Hôm qua, ngày 14 tháng 6, 2016, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đã cho công bố tài liệu Iuvenescit Ecclesia (Giáo Hội Tái Sinh) dưới hình thức một lá thư, đề cập tới “mối tương quan giữa các hồng ơn phẩm trật và đặc sủng đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội”, trong đó, Thánh Bộ nhấn mạnh rằng: “Giáo Hội ‘định chế’ không nên chống lại Giáo Hội ‘bác ái’” vì trong Giáo Hội, “các định chế chủ yếu cũng đều có tính đặc sủng” và ‘cách này hay cách khác, các đặc sủng phải được định chế hóa để có được sự gắn bó và liên tục”. Sau đây là toàn văn tài liệu trên:
Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư "Giáo Hội Tái Sinh"
Gửi Các Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo
về mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội
Nhập Đề
Các hồng ân của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội đang thi hành sứ mệnh
1. Giáo Hội tái sinh nhờ sức mạnh của Tin Mừng, và Chúa Thánh Thần luôn canh tân Giáo Hội, qua việc xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội “nhờ sự đa dạng trong các hồng ân phẩm trật và đặc sủng” (1). Nhiều lần, Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh tới công trình kỳ diệu của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa Dân Chúa, hướng dẫn nó, trang hoàng nó bằng nhiều nhân đức và làm nó phong phú với nhiều đặc sủng để xây dựng nó. Hành động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội mang nhiều hình thức, như các giáo phụ từng nhấn mạnh. Thánh Gioan Kim Khẩu viết rằng: “Trong tất cả các ơn phúc đang hành động để cứu rỗi ta, có phải có một ơn duy nhất không do Chúa Thánh Thần ban cho ta không? Nhờ Người, chúng ta vuợt qua cảnh nô lệ, được mời vào tự do, được vinh dự nhận làm dưỡng tử của Thiên Chúa; chúng ta được tạo nên như mới, có thể nói như thế; chúng ta trút được gánh nặng nề và đáng ghét của tộ lỗi. Chính nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta được thấy hợp đoàn linh mục, chúng ta có được phẩm hàm tiến sĩ. Từ nguồn suối này, tuôn chẩy các mặc khải, các thuốc cứu chữa linh hồn ta; sau cùng từ đó phát sinh mọi lợi điểm vốn trang hoàng Giáo Hội của Chúa” (3). Việc hiểu biết hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội mỗi ngày mỗi tăng gia một cách tốt đẹp nhờ chính đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhờ rất nhiều can thiệp của Huấn Quyền và việc nghiên cứu thần học. Nhờ đó, sự hiểu biết này đã thôi thúc chúng ta đặc biệt lưu tâm tới các hồng ân đặc sủng, mà dân Chúa vốn được làm giầu bất cứ ở thời nào nhằm chu toàn sứ mệnh của mình.
Loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu là một trách vụ đặc biệt khẩn trương đối với thời đại ta. Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha đã nhắc nhở rằng “Nếu có điều gì cần phải làm chúng ta bận tâm cách thánh thiện và làm lương tâm ta quan ngại thì điều đó chính là: anh em ta phải sống mà không có sức mạnh, không có ánh sáng và niềm an ủi do tình bạn của Chúa Giêsu Kitô mang tới, không có một cộng đồng đức tin chào đón họ, không có chân trời ý nghĩa và sự sống” (3). Lời kêu gọi trở thành một Giáo Hội “ra đi” (4) cung cấp cho ta một cơ hội để đọc lại trọn bộ cuộc sống Kitô hữu theo cái nhìn sai đi. Trách vụ truyền giảng Tin Mừng liên quan tới mọi lãnh vực của Giáo Hội: mục vụ thông thường, công bố cho những ai đã từ bỏ đức tin Kitô Giáo và, cách riêng, cho những người chưa bao giờ tiếp nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu hay cho những người luôn luôn bác bỏ nó (5). Trong sự cấp thiết của một cuộc tân phúc âm hóa này, điều cần hơn bao giờ hết là phải thừa nhận và đánh giá cao rất nhiều đặc sủng, có thể khơi dậy và nuôi dưỡng đời sống đức tin của dân Chúa.
Các hiệp hội Giáo Hội đa dạng
2. Rất nhiều hiệp hội Giáo Hội đã phát sinh trước và sau Công Đồng Vatican II; các hiệp hội này tạo nên một nguồn canh tân quan trọng cho Giáo Hội và cho “việc hoán cải có tính mục vụ và truyền giáo” (6) rất khẩn thiết đối với toàn bộ đời sống Giáo Hội. Thêm vào giá trị và sự phong phú của mọi tổ chức vốn có xưa nay, mỗi tổ chức có những mục tiêu chuyên biệt của họ, cũng như của các Viện Đời Sống Thánh Hiến và các Hội Đời Sống Tông Đồ, ta còn có những thực tại mới gần đây này mà ta có thể mô tả như các hiệp hội của tín hữu, các phong trào Giáo Hội, và các cộng đồng mới. Tài liệu này suy tư về các thực tại vừa nói. Ta không thể hiểu chúng một cách đơn giản như một hiệp hội tự nguyện gồm những người muốn theo đuổi một mục tiêu xã hội hay tôn giáo đặc thù. Đặc điểm “phong trào” phân biệt chúng trong cảnh vực Giáo Hội như những thực tại hết sức năng động. Chúng có khả năng lôi kéo người ta một cách đặc biệt vào Tin Mừng và đưa ra một đề xuất đối với lối sống Kitô Giáo; đề xuất này, với tầm nhìn có tính hoàn cầu từ trong căn bản, đụng đến mọi khía cạnh của nhân sinh. Việc tụ tập các tín hữu thành nhóm, với một cuộc sống chung chia sẻ mọi sự nhằm củng cố đời sống đức tin, đức cậy và đức mến này nói lên đầy đủ tính năng động của Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông để truyền giáo, và tự biểu hiện mình như dấu chỉ sự hợp nhất của Giáo Hội trong Chúa Kitô. Theo nghĩa này, các hiệp hội Giáo Hội phát sinh từ một đặc sủng chung có khuynh hướng nhận “mục đích tông đồ rộng lớn của Giáo Hội” làm mục tiêu riêng của họ (7). Trong viễn ảnh này, các hiệp hội Giáo Hội, các phong trào Giáo Hội, và các cộng đồng mới đề xuất nhiều hình thức đổi mới đối với việc theo chân Chúa Kitô trong đó, communio cum Deo (việc hiệp thông với Thiên Chúa) và communio fidelium (việc hiệp thông của các tín hữu) đã được thâm hậu hóa. Nhờ thế, tính lôi cuốn trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu và vẻ đẹp của cuộc sống Kitô hữu trong tính trọn vẹn của nó được đưa vào một bối cảnh xã hội mới mẻ. Một hình thức truyền giáo và làm chứng đặc thù cũng được phát biểu trong thực tế này, nhằm khuyến khích sự lớn mạnh của cả ý thức sinh động đối với ơn gọi Kitô hữu của cá nhân lẫn những phương cách vững chắc nhằm đào luyện Kitô Giáo cũng như sống hoàn thiện theo Tin Mừng. Theo các đặc sủng đa dạng của họ, tín hữu có thể tham dự vào thực tại tụ họp này trong nhiều bậc sống khác nhau (tín hữu giáo dân, thừa tác viên thụ phong và những người thánh hiến). Nhờ cách này, họ biểu lộ sự phong phú đa dạng của hiệp thông Giáo Hội. Khả năng mạnh mẽ của một thực tại như thế nhằm tụ họp người ta lại với nhau đã tạo nên một chứng từ có ý nghĩa cho thấy Giáo Hội không lớn mạnh “nhờ việc cải đạo mà ‘nhờ lôi cuốn’” (8).
Đức Gioan Phaolô II từng nói chuyện với đại diện các phong trào cộng đồng mới. Ngài nhìn ra nơi các phong trào này một “câu trả lời đầy tính quan phòng” (9) phát sinh từ Chúa Thánh Thần đối với việc cần thiết phải thông truyền Tin Mừng cho toàn thế giới một cách thuyết phục, có xem xét tới các diễn trình thay đổi lớn lao trong hành động ở bình diện hoàn cầu, vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa duy tuc. Chất men của Thần Khí này “đã mang đến cho đời sống Giáo Hội một sự mới mẻ bất ngờ, đôi lúc thậm chí có tính phá hoại” (10). Cũng vị giáo hoàng này đã nhắc nhớ rằng thời “chín mùi của Giáo Hội” đã tới với tất cả các hiệp hội Giáo Hội này. Điều này bao hàm giá trị và việc hội nhập trọn vẹn của họ “vào các Giáo Hội địa phương và vào các giáo xứ […] luôn giữ hiệp thông với các mục tử và chăm chú nghe theo sự hướng dẫn của các ngài” (11). Các thực tại mới mẻ này làm trái tim Giáo Hội tràn đầy niềm vui và biết ơn, và họ được mời gọi liên hệ một cách tích cực với mọi hồng ân khác đang hiện diện trong đời sống Giáo Hội.
Mục đích của tài liệu này
3. Với tài liệu này, và dưới ánh sáng mối tương quan giữa các “hồng ân phẩm trật và đặc sủng”, Bộ Giáo Lý Đức Tin có ý định làm nổi bật các yếu tố thần học và Giáo Hội học mà việc thấu hiểu chúng sẽ khích lệ một sự tham dự hữu hiệu và có trật tự của các hiệp hội mới vào sự hiệp thông và vào sứ mệnh của Giáo Hội. Vì mục đích này, trước nhất, một số yếu tố chủ chốt thuộc cả tín lý đặc sủng tìm thấy trong Tân Ước lẫn suy tư của Huấn Quyền về các thực tại này sẽ được trình bầy. Lần lượt, dựa vào một số nguyên tắc của thần học hệ thống, việc nhận diện các yếu tố của cả hồng ân phẩm trật lẫn hồng ân đặc sủng sẽ được trình bầy song song với một số tiêu chuẩn để biện phân các hiệp hội Giáo Hội mới này.
I. Các đặc sủng theo Tân Ước
Ơn sủng và đặc sủng
4. “Đặc sủng” là lấy nguyên văn từ chữ Hy Lạp chárisma, một chữ thường thấy trong các thư của Thánh Phaolô, nhưng cũng xuất hiện trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô. Chữ này đại cương có nghĩa “ơn sủng đại lượng” và trong Tân Ước, chỉ được dùng nói tới các ơn sủng của Thiên Chúa. Trong một số đoạn văn, bối cảnh cung cấp cho ta một ý nghĩa chính xác hơn (xem Rm 12:6; 1Cr 12: 4-31; 1Pr 4:10), mà nét căn bản là phân phối các ơn sủng cách dị biệt hóa (12). Trong các ngôn ngữ hiện đại, đây cũng là ý nghĩa trổi vượt của các từ lấy từ tiếng Hy Lạp. Không như các ơn sủng nền tảng như ơn thánh hóa hay các ơn tin, cậy và mến, vốn cần thiết cho mọi Kitô hữu, một đặc sủng cá thể không cần phải là một ơn ban cho mọi người (xem 1 Cr 12:30). Các đặc sủng là những ơn đặc thù được Chúa Thánh Thần ban phát “tùy ý Người” (1Cr 12:11). Để đưa ra một giải thích đối với sự hiện diện cần thiết của các đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội, hai bản văn minh nhiên nhất, Rm 12:4-8 và 1Cr 12:12-30, đã sử dụng một so sánh với thân thể con người: “Vì cũng như trong một thân thể, ta có nhiều bộ phận, và mọi bộ phận không có cùng một chức năng như nhau thế nào, thì ta cũng vậy, dù là nhiều người, nhưng chúng ta chỉ là một thân thể trong Chúa Kitô và xét từng cá thể đều là các bộ phận của nhau. Vì ta có những hồng ân khác nhau tùy theo ơn sủng được ban cho ta, ta hãy sử dụng chúng” (Rm 12:4-6). Giữa các chi thể của thân thể, tính đa dạng này không tạo ra một sự dị thường cần phải tránh, trái lại, nó vừa cần thiết vừa sinh ích. Nó làm khả hữu việc chu toàn các chức năng khác nhau đem lại sự sống. “Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một” (1Cr 12:19-20). Một tương quan mật thiết giữa các đặc sủng đặc thù (charísmata) và ơn sủng (cháris) của Thiên Chúa đã được quả quyết bởi Thánh Phaolô trong Rm 12:6 và bởi Thánh Phêrô trong thư 1Pr 4:10 (13). Các đặc sủng được nhìn nhận như là biểu hiện của “ơn sủng đa dạng của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Do đó, chúng không phải chỉ là các khả năng nhân bản. Nguồn gốc thần thiêng của nó đã được phát biểu nhiều cách khác nhau: theo một số bản văn, chúng phát xuất từ Thiên Chúa (xem Rm 12:3; 1Cr 12:28; 2Tm 1:6; 1Pr 4:10); theo Ep 4:7, chúng phát xuất từ Chúa Kitô; theo 1Cr 12:4-11, chúng phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì đoạn văn cuối cùng vừa rồi là đoạn văn nhấn mạnh hơn cả (nó nhắc tới Chúa Thánh Thần đến 7 lần), các đặc sủng thường được trình bầy như là “các biểu hiện của Chúa Thánh Thần” (1Cr 12:7). Tuy nhiên, điều rõ ràng là sự qui kết này không có tính cách độc chiếm và không mâu thuẫn với hai qui kết trước đó. Các hồng ân của Thiên Chúa luôn bao hàm trọn bộ chân trời Ba Ngôi, như thần học vốn quả quyết ngay từ buổi đầu, cả ở Tây Phương lẫn ở Đông Phương (14).
Các hồng ân ban cho “để gây ích cho mọi người” và ưu vị của đức ái
5. Trong 1 Cr 12:7, Thánh Phaolô tuyên bố rằng “Đối với từng cá nhân, biểu hiện của Thánh Thần đươc ban bố vì một lợi ích nào đó”. Nhiều bản dịch thêm “vì ích lợi mọi người” (*) vì đa số các đặc sủng được Thánh Tông Đồ nhắc đến, dù không phải tất cả, đã trực tiếp nhằm gây ích lợi cho mọi người. Khuynh hướng nhằm xây dựng mọi người này đã được những người như Thánh Basilêô Cả, chẳng hạn, thấu hiểu, khi ngài viết: "Các hồng ân này được mỗi người tiếp nhận vì người khác hơn vì chính họ […] Trong cuộc sống chung, điều cần thiết là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ban cho một người, phải được thông truyền cho mọi người. Người chỉ biết sống cho bản thân mình, có thể nhận được đặc sủng, nhưng nó mãi vô ích, cứ nằm chết dí ở đấy bất động, vì mãi mãi an táng trong cái tôi của họ” (15). Tuy nhiên, Thánh Phaolô không bác bỏ điều này: một đặc sủng có thể chỉ hữu ích đối với người tiếp nhận nó mà thôi. Đây là trường hợp nói tiếng lạ, một đặc sủng khác với hồng ân nói tiên tri (16). Các đặc sủng có ích lợi chung, bất kể là đặc sủng lời nói (ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nói tiên tri, ơn khuyên bảo) hay đặc sủng hành động (ơn sức mạnh, ơn thừa tác, ơn cai quản) cũng đều có ích lợi cho bản thân, vì việc chúng phục vụ ích chung vẫn giúp làm lớn mạnh đức ái nơi những người nắm được chúng.Về phương diện này, Thánh Phaolô nhận định rằng nếu người ta thiếu đức ái, thì ngay các đặc sủng cao nhất cũng chẳng ích lợi chi cho người tiếp nhận chúng (xem 1Cr 13:1-3). Một đoạn văn nghiêm khắc trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 7:22-23) cũng nói lên cùng một sự thực: việc thi hành các đặc sủng hữu hình hơn (nói tiên tri, trừ qủy, làm phép lạ), bất hạnh thay, vẫn cùng hiện diện với việc thiếu mối tương quan chân chính với Đấng Cứu Thế. Thành thử, Thánh Phêrô cũng như Thánh Phaolô đều nhấn mạnh tới sự cần thiết phải qui hướng mọi đặc sủng về đức ái. Thánh Phêrô đề xuất qui luật tổng quát này: Vì mỗi người nhận được một hồng ân, nên hãy dùng hồng ân này để phục vụ lẫn nhau như những người quản lý ơn sủng đa dạng của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Thánh Phaolô thì quan tâm cách riêng tới việc sử dụng các đặc sủng trong các cuộc tụ họp của cộng đồng Kitô hữu, và nói rằng “Phải làm mọi sự để xây dựng” (1Cr 14:26).
Sự đa dạng của các đặc sủng
6. Trong một số bản văn, ta tìm thấy bảng liệt kê các đặc sủng, có khi được tóm tắt (xem 1Pr 4:10), có khi với nhiều chi tiết hơn (xem 1Cr 12:8-10, 28-30; Rm 12:6-8). Trong số các đặc sủng liệt kê, có những ơn sủng ngoại thường (chữa bệnh, làm những việc đồ xộ, nói nhiều tiếng lạ) và các ơn sủng thông thường (dạy dỗ, phục vụ, làm phúc), các thừa tác vụ hướng dẫn cộng đồng (xem Ep 4:11) và những hồng ân được ban qua việc đặt tay (xem 1Tm 4:14; 2Tm 1:6). Theo nghĩa hẹp của từ ngữ, việc các hồng ân này có phải là các “đặc sủng” hay không là điều không luôn luôn rõ ràng. Các hồng ân ngoại thường được nhắc đi nhắc lại trong 1Cr 12-14 bỗng biến mất trong các bản văn sau đó: bảng liệt kê của 1Rm 12:6-8 chỉ trình bầy các đặc sủng ít trông thấy hơn, nhưng có ích lợi liên tiếp đối với đời sống của cộng đồng Kitô hữu. Không bản liệt kê nào trên đây tự cho mình là rốt ráo (exhaustive). Ở nơi khác, chẳng hạn, Thánh Phaolô gợi ý: chọn sống độc thân vì tình yêu đối với Chúa Kitô nên được coi như hoa trái của một đặc sủng, cũng như đặc sủng hôn nhân vậy (xem 1 Cr 7:7 trong ngữ cảnh toàn chương). Các thí dụ ngài đưa ra tùy thuộc trình độ phát triển đạt được nơi các Giáo Hội của thời ấy và do đó, lệ thuộc các thêm bớt về sau. Thực vậy, với thời gian, Giáo Hội luôn lớn mạnh nhờ hành động ban sinh khí của Chúa Thánh Thần.
Việc thi hành thích đáng các đặc sủng trong cộng đồng Giáo Hội
7. Từ các nhận xét trên đây, ta thấy các bản văn Thánh Kinh không trình bầy bất cứ sự chống chọi nào giữa các đặc sủng đa dạng; đúng hơn, các bản văn này cho thấy một nối kết hòa hợp và một sự bổ túc giữa chúng với nhau. Phản đề giữa một Giáo Hội định chế theo kiểu Do Thái Kitô Giáo và một Giáo Hội đặc sủng theo kiểu Thánh Phaolô, mà một số lối giải thích theo kiểu giản lược về Giáo Hội quả quyết, trên thực tế thiếu hẳn nền tảng trong các bản văn Tân Ước. Không hề đặt các đặc sủng về một phía và thực tại định chế về phía khác, nhằm đối chọi một Giáo Hội “của đức ái” và một Giáo Hội “của định chế”, Thánh Phaolô gom vào một bản liệt kê cả các đặc sủng uy quyền và giảng dậy, vốn là các đặc sủng hữu ích cho đời sống bình thường của một cộng đồng, lẫn các đặc sủng đáng kể khác (17). Thánh Phaolô mô tả chính thừa tác vụ Tông Đồ của ngài như một thừa tác vụ “của Chúa Thánh Thần” (2Cr 3:8). Ngài cảm thấy như được mặc lấy một thẩm quyền (exousía), do Chúa ban cho ngài (xem 2Cr 10:8; 13:10), một thẩm quyền cũng được mở rộng cho các người được ơn đoàn sủng (charismatics). Cả ngài lẫn Thánh Phêrô đều cho các người lãnh ơn đoàn sủng nhiều lời huấn giáo về cung cách thi hành các đặc sủng của họ. Trên hết, thái độ của họ là thái độ chào đón thuận lợi; họ phải xác tín được nguồn cội thần thiêng của các đặc sủng; tuy nhiên, họ không được coi những hồng ân này như cho phép họ khỏi vâng lời đối với phẩm trật Giáo Hội, hay ban cho họ quyền được thừa tác độc lập. Thánh Phaolô tự chứng tỏ ngài hiểu rõ các trở ngại mà việc thi hành các đặc sủng cách bất trật tự có thể gây ra cho cộng đồng Kitô hữu (18). Cho nên, Thánh Tông Đồ đã dùng quyền của mình can thiệp vào việc thiết lập ra các qui luật chính xác để thi hành các đặc sủng “trong Giáo Hội” (1Cr 14:19-28), tức là, trong các cuộc tụ họp của cộng đồng (xem 1Cr 14:23-26). Thí dụ, ngài giới hạn việc thi hành ơn ngôn ngữ (glossolalia) (19). Các qui luật tương tự cũng đã được đưa ra cho ơn nói tiên tri (xem 1Cr 14:29-31) (20).
Các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng
8. Tóm tắt, từ việc khảo sát các bản văn Kinh Thánh liên quan tới các đặc sủng, ta thấy Tân Ước, dù không đưa ra một giáo huấn có tính hệ thống đầy đủ, nhưng đã trình bầy nhiều quả quyết có tầm rất quan trọng có khả năng hướng dẫn các suy nghĩ và thực hành của Giáo Hội. Ta cũng phải nhìn nhận rằng ta không tìm được một sự sử dụng nhất trí nào đối với hạn từ “đặc sủng”; đúng hơn, là cả một loạt ý nghĩa khác nhau đã được nhận thấy; các ý nghĩa này đang được suy tư thần học cũng như Huấn Quyền giúp ta hiểu thấu trong bối cảnh cái nhìn toàn diện về mầu nhiệm Giáo Hội. Trong tài liệu này, sự chú ý được đặt vào nhị thức (binomial) đã được nhấn mạnh trong đoạn 4 của Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là đoạn nói tới “các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng”. Mối tương qan giữa chúng rõ ràng rất mật thiết và đã được trình bầy đầy đủ. Chúng có cùng một nguồn gốc và một mục đích như nhau. Chúng là ác hồng ân của Thiên Chúa, của Chúa Thánh Thần, của Chúa Kitô, ban cho ta để ta góp phần cách này hay cách khác vào việc xây dựng Giáo Hội. Ai nhận lãnh hồng ân lãnh đạo trong Giáo Hội cũng có trách nhiệm trông coi việc thi hành đúng đắn các đặc sủng khác, cách nào đó để tất cả đều góp phần vào ích lợi của Giáo Hội và sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của Giáo Hội, vì biết rõ rằng Chúa Thánh Thần đã phân phối các hồng ân đặc sủng cho bất cứ ai Người muốn (xem 1Cr 12:11). Cũng một Chúa Thánh Thần đã ban cho phẩm trật Giáo Hội khả năng biện phân tính chân chính của các đặc sủng, chào đón chúng một cách hân hoan và biết ơn, cổ vũ chúng một cách quảng đại, và đồng hành với chúng bằng một tình phụ tử đầy quan tâm. Chính lịch sử đã làm chứng cho hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần, nhờ đó, Giáo Hội, “được xây trên nền tảng các Tông Đồ và tiên tri, với Chúa Giêsu Kitô như hòn đá chốt” (Ep 2:20), sống được sứ mệnh của mình trong lòng thế giới.
Kỳ sau: II. Mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng trong Huấn Quyền gần đây
______________________________________________________________________________________________________________
(*) Nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung”. Bản dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn cũng tương tự như thế.
Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư "Giáo Hội Tái Sinh"
Gửi Các Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo
về mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội
Nhập Đề
Các hồng ân của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội đang thi hành sứ mệnh
1. Giáo Hội tái sinh nhờ sức mạnh của Tin Mừng, và Chúa Thánh Thần luôn canh tân Giáo Hội, qua việc xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội “nhờ sự đa dạng trong các hồng ân phẩm trật và đặc sủng” (1). Nhiều lần, Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh tới công trình kỳ diệu của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa Dân Chúa, hướng dẫn nó, trang hoàng nó bằng nhiều nhân đức và làm nó phong phú với nhiều đặc sủng để xây dựng nó. Hành động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội mang nhiều hình thức, như các giáo phụ từng nhấn mạnh. Thánh Gioan Kim Khẩu viết rằng: “Trong tất cả các ơn phúc đang hành động để cứu rỗi ta, có phải có một ơn duy nhất không do Chúa Thánh Thần ban cho ta không? Nhờ Người, chúng ta vuợt qua cảnh nô lệ, được mời vào tự do, được vinh dự nhận làm dưỡng tử của Thiên Chúa; chúng ta được tạo nên như mới, có thể nói như thế; chúng ta trút được gánh nặng nề và đáng ghét của tộ lỗi. Chính nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta được thấy hợp đoàn linh mục, chúng ta có được phẩm hàm tiến sĩ. Từ nguồn suối này, tuôn chẩy các mặc khải, các thuốc cứu chữa linh hồn ta; sau cùng từ đó phát sinh mọi lợi điểm vốn trang hoàng Giáo Hội của Chúa” (3). Việc hiểu biết hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội mỗi ngày mỗi tăng gia một cách tốt đẹp nhờ chính đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhờ rất nhiều can thiệp của Huấn Quyền và việc nghiên cứu thần học. Nhờ đó, sự hiểu biết này đã thôi thúc chúng ta đặc biệt lưu tâm tới các hồng ân đặc sủng, mà dân Chúa vốn được làm giầu bất cứ ở thời nào nhằm chu toàn sứ mệnh của mình.
Loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu là một trách vụ đặc biệt khẩn trương đối với thời đại ta. Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha đã nhắc nhở rằng “Nếu có điều gì cần phải làm chúng ta bận tâm cách thánh thiện và làm lương tâm ta quan ngại thì điều đó chính là: anh em ta phải sống mà không có sức mạnh, không có ánh sáng và niềm an ủi do tình bạn của Chúa Giêsu Kitô mang tới, không có một cộng đồng đức tin chào đón họ, không có chân trời ý nghĩa và sự sống” (3). Lời kêu gọi trở thành một Giáo Hội “ra đi” (4) cung cấp cho ta một cơ hội để đọc lại trọn bộ cuộc sống Kitô hữu theo cái nhìn sai đi. Trách vụ truyền giảng Tin Mừng liên quan tới mọi lãnh vực của Giáo Hội: mục vụ thông thường, công bố cho những ai đã từ bỏ đức tin Kitô Giáo và, cách riêng, cho những người chưa bao giờ tiếp nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu hay cho những người luôn luôn bác bỏ nó (5). Trong sự cấp thiết của một cuộc tân phúc âm hóa này, điều cần hơn bao giờ hết là phải thừa nhận và đánh giá cao rất nhiều đặc sủng, có thể khơi dậy và nuôi dưỡng đời sống đức tin của dân Chúa.
Các hiệp hội Giáo Hội đa dạng
2. Rất nhiều hiệp hội Giáo Hội đã phát sinh trước và sau Công Đồng Vatican II; các hiệp hội này tạo nên một nguồn canh tân quan trọng cho Giáo Hội và cho “việc hoán cải có tính mục vụ và truyền giáo” (6) rất khẩn thiết đối với toàn bộ đời sống Giáo Hội. Thêm vào giá trị và sự phong phú của mọi tổ chức vốn có xưa nay, mỗi tổ chức có những mục tiêu chuyên biệt của họ, cũng như của các Viện Đời Sống Thánh Hiến và các Hội Đời Sống Tông Đồ, ta còn có những thực tại mới gần đây này mà ta có thể mô tả như các hiệp hội của tín hữu, các phong trào Giáo Hội, và các cộng đồng mới. Tài liệu này suy tư về các thực tại vừa nói. Ta không thể hiểu chúng một cách đơn giản như một hiệp hội tự nguyện gồm những người muốn theo đuổi một mục tiêu xã hội hay tôn giáo đặc thù. Đặc điểm “phong trào” phân biệt chúng trong cảnh vực Giáo Hội như những thực tại hết sức năng động. Chúng có khả năng lôi kéo người ta một cách đặc biệt vào Tin Mừng và đưa ra một đề xuất đối với lối sống Kitô Giáo; đề xuất này, với tầm nhìn có tính hoàn cầu từ trong căn bản, đụng đến mọi khía cạnh của nhân sinh. Việc tụ tập các tín hữu thành nhóm, với một cuộc sống chung chia sẻ mọi sự nhằm củng cố đời sống đức tin, đức cậy và đức mến này nói lên đầy đủ tính năng động của Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông để truyền giáo, và tự biểu hiện mình như dấu chỉ sự hợp nhất của Giáo Hội trong Chúa Kitô. Theo nghĩa này, các hiệp hội Giáo Hội phát sinh từ một đặc sủng chung có khuynh hướng nhận “mục đích tông đồ rộng lớn của Giáo Hội” làm mục tiêu riêng của họ (7). Trong viễn ảnh này, các hiệp hội Giáo Hội, các phong trào Giáo Hội, và các cộng đồng mới đề xuất nhiều hình thức đổi mới đối với việc theo chân Chúa Kitô trong đó, communio cum Deo (việc hiệp thông với Thiên Chúa) và communio fidelium (việc hiệp thông của các tín hữu) đã được thâm hậu hóa. Nhờ thế, tính lôi cuốn trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu và vẻ đẹp của cuộc sống Kitô hữu trong tính trọn vẹn của nó được đưa vào một bối cảnh xã hội mới mẻ. Một hình thức truyền giáo và làm chứng đặc thù cũng được phát biểu trong thực tế này, nhằm khuyến khích sự lớn mạnh của cả ý thức sinh động đối với ơn gọi Kitô hữu của cá nhân lẫn những phương cách vững chắc nhằm đào luyện Kitô Giáo cũng như sống hoàn thiện theo Tin Mừng. Theo các đặc sủng đa dạng của họ, tín hữu có thể tham dự vào thực tại tụ họp này trong nhiều bậc sống khác nhau (tín hữu giáo dân, thừa tác viên thụ phong và những người thánh hiến). Nhờ cách này, họ biểu lộ sự phong phú đa dạng của hiệp thông Giáo Hội. Khả năng mạnh mẽ của một thực tại như thế nhằm tụ họp người ta lại với nhau đã tạo nên một chứng từ có ý nghĩa cho thấy Giáo Hội không lớn mạnh “nhờ việc cải đạo mà ‘nhờ lôi cuốn’” (8).
Đức Gioan Phaolô II từng nói chuyện với đại diện các phong trào cộng đồng mới. Ngài nhìn ra nơi các phong trào này một “câu trả lời đầy tính quan phòng” (9) phát sinh từ Chúa Thánh Thần đối với việc cần thiết phải thông truyền Tin Mừng cho toàn thế giới một cách thuyết phục, có xem xét tới các diễn trình thay đổi lớn lao trong hành động ở bình diện hoàn cầu, vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa duy tuc. Chất men của Thần Khí này “đã mang đến cho đời sống Giáo Hội một sự mới mẻ bất ngờ, đôi lúc thậm chí có tính phá hoại” (10). Cũng vị giáo hoàng này đã nhắc nhớ rằng thời “chín mùi của Giáo Hội” đã tới với tất cả các hiệp hội Giáo Hội này. Điều này bao hàm giá trị và việc hội nhập trọn vẹn của họ “vào các Giáo Hội địa phương và vào các giáo xứ […] luôn giữ hiệp thông với các mục tử và chăm chú nghe theo sự hướng dẫn của các ngài” (11). Các thực tại mới mẻ này làm trái tim Giáo Hội tràn đầy niềm vui và biết ơn, và họ được mời gọi liên hệ một cách tích cực với mọi hồng ân khác đang hiện diện trong đời sống Giáo Hội.
Mục đích của tài liệu này
3. Với tài liệu này, và dưới ánh sáng mối tương quan giữa các “hồng ân phẩm trật và đặc sủng”, Bộ Giáo Lý Đức Tin có ý định làm nổi bật các yếu tố thần học và Giáo Hội học mà việc thấu hiểu chúng sẽ khích lệ một sự tham dự hữu hiệu và có trật tự của các hiệp hội mới vào sự hiệp thông và vào sứ mệnh của Giáo Hội. Vì mục đích này, trước nhất, một số yếu tố chủ chốt thuộc cả tín lý đặc sủng tìm thấy trong Tân Ước lẫn suy tư của Huấn Quyền về các thực tại này sẽ được trình bầy. Lần lượt, dựa vào một số nguyên tắc của thần học hệ thống, việc nhận diện các yếu tố của cả hồng ân phẩm trật lẫn hồng ân đặc sủng sẽ được trình bầy song song với một số tiêu chuẩn để biện phân các hiệp hội Giáo Hội mới này.
I. Các đặc sủng theo Tân Ước
Ơn sủng và đặc sủng
4. “Đặc sủng” là lấy nguyên văn từ chữ Hy Lạp chárisma, một chữ thường thấy trong các thư của Thánh Phaolô, nhưng cũng xuất hiện trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô. Chữ này đại cương có nghĩa “ơn sủng đại lượng” và trong Tân Ước, chỉ được dùng nói tới các ơn sủng của Thiên Chúa. Trong một số đoạn văn, bối cảnh cung cấp cho ta một ý nghĩa chính xác hơn (xem Rm 12:6; 1Cr 12: 4-31; 1Pr 4:10), mà nét căn bản là phân phối các ơn sủng cách dị biệt hóa (12). Trong các ngôn ngữ hiện đại, đây cũng là ý nghĩa trổi vượt của các từ lấy từ tiếng Hy Lạp. Không như các ơn sủng nền tảng như ơn thánh hóa hay các ơn tin, cậy và mến, vốn cần thiết cho mọi Kitô hữu, một đặc sủng cá thể không cần phải là một ơn ban cho mọi người (xem 1 Cr 12:30). Các đặc sủng là những ơn đặc thù được Chúa Thánh Thần ban phát “tùy ý Người” (1Cr 12:11). Để đưa ra một giải thích đối với sự hiện diện cần thiết của các đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội, hai bản văn minh nhiên nhất, Rm 12:4-8 và 1Cr 12:12-30, đã sử dụng một so sánh với thân thể con người: “Vì cũng như trong một thân thể, ta có nhiều bộ phận, và mọi bộ phận không có cùng một chức năng như nhau thế nào, thì ta cũng vậy, dù là nhiều người, nhưng chúng ta chỉ là một thân thể trong Chúa Kitô và xét từng cá thể đều là các bộ phận của nhau. Vì ta có những hồng ân khác nhau tùy theo ơn sủng được ban cho ta, ta hãy sử dụng chúng” (Rm 12:4-6). Giữa các chi thể của thân thể, tính đa dạng này không tạo ra một sự dị thường cần phải tránh, trái lại, nó vừa cần thiết vừa sinh ích. Nó làm khả hữu việc chu toàn các chức năng khác nhau đem lại sự sống. “Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một” (1Cr 12:19-20). Một tương quan mật thiết giữa các đặc sủng đặc thù (charísmata) và ơn sủng (cháris) của Thiên Chúa đã được quả quyết bởi Thánh Phaolô trong Rm 12:6 và bởi Thánh Phêrô trong thư 1Pr 4:10 (13). Các đặc sủng được nhìn nhận như là biểu hiện của “ơn sủng đa dạng của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Do đó, chúng không phải chỉ là các khả năng nhân bản. Nguồn gốc thần thiêng của nó đã được phát biểu nhiều cách khác nhau: theo một số bản văn, chúng phát xuất từ Thiên Chúa (xem Rm 12:3; 1Cr 12:28; 2Tm 1:6; 1Pr 4:10); theo Ep 4:7, chúng phát xuất từ Chúa Kitô; theo 1Cr 12:4-11, chúng phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì đoạn văn cuối cùng vừa rồi là đoạn văn nhấn mạnh hơn cả (nó nhắc tới Chúa Thánh Thần đến 7 lần), các đặc sủng thường được trình bầy như là “các biểu hiện của Chúa Thánh Thần” (1Cr 12:7). Tuy nhiên, điều rõ ràng là sự qui kết này không có tính cách độc chiếm và không mâu thuẫn với hai qui kết trước đó. Các hồng ân của Thiên Chúa luôn bao hàm trọn bộ chân trời Ba Ngôi, như thần học vốn quả quyết ngay từ buổi đầu, cả ở Tây Phương lẫn ở Đông Phương (14).
Các hồng ân ban cho “để gây ích cho mọi người” và ưu vị của đức ái
5. Trong 1 Cr 12:7, Thánh Phaolô tuyên bố rằng “Đối với từng cá nhân, biểu hiện của Thánh Thần đươc ban bố vì một lợi ích nào đó”. Nhiều bản dịch thêm “vì ích lợi mọi người” (*) vì đa số các đặc sủng được Thánh Tông Đồ nhắc đến, dù không phải tất cả, đã trực tiếp nhằm gây ích lợi cho mọi người. Khuynh hướng nhằm xây dựng mọi người này đã được những người như Thánh Basilêô Cả, chẳng hạn, thấu hiểu, khi ngài viết: "Các hồng ân này được mỗi người tiếp nhận vì người khác hơn vì chính họ […] Trong cuộc sống chung, điều cần thiết là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ban cho một người, phải được thông truyền cho mọi người. Người chỉ biết sống cho bản thân mình, có thể nhận được đặc sủng, nhưng nó mãi vô ích, cứ nằm chết dí ở đấy bất động, vì mãi mãi an táng trong cái tôi của họ” (15). Tuy nhiên, Thánh Phaolô không bác bỏ điều này: một đặc sủng có thể chỉ hữu ích đối với người tiếp nhận nó mà thôi. Đây là trường hợp nói tiếng lạ, một đặc sủng khác với hồng ân nói tiên tri (16). Các đặc sủng có ích lợi chung, bất kể là đặc sủng lời nói (ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nói tiên tri, ơn khuyên bảo) hay đặc sủng hành động (ơn sức mạnh, ơn thừa tác, ơn cai quản) cũng đều có ích lợi cho bản thân, vì việc chúng phục vụ ích chung vẫn giúp làm lớn mạnh đức ái nơi những người nắm được chúng.Về phương diện này, Thánh Phaolô nhận định rằng nếu người ta thiếu đức ái, thì ngay các đặc sủng cao nhất cũng chẳng ích lợi chi cho người tiếp nhận chúng (xem 1Cr 13:1-3). Một đoạn văn nghiêm khắc trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 7:22-23) cũng nói lên cùng một sự thực: việc thi hành các đặc sủng hữu hình hơn (nói tiên tri, trừ qủy, làm phép lạ), bất hạnh thay, vẫn cùng hiện diện với việc thiếu mối tương quan chân chính với Đấng Cứu Thế. Thành thử, Thánh Phêrô cũng như Thánh Phaolô đều nhấn mạnh tới sự cần thiết phải qui hướng mọi đặc sủng về đức ái. Thánh Phêrô đề xuất qui luật tổng quát này: Vì mỗi người nhận được một hồng ân, nên hãy dùng hồng ân này để phục vụ lẫn nhau như những người quản lý ơn sủng đa dạng của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Thánh Phaolô thì quan tâm cách riêng tới việc sử dụng các đặc sủng trong các cuộc tụ họp của cộng đồng Kitô hữu, và nói rằng “Phải làm mọi sự để xây dựng” (1Cr 14:26).
Sự đa dạng của các đặc sủng
6. Trong một số bản văn, ta tìm thấy bảng liệt kê các đặc sủng, có khi được tóm tắt (xem 1Pr 4:10), có khi với nhiều chi tiết hơn (xem 1Cr 12:8-10, 28-30; Rm 12:6-8). Trong số các đặc sủng liệt kê, có những ơn sủng ngoại thường (chữa bệnh, làm những việc đồ xộ, nói nhiều tiếng lạ) và các ơn sủng thông thường (dạy dỗ, phục vụ, làm phúc), các thừa tác vụ hướng dẫn cộng đồng (xem Ep 4:11) và những hồng ân được ban qua việc đặt tay (xem 1Tm 4:14; 2Tm 1:6). Theo nghĩa hẹp của từ ngữ, việc các hồng ân này có phải là các “đặc sủng” hay không là điều không luôn luôn rõ ràng. Các hồng ân ngoại thường được nhắc đi nhắc lại trong 1Cr 12-14 bỗng biến mất trong các bản văn sau đó: bảng liệt kê của 1Rm 12:6-8 chỉ trình bầy các đặc sủng ít trông thấy hơn, nhưng có ích lợi liên tiếp đối với đời sống của cộng đồng Kitô hữu. Không bản liệt kê nào trên đây tự cho mình là rốt ráo (exhaustive). Ở nơi khác, chẳng hạn, Thánh Phaolô gợi ý: chọn sống độc thân vì tình yêu đối với Chúa Kitô nên được coi như hoa trái của một đặc sủng, cũng như đặc sủng hôn nhân vậy (xem 1 Cr 7:7 trong ngữ cảnh toàn chương). Các thí dụ ngài đưa ra tùy thuộc trình độ phát triển đạt được nơi các Giáo Hội của thời ấy và do đó, lệ thuộc các thêm bớt về sau. Thực vậy, với thời gian, Giáo Hội luôn lớn mạnh nhờ hành động ban sinh khí của Chúa Thánh Thần.
Việc thi hành thích đáng các đặc sủng trong cộng đồng Giáo Hội
7. Từ các nhận xét trên đây, ta thấy các bản văn Thánh Kinh không trình bầy bất cứ sự chống chọi nào giữa các đặc sủng đa dạng; đúng hơn, các bản văn này cho thấy một nối kết hòa hợp và một sự bổ túc giữa chúng với nhau. Phản đề giữa một Giáo Hội định chế theo kiểu Do Thái Kitô Giáo và một Giáo Hội đặc sủng theo kiểu Thánh Phaolô, mà một số lối giải thích theo kiểu giản lược về Giáo Hội quả quyết, trên thực tế thiếu hẳn nền tảng trong các bản văn Tân Ước. Không hề đặt các đặc sủng về một phía và thực tại định chế về phía khác, nhằm đối chọi một Giáo Hội “của đức ái” và một Giáo Hội “của định chế”, Thánh Phaolô gom vào một bản liệt kê cả các đặc sủng uy quyền và giảng dậy, vốn là các đặc sủng hữu ích cho đời sống bình thường của một cộng đồng, lẫn các đặc sủng đáng kể khác (17). Thánh Phaolô mô tả chính thừa tác vụ Tông Đồ của ngài như một thừa tác vụ “của Chúa Thánh Thần” (2Cr 3:8). Ngài cảm thấy như được mặc lấy một thẩm quyền (exousía), do Chúa ban cho ngài (xem 2Cr 10:8; 13:10), một thẩm quyền cũng được mở rộng cho các người được ơn đoàn sủng (charismatics). Cả ngài lẫn Thánh Phêrô đều cho các người lãnh ơn đoàn sủng nhiều lời huấn giáo về cung cách thi hành các đặc sủng của họ. Trên hết, thái độ của họ là thái độ chào đón thuận lợi; họ phải xác tín được nguồn cội thần thiêng của các đặc sủng; tuy nhiên, họ không được coi những hồng ân này như cho phép họ khỏi vâng lời đối với phẩm trật Giáo Hội, hay ban cho họ quyền được thừa tác độc lập. Thánh Phaolô tự chứng tỏ ngài hiểu rõ các trở ngại mà việc thi hành các đặc sủng cách bất trật tự có thể gây ra cho cộng đồng Kitô hữu (18). Cho nên, Thánh Tông Đồ đã dùng quyền của mình can thiệp vào việc thiết lập ra các qui luật chính xác để thi hành các đặc sủng “trong Giáo Hội” (1Cr 14:19-28), tức là, trong các cuộc tụ họp của cộng đồng (xem 1Cr 14:23-26). Thí dụ, ngài giới hạn việc thi hành ơn ngôn ngữ (glossolalia) (19). Các qui luật tương tự cũng đã được đưa ra cho ơn nói tiên tri (xem 1Cr 14:29-31) (20).
Các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng
8. Tóm tắt, từ việc khảo sát các bản văn Kinh Thánh liên quan tới các đặc sủng, ta thấy Tân Ước, dù không đưa ra một giáo huấn có tính hệ thống đầy đủ, nhưng đã trình bầy nhiều quả quyết có tầm rất quan trọng có khả năng hướng dẫn các suy nghĩ và thực hành của Giáo Hội. Ta cũng phải nhìn nhận rằng ta không tìm được một sự sử dụng nhất trí nào đối với hạn từ “đặc sủng”; đúng hơn, là cả một loạt ý nghĩa khác nhau đã được nhận thấy; các ý nghĩa này đang được suy tư thần học cũng như Huấn Quyền giúp ta hiểu thấu trong bối cảnh cái nhìn toàn diện về mầu nhiệm Giáo Hội. Trong tài liệu này, sự chú ý được đặt vào nhị thức (binomial) đã được nhấn mạnh trong đoạn 4 của Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là đoạn nói tới “các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng”. Mối tương qan giữa chúng rõ ràng rất mật thiết và đã được trình bầy đầy đủ. Chúng có cùng một nguồn gốc và một mục đích như nhau. Chúng là ác hồng ân của Thiên Chúa, của Chúa Thánh Thần, của Chúa Kitô, ban cho ta để ta góp phần cách này hay cách khác vào việc xây dựng Giáo Hội. Ai nhận lãnh hồng ân lãnh đạo trong Giáo Hội cũng có trách nhiệm trông coi việc thi hành đúng đắn các đặc sủng khác, cách nào đó để tất cả đều góp phần vào ích lợi của Giáo Hội và sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của Giáo Hội, vì biết rõ rằng Chúa Thánh Thần đã phân phối các hồng ân đặc sủng cho bất cứ ai Người muốn (xem 1Cr 12:11). Cũng một Chúa Thánh Thần đã ban cho phẩm trật Giáo Hội khả năng biện phân tính chân chính của các đặc sủng, chào đón chúng một cách hân hoan và biết ơn, cổ vũ chúng một cách quảng đại, và đồng hành với chúng bằng một tình phụ tử đầy quan tâm. Chính lịch sử đã làm chứng cho hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần, nhờ đó, Giáo Hội, “được xây trên nền tảng các Tông Đồ và tiên tri, với Chúa Giêsu Kitô như hòn đá chốt” (Ep 2:20), sống được sứ mệnh của mình trong lòng thế giới.
Kỳ sau: II. Mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng trong Huấn Quyền gần đây
______________________________________________________________________________________________________________
(*) Nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung”. Bản dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn cũng tương tự như thế.