Lúc 10h sáng Chúa Nhật, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng về Gia Đình. Dưới đây là toàn văn bài giảng của ngài.
“Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.”(1 Gioan 4:12).
Các bài sách Thánh trong Chúa Nhật này dường như đã được lựa chọn chính xác cho thời điểm ân phúc mà Giáo Hội đang trải qua là Thượng Hội Đồng về Gia Đình, bắt đầu với buổi cử hành Thánh Thể này. Trung tâm của các bài đọc là ba chủ đề: sự cô đơn, tình yêu giữa người nam và người nữ, và gia đình.
Sự cô đơn
Adong, như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ nhất, được sống trong Vườn Địa Đàng. Ông đặt tên cho tất cả các sinh vật khác như là một dấu chỉ về sự thống trị của mình, về quyền lực rõ ràng và không thể tranh cãi của mình, trên tất cả mọi loài. Tuy nhiên, ông cảm thấy cô đơn, bởi vì “chẳng tìm được một trợ tá cho ông” (St 2:20). Ông cô độc một mình.
Thảm trạng cô đơn là kinh nghiệm của vô số những người nam nữ trong thời đại chúng ta. Tôi nghĩ đến những người cao niên, bị bỏ rơi bởi chính những người thân yêu và con cái mình; những góa phụ và những người goá vợ; đến cơ man những người nam nữ bị người phối ngẫu của mình bỏ rơi; đến tất cả những người cảm thấy cô đơn, bị hiểu lầm và chẳng được lắng nghe; đến những người di cư và tị nạn chạy trốn khỏi chiến tranh và bách hại; đến những người già và đông đảo những người trẻ là nạn nhân của nền văn hóa tiêu dùng, văn hóa hoang phí và loại bỏ.
Ngày nay chúng ta cảm nhận được các nghịch lý của một thế giới toàn cầu hóa đầy những biệt thự sang trọng và các tòa nhà chọc trời, nhưng cùng với chúng là sự giảm thiểu cái ấm áp của mái ấm gia đình; cơ man những kế hoạch và các dự án đầy tham vọng, nhưng người ta càng ngày càng có ít thời gian để hưởng thụ chúng; nhiều phương tiện tinh vi của giải trí, nhưng lại có một sự trống rỗng nội tâm sâu sắc và lớn dần; nhiều thú vui, nhưng rất ít tình thương; nhiều thứ quyền, nhưng lại rất ít tự do. .. Số lượng những người cảm thấy cô đơn không ngừng tăng lên, cũng như số lượng những người đang bị cuốn hút vào thói ích kỷ, tâm trạng chán chường, bạo lực phá hoại và chế độ nô lệ cho khoái lạc và tiền bạc.
Kinh nghiệm ngày nay của chúng ta, một cách nào đó, cũng giống như của Adong với quá nhiều quyền lực nhưng đồng thời lại rất cô đơn và dễ bị tổn thương. Đây là hình ảnh của gia đình. Người ta càng ngày càng thiếu nghiêm túc trong việc xây dựng một mối quan hệ yêu thương vững chắc và sinh hoa kết quả: khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu. Tình yêu lâu dài, trung tín, tận tâm, ổn định và sinh hoa kết quả ngày càng bị đánh giá thấp, xem như là một di tích cổ kính thời xa xưa. Có vẻ như người ta cho rằng xã hội tiên tiến nhất chính là xã hội có sinh suất thấp nhất và có tỷ lệ phá thai, ly dị, tự tử, và ô nhiễm môi trường cao nhất.
Tình yêu giữa người nam và người nữ
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta cũng nghe thấy Thiên Chúa đã đau khổ vì sự cô đơn của Adong. Ngài nói: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.” (St 2: 18). Những lời này cho thấy rằng không có gì làm cho trái tim con người hạnh phúc bằng một trái tim như của chính mình, một trái tim yêu mến anh ta và làm mất đi cảm giác trơ trọi một mình. Những lời này cũng cho thấy Thiên Chúa không tạo nên chúng ta để phải sống trong nỗi buồn hay trong cô đơn. Người đã tạo ra có nam có nữ để được hạnh phúc, để chia sẻ cuộc hành trình của họ với người bổ túc cho mình, để sống kinh nghiệm kỳ diệu của tình yêu: để yêu và được yêu, để được nhìn thấy tình yêu sinh hoa kết trái nơi con cái, như được nêu trong Thánh Vịnh ngày hôm nay (x. Thánh Vịnh 128).
Đây là giấc mơ của Thiên Chúa cho kỳ công sáng tạo yêu quý của mình: đó là thấy nó thành toàn trong sự kết hiệp yêu thương giữa một người nam và một người nữ, khi họ vui mừng trong cuộc hành trình được chia sẻ với nhau, sinh hoa kết quả trong món quà trao tặng cho nhau là chính mình. Đó cũng là kế hoạch Chúa Giêsu trình bày trong Tin Mừng hôm nay: “Từ lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mc 10: 6-8; x. St 1:27; 2:24).
Trước một câu hỏi chơi chữ - có lẽ hỏi như một cái bẫy để làm cho Ngài không còn được đám đông ưa chuộng nữa, trong đó nêu ra chuyện ly dị như là một thực tế đã được thiết định và bất khả xâm phạm - Chúa Giêsu phản ứng lại một cách thẳng thừng và bất ngờ. Ngài đã mang tất cả mọi thứ trở lại thời kỳ đầu của sáng tạo, mà dạy cho chúng ta rằng Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu con người, và chính Ngài đã kết hiệp trái tim của hai người yêu nhau lại với nhau. Ngài kết hiệp chúng trong sự hiệp nhất và bất khả phân ly. Điều này cho chúng ta thấy rằng mục tiêu của cuộc sống tri giao vợ chồng không đơn giản là để sống với nhau trọn đời, nhưng là để yêu thương nhau trọn cuộc sống! Bằng cách này, Chúa Giêsu tái lập trật tự đã có ngay từ đầu.
Gia đình
“Như thế, điều gì Thiên Chúa đã kết hiệp, loài người không được phân ly” (Mc 10: 9). Đây là một lời khích lệ các tín hữu đang vượt qua mọi hình thái của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa duy luật trong đó che giấu một sự tập trung hẹp hòi vào cái tôi của mình và nỗi sợ hãi phải chấp nhận ý nghĩa đích thực của đời sống lứa đôi và tính dục của con người theo kế hoạch của Thiên Chúa.
Thật vậy, chỉ trong ánh sáng của sự điên rồ trong tình yêu nhưng không nơi mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu thì sự điên rồ trong tình yêu độc quyền trao cho nhau cách nhưng không suốt đời của vợ chồng mới có ý nghĩa. Đối với Thiên Chúa, hôn nhân không phải là một điều không tưởng vị thành niên, nhưng là một giấc mơ mà không có giấc mơ ấy thì mọi sinh vật của Ngài sẽ phải cam chịu cảnh cô đơn! Thật vậy, nỗi sợ phải chấp nhận kế hoạch này làm tê liệt trái tim con người.
Nghịch lý thay, con người ngày nay - những người thường xuyên chế nhạo kế hoạch này - tiếp tục bị cuốn hút và say mê bởi mọi tình yêu đích thực, mọi tình yêu bền vững, mọi tình yêu sinh hoa kết quả, mọi tình yêu trung tín và lâu dài. Chúng ta nhìn thấy bao người đuổi theo những tình yêu thoáng qua trong khi mơ về tình yêu đích thực; họ đuổi theo những thú vui xác thịt nhưng ao ước sự tự hiến hoàn toàn.
“Giờ đây, sau khi chúng ta đã nếm trải đầy đủ những lời hứa về thứ tự do không giới hạn, chúng ta lại một lần nữa bắt đầu đánh giá cao cái cụm từ cũ là ‘Thế giới mệt mỏi’. Những thú vui bị cấm mất hết sức hấp dẫn của chúng ngay tại thời điểm chúng hết bị cấm. Ngay cả khi chúng bị đẩy đến tận cùng và không ngừng được đổi mới, chúng tỏ ra vô vị, vì chúng chỉ là những thực tại hữu hạn trong khi chúng ta khao khát sự vô hạn”(Joseph Ratzinger, Auf Christus schauen. Einübung trong Glaube, Hoffnung, Liebe, Freiburg, 1989, p.73).
Trong bối cảnh xã hội và hôn nhân vô cùng khó khăn này, Giáo Hội được mời gọi để thực hiện sứ mệnh của mình trong sự trung tín, trong sự thật và tình yêu. Để thực hiện sứ mệnh trong sự trung tín với Thầy mình, Giáo Hội phải trở thành một tiếng kêu trong sa mạc trong việc bảo vệ tình yêu trung tín và khuyến khích nhiều gia đình sống cuộc sống hôn nhân như một kinh nghiệm chứng tá cho tình yêu của Thiên Chúa; trong việc bảo vệ sự thánh thiêng của sự sống, của mọi sự sống; trong việc bảo vệ sự thống nhất và bất khả phân ly của mối liên hệ hôn nhân như là một dấu chỉ ân sủng của Thiên Chúa và của khả năng con người có thể yêu thương nghiêm túc.
Giáo Hội được mời gọi để thực hiện sứ mệnh của mình trong sự thật, không đổi thay theo thị hiếu chóng qua hay theo những ý kiến được ưa chuộng. Đó là sự thật bảo vệ mỗi cá nhân và toàn thể nhân loại khỏi cám dỗ tự quy hướng về mình như là trung tâm, cũng như cám dỗ biến tình yêu sinh hoa kết quả thành thói ích kỷ vô sinh, và biến sự kết hiệp trung tín thành một hình thái kết hợp tạm thời. “Nếu không có sự thật, lòng bác ái thoái hoá thành mối cảm thương. Tình yêu trở thành một cái vỏ rỗng, được chất chứa một cách tùy tiện. Trong một nền văn hóa không sự thật, tình yêu đối mặt với một nguy cơ trầm trọng” (Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, Caritas in Veritate, 3).
Giáo Hội được mời gọi để thực hiện sứ mệnh của mình trong tình bác ái, không chỉ trỏ kết án người khác, nhưng – trung thành với bản chất của một người mẹ - ý thức về nhiệm vụ của mình là tìm kiếm và chăm sóc cho các cặp vợ chồng với dầu chấp nhận và thương xót; trở thành là một “bệnh viện dã chiến” với cửa rộng mở cho bất cứ ai đến gõ để tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ; để vươn ra với những người khác với một tình yêu đích thật, để đồng hành với những người nam nữ đồng loại là những người đang đau khổ, để bao gồm họ và dẫn họ đến suối nguồn của ơn cứu rỗi.
Giáo Hội dạy và bênh vực những giá trị cơ bản, trong khi không quên rằng “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2:27); và Chúa Giêsu cũng đã nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2:17). Một Giáo Hội dạy bảo tình yêu đích thực, có khả năng làm mất đi sự cô đơn, không bỏ qua nhiệm vụ của mình là trở thành một người Samaritano nhân lành cho một nhân loại bị thương.
Tôi nhớ Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị từng nói: “Tội lỗi và cái ác luôn luôn phải bị lên án và phản đối; nhưng người sa ngã hay sai lầm phải được thấu hiểu và yêu thương. .. chúng ta phải yêu thời đại chúng ta và giúp con người của thời đại chúng ta “(Gioan Phaolô Đệ Nhị, Diễn văn gửi các thành viên của Công Giáo Tiến Hành Italia, 30 Tháng 12 năm 1978). Giáo Hội phải tìm ra những người ấy, chào đón và đồng hành cùng với họ, vì một Giáo Hội với cánh cửa đóng kín phản bội lại chính mình và sứ mệnh của mình, và, thay vì là một cây cầu thì trở thành một rào cản: “Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em” (Dt 2:11).
Trong tinh thần này, chúng ta cầu xin Chúa đồng hành cùng chúng ta trong suốt Thượng Hội Đồng này và hướng dẫn Giáo Hội của Ngài nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse, người phối ngẫu khiết tịnh nhất của Mẹ.
Các bài sách Thánh trong Chúa Nhật này dường như đã được lựa chọn chính xác cho thời điểm ân phúc mà Giáo Hội đang trải qua là Thượng Hội Đồng về Gia Đình, bắt đầu với buổi cử hành Thánh Thể này. Trung tâm của các bài đọc là ba chủ đề: sự cô đơn, tình yêu giữa người nam và người nữ, và gia đình.
Sự cô đơn
Adong, như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ nhất, được sống trong Vườn Địa Đàng. Ông đặt tên cho tất cả các sinh vật khác như là một dấu chỉ về sự thống trị của mình, về quyền lực rõ ràng và không thể tranh cãi của mình, trên tất cả mọi loài. Tuy nhiên, ông cảm thấy cô đơn, bởi vì “chẳng tìm được một trợ tá cho ông” (St 2:20). Ông cô độc một mình.
Thảm trạng cô đơn là kinh nghiệm của vô số những người nam nữ trong thời đại chúng ta. Tôi nghĩ đến những người cao niên, bị bỏ rơi bởi chính những người thân yêu và con cái mình; những góa phụ và những người goá vợ; đến cơ man những người nam nữ bị người phối ngẫu của mình bỏ rơi; đến tất cả những người cảm thấy cô đơn, bị hiểu lầm và chẳng được lắng nghe; đến những người di cư và tị nạn chạy trốn khỏi chiến tranh và bách hại; đến những người già và đông đảo những người trẻ là nạn nhân của nền văn hóa tiêu dùng, văn hóa hoang phí và loại bỏ.
Ngày nay chúng ta cảm nhận được các nghịch lý của một thế giới toàn cầu hóa đầy những biệt thự sang trọng và các tòa nhà chọc trời, nhưng cùng với chúng là sự giảm thiểu cái ấm áp của mái ấm gia đình; cơ man những kế hoạch và các dự án đầy tham vọng, nhưng người ta càng ngày càng có ít thời gian để hưởng thụ chúng; nhiều phương tiện tinh vi của giải trí, nhưng lại có một sự trống rỗng nội tâm sâu sắc và lớn dần; nhiều thú vui, nhưng rất ít tình thương; nhiều thứ quyền, nhưng lại rất ít tự do. .. Số lượng những người cảm thấy cô đơn không ngừng tăng lên, cũng như số lượng những người đang bị cuốn hút vào thói ích kỷ, tâm trạng chán chường, bạo lực phá hoại và chế độ nô lệ cho khoái lạc và tiền bạc.
Kinh nghiệm ngày nay của chúng ta, một cách nào đó, cũng giống như của Adong với quá nhiều quyền lực nhưng đồng thời lại rất cô đơn và dễ bị tổn thương. Đây là hình ảnh của gia đình. Người ta càng ngày càng thiếu nghiêm túc trong việc xây dựng một mối quan hệ yêu thương vững chắc và sinh hoa kết quả: khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu. Tình yêu lâu dài, trung tín, tận tâm, ổn định và sinh hoa kết quả ngày càng bị đánh giá thấp, xem như là một di tích cổ kính thời xa xưa. Có vẻ như người ta cho rằng xã hội tiên tiến nhất chính là xã hội có sinh suất thấp nhất và có tỷ lệ phá thai, ly dị, tự tử, và ô nhiễm môi trường cao nhất.
Tình yêu giữa người nam và người nữ
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta cũng nghe thấy Thiên Chúa đã đau khổ vì sự cô đơn của Adong. Ngài nói: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.” (St 2: 18). Những lời này cho thấy rằng không có gì làm cho trái tim con người hạnh phúc bằng một trái tim như của chính mình, một trái tim yêu mến anh ta và làm mất đi cảm giác trơ trọi một mình. Những lời này cũng cho thấy Thiên Chúa không tạo nên chúng ta để phải sống trong nỗi buồn hay trong cô đơn. Người đã tạo ra có nam có nữ để được hạnh phúc, để chia sẻ cuộc hành trình của họ với người bổ túc cho mình, để sống kinh nghiệm kỳ diệu của tình yêu: để yêu và được yêu, để được nhìn thấy tình yêu sinh hoa kết trái nơi con cái, như được nêu trong Thánh Vịnh ngày hôm nay (x. Thánh Vịnh 128).
Đây là giấc mơ của Thiên Chúa cho kỳ công sáng tạo yêu quý của mình: đó là thấy nó thành toàn trong sự kết hiệp yêu thương giữa một người nam và một người nữ, khi họ vui mừng trong cuộc hành trình được chia sẻ với nhau, sinh hoa kết quả trong món quà trao tặng cho nhau là chính mình. Đó cũng là kế hoạch Chúa Giêsu trình bày trong Tin Mừng hôm nay: “Từ lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mc 10: 6-8; x. St 1:27; 2:24).
Trước một câu hỏi chơi chữ - có lẽ hỏi như một cái bẫy để làm cho Ngài không còn được đám đông ưa chuộng nữa, trong đó nêu ra chuyện ly dị như là một thực tế đã được thiết định và bất khả xâm phạm - Chúa Giêsu phản ứng lại một cách thẳng thừng và bất ngờ. Ngài đã mang tất cả mọi thứ trở lại thời kỳ đầu của sáng tạo, mà dạy cho chúng ta rằng Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu con người, và chính Ngài đã kết hiệp trái tim của hai người yêu nhau lại với nhau. Ngài kết hiệp chúng trong sự hiệp nhất và bất khả phân ly. Điều này cho chúng ta thấy rằng mục tiêu của cuộc sống tri giao vợ chồng không đơn giản là để sống với nhau trọn đời, nhưng là để yêu thương nhau trọn cuộc sống! Bằng cách này, Chúa Giêsu tái lập trật tự đã có ngay từ đầu.
Gia đình
“Như thế, điều gì Thiên Chúa đã kết hiệp, loài người không được phân ly” (Mc 10: 9). Đây là một lời khích lệ các tín hữu đang vượt qua mọi hình thái của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa duy luật trong đó che giấu một sự tập trung hẹp hòi vào cái tôi của mình và nỗi sợ hãi phải chấp nhận ý nghĩa đích thực của đời sống lứa đôi và tính dục của con người theo kế hoạch của Thiên Chúa.
Thật vậy, chỉ trong ánh sáng của sự điên rồ trong tình yêu nhưng không nơi mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu thì sự điên rồ trong tình yêu độc quyền trao cho nhau cách nhưng không suốt đời của vợ chồng mới có ý nghĩa. Đối với Thiên Chúa, hôn nhân không phải là một điều không tưởng vị thành niên, nhưng là một giấc mơ mà không có giấc mơ ấy thì mọi sinh vật của Ngài sẽ phải cam chịu cảnh cô đơn! Thật vậy, nỗi sợ phải chấp nhận kế hoạch này làm tê liệt trái tim con người.
Nghịch lý thay, con người ngày nay - những người thường xuyên chế nhạo kế hoạch này - tiếp tục bị cuốn hút và say mê bởi mọi tình yêu đích thực, mọi tình yêu bền vững, mọi tình yêu sinh hoa kết quả, mọi tình yêu trung tín và lâu dài. Chúng ta nhìn thấy bao người đuổi theo những tình yêu thoáng qua trong khi mơ về tình yêu đích thực; họ đuổi theo những thú vui xác thịt nhưng ao ước sự tự hiến hoàn toàn.
“Giờ đây, sau khi chúng ta đã nếm trải đầy đủ những lời hứa về thứ tự do không giới hạn, chúng ta lại một lần nữa bắt đầu đánh giá cao cái cụm từ cũ là ‘Thế giới mệt mỏi’. Những thú vui bị cấm mất hết sức hấp dẫn của chúng ngay tại thời điểm chúng hết bị cấm. Ngay cả khi chúng bị đẩy đến tận cùng và không ngừng được đổi mới, chúng tỏ ra vô vị, vì chúng chỉ là những thực tại hữu hạn trong khi chúng ta khao khát sự vô hạn”(Joseph Ratzinger, Auf Christus schauen. Einübung trong Glaube, Hoffnung, Liebe, Freiburg, 1989, p.73).
Trong bối cảnh xã hội và hôn nhân vô cùng khó khăn này, Giáo Hội được mời gọi để thực hiện sứ mệnh của mình trong sự trung tín, trong sự thật và tình yêu. Để thực hiện sứ mệnh trong sự trung tín với Thầy mình, Giáo Hội phải trở thành một tiếng kêu trong sa mạc trong việc bảo vệ tình yêu trung tín và khuyến khích nhiều gia đình sống cuộc sống hôn nhân như một kinh nghiệm chứng tá cho tình yêu của Thiên Chúa; trong việc bảo vệ sự thánh thiêng của sự sống, của mọi sự sống; trong việc bảo vệ sự thống nhất và bất khả phân ly của mối liên hệ hôn nhân như là một dấu chỉ ân sủng của Thiên Chúa và của khả năng con người có thể yêu thương nghiêm túc.
Giáo Hội được mời gọi để thực hiện sứ mệnh của mình trong sự thật, không đổi thay theo thị hiếu chóng qua hay theo những ý kiến được ưa chuộng. Đó là sự thật bảo vệ mỗi cá nhân và toàn thể nhân loại khỏi cám dỗ tự quy hướng về mình như là trung tâm, cũng như cám dỗ biến tình yêu sinh hoa kết quả thành thói ích kỷ vô sinh, và biến sự kết hiệp trung tín thành một hình thái kết hợp tạm thời. “Nếu không có sự thật, lòng bác ái thoái hoá thành mối cảm thương. Tình yêu trở thành một cái vỏ rỗng, được chất chứa một cách tùy tiện. Trong một nền văn hóa không sự thật, tình yêu đối mặt với một nguy cơ trầm trọng” (Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, Caritas in Veritate, 3).
Giáo Hội được mời gọi để thực hiện sứ mệnh của mình trong tình bác ái, không chỉ trỏ kết án người khác, nhưng – trung thành với bản chất của một người mẹ - ý thức về nhiệm vụ của mình là tìm kiếm và chăm sóc cho các cặp vợ chồng với dầu chấp nhận và thương xót; trở thành là một “bệnh viện dã chiến” với cửa rộng mở cho bất cứ ai đến gõ để tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ; để vươn ra với những người khác với một tình yêu đích thật, để đồng hành với những người nam nữ đồng loại là những người đang đau khổ, để bao gồm họ và dẫn họ đến suối nguồn của ơn cứu rỗi.
Giáo Hội dạy và bênh vực những giá trị cơ bản, trong khi không quên rằng “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2:27); và Chúa Giêsu cũng đã nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2:17). Một Giáo Hội dạy bảo tình yêu đích thực, có khả năng làm mất đi sự cô đơn, không bỏ qua nhiệm vụ của mình là trở thành một người Samaritano nhân lành cho một nhân loại bị thương.
Tôi nhớ Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị từng nói: “Tội lỗi và cái ác luôn luôn phải bị lên án và phản đối; nhưng người sa ngã hay sai lầm phải được thấu hiểu và yêu thương. .. chúng ta phải yêu thời đại chúng ta và giúp con người của thời đại chúng ta “(Gioan Phaolô Đệ Nhị, Diễn văn gửi các thành viên của Công Giáo Tiến Hành Italia, 30 Tháng 12 năm 1978). Giáo Hội phải tìm ra những người ấy, chào đón và đồng hành cùng với họ, vì một Giáo Hội với cánh cửa đóng kín phản bội lại chính mình và sứ mệnh của mình, và, thay vì là một cây cầu thì trở thành một rào cản: “Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em” (Dt 2:11).
Trong tinh thần này, chúng ta cầu xin Chúa đồng hành cùng chúng ta trong suốt Thượng Hội Đồng này và hướng dẫn Giáo Hội của Ngài nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse, người phối ngẫu khiết tịnh nhất của Mẹ.