Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Trong thánh lễ dầu các linh mục lặp lại những lời hứa các ngài đã tuyên thệ khi thụ phong linh mục. Sau đó, các loại dầu được làm phép để dùng trong suốt năm khi thực hiện các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức, Phong Chức Linh Mục, và Bí tích Xức Dầu.
Trong bài giảng Đức Thánh Cha Phanxicô nói:
“Ta sẽ không ngừng đưa tay nâng đỡ, tay quyền năng củng cố vững vàng.” (Tv 89:21).
Đây là những gì Chúa ám chỉ khi Ngài nói: “Ta đã tìm ra nghĩa bộc Ða-vít, đã xức dầu thánh tấn phong Người;” (c. 20). Đây cũng là những gì Cha chúng ta nghĩ bất cứ khi nào Ngài “gặp gỡ” một linh mục. Và Ngài sẽ nói tiếp: “Ta sẽ yêu thương người và giữ lòng thành tín ... Người sẽ thưa với Ta: ‘Ngài chính là Thân Phụ, là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!’” (c. 24, 26)
Thật là tốt để cùng tiến với Vịnh Gia vào cuộc độc thoại này với Thiên Chúa chúng ta. Ngài đang nói về chúng ta, các linh mục của Ngài, các vị mục tử của Ngài. Nhưng đó không thực sự là một cuộc độc thoại, vì Ngài không phải là người duy nhất nói. Chúa Cha nói với Chúa Giêsu: “Bạn hữu của con, những ai yêu mến con, có thể thưa với Ta một cách đặc biệt: ‘Cha là Cha của con'” (x. Ga 14:21). Nếu Chúa lo lắng giúp đỡ chúng ta, thì đó là bởi vì Ngài biết rằng nhiệm vụ xức dầu dân tộc trung tín với Ngài rất cam go; nó có thể làm chúng ta trở nên mệt mỏi. Chúng ta cảm nhận điều này dưới nhiều hình thức: từ sự mệt mỏi thông thường gây ra bởi công việc tông đồ ngày qua ngày của chúng ta đến sự mệt mỏi của bệnh tật, cái chết và thậm chí phải tử đạo.
Sự mệt mỏi của các linh mục! Anh em có biết tôi thường nghĩ như thế nào không về sự mệt mỏi này mà tất cả anh em đều có kinh nghiệm? Tôi nghĩ về điều đó và tôi cầu nguyện về điều đó rất thường xuyên, đặc biệt là khi chính tôi đã mệt nhoài. Tôi cầu nguyện cho anh em khi anh em lao động giữa những người mà Thiên Chúa ủy thác cho anh em chăm sóc, nhiều anh em phải sống trong cô đơn và giữa những chốn hiểm nguy. Mệt mỏi của chúng ta, anh em linh mục thân mến, giống như hương thơm âm thầm vươn tới thiên đường (xem Thi thiên 141: 2; Rev 8: 3-4). Mệt mỏi của chúng ta đi thẳng vào trái tim của Chúa Cha.
Chúng ta biết rằng Đức Trinh Nữ Maria nhận thức sâu sắc về sự mệt mỏi này và Mẹ mang nó đến thẳng với Chúa. Là Mẹ của chúng ta, Mẹ biết khi nào những con cái của mình đang mệt mỏi, và điều này là mối quan tâm lớn nhất của Mẹ. “Chào con! Hãy nghỉ ngơi, con ta. Chúng ta sẽ nói chuyện sau đó ...”. Bất cứ khi nào chúng ta đến gần Mẹ, Mẹ nói với chúng ta: “Chẳng phải Mẹ đang bên cạnh con sao, Mẹ là Mẹ con” (x. Evangelii Gaudium, 286). Và Mẹ sẽ nói với Con Mẹ, như Mẹ đã từng làm tại Cana “Họ không có rượu” (Ga 2, 3).
Có thể xảy ra là khi chúng ta cảm thấy bị đè nặng bởi công việc mục vụ, chúng ta có thể bị cám dỗ để nghỉ ngơi nhưng theo một cách thế dường như chính sự nghỉ ngơi tự nó không phải là một hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta đừng rơi vào cám dỗ này. Sự mệt mỏi của chúng ta là quý giá trong con mắt của Chúa Giêsu, Đấng ôm ấp chúng ta và nâng chúng ta lên. “Tất cả những ai đang vất vả mang gáng nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Bất cứ khi nào một linh mục cảm thấy mệt chết đi được, nhưng vẫn còn sức để cúi xuống thờ lạy và nói: “Lạy Chúa hôm nay như thế là đủ”, và phó thác mình cho Chúa Cha, thì người ấy hiểu rằng ngài sẽ không ngã quỵ nhưng được canh tân. Một người xức dầu dân Chúa sẽ được Chúa xức dầu cho mình: “Ngài tặng cho những kẻ khóc than ở Xi-on tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu não” (x Is 61 : 3).
Chúng ta không bao giờ được quên rằng bí quyết để có hiệu quả trong sứ vụ linh mục nằm ở cách chúng ta nghỉ ngơi và trong cách chúng ta nhìn vào phương thế Chúa giải quyết sự mệt mỏi của chúng ta. Thật là khó khăn để học cách nghỉ ngơi! Điều này nói nhiều về sự tín thác của chúng ta và khả năng của chúng ta nhận ra rằng chính chúng ta cũng là những con chiên. Một số câu hỏi có thể giúp chúng ta trong vấn đề này.
Tôi có biết làm thế nào để nghỉ ngơi bằng cách chấp nhận tình yêu, lòng biết ơn và tình cảm mà tôi nhận được từ dân Chúa? Hoặc, một khi công việc mục vụ của tôi đã được thực hiện, tôi có tìm sự thư giãn không phải từ những người nghèo nhưng từ những thứ được một xã hội tiêu thụ cung cấp? Liệu Chúa Thánh Thần có thực sự “nghỉ ngơi trong thời gian mệt mỏi của tôi”, hay Ngài chỉ là một người khiến tôi lúc nào cũng bận rộn? Tôi có biết làm thế nào để tìm kiếm sự giúp đỡ từ một linh mục khôn ngoan hay không? Liệu tôi có biết làm thế nào để nghi ngơi khỏi các nhu cầu do chính tôi đặt ra cho bản thân mình, từ những tìm kiếm và từ những sở thích của mình? Tôi có biết làm thế nào để dành thời gian với Chúa Giêsu, với Chúa Cha, với Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse, các thánh bổn mạng của tôi, và nghỉ ngơi trước những yêu cầu dễ dàng và nhẹ nhàng của các Ngài, và trong niềm vui của các Ngài muốn được đồng hành với tôi, và trong những mối quan tâm và các tiêu chuẩn của các Ngài, là những điều chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa? Tôi có biết làm thế nào để nghỉ ngơi khỏi những kẻ thù của mình dưới sự bảo vệ của Chúa? Tôi có bận rộn suy tính nên nói hay hành động thế nào, hay là tôi phó thác mình cho Chúa Thánh Thần, người sẽ dạy cho tôi những gì tôi cần phải nói trong mọi tình huống? Tôi có lo lắng về những thứ không cần thiết, hay như Thánh Phaolô tôi tìm được sự nghỉ ngơi bằng cách nói: “Tôi biết Đấng mà tôi đã đặt trọn niềm tin” (2 Tim 1:12)?
Chúng ta hãy trở lại một chút với những gì phụng vụ hôm nay mô tả công việc của một linh mục: mang tin mừng cho người nghèo khó, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người. Tiên tri Isaiah cũng đề cập đến việc băng bó những tấm lòng tan nát, và yên ủi mọi kẻ khóc than.
Đây không phải là những công việc máy móc, như điều hành một văn phòng, xây dựng một hội trường giáo xứ hay thiết kế một sân túc cầu cho giới trẻ trong giáo xứ ... Nhiệm vụ Chúa Giêsu đề cập đến đòi hỏi khả năng thể hiện lòng từ bi; con tim của chúng ta phải “bồi hồi” và chúng ta phải dấn thận trọn vẹn trong việc thi hành các công việc này. Chúng ta vui mừng với những cặp vợ chồng mới kết hôn; chúng ta cùng cười với những em được mang đến giếng rửa tội; chúng ta đồng hành với những cặp đính hôn và những gia đình trẻ; chúng ta cùng chịu đau khổ với những ai được xức dầu trên giường bệnh; chúng ta phải cùng than khóc với những người vừa chôn cất một người thân yêu ... Tất cả những cảm xúc này có thể làm cạn kiệt con tim của một mục tử. Đối với chúng ta các linh mục, những gì xảy ra trong cuộc sống của người dân không giống như một bản tin: chúng ta biết dân của chúng ta, chúng ta cảm nhận được những gì đang diễn ra trong trái tim của họ. Trái tim của riêng mỗi người chúng ta, chia sẻ sự đau khổ của họ, cảm thấy được “lòng trắc ẩn”, bị kiệt sức, vỡ ra ngàn mảnh, xúc động và thậm chí bị “tiêu thụ” bởi người dân. Hãy cầm lấy mà ăn ... Đây là những lời của mà vị linh mục của Chúa Giêsu thì thầm lặp đi lặp lại trong khi chăm sóc cho dân Ngài: Cầm lấy mà ăn; cầm lấy mà uống ... Bằng cách này đời sống linh mục của chúng ta được trao ban cho sự phục vụ, trong sự gần gũi với dân Chúa ... và điều này luôn khiến chúng ta mệt mỏi.
Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha đã đề cập đến các mệt nhọc khác nhau trong đời linh mục.
“Có sự mệt nhọc tốt và lành mạnh, tràn đầy hoa trái và niềm vui, vì nó phát xuất từ công việc mục vụ, từ các sinh hoạt đa diện lo lắng cho dân Chúa. Nó là một ơn thánh nằm trong tầm tay của mọi linh mục. Đó là sự mệt nhọc của vị mục tử có mùi của chiên. Là bạn của Chúa Giêsu, Phu Quân của Giáo Hội, linh mục không thể có gương mặt chua như giấm, than van, hay tệ hại hơn chán ngán.
Có sự mệt nhọc của các thù địch. Ma quỷ và những kẻ theo nó không ngủ, và vì tai chúng không chịu đựng được Lời Chúa nên chúng làm việc không mệt mỏi để dập tắt Lời Chúa và gây lẫn lộn. Ở đây sự mệt mỏi cam go hơn, vì linh mục phải bảo vệ đoàn chiên và tự bảo vệ mình khỏi sự dữ. Cần xin ơn để cô lập hóa sự dữ, không nhổ cỏ lùng.
Cũng có sự mệt mỏi với chính mình, là sự mệt mỏi nguy hiểm nhất. Hai sự mệt mỏi trước phát xuất từ việc ra khỏi chính mình để xức dầu và săn sóc dân Chúa. Trái lại sự mệt mỏi này có tính cách tự quy chiếu nhiều hơn: nó là sự thất vọng với chính mình, nó trao ban ‘ước muốn và không ước muốn’, nó liều chơi tất cả, nhưng lại tiếc nuối củ hành củ tỏi bên Ai Cập. Nó khiến cho chúng ta bỏ tình yêu ban đầu với Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ cũng cho thấy Ngài thanh tẩy việc theo Ngài của các linh mục: đó là rửa sạch bụi bặm nhơ nhớp của thế gian bám vào chúng ta trên con đường theo Chúa.”
Sau bài giảng, Đức Thánh Cha đã làm phép các loại dầu.
Dầu ôliu nguyên chất được Đức Giám Mục làm phép vào Thứ Năm Tuần Thánh được gọi là dầu thánh dùng vào việc thánh hiến các dụng cụ thánh và xức dầu trong một số bí tích. Có ba loại dầu khác nhau và phân biệt nhờ mầu sắc, mùi vị khác nhau. Mùi vị, mầu sắc có được là do dầu được pha trộn với một hợp chất tinh tuyền được lấy từ một số loại cây tuyển chọn, rồi dùng tinh dầu này pha với tinh dầu của trái ôliu.
Hàng năm trong Tuần Thánh linh mục địa phận quy tụ với giám mục địa phận trong lễ Truyền Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh. Sau khi truyền phép linh mục chánh xứ nhận dầu mang về giáo xứ để dùng trong năm. Dầu này được cất cẩn thận trong tủ khoá.
Trong Cựu Ước có nhiều đoạn ghi lại việc xử dụng dầu trong các nghi thức đăng quang quan trọng trong xã hội cũng như trong phụng vụ Giáo Hội. Nghi thức xức dầu dùng trong các ngày lễ vua đăng quang hay linh mục thượng phẩm. Muốn biết thêm chi tiết xin xem các đoạn trong sách Xuất hành chương 30 và sách Lêvi chương 8.
Nguồn gốc chữ Chrism có lẽ cùng nguồn gốc với chữ Christ có nghĩa ‘Đấng được Xức Dầu tấn phong). Các thánh giáo phụ ghi nhận việc xức dầu là dấu chỉ bề ngoài xác định niềm tin bên trong mắt thường không thể nhìn thấy nhưng nói lên đức tin của tâm hồn. Thánh Ambrô kính viếng dầu thánh như là dấu chỉ của ân sủng. Các vị khác coi dầu thánh như là vật thánh ban ân thánh hoá cho các Kitô hữu. Đức Giáo Hoàng Bênidictô 16 xác định
Dầu thánh được dùng trong các trường hợp thánh hiến thánh đường, chuông và bàn thờ, chén thánh, dĩa thánh bởi những dụng cụ này được dùng trong việc cử hành thánh lễ. Dầu thánh dùng trong bí tích thanh tẩy. Có hai lần xức dầu. Xức dầu lần đầu mang ý nghĩa thanh tẩy và thánh hiến em bé đó cho Thiên Chúa. Xức dầu lần hai mang ý nghĩa ban ơn sức mạnh để trong tương lai chu toàn ba nhiệm vụ của Kitô hữu đó là sứ vụ linh mục, tiên tri và vương đế. Bí tích thêm sức người đó được xức dầu để nhờ ơn Thánh Thần Chúa hướng dẫn đồng thời ban sức mạnh chu toàn tốt đẹp ba sứ vụ nêu trên. Xức dầu bệnh nhân giúp người bệnh được mạnh nếu điều đó làm đẹp lòng Chúa đồng thời tăng sinh lực chống lại các cám dỗ và nếu có tội thì được tha. Khi truyền chức linh mục giám mục xức dầu hai tay linh mục. Khi truyền chứ giám mục thì giám mục chủ tế sức dầu trên đầu vị tâm giám mục với ý nghĩa thánh hiến và thánh hoá con người và công việc người đó sẽ đảm trách.
Dầu thánh được dùng trong phụng vụ mang ý nghĩa đặc biệt. Dầu ôliu được chọn làm dầu thánh vì tự bản chất của dầu vừa tốt cả về phẩm lẫn ít bị thái hoá do khí hậu và thời gian nên dầu được chọn biểu trưng cho sự giầu mạnh, bền bỉ và tốt lành của ân sủng Chúa. Hương thơm được pha trộn tượng trưng cho các đức tính cao quí, ngạt ngào hương thơm, tốt lành trong đạo. Dầu tượng trưng cho sức mạnh trong khi hương thơm tượng trưng cho sự bền bỉ.
Việc sức dầu tượng trưng cho việc lãnh nhận ân sủng Chúa và sức mạnh tinh thần cần thiết giúp người Kitô hữu sống đạo, chống lại tàn phá, huỷ diệt của cơn cám dỗ đồng thời toả hương thơm Lời Chúa cho tha nhân.