TT Ngô đình Diệm và con đường dang dở. P.3.

I. Công cuộc đổi mới tại miền nam sau 1954

Dẫu thời gian có trôi đi hoặc là phôi pha thì ngàn ngàn năm sau nữa, còn Việt Nam là còn triệu triệu người dân ở đó nhớ đến và ngưỡng mộ vị Tổng Thống đã tạo dựng nên một nhà Việt Nam Độc Lập sau hơn 70 năm dười thời Pháp thuộc. Đồng thời họ cũng không quên nhắc nhở đến những kẻ như tội phạm của dân tộc trước đó, hay ngay trong ngày 02-11-1963 khi chúng nhúng tay vào máu người Liêm - Chính.

Thật vậy, khi nhìn về đoạn đường mở đầu của Việt Nam Cộng Hòa người ta thấy những gì? Có phải ở đó là một xã hội hỗn độn, vô luật pháp không? Ngành công an, cảnh sát thì nằm trong tay những kẻ sống bằng nghề trộm cướp nổi danh, có tài tổ chức cờ bạc xòng bài nha phiến và đĩ điếm là Lê văn Viễn. Phía quân đội, lực lượng nòng cốt để bảo vệ Quốc Ga thì nằm trong tay một kẻ bồi tây là Nguyễn văn Hinh. Hỏi xem, ngành an ninh như thế thì làm sao đất nước được trị an, nói chi đến đời sống thái bình của người dân? Lại nữa, đến dinh thự của một Thủ Tướng chính phủ lại được bảo vệ bằng cái đám Bình Xuyên này thì tương lai của nhà nước, hơn là tính mạng của viên Thủ Tướng ra sao? Ấy là chưa kể đến uy danh của thập nhị sứ quân, mỗi kẻ chiếm cứ lấy một nơi như của riêng. Hỏi xem số phận của đất nước của dân tộc này ra sao?

Đó là bức tranh vẽ toàn cảnh Việt Nam vào thời điểm ông Ngô đình Diệm về nước. Với tình hình này, bất cứ ai cũng biết rõ câu trả lời là dân nước ta đã nằm trong đáy đường tuyệt vọng. Hầu như chẳng còn một phương cách nào cứu vãn. Bởi lẽ, bên trong thì bè phái cát cứ, ngoại biên thì bọn Việt Minh do Hồ chí Minh chỉ đạo không ngừng săn tay áo lên và đưa dao mã tấu xuống trên cổ dân để chiếm đất chiếm nhà. Xem ra tất cả là tuyệt vọng. Ngoại trừ, có một phép mầu nào đó.

Thật vậy, khi đất nước và người dân nằm ở cuối đường tuyệt vọng ấy, ông Ngô đình Diệm đã về nhận lãnh trách nhiệm. Khi ấy, có hàng ngàn câu hỏi được đặt ra và cũng có hàng trăm lời tiên đóan là ông chẳng tại vị được vài ba tháng đến nửa năm! Kết qủa, tất cả những dự đoán đều sai. Ông đã yên vị. Hơn thế, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi chừng một năm, Ông đã đem lại sự ổn định cho đất nước. Kế đến, mở ra một tương lai sáng lạng cho nhà Việt Nam bằng cái tâm và công sức của ông. Nhờ ông, từ những đổ nát tang thương, tất cả đã trở mình. Nhà thương, đường xá, cầu cống, sân bay đến ruộng đồng đều theo nhau vươn mình đổi mới. Hơn thế, vận hội đất nước đã nở hoa.

Sở dĩ có cuộc chuyễn mình này là ngay từ đầu TT Diệm đã có một cái nhìn chuẩn xác cho Việt Nam. Đó là con đường Độc Lập của xứ sở. Và chỉ với con đường này, Việt Nam mới có thể xây dựng Quốc gia, giữ toàn vẹn lãnh thổ và đẩy khối cộng sản Tàu, Nga ra khỏi bắc Việt. Từ chủ trương này, Ông đã cương quyết không chấp nhận tổ chức tổng tuyển cử như hiệp định Geneve ấn định. Bởi lẽ, nếu đất nước không có chủ quyền thì tất cả đều không có tiếng nói. Từ đó, Ông đòi Thực Dân Pháp phải trao trả toàn vẹn chủ quyền cho Việt Nam, chứ không phải chỉ là cái lối trao trả bằng mồm hay là từng phần theo kiểu Thực Dân với chủ trương đề cao danh tính Việt Nam là một Quốc Gia Độc Lập và thống nhất, nhưng thực tế nằm trên thớt trong cái vỏ Liên Hiệp Pháp. Bởi vì, Việt Nam không có quyền ngoại giao, mọi giao dịch với nước ngoài phải qua Liên Hiệp Pháp. Việt Nam vẫn nằm trong tay Pháp như Miên, Lào và nhận sự lãnh đạo cũng như quyền tài phán của Cao ủy Pháp.

Kết quả, với chủ trương mạnh mẽ của ông, tất cả là đổi mới. Việt Nam, từ một quốc gia bị trị thành một quốc gia Độc Lập. Đây là cuộc đổi mới đến độ kinh ngạc. Đổi đến độ người ta cho rằng: Ở nơi ông chỉ có mỗi từ Quốc Gia và đồng bào là điều con người cần phải phục vụ, phần bản thân mình, hoặc của mỗi cá nhân đều là không! Thật vậy, ngày nay với những hình ảnh, sách vở cũ được phơi bày, ai ai cũng biết. Ông sống và làm việc là vì mưu cầu sự tốt đẹp, vinh quang cho đất nước cũng như phúc lợi của người dân. Phần bản thân ông thì không màng chi đến danh lợi. Khi ăn, chén cơm nguội với dĩa thịt kho, qủa cà ghém đã là hạnh phúc. Khi ngủ, lúc nghỉ ngơi chỉ cần một cái giường tre, hay tấm phản để “tri túc tiện túc hà thời túc” là vui mừng. Vậy đó, tất cả chỉ từ những đơn giản như thế mà hoa muôn màu, muôn sắc đã triển nở tại miền nam Việt Nam từ sau 1954.

1. Công tác Xã Hội, kinh tế.

Đất nước tuy đã có độc lập. Nhưng không phải có Độc Lập là người ta tự có cơm ăn, áo mặc. Trái lại, mọi người cần phải lao nhọc nhiều hơn để bảo vệ lấy những thành qủa mà quốc gia mới thu về. Cũng thế, với chính phủ, để bảo đảm cho người dân có đời “an cư lạc nghiệp”, Ông đã thi hành những chính sách sau:

Ngày 15 tháng 2 năm 1955, TT Diệm ra lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới của Bảy Viễn. Sau đó, mở chiến dịch bài trừ tứ đổ tường, đặc biệt là trừ khử nạn buôn bán nha phiến, mãi dâm, du đảng cũng như nạn cờ bạc.

Ông đã lập nhiều Cô nhi Viện, các trại cùi, các trung tâm Y tế công cộng, các trung tâm sinh hoạt và giáo dục dành cho người tật nguyền.

Lập các quán cơm xã hội giúp cho người lao động và các học sinh nghèo có chỗ ăn uống no đủ với tiền túi của mình.

Đặc biệt, chiết giảm nhiều quyền lợi và ảnh hưởng của người Hoa trên thị trường, đồng thời trợ giúp người Việt Nam dần dần có vai trò mạnh hơn trong các ngành sản xuất, kỹ nghệ.

Về Tài Chánh. Chính thức phát hành tiền tệ riêng, một biểu tượng của quốc gia độc lập. Từ đây, Việt Nam rời bỏ khu vực đồng Franc và gia nhập khu vực đồng Mỹ kim. Gía trị nguyên khởi của đồng bạc Việt Nam thời đó là $1VN = $ 0,02857 US.

Kế đến, vào ngày 3/12/1954, Thủ Tướng Diệm ký sắc lệnh thành lập Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam và Viện Hối Đoái.

2. Xây dựng quân đội.

Với một chủ trương rõ ràng, dứt khoát: Sức mạnh là do ta, không phải từ ngoại bang ban cho. Từ đó, ta phải bảo vệ lấy nhà của ta. Với chủ trương này, TT Ngô đình Diệm đã nhanh chóng hoàn chỉnh guồng máy quân đội để bảo vệ trọn vẹn nửa phần đất quê hương chờ ngày Thống Nhất đất nước.

Trước hết, ngoài việc ưu tiên tăng quân số để bảo vệ cho đời sống an ninh của người dân. TT Diệm đã đổi tên Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Ai cũng biết, Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt được thành lập từ năm 1950. Đây là trường quân sự chuyên nghiệp nhằm đào tạo sĩ quan cho quân đội quốc gia Việt Nam với thời gian thụ huấn cho sinh viên là 1 năm. Nhưng ngay khi thu hồi độc lập, chính phủ Ngô Đình Diệm đã cải tổ và hoàn chỉnh các khóa huấn luyện ở đây.

Theo nghị định của Bộ Quốc phòng ngày 29-7-1959 ngoài việc chính thức đổi danh xưng, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam từ đây nhận trach nhiệm huấn luyện và đào tạo các sỹ quan hiện dịch cho ba binh chủng chính của quân đội là Hải Quân, Lục Quân, và Không Quân. Khởi đầu chương trình thụ huấn là 2 năm, sau tăng lên 3 năm. Các sỹ quan tốt nghiệp nơi đây, ngoài khả năng chuyên môn về quân sự họ còn có những cấp bằng về văn hóa tương đương của trường đại học dân sự. Ngoài ra chính phủ còn nâng cao trình độ cho các học viên thuộc các trung tâm huấn luyện Hải Quân và Không quân tại Nha Trang.

Có thể nói, Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người đã tái thiết miền Nam sau chiến tranh Việt Pháp 1946-1954, đã đưa miền Nam Việt Nam trở thành một quốc gia có một nền kinh tế tốt đẹp và một quân đội hùng mạnh nhằm bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho toàn xứ sở. Bên cạnh đó là sự cương quyết, không bao giờ khoan nhượng với CS, TT Diệm đã làm tất cả những điều có thể, ngõ hầu một ngày lấp sông Bến Hải, thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ.

3. Học đường

“Học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau…” ( Lê Thương Ngô Đình Hộ) Có ai là một người đến trường vào thời VNCH mà không biết đến bài tâm ca này? Dĩ nhiên là không ai không biết. Hơn thế, người học sinh của miền nam hôm nào luôn bước vào đời với một mộng ước lớn là góp bàn tay vào việc xây dựng và phát triển đất nước sau thời bị đô hộ và chiến tranh. Kết qủa, không một lãnh vực nào tư kinh tế, xã hội đến y tế mà không có những bước chuyển dời. Tuy thế, học đường mới chính là trung tâm mở ra cái nhìn mới vào tương lai do Đệ Nhất Cộng Hòa thực hiện.

Với chủ trương xây dựng, tài bồi dân trí cho ngày mai, TT Diệm đã khai mở các lớp học từ thành thị cho đến thôn quê. Từ đây, không một nơi nào mà không có các trường học mọc lên. Đặc biệt là trong các làng quê nơi người dân xứ bắc vừa định cư. Ở đó, các trường học đã mọc lên như nấm. Với chủ trương, lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của dân làm căn bản. Con người được nhìn như là một cứu cánh của xã hội chứ không phải là một phương tiện sản xuất, hay mục tiêu phục vụ cho cá nhân hoặc tổ chức nào khác.

Hơn thế, với chủ trương khai phóng xã hội, triết lý trong nền giáo dục của miền nam được xây dựng trên chủ thuyết Nhân Bản, Dân Tộc và cộng đồng. Hiến Pháp đầu tiên của Việt Nam nhấn mạnh đến quyền tự do trong môi trường giáo dục. Trong đó cũng cho rằng, nền giáo dục cơ bản (bậc trung và tiểu học) có tính cách cưỡng bách nên hoàn toàn được miễn phí. Riêng nền giáo dục đại học có thể được tự trị. Tuy nhiên, cho đến ngày 30-4-1975, nền giáo dục công lập miễn phí cả ỡ trung tiểu học vẫn rộng mỡ tại miền nam Việt Nam, chỉ có ít trường trung học tư thục và đại học được khai trương mà thôi. Tuy thế, tất cả các trường tư thục này đều phải bước đi theo quy trình chính thức trong chương trình học và mục tiêu giáo dục của bộ giáo dục đã đề ra.

Sau 1954, khởi đầu cho chương trình văn học của Việt Nam Cộng Hòa là việc Việt Hóa các trường Trung Tiểu Học và Đại Học. Riêng việc thành lập thêm Đại Học Huế đã là bước đường đưa nền gíao dục của Việt Nam vào cuộc khai trương mới, rất đáng nể phục. Bởi lẽ, trước khi ông Diệm về nước, Việt Nam chỉ có một Viện Đại Học, đó là Viện Đại Học Hà Nội. Sau năm 1954 ĐH Hà Nội được di chuyển vào Sài Gòn. Vào thời điểm ấy, không chỉ trường Đại Học mà hầu như tất cả các trường Trung Tiểu học ở miền Nam đều giảng dậy bằng Pháp Ngữ. Chỉ sau khi Thủ Tướng Diệm về chấp chính, nền giáo dục tại Việt Nam mới được cải tổ và từ đây Việt Ngữ được dùng để giảng dậy ở trong mọi cấp lớp từ Tiểu Học cho đến Trung rồi Đại Học.

Sau đây là một vài con số căn bản qua từng niên khóa :

Bậc tiểu học:

Niên học số học sinh số lớp học

1955 400,806 8191

1963 1450679 30123

1970 2556000 44104

Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, năm ngày mỗi tuần. Theo chỉ dẫn này, vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi và có 5.208 trường tiểu học.

“ Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổngsố thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học. Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

“ Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học

“ Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra.( lựợc theo nền Văn Học Việt Nam Cộng Hòa, niềm tiếc nhớ khôn nguôi)

Tuy nhiên, câu chuyện huy hoàng về học đường ấy đã vụt tắt. Sau 30- 4- 1975, dưới thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Cộng, ngoài các trường công lập, tất cả 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam đều bị giải thể và bị đổi tên. Nhiều trường phải mang tên của những tên giết người như Nguyễn văn Trổi, Nguyễn thái Bình hoặc gỉa Lê văn Tám… hay Hồ chí Minh! Và cũng từ đây, học sinh đi học phải đóng tiền học phí. Nền văn học Nhân Bản hoàn toàn bị chấm hết. Thay vào đó là nền văn hóa phi nhân bản, vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo của cộng sản đua nở.

4. Cải cách ruộng đất

Ngày 22-10-1956, TT Ngô Ðình Diệm ban hành Dụ số 57, thiết lập chính sách cải cách điền địa tại Việt Nam. Sau dây là các điểm chính:

– Số diện tích đất tư hữu được quyền giữ lại. Mỗi điền chủ được quyền giữ tối đa 100 ha ruộng lúa, trong số nầy 30 ha được phép trực canh, và 70 ha có thể cho tá điền thuê, đúng theo quy chế tá canh. Ðiền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng thiệt hại một cách công bằng và thỏa đáng:

• 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt. 90% được trả trong thời hạn 12 năm, dưới hình thức là trái phiếu được chính phủ bảo đảm….

Trong 9 năm cầm quyền (1955-1956), có 176.130 gia đình nghèo thuộc thành phần tá điền, nông dân đã được tái định cư, trở thành tiểu điền chủ có từ 1 đến 5 mẫu ruộng với những con số như sau: 126050 tá điền, với tổng số diện tích là 252.218 ha (chiếu theo Dụ số 57). 50.080 gia đình tái định cư với tổng số diện tích là 109.879 ha. (thống kê)

Theo bản thống kê này, tổng kết chiến dịch có 176.180 gia đình thuộc diện nghèo đã trở thành điền chủ (khoảng 20% số tá điền) với tổng số diện tích là 361.595 mẫu ruộng. Đời sống của họ từ đây nhờ vào kỹ thuật canh tác và nhờ có phân bón hóa học, năng suất các ruộng lúa đã gia tăng từ 1,4 tấn/ha trong những năm 1950-1954, nay đã vươn lên con số 2t/ha năm 1960-1963. Sư kiện nầy đã làm cho các nhà nông phấn khởi. Họ có cuộc sống sung túc hơn và VNCH bắt đầu xuất cảng gạo và phó sản với koảng 70.000 tấn trong năm 1955 nay đã tăng lên khoảng 323.000 tấn năm 1963.

Và đây chính là cảnh sống của người miền nam dươi thời TT Ngô đình Diệm:

Cửa thái bình chen vai cả nước,

Ngõ giang sơn vững bước quang hòa,

Đất bồi nở rộ muôn hoa,

Vườn trong oanh yến đường xa chén mời.

Bãi cỏ hoang vương mùi lúa tới,

Khoảng rừng sâu đổi mới từng ngày,

Vầng trăng dọi tỏ bước mây,

Người già yên giấc thơ ngây ấm lòng…

Vậy đó, công cuộc cải cách của ông đã đem lại một đời sống ấm êm, thịnh vượng cho tất cả mọi người. Nó hòan toàn khác biệt với cuộc cải cách ruộng đất tắm máu người dân ở ngoài bắc do Hồ chí Minh thực hiện bởi những cuộc đấu tố với 172,000 trưởng gia đình mất mạng, và gia đình họ bị tản lạc khi CS chiếm đoạt toàn bộ sản nghiệp do nhiều đời để lại.

Kế đến, theo “Kế hoạch 5 năm” từ 57-61 với mục đích kỹ nghệ hoá đất nước, miền nam ngoài việc gia tăng trong khu vực sản xuất lúa gạo và cao su, khu kỹ nghệ Biên Hoà được mở ra. Ở đó, nhiều nhà máy dệt, nhà máy giấy, nhà máy ván ép được xây cất. Rồi cầu đường được xây dựng, xa lộ Biên Hòa mở cửa và đường xe lửa xuyên Việt được tái lập. Nơi nơi như cùng chen vai, tạo nên một nhà Việt Nam mới trên mảnh đất yên bình miền nam.

5. Với tôn giáo

Theo báo cáo của Tướng Trần Tử Oai trình bày trước phái đoàn LHQ, dưới thời Đệ I Cộng Hoà đã có thêm 1275 ngôi chùa mới xây trên tổng số 4766 chùa. Trong khi đó, theo tác giả Nguyễn Văn Minh trong tác phẩm “Dòng họ Ngô Đình. Ước mơ chưa đạt” (tái bản lần 4, 2004, trang 137-155) viết: Năm 1958, TT Diệm đã giúp thêm một số tiền 2 triệu đồng để xây chùa Xá Lợi hầu có chỗ cho việc nghiên cứu Phật học. Số tiền này đã được ông Hoàng Quang Chính (tị nạn tại Hoa-kì), chánh văn phòng sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội trực thuộc Phủ tổng thống trao cho ông Mai Thọ Truyền là người chủ trì việc xây chùa. Chùa Vĩnh Nghiêm đã được xây trên thửa đất hơn một mẫu tây thuộc Bộ Tài chánh, mà TT Diệm đã tự quyết định nhượng lại cho Thượng toạ Thích Tâm Giác và mẹ vợ của phật tử Huỳnh Văn Lang với giá tượng trưng 1 đồng bạc (sự kiện do chính ông Huỳnh Văn Lang kể lại trong Hồi ký của ông).

Ngoài ra, người ta có đầy đủ bằng chứng, chứng minh đạo Phật phục hưng rất mạnh trong những năm cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước tiên là về số chùa được xây dựng. Trong cuốn “Our Vietnam Nightmare” bà Maguerite Higgins cho biết: “1275 ngôi chùa được xây cất, 1295 ngôi chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm”. Theo cụ Đoàn Thêm và cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt Nam chỉ có 2206 ngôi chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều ngôi chùa được quốc gia trợ cấp tiền bạc để xây cất, tu bổ.

Riêng về các sở văn hóa thì ai đã sống ở miền nam Việt Nam trong giai đoạn này đều biết rõ là trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm về chấp chánh không có một trường học nào do phật giáo xây dựng, lãnh đạo. Chỉ ở dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề mới ra đời. Chính Đỗ Mậu một kẻ điên cuồng, phản chủ, cũng xác nhận là “vào năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả nước. Nhưng hầu hết những trường sở này đã được xây cất trước ngày 1.11.1963”. Về phía Hoa Kỳ, TT Richard Nixon trong cuốn hồi ký của ông “No More Vietnams” (New York 1985) cũng đưa ra những thống kê tương tự như trên. Ngoài ra, ông còn cho biết rõ là trong 38 Tỉnh trưởng có 12 Công Giáo và 26 Phật hoặc Khổng gíao.

6. Gia tài của một Tổng Thống vì nước.

Câu châm ngôn của tổng thống Ngô Đình Diệm :" Không có gì quý hơn nồi cơm đầy" chính vì lẻ đó mà trong suốt cuộc đời mình, Tổng thống Ngô đình Diệm đem thân mình đấu tranh chống lại 3 loại kẻ thù hung bạo tàn phá VN: Phong kiến, Thực dân, Cộng sản. Và mục tiêu thực tế là khi đất nước hết giặc là mỗi gia đình người dân VN đều có nồi cơm đầy, bát canh ngon....

Ước mơ và rồi đem hết tâm sức ra để xây dựng cho đất nước và cho dân nghèo là thế. Đến khi nắng vừa lên, Ông gíap mặt bọn phản tướng. Ông bị chúng sát hại với hai tay bị trói quặt ra sau lưng. Than ôi, có ai ngờ, vị Tổng Thống quyền uy, một đời vì nước vì dân mà tr ư ớc kia, mỗi lần gặp ông, chúng phải tự đi giật lùi sau khi nghiêm chào. Nay “tôm lộn cứt lên đầu”, Ông bị chúng sát hại, rồi bị vất bỏ trong lòng chiếc thiết vận xa M113 với những viên đạn và dao găm trả lễ từ chính những kẻ mà ông đã thương yêu, và nuôi lớn lên trong từng ngày! Và từ đây, mãi mãi còn để lại tiếng ca cho hậu thế:

Một ánh sao băng, lặng giữa trời.

Giang sơn cô lẻ gởi đời thôi.

Người đi nghĩa khí rạng sông núi.

Kẻ ở tranh ăn nhục với đời!.. (còn tiếp)

Bảo Giang

10 -11-2018