Hôm giữa tháng 8 vừa qua (năm 2017), Ủy ban hoàng gia Australia đã đề nghị các cha giải tội phải thông báo cho nhà chức trách về những vụ lạm dụng tính dục trẻ em mà các cha biết được trong tòa giải tội. Đây không phải là lần đầu tiên các linh mục gặp phải thách thức vi phạm bí mật tòa giải tội. Giáo luật đã xác định rằng “ấn tích giải tội” là bất khả xâm phạm, do đó luật cấm các linh mục giải tội phản bội lại hối nhân bằng lời nói, hay bằng bất cứ cách
nào với bất cứ lý do nào. Các linh mục vi phạm luật này sẽ ngay lập tức bị vạ tuyệt thông. Các linh mục luôn giữ bí mật tòa giải tội dù cho phải nguy hiểm đến tính mạng. Chúng tôi xin trình bày gương của 4 linh mục đã hy sinh để giữ bí mật tòa giải tội và đây cũng là bằng chứng cho lịch sử lâu dài của sự trung thành của các linh mục trong việc này.
1. Thánh Gioan Nepomucene sinh tại Bohemia, nay là cộng hòa Séc, vào giữa các năm 1340 và 1350. Ngài là vị tử đạo đầu tiên sẵn sàng đón nhận cái chết hơn là tiết lộ bí mật tòa giải tội. Khi cha Gioan Nepomucene đang là cha tổng đại diện của tổng giáo phận Praha, ngài cũng là cha giải tội của nữ hoàng Sophia, vợ của vua Wenceslaus, một vị vua nổi tiếng về giận dữ và ghen tuông. Nhà vua đã ra lệnh cho cha Gioan nói cho ông biết những tội mà vợ ông đã xưng, nhưng cha Gioan đã từ chối vâng theo lệnh của nhà vua. Điều này khiến nhà vua nổi giận; ông đe dọa giết cha Gioan nếu cha không nói cho ông biết các bí mật của vợ ông. Sau đó, vua Wenceslaus lại muốn chiếm đất một tu viện để cho một người bà con thân thích của mình. Cha Gioan đã cấm việc chiếm đoạt này, vì đất đó thuộc về Giáo hội. Tức giận vì sự bất tuân cũng như những cấm đoán của cha Gioan, năm 1393, vua Wenceslaus đã ra lệnh hành hình cha Gioan và ném xác của cha xuống sông Vlata, dòng sông chảy quanh thủ đô Praha ngày nay.
2. Thánh Mateo Correa Magallanes sinh ngày 22 tháng 7 năm 1866, tại Tepechitlán, bang Zacateca, nước Mêhicô, và được thụ phong linh mục năm 1893. Sau khi chịu chức linh mục, cha Mateo làm tuyên úy tại một số tỉnh thành và giáo xứ khác nhau và là một thành viên của Hội hiệp sĩ Colombus. Năm 1927, cha bị lực lượng quân đội Mêhicô, dưới quyền tướng Eulogio Ortiz bắt giữ. Ít ngày sau đó, tướng Ortiz sai cha đi giải tội cho một nhóm người sắp bị xử bắn. Sau khi cha Mateo giải tội xong, tướng Ortiz ra lệnh cho cha phải nói cho ông những điều cha nghe ở tòa giải tội. Cha Mateo đã trả lời “không” với lệnh buộc cha vi phạm ấn tích giải tội và cha đã bị xử tử. Thi hài của cha Mateo hiện được tôn kính tại nhà thờ chánh tòa Durango. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho cha Mateo vào ngày 22 tháng 11 năm 1992 và vào ngày 21 tháng 5 năm 2000, ngài đã tôn phong cha Mateo lên hàng các thánh.
3. Cha Felipe Císcar Puig là một linh mục thuộc giáo phận Valencia trong thời nội chiến Tây ban nha. Trong giai đoạn này, các lực lượng cách mạng và cộng hòa tham gia vào các cuộc chiến bạo lực để dành quyền lực và nhiều tín hữu Công giáo là mục tiêu của bạo lực. Vào cuối tháng 8 năm 1936, cha Ciscar bị đưa đến một nhà tù. Ở đây một tu sĩ dòng Phanxicô tên là Andrés Ivars đã xin cha Ciscar giải tội trước khi bị tử hình. Các quân lính muốn biết nội dung những tội thầy Ivars đã xưng với cha Ciscar nhưng cha từ chối nói với họ. Họ đe dọa giết cha, nhưng không chút sợ hãi, cha trả lời họ: “Hãy làm điều gì các anh muốn nhưng tôi sẽ không bao giờ nói ra điều thầy ấy xưng thú. Tôi sẵn sàng chết vì điều này.” Sau đó quân lính còn đưa cha ra trước tòa và yêu cầu cha nói ra các bí mật, nhưng cha Ciscar tuyên bố cha thà chết hơn là vi phạm ấn tích giải tội. Cha đã bị kết án tử. Cha Ciscar và thầy Ivars bị xử bắn ngày 8 tháng 9 năm 1936. Hồ sơ phong thánh cho cha Felipe Ciscar và thầy Andrés Ivars đang được tiến hành.
4. Cha Fernando Olmedo Reguera sinh ngày 10 tháng 1 năm 1873, tại Santiago de Compostela và chịu chức linh mục trong dòng Capuchino ngày 31 tháng 7 năm 1904. Cha là thư ký của tỉnh dòng cho đến năm 1936, khi cha phải rời tu viện vì cuộc bách hại tôn giáo khốc liệt diễn ra trong vùng. Cha Olmedo bị bắt và bị tra tấn đánh dập ở trong tù. Cha bị buộc phải nói ra những điều các tín hữu xưng tội với cha. Ngày 12 tháng 8 năm 1936, cha bị xử bắn bên ngoài thủ đô Madrid. Thi hài của cha được chôn cất ở tầng hầm nhà thờ Chúa Giêsu ở Madrid. Cha đã được phong chân phước ngày 13 tháng 10 năm 2013, tại Tarragona. (ETWN 22/08/2017)
1. Thánh Gioan Nepomucene sinh tại Bohemia, nay là cộng hòa Séc, vào giữa các năm 1340 và 1350. Ngài là vị tử đạo đầu tiên sẵn sàng đón nhận cái chết hơn là tiết lộ bí mật tòa giải tội. Khi cha Gioan Nepomucene đang là cha tổng đại diện của tổng giáo phận Praha, ngài cũng là cha giải tội của nữ hoàng Sophia, vợ của vua Wenceslaus, một vị vua nổi tiếng về giận dữ và ghen tuông. Nhà vua đã ra lệnh cho cha Gioan nói cho ông biết những tội mà vợ ông đã xưng, nhưng cha Gioan đã từ chối vâng theo lệnh của nhà vua. Điều này khiến nhà vua nổi giận; ông đe dọa giết cha Gioan nếu cha không nói cho ông biết các bí mật của vợ ông. Sau đó, vua Wenceslaus lại muốn chiếm đất một tu viện để cho một người bà con thân thích của mình. Cha Gioan đã cấm việc chiếm đoạt này, vì đất đó thuộc về Giáo hội. Tức giận vì sự bất tuân cũng như những cấm đoán của cha Gioan, năm 1393, vua Wenceslaus đã ra lệnh hành hình cha Gioan và ném xác của cha xuống sông Vlata, dòng sông chảy quanh thủ đô Praha ngày nay.
2. Thánh Mateo Correa Magallanes sinh ngày 22 tháng 7 năm 1866, tại Tepechitlán, bang Zacateca, nước Mêhicô, và được thụ phong linh mục năm 1893. Sau khi chịu chức linh mục, cha Mateo làm tuyên úy tại một số tỉnh thành và giáo xứ khác nhau và là một thành viên của Hội hiệp sĩ Colombus. Năm 1927, cha bị lực lượng quân đội Mêhicô, dưới quyền tướng Eulogio Ortiz bắt giữ. Ít ngày sau đó, tướng Ortiz sai cha đi giải tội cho một nhóm người sắp bị xử bắn. Sau khi cha Mateo giải tội xong, tướng Ortiz ra lệnh cho cha phải nói cho ông những điều cha nghe ở tòa giải tội. Cha Mateo đã trả lời “không” với lệnh buộc cha vi phạm ấn tích giải tội và cha đã bị xử tử. Thi hài của cha Mateo hiện được tôn kính tại nhà thờ chánh tòa Durango. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho cha Mateo vào ngày 22 tháng 11 năm 1992 và vào ngày 21 tháng 5 năm 2000, ngài đã tôn phong cha Mateo lên hàng các thánh.
3. Cha Felipe Císcar Puig là một linh mục thuộc giáo phận Valencia trong thời nội chiến Tây ban nha. Trong giai đoạn này, các lực lượng cách mạng và cộng hòa tham gia vào các cuộc chiến bạo lực để dành quyền lực và nhiều tín hữu Công giáo là mục tiêu của bạo lực. Vào cuối tháng 8 năm 1936, cha Ciscar bị đưa đến một nhà tù. Ở đây một tu sĩ dòng Phanxicô tên là Andrés Ivars đã xin cha Ciscar giải tội trước khi bị tử hình. Các quân lính muốn biết nội dung những tội thầy Ivars đã xưng với cha Ciscar nhưng cha từ chối nói với họ. Họ đe dọa giết cha, nhưng không chút sợ hãi, cha trả lời họ: “Hãy làm điều gì các anh muốn nhưng tôi sẽ không bao giờ nói ra điều thầy ấy xưng thú. Tôi sẵn sàng chết vì điều này.” Sau đó quân lính còn đưa cha ra trước tòa và yêu cầu cha nói ra các bí mật, nhưng cha Ciscar tuyên bố cha thà chết hơn là vi phạm ấn tích giải tội. Cha đã bị kết án tử. Cha Ciscar và thầy Ivars bị xử bắn ngày 8 tháng 9 năm 1936. Hồ sơ phong thánh cho cha Felipe Ciscar và thầy Andrés Ivars đang được tiến hành.
4. Cha Fernando Olmedo Reguera sinh ngày 10 tháng 1 năm 1873, tại Santiago de Compostela và chịu chức linh mục trong dòng Capuchino ngày 31 tháng 7 năm 1904. Cha là thư ký của tỉnh dòng cho đến năm 1936, khi cha phải rời tu viện vì cuộc bách hại tôn giáo khốc liệt diễn ra trong vùng. Cha Olmedo bị bắt và bị tra tấn đánh dập ở trong tù. Cha bị buộc phải nói ra những điều các tín hữu xưng tội với cha. Ngày 12 tháng 8 năm 1936, cha bị xử bắn bên ngoài thủ đô Madrid. Thi hài của cha được chôn cất ở tầng hầm nhà thờ Chúa Giêsu ở Madrid. Cha đã được phong chân phước ngày 13 tháng 10 năm 2013, tại Tarragona. (ETWN 22/08/2017)