□ Nguyễn Trung Tây
Truyện Ngắn: Quán Trọ Cây Thầu Dầu
Vào Truyện:
Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem, xứ Judea của Do Thái. Vào những năm thứ nhất Công Nguyên, Do Thái thuộc về quyền bảo hộ của đế quốc La Mã… Thời đó hoàng đế Caesar Augustus vừa mới ban hành lệnh kiểm tra dân số trong toàn đế quốc. Theo như sắc lệnh, mọi người phải quay về ghi danh tại nguyên quán…
Hơn một tháng rồi, thôn Bethlehem của xứ Judea bình thường hoang vắng tựa bãi tha ma giờ này bỗng dưng rộn ràng khua vang tiếng bước chân của nhiều người khách lạ mặt.
Dân làng bên nhìn vào Bethlehem ngạc nhiên hỏi,
— Ủa! Họ từ đâu tới vậy?
Người Bethlehem cộ mắt, ăn nói cấm cẳng tựa chó cắn ma,
— Thì còn ở đâu mà chui ra! Người làng ta đấy…
— Ủa! Sao lại người làng ta? Nhìn đâu giống người quê mình…
Người Bethlehem xụ mặt xuống, bỏ đi thẳng một nước,
— Ông tới thủ đô Roma mà hỏi hoàng đế Caesar Augustus!
Đúng như lời than phiền của Bethlehem, khách lạ mặt, nguyên gốc "người làng ta", nhưng nói tiếng Do Thái giọng mũi pha âm hưởng tiếng Hy Lạp, có người giọng cổ vướng nghẹt tiếng Ba Tư, nhiều người không đọc được bảng tên đường ngoại trừ ngọng nghịu câu chào hỏi của vùng đất sa mạc: Shalom. Sáng đặt chân tới thị trấn, chiều hoàng hôn gió mát, khách dẫn nhau ra nghĩa trang mộ đá xì xụp cúng vái tổ tiên ông bà đang yên ngủ giấc ngàn thu. Hương trầm thơm tho thế là được dịp bốc cao bát ngát cả một khoảng không gian. Chiều hôm đó, một góc trời thị trấn Bethlehem bỗng dưng đỏ rực than hồng lò nướng bánh mì; chẳng biết tại anh linh hiển phách hay tại dưới cõi tuyền đài Sheol, tổ tiên nhăn mặt nổi giận nhìn đàn con cháu tha phương mặt ưng ửng đỏ rượu vang và mở miệng là mở mồm chửi tục ròn tan!
Ngày nào cũng thế, mặc cho tiếng tù và sáng sáng thúc hối mời gọi của Hội Đường Isaiah, khách nhắm chặt mắt nằm ngủ thẳng cẳng tới mười hai giờ trưa. Chui ra khỏi giường, khách vốc nước xúc miệng ùng ục cổ họng. Xong xuôi, khách lại bước thẳng một mạch tới quán rượu. Rượu xong, khách không về nhà trọ, nhưng dẫn nhau đi ra giếng nước đầu làng. Trên đường đi, khách nhổ xoèn xoẹt nước miếng hôi rình trộn lẫn đờm xanh tanh tưởi! Có khách say quá, xiêu vẹo té ngay bên lề như cây rỗng ruột đổ gục. Nằm chòi chòi trên mặt đường, khách mở to miệng nôn thốc nôn tháo bầy nhầy thịt dê nướng và bánh mì của bữa ăn tối qua, mùi ói tanh lờm lợm quyến rũ từng đàn ruồi xanh sa mạc kéo tới bám đen đặc một khoảng đường! Có khách chân dăm đá chân chiêu, vừa đi vừa cất giọng hát, những bài hát lẳng lơ, lời ca dâm tục. Âm thanh phát ra từ cuống họng nồng nặc mùi rượu vang. Bethlehem thông thường thiếu nữ rộn ràng cười đùa trên những nẻo đường. Chiều về, phụ nữ trong thôn hát vang vang rủ nhau đi ra giếng nước đầu làng lấy nước về nhà cho bữa cơm tối. Từ khi khách lạ kéo tới, đường làng bỗng dưng vắng hoe bóng người, giếng nước đầu làng tự nhiên vắng tanh những người phụ nữ.
Thôn Bethlehem đang thanh bình, trên có thầy Rabbi Daniel, Hội đồng Hương Chức, và đoàn Thanh Niên Tự Vệ, dưới là dân làng hiền lành như lúa mì chín vàng thơm ngát ngoài đồng; người người một lòng, cả ngàn năm nay, Bethlehem vẫn sống như thế, như một chuyện bình thường, như một ước lệ. Nhưng bởi những người khách lạ, bầu trời thanh bình Bethlehem chỉ trong thoáng chốc bốc hơi y như sương sớm trên sân vườn khi mặt trời mùa hè ghé tới. Bởi những người khách lạ, Bethlehem tự động tách ra hai phe, phe cổ võ và phe chống đối.
Phe cổ võ bao gồm chủ quán rượu, quán ăn, và quán trọ. Gặp khách, chủ nào cũng tự nhiên hớn hở, miệng cười toe toét như gái giang hồ sơn son quét phấn mở cửa mời khách bước vào cung phòng. Mà cũng khó trách, ngoài trừ vương triều Davis xuất xứ từ thôn và bánh mì nướng vàng tươi nổi tiếng, Bethlehem nhỏ bé về dân số và diện tích. Cho nên chẳng lạ chi, quán trọ Bethlehem bình thường vắng hoe ngoại trừ ruồi xanh sa mạc bay lăng quăng đợi chờ cơ hội! Thế đấy, không ai ngờ, chỉ bởi lệnh kiểm tra dân số, giờ này Bethlehem không còn phòng trống. Quán trọ nào cũng treo cao bảng chữ hớn hở bay bay trong gió: “Hết Phòng!” Đặc biệt nhất là quán rượu, ngày cũng như đêm quán nào cũng nồng nặc mùi người và mùi rượu. Chủ quán Bethlehem, nguyên cả tháng rồi, chục người là đủ cả chục, chủ nào cũng hớn hớn vui tươi! Đương nhiên, thì cũng bởi vì những đồng tiền!
Chuyện! Thì người đời đã chẳng hay nói,
Tiền nở nụ cười.
Tiền tươi con mắt.
Tiền cất vào kho.
Tiền no bao tử!
Mà đây không phải là tiền kẽm tiền xu đâu nhé. Cái thứ tiền đó giờ có cho không, chủ nào cũng bĩu môi, giơ tay ném thẳng xó nhà. Bây giờ người ta chỉ còn nói đến tiền bạc tiền vàng; bởi không hiểu sao, những người khách quay về Bethlehem theo lệnh kiểm tra dân số ai cũng giàu. Tiền đếm mỏi tay! Có người còn xách theo trong mình nguyên bọc tiền bạc khắc hình đại Hoàng đế Alexander và nhiều đồng tiền vàng Caesar Augustus. Một ngôi nhà xập xệ trong thôn trị giá 100 đồng bạc Alex. Hội Đường Isaiah nằm cuối thôn trị giá 1000 đồng tiền vàng Caesar. Thế mà khi bước vào quán rượu, khách thản nhiên quẳng ra bàn cả nắm tiền vàng. Tiền vàng rớt xuống đất kêu coong coong nghe vui tai, âm vàng ngân vang rung động lòng người. Nếu ưng ý được lòng khách, bồi bàn còn nhận được nguyên một đồng bạc Alex tiền thưởng! Cứ thế! Làm chi bồi bàn không cất công phục vụ cúc cung. Muốn gì được nấy. Muốn rượu hả! Có rượu! Muốn gái hả! Có ngay! Chủ quán chưa mở miệng năn nỉ, bồi bàn đã nhanh nhanh chạy đi kiếm chủ; gặp chủ, bồi bàn gãi gáy cầu tài, xin làm giờ phụ trội.
Phe chống đối thì chẳng ai xa lạ. Chưa kịp mở miệng nhắc tới tên, thiên hạ đã biết mặt. Mà cũng khó trách thầy Rabbi Daniel và Hội đồng Hương Chức, bởi thiếu nữ Bethlehem công dung ngôn hạnh. Cho nên không lạ chi từ bao lâu nay, người làng chưa bao giờ phải cúi nhặt những cục đá sần sùi ném chết những người con gái một phút nhẹ dạ. Cổng làng đất vẫn đen thơm mùi đất lành, đá vẫn sạch không tanh mùi máu.
Thế đó, không ai ngờ, mới chỉ mắt trước mắt sau, ngay khi bóng dáng khách lạ vừa đổ xuống nườm nượp cổng, những con kên kên phục vụ lính tuần La Mã làng bên đã nhấp nhổm ngóng đầu quay về Bethlehem theo dõi tình thế. Ba tuần trước, mặc cho những lời cảnh cáo xa gần, cô gái giang hồ khét tiếng trong vùng thản nhiên gõ cửa căn nhà treo bảng cho thuê trong thôn Bethlehem.
Cô gái vừa dọn vào, một tiếng sau khách lạ cửa trước cửa sau tấp nập.
Trong thôn, không ai nói chi. Nhưng, được đúng hai ngày, nhà thổ vừa mới tưng bừng khai trương bừng bừng phát hỏa!
Nửa đêm về sáng, lửa bốc cháy từ phòng khách, lửa liếm lem lẻm vách gỗ mặt tiền, lửa theo đà gió bừng sáng bốc ngọn bay vút lên cao. Nhờ sự can thiệp của đoàn Thanh Niên Tự Vệ, căn nhà trọ còn đứng vững, mặc dù mặt tiền cháy đen nham nhở. Lửa vừa tàn, mật thám kéo tới lập biên bản, đặt nghi vấn có người đốt nhà!
Sau vụ hỏa hoạn, cô gái buôn hương không chịu thua. Cô nhờ người sơn phết qua loa mặt tiền rồi lại tỉnh bơ hành nghề. Thế là lại bình thường! Khách khứa lại tấp nập. Tiếng cười lại vang vang một góc phố từ xế chiều cho tới nửa đêm về sáng. Người ra người vô, nhà thổ rộn ràng, vui!
Được khoảng một tuần.
Vào một buổi sáng tinh mơ, ông Bõ chăm sóc Hội Đường Isaiah hét to như bị ma cà rồng rượt khi đi ngang qua nhà thổ. Người trong thôn chạy tới chỉ để nhìn thấy cánh cửa căn nhà thổ mở tung để lộ nguyên hình hai xác người treo lủng lẳng từ thanh xà ngang: một của cô gái buôn hương, một của người khách.
Bởi hai thây ma, Sở Mật Vụ La Mã lại tấp nập kéo tới. Thầy Rabbi Daniel, Hội đồng Hương Chức, và cả Bõ già lần lượt bị gọi lên thẩm vấn. Nhưng cũng như lần trước, nhân viên mật vụ vẫn không kiếm ra thủ phạm. Rốt cuộc, Sở Mật Vụ đóng hồ sơ.
Nhưng bắt đầu từ ngày hôm đó, khoảng nửa đêm về sáng căn nhà trọ bỗng dưng chập chờn bóng ma. Tối tối có người thấy hai xác người, một nam một nữ hiện ra treo tòng teng lơ lửng. Có người nửa đêm về sáng nghe rõ tiếng hú lanh lảnh từ căn nhà loang lổ vết cháy. Vào đêm sáng trăng, có người còn thấy 7 hạt máu đỏ từ thanh xà ngang nhỏ xuống nền gạch viết ra chữ Nhân rõ từng nét trong tiếng Hy Lạp.
Người làng xì xào hỏi nhau, “Ủa, tại sao lại không là 3, hay là 4, nhưng là 7? Mà tại sao 7 hạt máu đỏ hòa lại, viết thành chữ Nhân? Mà tại sao là chữ Nhân? Mà tại sao không viết chữ Nhân trong tiếng Do Thái nhưng lại là chữ Hy Lạp?” Nghe lời càm ràm của dân làng, có người quay lại kín đáo nhắc nhở, “Bộ quên rồi à? Ông bà mình có câu, ‘Giết 7 bò mới đủ bộ lễ’. Mà nè, cũng đừng có quên ả này đâu phải người mình, ả gốc Syria mà. Ả nói tiếng Hy Lạp, đâu có biết tiếng Do Thái”.
Thằng Judas mục đồng trong làng, mới mười năm tuổi nhưng phá phách ma chê quỷ hờn. Sểnh ra là ăn cắp. Lơ đãng một chút là mất đồ. Cuối tuần nó tếch sang thôn bên cạnh, đứng đường dẫn mối cho kên kên rỉa thịt. Chủ bầy chiên có lần mắng nó cái tật ăn cắp vặt. Nó nổi máu du côn, ban đêm gọi bạn bè tới túp lều giữa cánh đồng Bethlehem, cắt cổ con chiên đực to nhất bầy nướng ăn. Thế mà nửa đêm, không biết để làm chi, dám mò tới căn nhà ma. Sáng hôm sau, lại một lần nữa, đi ngang qua, Bõ già thấy nó oặt ẹo nằm trên nền đất hoang ngôi nhà ma; mặt bầm tím, tay chân như không còn xương. Mang nó về nhà, người ta đổ cháo nóng vào miệng, giật tóc mai hú gọi ba hồn chín vía. Sáng hôm sau thằng Judas mới dần dần hồi tỉnh, nhưng tay chân quặt quẹo mềm oặt. Hỏi chi, nó cũng không nói, mặt tái xanh ngoen ngoét. Thế là người trong thôn ồn ào hẳn lên. Họ kháo với nhau, “Chết rồi! Vậy là ứng nghiệm lời nguyền 7 giọt máu viết ra 1 chữ Nhân. Thằng Judas nạn nhân đầu tiên. Trong làng mình, ai sẽ là người thứ hai đây?”.
oOo
Đêm nay 24 tháng 12. Đã gần mười một giờ đêm, chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa thôi, bầu trời Bethlehem chuyển mình bước vào nửa đêm.
Trời khuya! Tiếng tù và từ tháp canh của Hội Đường Isaiah thổi vang vang báo chuẩn bị sang canh nửa đêm! Tiếng cú khóc than ai oán từ căn nhà thổ bỏ hoang! Tiếng lọc cọc cô đơn trên đường của những vó ngựa! Tiếng la hét cười đùa vang dội từ những quán rượu. Vẫn như mọi đêm khuya, tiếng nhạc, tiếng đàn, tiếng hát, lẫn tiếng thở nồng nặc mùi rượu lại vẫn ồn ào len lỏi qua những khung cửa sổ tò vò của những quán rượu giờ này vẫn nườm nượp khách đi ra đi vào.
Nhìn bầu trời đen kịt cuối năm, chủ nhân Quán trọ Cây Thầu Dầu hai tay che miệng ngáp dài. Mấy tuần lễ liên tục rồi, Joshua phải lắc đầu lia lịa từ chối từng người, bởi mọi phân vuông quán trọ đều đã được tận dụng tối đa. Bàn ghế phòng khách của quán trọ được rời đi lấy chỗ cho hơn ba mươi người. Riêng căn phòng chứa đồ tối tăm đã được dọn dẹp cho mười người khách nằm xếp lớp cá hộp.
Thấy quán trọ sơn phết nổi bật hàng chữ “Cây Thầu Dầu”, người khách đến từ Athens thắc mắc,
— Lạ lùng hén! Đất này đâu phải đất thầu dầu. Sao lại cắc cớ đặt tên quán trọ Cây Thầu Dầu?
Ông khách đến từ quận Tarsus đứng sát ngay bên gật đầu góp ý,
— Ừ, đúng đó! Sao không đặt tên Quán trọ Nhà Bánh Mì?…
Người khách Athens trợn mắt nhìn,
— Ủa! Sao lại Quán trọ Nhà Bánh Mì?
Ông khách Tarsus nói ngay,
— Ơ hay! Thì Bethlehem có nghĩa là nhà bánh mì. Ủa! Ông không biết hay sao?
Nhìn hai ông khách, Joshua chép miệng,
— Cái vụ này…tình thiệt tui cũng hổng có rành.
Hai người khách cùng dừng lại, hỏi chủ quán,
— Ông chủ nói vụ này là vụ nào?
Joshua nhìn ra cửa quán, hạ giọng nói nhỏ,
— Thì tui muốn nói tới cái tên quán trọ. Ông vừa mới hỏi sao quán lại có tên Cây Thầu Dầu. Ta nói làng này có thời bị sư tử sa mạc kéo về từng đàn cắn xé.
Joshua lắc lắc đầu, thở dài,
— Thôi thì… mười người chết bẩy còn ba! Dân làng hồi đó cực chẳng đã phải bỏ đi tha phương cầu thực. Cho nên Bethlehem có thời hoang vắng tựa bãi tha ma. Về sau, không hiểu từ đâu lòi ra câu vè, “Thầu dầu mọc giữa tháng Ba, Là điềm ấu chúa sinh ra thái bình”. Đám trẻ mục đồng chiều chiều tụm năm tụm bẩy đầu ngõ đua nhau đọc vang câu vè. Cụ tiên chỉ chặn một thằng bé lại hỏi gốc tích câu vè. Thằng nhỏ nói có cụ ông tóc trắng như cước, tay chống gậy gỗ sồi hiện ra giữa trời dạy câu vè, dặn phải học thuộc. Hỏi tên tuổi ông cụ, thằng bé gãi gãi đầu, "Cụ chỉ nói, 'Có thời ta là hoàng tử Ai Cập'”.
Joshua lại kín đáo nhìn ra cửa nhà trọ,
— Mấy trăm năm đã trôi qua, tháng Ba năm ngoái cổng làng tự nhiên nứt ra cây thầu dầu. Cây mọc nhanh lắm, chỉ thoáng một cái, cành lá xum xuê che mát cả một góc trời. Cả làng hồi hộp nhìn nhau, chờ đợi giây phút ấu chúa ra đời. Năm ngoái lúc ông thân sinh nằm xuống, cụ để lại cho tui quán trọ, tui đặt luôn tên quán Cây Thầu Dầu…
Ông chủ quán trọ tự dưng thở dài,
— Nhưng hơn một năm rồi, ấu chúa ở đâu? Chẳng ai thấy! Nhưng ai cũng thấy cả tháng nay, con cháu thôn làng hồi đó bỏ đi, nay quay về! Tưởng để làm vương làm tướng chi, hóa ra cũng chỉ quanh quẩn ngày quán rượu đêm nhà thổ. Thiệt tình!…
Người khách Athens thắc mắc,
— Ủa! Tưởng là từ sau vụ cháy nhà, rồi hai xác ma xà ngang, làng mình đã yên ổn rồi chứ...
Chủ quán Cây Thầu Dầu chép miệng,
— Thì đúng là như vậy. Ta nói làng mình yên, nhưng những làng chung quanh đâu có yên. Kên kên không qua. Nhưng xác ma bên đây lại rầm rập kéo sang bên đó để kên kên rỉa thịt!
Ông khách Tarsus có vẻ hiểu biết,
— Sách Ngôn sứ Micah viết ấu chúa sẽ sinh ra ở thôn Bethlehem đấy. Ông chủ có biết chuyện hay không?
Chủ quán Cây Thầy Dầu nhỏ giọng lại,
— Có, tui có nghe qua…
Chủ quán kín đáo nhìn ngó chung quanh,
— Thầy Daniel ổng còn nói khi ấu chúa sanh ra đời, sao chổi xuất hiện giữa trời, què cụt đứng dậy chạy nhảy như hươu...
Chủ quán che miệng nói thì thào, giọng nhỏ rưng rức,
— Mà nói cái này chỉ mấy người mình biết với nhau thôi đó nghen! Đừng có xì xào lôi thôi, tới tai lính kín mã tà thì khổ cả đám. Nghe nói ấu chúa, ổng sẽ đánh đuổi đám giặc La Mã chạy té tát cho coi!
Người khách Athens như không mặn mà với chuyện thời sự, ông đổi đề tài,
— Tôi nghe nói có thằng bé mục đồng nửa đêm về sáng chui vào trong ngôi nhà ma ăn cắp đồ, rồi bị Thanh Niên Tự Vệ đập gãy tay chân. Có đúng không ông chủ?
Trời Bethlehem chuyển mình gần nửa đêm. Xa xa tiếng chó sói nghe như từ ngôi nhà thổ bỏ hoang tiếp tục ngẩng cao cổ hú vang từng hồi, thoáng nghe cứ tưởng hồn ma trăm ngày khóc than bởi không ai mở cửa mả! Chủ nhà trọ Cây Thầu Dầu giơ tay che miệng ngáp dài. Nhìn ra khung cửa, Joshua quyết định vặn chìa khóa hòm tiền, bởi chợt nhớ tới thằng con vừa trở chứng đau nặng. Joshua thở dài! Khổ! Gần một tuần rồi, thằng nhỏ trở mình sốt nặng, người nóng hầm hập như lò nướng bánh mì. Hai hôm trước, thằng nhỏ lên cơn động kinh, tay chân giật cong lại, miệng méo xếch. Joshua hốt hoảng lôi dầu thầu dầu thượng hảo hạng cạo lưng thằng bé. Mấy phút sau, thằng Benjamin mắt thôi trợn trắng, hơi thở trở lại điều hòa.
Tối hôm đó, Joshua bàn với vợ sẽ mang thằng con lên kinh đô Jerusalem chữa bệnh. Ở đó, chú anh biết nhiều thầy lang học được toa thuốc gia truyền chỉnh xương của người Ba Tư. Người gặp nạn gãy chân què cẳng, mang tới, thầy bốc cho mấy đơn thuốc vừa uống vừa xoa. Ngày hôm sau, bệnh nhân ngồi dậy mạnh sân sẩn.
Nghĩ tới ngày mai phải lên đường, Joshua đứng dậy, hai tay nhè nhẹ đóng kín lại cánh cửa gỗ quán trọ. Nhưng Joshua bỗng nhận ra tiếng con LuLu sủa vang vang ngoài sân. Joshua nghĩ tới thầy Rabbi Daniel và đoàn Thanh Niên Tự Vệ. Có thể đang đi tuần ban đêm, thấy quán trọ còn mở cửa, họ ghé ngang. Nhưng tiếng chó sủa trở nên gắt gỏng nhát gừng. Joshua nhíu mày... Nếu là thầy Rabbi Daniel và đoàn Thanh Niên Tự Vệ, con LuLu đã không sủa, bởi con LuLu thì còn lạ chi thầy Rabbi. Joshua khựng lại, nghĩ tới câu chuyện ấu chúa mới bàn hồi chiều với hai ông khách. Joshua thoáng lo ngại, tự trách mình hớ miệng, dễ tin người! Joshua rùng mình, nghĩ tới mật thám lính kín. Tự dưng Joshua ớn lạnh xương sống, nhớ tới đồi Calvê bên ngoài thành Jerusalem, nơi xác tù chính trị bị đóng đanh treo lềnh khềnh trên cây thập giá!
Nhưng thật bất ngờ, tiếng chó sủa chợt ngưng bặt. Đêm khuya đông lạnh nghe rõ tiếng gõ chầm chậm của vó lừa trên con đường đá sỏi. Joshua nhíu mày nhìn lên... Ủa! Sao lại vó lừa?
Trước mặt Joshua mờ mờ xuất hiện hai bóng hình. Người đàn ông khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt khắc khổ, vành râu quai nón rậm rạp. Người kia là phụ nữ, ngồi trên lưng lừa, mặt che kín mít bằng miếng khăn xanh che đầu. Người đàn ông ngón tay thô tháp khô cứng cầm dây cương lừa, tiến lại quầy, cất tiếng nói giọng Bắc Galilee,
— Chào ông chủ quán! Không dám dấu chi quan bác, hai vợ chồng nhà em từ ngoài Bắc lặn lội đường xa tới đây theo lệnh kiểm tra dân số. Nhờ quan bác thương tình, kiếm cho hai vợ chồng nhà em một căn phòng… Dạ, em đội ơn quan bác.
Nhìn người đàn ông, chủ quán Cây Thầu Dầu chép miệng, nói ngay,
— Tui biết hai vợ chồng ông anh lặn lội đường xa, giờ đã mệt mỏi lắm rồi. Nhưng thiệt tình là quán trọ không còn phòng trống nữa...
Nhưng người đàn ông không bỏ cuộc, anh xuống giọng năn nỉ, tay gãi gãi trán, tay chỉ người vợ vẫn ngồi yên lặng trên lưng lừa,
— Em nói thiệt là không phải, nhưng giờ trời đã quá khuya, nửa đêm về sáng. Xin quan bác thương!
Chỉ ra ngõ vắng dài sâu hun hút thăm thẳm bóng đêm chập chùng, người chồng như muốn bật tung tiếng khóc,
— Nguyên cả canh giờ rồi, em gõ không biết bao nhiêu cửa quán trọ. Nhưng chết mất bác ơi! Ai cũng lắc đầu quầy quậy. Chúng em đất khách quê người, mà vợ em lại bụng mang dạ chửa, giờ em cũng không biết đi đâu nữa. Chết thiệt…
Ông chủ quán nhìn ra. Ánh sáng từ quán rượu gần bên nhập nhoè chiếu đổ dài bóng hình cô đơn của người thiếu phụ. Joshua nhìn thấy cái bụng to kềnh càng của thiếu phụ ngồi trên lưng lừa. Chủ quán lúng túng, khó chịu bởi nhận ra tình trạng khó xử! Thà là không biết. Chủ quán chép miệng! Bây giờ bỏ thì thương mà vương thì tội. Joshua nhíu cặp chân mày, nghĩ tới căn phòng chứa đồ với mười mạng đàn ông chen chúc. Nhưng sao được, bởi hai người khách là một cặp vợ chồng. Đẩy anh chồng vào cũng được, nhưng còn cô vợ bụng chửa vượt mặt như thế kia thì nhét vào chỗ nào trong cái hộp cá mòi xếp lớp đó?
Nhìn ông chủ quán trọ bất động như tượng muối, người chồng như cá chết cạn cố gắng chòi chòi thân mình đập qua đập lại trên mặt cát khô,
— Hay là quan bác biết chỗ nào còn trống! Bác chỉ cho em biết, em xin phép đi ngay... Vâng, em sẽ đi ngay, không dám làm phiền bác nữa…
Joshua nhớ lại thời mới lấy vợ. Hai vợ chồng son sao mà nghèo, nghèo đến nỗi bánh mì đen hạng bèo giá một xu cũng không có mà ăn. Vợ khi đó bụng mang dạ chửa con so, Joshua vẫn phải cắn răng để vợ ngày ngày còng lưng mót nhặt những cọng lúa mì mang về nhà làm bánh mì nướng. Cũng bởi lao tâm lao lực, thằng Benjamin hồi đó sinh sớm hai tháng. Nhìn thằng con quặt què đau yếu từ thuả mới chui ra khỏi bụng mẹ, Joshua vẫn ít nhiều ngậm ngùi cay đắng... Ai biểu hồi đó mình nghèo!
Nhìn ánh sao băng sáng ngời bay vút ngang trên nền trời, chủ quán Cây Thầu Dầu quyết định,
— Thôi! Thì như thế này. Tui biết có túp lều của đám mục đồng nằm giữa cánh đồng. Ban đêm túp lều bỏ không! Giờ tui đề nghị như thế này, tui sẽ dẫn hai vợ chồng ông anh tới đó ngủ tạm qua đêm, đêm nay mà thôi. Ngày mai vợ chồng tui có việc phải lên kinh đô, căn phòng bỏ không. Trưa ngày mai, mời vợ chồng ông anh quay lại quán, ở tạm...
Trước lời đề nghị tử tế của ông chủ quán trọ Cây Thầu Dầu, đôi chân mày rậm và vầng trán rộng của người đàn ông dãn mềm từng thớ thịt căng căng. Thở dài nhẹ nhõm, người chồng tươi nét mặt, nói ngay,
— Vâng, vâng! Thế thì nhất. Quan bác tốt quá. Trời cao phù hộ vợ chồng quan bác. Giờ quan bác dậy sao, em xin nghe theo làm vậy. Vâng, vâng! Em nhờ quan bác chỉ đường. Vợ chồng em xin phép đi theo ngay!
Ông chủ quán đứng dậy,
— Nếu vậy thì ta lên đường. Trời khuya lắm rồi!
Ông chủ quán nhấc cao ngọn đèn dầu, bước tới. Ánh lửa hắt hiu soi bóng ba người và chú lừa khẳng khiu đổ dài trên con đường đất dẫn ra đường ruộng lúa mì.
Trời cuối năm, đêm 24, Bethlehem không một ánh trăng. Đêm nay trời lạnh thổi gió rét buốt căm căm. Joshua nhìn lên nền trời tối đen. Một vài tiếng chó sói hú gọi đàn xa xa từ sau rặng núi lay động những đốm sáng đom đóm lập lòe. Một vài cánh dơi xào xạc khua động đêm đen. Tiếng cú nhà thổ tiếp tục vang dội ngân xa. Joshua nhớ tới căn nhà ma. Anh thắc mắc không hiểu thằng Judas rắn mặt bị ma hớp hồn hay nó bị thầy Rabbi sai thanh niên Tự Vệ đánh què tay gãy chân như lời đồn thổi. Nhớ tới thằng bé mục đồng rắn mặt, ông chủ quán Cây Dầu lại nhớ tới thằng Benjamin. Ngày mai, vợ chồng anh cũng sẽ lọc cọc dẫn theo thằng bé què quặt ngồi trên lưng ngựa. Đường lên kinh thành Jerusalem có nhanh lắm cũng phải mất hai ngày. Nhớ tới kinh thành Jerusalem giờ này ngập bóng binh sĩ La Mã, ông chủ quán lắc đầu. Nhìn lên trời cao, chủ quán trọ Cây Thầu Dầu lẩm bẩm câu đồng dao,
— Thầu dầu mọc giữa tháng Ba, Là điềm ấu chúa sinh ra thái bình.
Joshua chép miệng, “Thầu Dầu đã mọc giữa tháng Ba hơn một năm rồi. Ấu chúa ở đâu mà sao vẫn chưa ai thấy?”. Joshua thở dài… Tiếng thở dài bay lên cao chầm chậm tan biến vào thinh không.
oOo
Ba ngày rồi, Bõ già đau nặng. Cháo loãng đổ vào miệng không trôi lọt qua hàm răng ngậm chặt cứng, nhưng sui sủi hóa ra bọt bong bóng đóng hai bên mép. Mắt Bõ mở lớn trắng đùng đục, ruồi nhằng đậu đen bám chi chít. Bõ ho sù sụ, mùi hôi thối bay nồng nặc một khoảng không gian căn phòng người bệnh... Thầy Rabbi nói nhỏ với Hội đồng Hương Chức chuẩn bị chuyện hậu sự cho Bõ.
Thế mà sáng nay, trời vừa hừng sáng, Bõ tự nhiên ngồi bật dậy, lưng thẳng như cây thước. Bõ mở mắt nhìn qua khung cửa, bước chầm chậm mấy bước, rồi thật bất ngờ phóng chạy trên con đường làng như bị ma nhập. Tới Hội Đường Isaiah, Bõ dừng lại, hai cánh tay khẳng khiu đẩy tung cửa sắt nặng nề. Chạy sầm sập vào khu chánh điện khói hương nghi ngút giờ kinh sáng, Bõ dừng lại, nhìn thầy Rabbi, nhìn mọi người, tay chỉ ra hướng sân Hội Đường, tay chỉ lên trời, miệng ú ớ phát không ra được một âm.
Dừng ngang lời kinh, dân làng Bethlehem trợn tròn mắt nhìn Bõ già tưởng như nhìn thấy người chết hiện hồn. Thầy Daniel khoát tay ra hiệu chấm dứt giờ kinh sáng. Dân làng đứng dậy, ùn ùn kéo nhau đi theo Bõ già ra sân. Tới sân gạch đỏ ối, không ai bảo ai, người người đưa mặt ngẩng lên nhìn trời. Thầy Rabbi cũng nhìn theo để rồi ngỡ ngàng nhận ra bầu trời xám xịt mây đen mùa đông đang vặn mình chuyển đổi sang màu đỏ tươi. Trên cao, ngôi sao chổi sáng rực rỡ đang xoay tròn tít đều những vòng quay. Dân làng Bethlehem kinh hãi rú lên! Có người quỳ xuống đấm ngực, có người nước mắt lăn dài trên khuôn mặt, có người sụt sùi câu kinh.
Còn đang ngơ ngác dõi nhìn hiện tượng thiên nhiên lạ kỳ, dân làng giật mình nhận ra, một lần nữa, tiếng bước chân chạy sầm sập trên con đường làng. Tưởng ai, hóa ra đó chính là ông khách Athens. Dừng lại tại sân Hội Đường, ông khách tay ôm ngực thở dốc, tay kia chỉ về hướng quán trọ Cây Thầu Dầu,
— Thằng Judas! Cả thằng Benjamin nữa… Chạy tới quán trọ Cây Thầu Dầu mà coi! Hai đứa nó đang rượt nhau chạy rần rần ở ngoài sân kia kìa! Nhanh! Nhanh lên! Chạy tới mà coi…
Bethlehem ngơ ngác nhìn nhau. Đoàn Thanh Niên Tự Vệ thì thào nói tối hôm qua, trong khi đi tuần, họ nghe thấy tiếng hát thánh thót từ trời cao vọng xuống vang vang cả một cánh đồng Bethlehem vào đúng lúc nửa đêm...
Người làng Bethlehem của xứ Judea vẫn không hiểu chuyện gì đã xảy ra ngoại trừ đôi vợ chồng quê mùa đến từ làng Nazareth của xứ Galilee.
□ Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.webs.com
Truyện Ngắn: Quán Trọ Cây Thầu Dầu
Vào Truyện:
Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem, xứ Judea của Do Thái. Vào những năm thứ nhất Công Nguyên, Do Thái thuộc về quyền bảo hộ của đế quốc La Mã… Thời đó hoàng đế Caesar Augustus vừa mới ban hành lệnh kiểm tra dân số trong toàn đế quốc. Theo như sắc lệnh, mọi người phải quay về ghi danh tại nguyên quán…
Hơn một tháng rồi, thôn Bethlehem của xứ Judea bình thường hoang vắng tựa bãi tha ma giờ này bỗng dưng rộn ràng khua vang tiếng bước chân của nhiều người khách lạ mặt.
Dân làng bên nhìn vào Bethlehem ngạc nhiên hỏi,
— Ủa! Họ từ đâu tới vậy?
Người Bethlehem cộ mắt, ăn nói cấm cẳng tựa chó cắn ma,
— Thì còn ở đâu mà chui ra! Người làng ta đấy…
— Ủa! Sao lại người làng ta? Nhìn đâu giống người quê mình…
Người Bethlehem xụ mặt xuống, bỏ đi thẳng một nước,
— Ông tới thủ đô Roma mà hỏi hoàng đế Caesar Augustus!
Đúng như lời than phiền của Bethlehem, khách lạ mặt, nguyên gốc "người làng ta", nhưng nói tiếng Do Thái giọng mũi pha âm hưởng tiếng Hy Lạp, có người giọng cổ vướng nghẹt tiếng Ba Tư, nhiều người không đọc được bảng tên đường ngoại trừ ngọng nghịu câu chào hỏi của vùng đất sa mạc: Shalom. Sáng đặt chân tới thị trấn, chiều hoàng hôn gió mát, khách dẫn nhau ra nghĩa trang mộ đá xì xụp cúng vái tổ tiên ông bà đang yên ngủ giấc ngàn thu. Hương trầm thơm tho thế là được dịp bốc cao bát ngát cả một khoảng không gian. Chiều hôm đó, một góc trời thị trấn Bethlehem bỗng dưng đỏ rực than hồng lò nướng bánh mì; chẳng biết tại anh linh hiển phách hay tại dưới cõi tuyền đài Sheol, tổ tiên nhăn mặt nổi giận nhìn đàn con cháu tha phương mặt ưng ửng đỏ rượu vang và mở miệng là mở mồm chửi tục ròn tan!
Ngày nào cũng thế, mặc cho tiếng tù và sáng sáng thúc hối mời gọi của Hội Đường Isaiah, khách nhắm chặt mắt nằm ngủ thẳng cẳng tới mười hai giờ trưa. Chui ra khỏi giường, khách vốc nước xúc miệng ùng ục cổ họng. Xong xuôi, khách lại bước thẳng một mạch tới quán rượu. Rượu xong, khách không về nhà trọ, nhưng dẫn nhau đi ra giếng nước đầu làng. Trên đường đi, khách nhổ xoèn xoẹt nước miếng hôi rình trộn lẫn đờm xanh tanh tưởi! Có khách say quá, xiêu vẹo té ngay bên lề như cây rỗng ruột đổ gục. Nằm chòi chòi trên mặt đường, khách mở to miệng nôn thốc nôn tháo bầy nhầy thịt dê nướng và bánh mì của bữa ăn tối qua, mùi ói tanh lờm lợm quyến rũ từng đàn ruồi xanh sa mạc kéo tới bám đen đặc một khoảng đường! Có khách chân dăm đá chân chiêu, vừa đi vừa cất giọng hát, những bài hát lẳng lơ, lời ca dâm tục. Âm thanh phát ra từ cuống họng nồng nặc mùi rượu vang. Bethlehem thông thường thiếu nữ rộn ràng cười đùa trên những nẻo đường. Chiều về, phụ nữ trong thôn hát vang vang rủ nhau đi ra giếng nước đầu làng lấy nước về nhà cho bữa cơm tối. Từ khi khách lạ kéo tới, đường làng bỗng dưng vắng hoe bóng người, giếng nước đầu làng tự nhiên vắng tanh những người phụ nữ.
Thôn Bethlehem đang thanh bình, trên có thầy Rabbi Daniel, Hội đồng Hương Chức, và đoàn Thanh Niên Tự Vệ, dưới là dân làng hiền lành như lúa mì chín vàng thơm ngát ngoài đồng; người người một lòng, cả ngàn năm nay, Bethlehem vẫn sống như thế, như một chuyện bình thường, như một ước lệ. Nhưng bởi những người khách lạ, bầu trời thanh bình Bethlehem chỉ trong thoáng chốc bốc hơi y như sương sớm trên sân vườn khi mặt trời mùa hè ghé tới. Bởi những người khách lạ, Bethlehem tự động tách ra hai phe, phe cổ võ và phe chống đối.
Phe cổ võ bao gồm chủ quán rượu, quán ăn, và quán trọ. Gặp khách, chủ nào cũng tự nhiên hớn hở, miệng cười toe toét như gái giang hồ sơn son quét phấn mở cửa mời khách bước vào cung phòng. Mà cũng khó trách, ngoài trừ vương triều Davis xuất xứ từ thôn và bánh mì nướng vàng tươi nổi tiếng, Bethlehem nhỏ bé về dân số và diện tích. Cho nên chẳng lạ chi, quán trọ Bethlehem bình thường vắng hoe ngoại trừ ruồi xanh sa mạc bay lăng quăng đợi chờ cơ hội! Thế đấy, không ai ngờ, chỉ bởi lệnh kiểm tra dân số, giờ này Bethlehem không còn phòng trống. Quán trọ nào cũng treo cao bảng chữ hớn hở bay bay trong gió: “Hết Phòng!” Đặc biệt nhất là quán rượu, ngày cũng như đêm quán nào cũng nồng nặc mùi người và mùi rượu. Chủ quán Bethlehem, nguyên cả tháng rồi, chục người là đủ cả chục, chủ nào cũng hớn hớn vui tươi! Đương nhiên, thì cũng bởi vì những đồng tiền!
Chuyện! Thì người đời đã chẳng hay nói,
Tiền nở nụ cười.
Tiền tươi con mắt.
Tiền cất vào kho.
Tiền no bao tử!
Mà đây không phải là tiền kẽm tiền xu đâu nhé. Cái thứ tiền đó giờ có cho không, chủ nào cũng bĩu môi, giơ tay ném thẳng xó nhà. Bây giờ người ta chỉ còn nói đến tiền bạc tiền vàng; bởi không hiểu sao, những người khách quay về Bethlehem theo lệnh kiểm tra dân số ai cũng giàu. Tiền đếm mỏi tay! Có người còn xách theo trong mình nguyên bọc tiền bạc khắc hình đại Hoàng đế Alexander và nhiều đồng tiền vàng Caesar Augustus. Một ngôi nhà xập xệ trong thôn trị giá 100 đồng bạc Alex. Hội Đường Isaiah nằm cuối thôn trị giá 1000 đồng tiền vàng Caesar. Thế mà khi bước vào quán rượu, khách thản nhiên quẳng ra bàn cả nắm tiền vàng. Tiền vàng rớt xuống đất kêu coong coong nghe vui tai, âm vàng ngân vang rung động lòng người. Nếu ưng ý được lòng khách, bồi bàn còn nhận được nguyên một đồng bạc Alex tiền thưởng! Cứ thế! Làm chi bồi bàn không cất công phục vụ cúc cung. Muốn gì được nấy. Muốn rượu hả! Có rượu! Muốn gái hả! Có ngay! Chủ quán chưa mở miệng năn nỉ, bồi bàn đã nhanh nhanh chạy đi kiếm chủ; gặp chủ, bồi bàn gãi gáy cầu tài, xin làm giờ phụ trội.
Phe chống đối thì chẳng ai xa lạ. Chưa kịp mở miệng nhắc tới tên, thiên hạ đã biết mặt. Mà cũng khó trách thầy Rabbi Daniel và Hội đồng Hương Chức, bởi thiếu nữ Bethlehem công dung ngôn hạnh. Cho nên không lạ chi từ bao lâu nay, người làng chưa bao giờ phải cúi nhặt những cục đá sần sùi ném chết những người con gái một phút nhẹ dạ. Cổng làng đất vẫn đen thơm mùi đất lành, đá vẫn sạch không tanh mùi máu.
Thế đó, không ai ngờ, mới chỉ mắt trước mắt sau, ngay khi bóng dáng khách lạ vừa đổ xuống nườm nượp cổng, những con kên kên phục vụ lính tuần La Mã làng bên đã nhấp nhổm ngóng đầu quay về Bethlehem theo dõi tình thế. Ba tuần trước, mặc cho những lời cảnh cáo xa gần, cô gái giang hồ khét tiếng trong vùng thản nhiên gõ cửa căn nhà treo bảng cho thuê trong thôn Bethlehem.
Cô gái vừa dọn vào, một tiếng sau khách lạ cửa trước cửa sau tấp nập.
Trong thôn, không ai nói chi. Nhưng, được đúng hai ngày, nhà thổ vừa mới tưng bừng khai trương bừng bừng phát hỏa!
Nửa đêm về sáng, lửa bốc cháy từ phòng khách, lửa liếm lem lẻm vách gỗ mặt tiền, lửa theo đà gió bừng sáng bốc ngọn bay vút lên cao. Nhờ sự can thiệp của đoàn Thanh Niên Tự Vệ, căn nhà trọ còn đứng vững, mặc dù mặt tiền cháy đen nham nhở. Lửa vừa tàn, mật thám kéo tới lập biên bản, đặt nghi vấn có người đốt nhà!
Sau vụ hỏa hoạn, cô gái buôn hương không chịu thua. Cô nhờ người sơn phết qua loa mặt tiền rồi lại tỉnh bơ hành nghề. Thế là lại bình thường! Khách khứa lại tấp nập. Tiếng cười lại vang vang một góc phố từ xế chiều cho tới nửa đêm về sáng. Người ra người vô, nhà thổ rộn ràng, vui!
Được khoảng một tuần.
Vào một buổi sáng tinh mơ, ông Bõ chăm sóc Hội Đường Isaiah hét to như bị ma cà rồng rượt khi đi ngang qua nhà thổ. Người trong thôn chạy tới chỉ để nhìn thấy cánh cửa căn nhà thổ mở tung để lộ nguyên hình hai xác người treo lủng lẳng từ thanh xà ngang: một của cô gái buôn hương, một của người khách.
Bởi hai thây ma, Sở Mật Vụ La Mã lại tấp nập kéo tới. Thầy Rabbi Daniel, Hội đồng Hương Chức, và cả Bõ già lần lượt bị gọi lên thẩm vấn. Nhưng cũng như lần trước, nhân viên mật vụ vẫn không kiếm ra thủ phạm. Rốt cuộc, Sở Mật Vụ đóng hồ sơ.
Nhưng bắt đầu từ ngày hôm đó, khoảng nửa đêm về sáng căn nhà trọ bỗng dưng chập chờn bóng ma. Tối tối có người thấy hai xác người, một nam một nữ hiện ra treo tòng teng lơ lửng. Có người nửa đêm về sáng nghe rõ tiếng hú lanh lảnh từ căn nhà loang lổ vết cháy. Vào đêm sáng trăng, có người còn thấy 7 hạt máu đỏ từ thanh xà ngang nhỏ xuống nền gạch viết ra chữ Nhân rõ từng nét trong tiếng Hy Lạp.
Người làng xì xào hỏi nhau, “Ủa, tại sao lại không là 3, hay là 4, nhưng là 7? Mà tại sao 7 hạt máu đỏ hòa lại, viết thành chữ Nhân? Mà tại sao là chữ Nhân? Mà tại sao không viết chữ Nhân trong tiếng Do Thái nhưng lại là chữ Hy Lạp?” Nghe lời càm ràm của dân làng, có người quay lại kín đáo nhắc nhở, “Bộ quên rồi à? Ông bà mình có câu, ‘Giết 7 bò mới đủ bộ lễ’. Mà nè, cũng đừng có quên ả này đâu phải người mình, ả gốc Syria mà. Ả nói tiếng Hy Lạp, đâu có biết tiếng Do Thái”.
Thằng Judas mục đồng trong làng, mới mười năm tuổi nhưng phá phách ma chê quỷ hờn. Sểnh ra là ăn cắp. Lơ đãng một chút là mất đồ. Cuối tuần nó tếch sang thôn bên cạnh, đứng đường dẫn mối cho kên kên rỉa thịt. Chủ bầy chiên có lần mắng nó cái tật ăn cắp vặt. Nó nổi máu du côn, ban đêm gọi bạn bè tới túp lều giữa cánh đồng Bethlehem, cắt cổ con chiên đực to nhất bầy nướng ăn. Thế mà nửa đêm, không biết để làm chi, dám mò tới căn nhà ma. Sáng hôm sau, lại một lần nữa, đi ngang qua, Bõ già thấy nó oặt ẹo nằm trên nền đất hoang ngôi nhà ma; mặt bầm tím, tay chân như không còn xương. Mang nó về nhà, người ta đổ cháo nóng vào miệng, giật tóc mai hú gọi ba hồn chín vía. Sáng hôm sau thằng Judas mới dần dần hồi tỉnh, nhưng tay chân quặt quẹo mềm oặt. Hỏi chi, nó cũng không nói, mặt tái xanh ngoen ngoét. Thế là người trong thôn ồn ào hẳn lên. Họ kháo với nhau, “Chết rồi! Vậy là ứng nghiệm lời nguyền 7 giọt máu viết ra 1 chữ Nhân. Thằng Judas nạn nhân đầu tiên. Trong làng mình, ai sẽ là người thứ hai đây?”.
oOo
Đêm nay 24 tháng 12. Đã gần mười một giờ đêm, chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa thôi, bầu trời Bethlehem chuyển mình bước vào nửa đêm.
Trời khuya! Tiếng tù và từ tháp canh của Hội Đường Isaiah thổi vang vang báo chuẩn bị sang canh nửa đêm! Tiếng cú khóc than ai oán từ căn nhà thổ bỏ hoang! Tiếng lọc cọc cô đơn trên đường của những vó ngựa! Tiếng la hét cười đùa vang dội từ những quán rượu. Vẫn như mọi đêm khuya, tiếng nhạc, tiếng đàn, tiếng hát, lẫn tiếng thở nồng nặc mùi rượu lại vẫn ồn ào len lỏi qua những khung cửa sổ tò vò của những quán rượu giờ này vẫn nườm nượp khách đi ra đi vào.
Nhìn bầu trời đen kịt cuối năm, chủ nhân Quán trọ Cây Thầu Dầu hai tay che miệng ngáp dài. Mấy tuần lễ liên tục rồi, Joshua phải lắc đầu lia lịa từ chối từng người, bởi mọi phân vuông quán trọ đều đã được tận dụng tối đa. Bàn ghế phòng khách của quán trọ được rời đi lấy chỗ cho hơn ba mươi người. Riêng căn phòng chứa đồ tối tăm đã được dọn dẹp cho mười người khách nằm xếp lớp cá hộp.
Thấy quán trọ sơn phết nổi bật hàng chữ “Cây Thầu Dầu”, người khách đến từ Athens thắc mắc,
— Lạ lùng hén! Đất này đâu phải đất thầu dầu. Sao lại cắc cớ đặt tên quán trọ Cây Thầu Dầu?
Ông khách đến từ quận Tarsus đứng sát ngay bên gật đầu góp ý,
— Ừ, đúng đó! Sao không đặt tên Quán trọ Nhà Bánh Mì?…
Người khách Athens trợn mắt nhìn,
— Ủa! Sao lại Quán trọ Nhà Bánh Mì?
Ông khách Tarsus nói ngay,
— Ơ hay! Thì Bethlehem có nghĩa là nhà bánh mì. Ủa! Ông không biết hay sao?
Nhìn hai ông khách, Joshua chép miệng,
— Cái vụ này…tình thiệt tui cũng hổng có rành.
Hai người khách cùng dừng lại, hỏi chủ quán,
— Ông chủ nói vụ này là vụ nào?
Joshua nhìn ra cửa quán, hạ giọng nói nhỏ,
— Thì tui muốn nói tới cái tên quán trọ. Ông vừa mới hỏi sao quán lại có tên Cây Thầu Dầu. Ta nói làng này có thời bị sư tử sa mạc kéo về từng đàn cắn xé.
Joshua lắc lắc đầu, thở dài,
— Thôi thì… mười người chết bẩy còn ba! Dân làng hồi đó cực chẳng đã phải bỏ đi tha phương cầu thực. Cho nên Bethlehem có thời hoang vắng tựa bãi tha ma. Về sau, không hiểu từ đâu lòi ra câu vè, “Thầu dầu mọc giữa tháng Ba, Là điềm ấu chúa sinh ra thái bình”. Đám trẻ mục đồng chiều chiều tụm năm tụm bẩy đầu ngõ đua nhau đọc vang câu vè. Cụ tiên chỉ chặn một thằng bé lại hỏi gốc tích câu vè. Thằng nhỏ nói có cụ ông tóc trắng như cước, tay chống gậy gỗ sồi hiện ra giữa trời dạy câu vè, dặn phải học thuộc. Hỏi tên tuổi ông cụ, thằng bé gãi gãi đầu, "Cụ chỉ nói, 'Có thời ta là hoàng tử Ai Cập'”.
Joshua lại kín đáo nhìn ra cửa nhà trọ,
— Mấy trăm năm đã trôi qua, tháng Ba năm ngoái cổng làng tự nhiên nứt ra cây thầu dầu. Cây mọc nhanh lắm, chỉ thoáng một cái, cành lá xum xuê che mát cả một góc trời. Cả làng hồi hộp nhìn nhau, chờ đợi giây phút ấu chúa ra đời. Năm ngoái lúc ông thân sinh nằm xuống, cụ để lại cho tui quán trọ, tui đặt luôn tên quán Cây Thầu Dầu…
Ông chủ quán trọ tự dưng thở dài,
— Nhưng hơn một năm rồi, ấu chúa ở đâu? Chẳng ai thấy! Nhưng ai cũng thấy cả tháng nay, con cháu thôn làng hồi đó bỏ đi, nay quay về! Tưởng để làm vương làm tướng chi, hóa ra cũng chỉ quanh quẩn ngày quán rượu đêm nhà thổ. Thiệt tình!…
Người khách Athens thắc mắc,
— Ủa! Tưởng là từ sau vụ cháy nhà, rồi hai xác ma xà ngang, làng mình đã yên ổn rồi chứ...
Chủ quán Cây Thầu Dầu chép miệng,
— Thì đúng là như vậy. Ta nói làng mình yên, nhưng những làng chung quanh đâu có yên. Kên kên không qua. Nhưng xác ma bên đây lại rầm rập kéo sang bên đó để kên kên rỉa thịt!
Ông khách Tarsus có vẻ hiểu biết,
— Sách Ngôn sứ Micah viết ấu chúa sẽ sinh ra ở thôn Bethlehem đấy. Ông chủ có biết chuyện hay không?
Chủ quán Cây Thầy Dầu nhỏ giọng lại,
— Có, tui có nghe qua…
Chủ quán kín đáo nhìn ngó chung quanh,
— Thầy Daniel ổng còn nói khi ấu chúa sanh ra đời, sao chổi xuất hiện giữa trời, què cụt đứng dậy chạy nhảy như hươu...
Chủ quán che miệng nói thì thào, giọng nhỏ rưng rức,
— Mà nói cái này chỉ mấy người mình biết với nhau thôi đó nghen! Đừng có xì xào lôi thôi, tới tai lính kín mã tà thì khổ cả đám. Nghe nói ấu chúa, ổng sẽ đánh đuổi đám giặc La Mã chạy té tát cho coi!
Người khách Athens như không mặn mà với chuyện thời sự, ông đổi đề tài,
— Tôi nghe nói có thằng bé mục đồng nửa đêm về sáng chui vào trong ngôi nhà ma ăn cắp đồ, rồi bị Thanh Niên Tự Vệ đập gãy tay chân. Có đúng không ông chủ?
Trời Bethlehem chuyển mình gần nửa đêm. Xa xa tiếng chó sói nghe như từ ngôi nhà thổ bỏ hoang tiếp tục ngẩng cao cổ hú vang từng hồi, thoáng nghe cứ tưởng hồn ma trăm ngày khóc than bởi không ai mở cửa mả! Chủ nhà trọ Cây Thầu Dầu giơ tay che miệng ngáp dài. Nhìn ra khung cửa, Joshua quyết định vặn chìa khóa hòm tiền, bởi chợt nhớ tới thằng con vừa trở chứng đau nặng. Joshua thở dài! Khổ! Gần một tuần rồi, thằng nhỏ trở mình sốt nặng, người nóng hầm hập như lò nướng bánh mì. Hai hôm trước, thằng nhỏ lên cơn động kinh, tay chân giật cong lại, miệng méo xếch. Joshua hốt hoảng lôi dầu thầu dầu thượng hảo hạng cạo lưng thằng bé. Mấy phút sau, thằng Benjamin mắt thôi trợn trắng, hơi thở trở lại điều hòa.
Tối hôm đó, Joshua bàn với vợ sẽ mang thằng con lên kinh đô Jerusalem chữa bệnh. Ở đó, chú anh biết nhiều thầy lang học được toa thuốc gia truyền chỉnh xương của người Ba Tư. Người gặp nạn gãy chân què cẳng, mang tới, thầy bốc cho mấy đơn thuốc vừa uống vừa xoa. Ngày hôm sau, bệnh nhân ngồi dậy mạnh sân sẩn.
Nghĩ tới ngày mai phải lên đường, Joshua đứng dậy, hai tay nhè nhẹ đóng kín lại cánh cửa gỗ quán trọ. Nhưng Joshua bỗng nhận ra tiếng con LuLu sủa vang vang ngoài sân. Joshua nghĩ tới thầy Rabbi Daniel và đoàn Thanh Niên Tự Vệ. Có thể đang đi tuần ban đêm, thấy quán trọ còn mở cửa, họ ghé ngang. Nhưng tiếng chó sủa trở nên gắt gỏng nhát gừng. Joshua nhíu mày... Nếu là thầy Rabbi Daniel và đoàn Thanh Niên Tự Vệ, con LuLu đã không sủa, bởi con LuLu thì còn lạ chi thầy Rabbi. Joshua khựng lại, nghĩ tới câu chuyện ấu chúa mới bàn hồi chiều với hai ông khách. Joshua thoáng lo ngại, tự trách mình hớ miệng, dễ tin người! Joshua rùng mình, nghĩ tới mật thám lính kín. Tự dưng Joshua ớn lạnh xương sống, nhớ tới đồi Calvê bên ngoài thành Jerusalem, nơi xác tù chính trị bị đóng đanh treo lềnh khềnh trên cây thập giá!
Nhưng thật bất ngờ, tiếng chó sủa chợt ngưng bặt. Đêm khuya đông lạnh nghe rõ tiếng gõ chầm chậm của vó lừa trên con đường đá sỏi. Joshua nhíu mày nhìn lên... Ủa! Sao lại vó lừa?
Trước mặt Joshua mờ mờ xuất hiện hai bóng hình. Người đàn ông khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt khắc khổ, vành râu quai nón rậm rạp. Người kia là phụ nữ, ngồi trên lưng lừa, mặt che kín mít bằng miếng khăn xanh che đầu. Người đàn ông ngón tay thô tháp khô cứng cầm dây cương lừa, tiến lại quầy, cất tiếng nói giọng Bắc Galilee,
— Chào ông chủ quán! Không dám dấu chi quan bác, hai vợ chồng nhà em từ ngoài Bắc lặn lội đường xa tới đây theo lệnh kiểm tra dân số. Nhờ quan bác thương tình, kiếm cho hai vợ chồng nhà em một căn phòng… Dạ, em đội ơn quan bác.
Nhìn người đàn ông, chủ quán Cây Thầu Dầu chép miệng, nói ngay,
— Tui biết hai vợ chồng ông anh lặn lội đường xa, giờ đã mệt mỏi lắm rồi. Nhưng thiệt tình là quán trọ không còn phòng trống nữa...
Nhưng người đàn ông không bỏ cuộc, anh xuống giọng năn nỉ, tay gãi gãi trán, tay chỉ người vợ vẫn ngồi yên lặng trên lưng lừa,
— Em nói thiệt là không phải, nhưng giờ trời đã quá khuya, nửa đêm về sáng. Xin quan bác thương!
Chỉ ra ngõ vắng dài sâu hun hút thăm thẳm bóng đêm chập chùng, người chồng như muốn bật tung tiếng khóc,
— Nguyên cả canh giờ rồi, em gõ không biết bao nhiêu cửa quán trọ. Nhưng chết mất bác ơi! Ai cũng lắc đầu quầy quậy. Chúng em đất khách quê người, mà vợ em lại bụng mang dạ chửa, giờ em cũng không biết đi đâu nữa. Chết thiệt…
Ông chủ quán nhìn ra. Ánh sáng từ quán rượu gần bên nhập nhoè chiếu đổ dài bóng hình cô đơn của người thiếu phụ. Joshua nhìn thấy cái bụng to kềnh càng của thiếu phụ ngồi trên lưng lừa. Chủ quán lúng túng, khó chịu bởi nhận ra tình trạng khó xử! Thà là không biết. Chủ quán chép miệng! Bây giờ bỏ thì thương mà vương thì tội. Joshua nhíu cặp chân mày, nghĩ tới căn phòng chứa đồ với mười mạng đàn ông chen chúc. Nhưng sao được, bởi hai người khách là một cặp vợ chồng. Đẩy anh chồng vào cũng được, nhưng còn cô vợ bụng chửa vượt mặt như thế kia thì nhét vào chỗ nào trong cái hộp cá mòi xếp lớp đó?
Nhìn ông chủ quán trọ bất động như tượng muối, người chồng như cá chết cạn cố gắng chòi chòi thân mình đập qua đập lại trên mặt cát khô,
— Hay là quan bác biết chỗ nào còn trống! Bác chỉ cho em biết, em xin phép đi ngay... Vâng, em sẽ đi ngay, không dám làm phiền bác nữa…
Joshua nhớ lại thời mới lấy vợ. Hai vợ chồng son sao mà nghèo, nghèo đến nỗi bánh mì đen hạng bèo giá một xu cũng không có mà ăn. Vợ khi đó bụng mang dạ chửa con so, Joshua vẫn phải cắn răng để vợ ngày ngày còng lưng mót nhặt những cọng lúa mì mang về nhà làm bánh mì nướng. Cũng bởi lao tâm lao lực, thằng Benjamin hồi đó sinh sớm hai tháng. Nhìn thằng con quặt què đau yếu từ thuả mới chui ra khỏi bụng mẹ, Joshua vẫn ít nhiều ngậm ngùi cay đắng... Ai biểu hồi đó mình nghèo!
Nhìn ánh sao băng sáng ngời bay vút ngang trên nền trời, chủ quán Cây Thầu Dầu quyết định,
— Thôi! Thì như thế này. Tui biết có túp lều của đám mục đồng nằm giữa cánh đồng. Ban đêm túp lều bỏ không! Giờ tui đề nghị như thế này, tui sẽ dẫn hai vợ chồng ông anh tới đó ngủ tạm qua đêm, đêm nay mà thôi. Ngày mai vợ chồng tui có việc phải lên kinh đô, căn phòng bỏ không. Trưa ngày mai, mời vợ chồng ông anh quay lại quán, ở tạm...
Trước lời đề nghị tử tế của ông chủ quán trọ Cây Thầu Dầu, đôi chân mày rậm và vầng trán rộng của người đàn ông dãn mềm từng thớ thịt căng căng. Thở dài nhẹ nhõm, người chồng tươi nét mặt, nói ngay,
— Vâng, vâng! Thế thì nhất. Quan bác tốt quá. Trời cao phù hộ vợ chồng quan bác. Giờ quan bác dậy sao, em xin nghe theo làm vậy. Vâng, vâng! Em nhờ quan bác chỉ đường. Vợ chồng em xin phép đi theo ngay!
Ông chủ quán đứng dậy,
— Nếu vậy thì ta lên đường. Trời khuya lắm rồi!
Ông chủ quán nhấc cao ngọn đèn dầu, bước tới. Ánh lửa hắt hiu soi bóng ba người và chú lừa khẳng khiu đổ dài trên con đường đất dẫn ra đường ruộng lúa mì.
Trời cuối năm, đêm 24, Bethlehem không một ánh trăng. Đêm nay trời lạnh thổi gió rét buốt căm căm. Joshua nhìn lên nền trời tối đen. Một vài tiếng chó sói hú gọi đàn xa xa từ sau rặng núi lay động những đốm sáng đom đóm lập lòe. Một vài cánh dơi xào xạc khua động đêm đen. Tiếng cú nhà thổ tiếp tục vang dội ngân xa. Joshua nhớ tới căn nhà ma. Anh thắc mắc không hiểu thằng Judas rắn mặt bị ma hớp hồn hay nó bị thầy Rabbi sai thanh niên Tự Vệ đánh què tay gãy chân như lời đồn thổi. Nhớ tới thằng bé mục đồng rắn mặt, ông chủ quán Cây Dầu lại nhớ tới thằng Benjamin. Ngày mai, vợ chồng anh cũng sẽ lọc cọc dẫn theo thằng bé què quặt ngồi trên lưng ngựa. Đường lên kinh thành Jerusalem có nhanh lắm cũng phải mất hai ngày. Nhớ tới kinh thành Jerusalem giờ này ngập bóng binh sĩ La Mã, ông chủ quán lắc đầu. Nhìn lên trời cao, chủ quán trọ Cây Thầu Dầu lẩm bẩm câu đồng dao,
— Thầu dầu mọc giữa tháng Ba, Là điềm ấu chúa sinh ra thái bình.
Joshua chép miệng, “Thầu Dầu đã mọc giữa tháng Ba hơn một năm rồi. Ấu chúa ở đâu mà sao vẫn chưa ai thấy?”. Joshua thở dài… Tiếng thở dài bay lên cao chầm chậm tan biến vào thinh không.
oOo
Ba ngày rồi, Bõ già đau nặng. Cháo loãng đổ vào miệng không trôi lọt qua hàm răng ngậm chặt cứng, nhưng sui sủi hóa ra bọt bong bóng đóng hai bên mép. Mắt Bõ mở lớn trắng đùng đục, ruồi nhằng đậu đen bám chi chít. Bõ ho sù sụ, mùi hôi thối bay nồng nặc một khoảng không gian căn phòng người bệnh... Thầy Rabbi nói nhỏ với Hội đồng Hương Chức chuẩn bị chuyện hậu sự cho Bõ.
Thế mà sáng nay, trời vừa hừng sáng, Bõ tự nhiên ngồi bật dậy, lưng thẳng như cây thước. Bõ mở mắt nhìn qua khung cửa, bước chầm chậm mấy bước, rồi thật bất ngờ phóng chạy trên con đường làng như bị ma nhập. Tới Hội Đường Isaiah, Bõ dừng lại, hai cánh tay khẳng khiu đẩy tung cửa sắt nặng nề. Chạy sầm sập vào khu chánh điện khói hương nghi ngút giờ kinh sáng, Bõ dừng lại, nhìn thầy Rabbi, nhìn mọi người, tay chỉ ra hướng sân Hội Đường, tay chỉ lên trời, miệng ú ớ phát không ra được một âm.
Dừng ngang lời kinh, dân làng Bethlehem trợn tròn mắt nhìn Bõ già tưởng như nhìn thấy người chết hiện hồn. Thầy Daniel khoát tay ra hiệu chấm dứt giờ kinh sáng. Dân làng đứng dậy, ùn ùn kéo nhau đi theo Bõ già ra sân. Tới sân gạch đỏ ối, không ai bảo ai, người người đưa mặt ngẩng lên nhìn trời. Thầy Rabbi cũng nhìn theo để rồi ngỡ ngàng nhận ra bầu trời xám xịt mây đen mùa đông đang vặn mình chuyển đổi sang màu đỏ tươi. Trên cao, ngôi sao chổi sáng rực rỡ đang xoay tròn tít đều những vòng quay. Dân làng Bethlehem kinh hãi rú lên! Có người quỳ xuống đấm ngực, có người nước mắt lăn dài trên khuôn mặt, có người sụt sùi câu kinh.
Còn đang ngơ ngác dõi nhìn hiện tượng thiên nhiên lạ kỳ, dân làng giật mình nhận ra, một lần nữa, tiếng bước chân chạy sầm sập trên con đường làng. Tưởng ai, hóa ra đó chính là ông khách Athens. Dừng lại tại sân Hội Đường, ông khách tay ôm ngực thở dốc, tay kia chỉ về hướng quán trọ Cây Thầu Dầu,
— Thằng Judas! Cả thằng Benjamin nữa… Chạy tới quán trọ Cây Thầu Dầu mà coi! Hai đứa nó đang rượt nhau chạy rần rần ở ngoài sân kia kìa! Nhanh! Nhanh lên! Chạy tới mà coi…
Bethlehem ngơ ngác nhìn nhau. Đoàn Thanh Niên Tự Vệ thì thào nói tối hôm qua, trong khi đi tuần, họ nghe thấy tiếng hát thánh thót từ trời cao vọng xuống vang vang cả một cánh đồng Bethlehem vào đúng lúc nửa đêm...
Người làng Bethlehem của xứ Judea vẫn không hiểu chuyện gì đã xảy ra ngoại trừ đôi vợ chồng quê mùa đến từ làng Nazareth của xứ Galilee.
□ Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.webs.com