳ công của Thiên Chúa làm căn bản cho giao ước giữa Người và dân riêng. Chính trí nhớ này làm tôi trở thành người con của Người, và nó cũng làm tôi thành người cha nữa”.
Nguồn: http://www.americamagazine.org/pope-interview