Waitangi là một địa danh nằm gần cực Bắc trên đảo Bắc của New Zealand. Waitangi được biết đến là vì tính cách lịch sử của nó, chính tại đây Hiệp ước Waitangi giữa các tộc trưởng người Maori và người châu Âu lần đầu tiên được ký kết vào ngày 6 tháng Hai, năm 1840. Đây cũng là nơi mà bản Tuyên ngôn Độc lập của New Zealand đã được ký kết 5 năm trước, vào ngày 28 tháng 10, 1835.

Hình ảnh

Hiệp ước Waitangi được ký kết trong khuôn viên nhà ông James Busby tại Waitangi bởi đại diện của Hoàng gia Anh, tộc trưởng của Liên đoàn các bộ lạc của New Zealand, và các nhà lãnh đạo bộ tộc Maori khác, và sau đó qua các trưởng Māori khác tại địa điểm khác tại New Zealand.

Phó Thống đốc Hobson đọc một tài liệu đề xuất cho 300 người châu Âu và người Māori đã đến tham dự và sau đó các tộc trưởng Māori có cơ hội thảo luận.

Ban đầu, một số lượng lớn các tộc trưởng (bao gồm Te Kemara, Rewa và Moka Te Kainga-mataa) chống lại Hiệp ước này. Nhưng sau đó trong quá trình giải thích thêm thì một vài tộc trưởng đã bắt đầu quan tâm và đồng ý. Các tộc trưởng hỗ trợ Hiệp ước là Te Wharerahi, Pumuka, và hai tộc trưởng Hokianga, Tamati Waka Nene và anh trai Eruera Maihi Patuone.

Không phải tất cả các trưởng đã chọn để ký tài liệu này, với một số lãnh đạo, hoặc trì hoãn hoặc từ chối đặt bút lên giấy.

Sự ra đời của Hiệp ước có hiệu quả thu hồi lại Tuyên ngôn độc lập 5 năm trước, làm cho New Zealand không còn là một thuộc địa của Anh, và Hiệp ước Waitangi nói chung được coi là tài liệu sáng lập của New Zealand là một quốc gia. Ngày Waitangi là lễ Quốc Khánh kỷ niệm hàng năm của việc ký kết, và là ngày lễ quốc gia của New Zealand.

Ngày nay khi đến xem di tích nơi ký Hiệp ước là cơ hội để tìm hiểu về nền văn hóa Maori và các sự kiện lịch sử gắn liền với việc ký kết các hiệp ước.

Du khách được xem khu ký kết Hiệp ước, nhà của James Busby, nhà họp Maori và một trong những ca nô chiến đấu của người Maori lớn nhất trong cả nước.

Đi tới làng Paihia bên cạnh đó, du khách được dịp viếng thăm một trong những nhà thờ đầu tiên trên đất New Zealand, nhà thờ St Paul Anglican Church, nơi đây cũng có mồ chôn vị mục sư truyền giáo đầu tiên sống với dân trong vùng.