Chúa Nhật 20 TN Năm C 2019

Cách đây hơn 2 năm, vào đêm 6/1/2017 tại Nha Trang, trong đêm chung kết Hoa Hậu Việt Nam, một cô gái “tóc tém, da nâu” đã nhận được vòng nguyệt quế : Cô H’Hen Nie, người dân tộc Ê-đê đầu tiên, trở thành Hoa hậu Việt Nam 2017.

Sở dĩ nhắc đến sự kiện nầy trong “bàn Tiệc Lời Chúa”, chắc chắn không phải để bàn tới “sắc đẹp, tài ứng xử hay gia thế của “người đẹp Ê-đê; mà chính là lời chia sẻ của cô sau khi đăng quang :

“Từ nhỏ tôi là người theo đạo, tôi tin rằng Chúa có kế hoạch và chương trình cho mỗi người, từ nhỏ tôi đã tin vào điều nầy, tôi luôn nghĩ Chúa có gì tốt đẹp dành cho mình. Trong từng vòng thi, tôi đều cầu nguyện và xin Chúa cho mình sự bình an, bình tĩnh. Tôi luôn nói một câu rằng “Chúa cho con tỏa sáng theo ý muốn tốt lành của Chúa”.

Ở giữa một “đấu trường sắc đẹp” mà giá trị vật chất, quảng cáo, tiếng tăm, tiền tài…được tôn lên hàng thần thánh, thì tôi cho rằng những lời phát biểu về đức tin của cô gái Ê-đê quả thật là một “lời rao giảng Tin Mừng”, hay nói theo ngôn ngữ của thời đại, “tiếp thị Tin Mừng” quá xuất sắc và đầy can đảm.

Bằng chứng là dưới bản tin nầy, đã có hơn 10 ngàn lượt like và gần 4 ngàn lượt chia sẻ mà nội dung đều ca tụng Chúa và trân trọng vai trò “ngôn sứ” cùng sự làm chứng đức tin của Hen.

Bàn tiệc lời Chúa hôm nay cũng muốn chuyển tải đến chúng ta sứ điệp về “ơn gọi ngôn sứ”, về việc “tiếp thị Tin Mừng”, giới thiệu Tin Mừng, giới thiệu Chúa Giêsu cho anh em.

Trước hết, Bài đọc 1 vừa thuật lại cho chúng ta “sự cố bị thả giếng” của chàng ngôn sứ thích nói chuyện ngược đời Giêrêmia.

“Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ”. Vua Sêđêcia phán rằng: “Đấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì”. Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng…”.

Để hiểu thêm về sự cố nầy, có lẽ chúng ta phải ngược dòng thời gian, trở về khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên, thời hoạt động ngôn sứ của Giêrêmia, thuở mà vương quốc Giuđa đang rơi vào khủng hoảng để rồi đi tới diệt vong bởi hoàng đế Na-bu-co-no-so (626-587).

Như lời trần tình của chính đương sự, Giêrêmia thi hành sứ mệnh ngôn sứ trong một tình trạng đầy giằng co và thử thách, vừa nơi tâm hồn mình vừa với những áp lực ngoài xã hội :

“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con. Mỗi lần nói năng là con phải la lớn, phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’ Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, ầm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20, 7-9).

Quả thật, Lời Chúa qua tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia đã cho chúng ta thấu hiểu phần nào thân phận nghiệt ngã muôn nơi muôn thuở của những ngôn sứ : Phải công bố Lời của Thiên Chúa cho dù Lời đó đi ngược lại tâm thức và xu hướng của con người; phải chấp nhận hậu quả thương đau chứ không chịu thoả hiệp để yên thân.

Và đó lại chính là con đường, là chọn lựa của chính vị Đại Ngôn Sứ, mà Giêrêmia mới chỉ là hình bóng tiên trưng. Vâng, Tin Mừng Luca chúng ta vừa nghe, đã cho thấy chính Đức Kitô đã thi hành sứ mệnh ngôn sứ “mang lửa Thánh Thần và tình yêu đến cho thế giới” và sẵn sàng “dấn thân vào “Phép rửa của khổ nạn” để cứu độ con người. Và con đường để Ngài hoàn tất sứ mệnh ngôn sứ đầy nhiêu khê đó phải trả giá bằng một cuộc chiến thương đau :

“Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ…”.

Thế nhưng, cũng kể từ khi “Cây Thập Giá” được dựng lên trên đồi Sọ và “Treo Vị Đại Tiên Tri Giêsu trên đó”, thì sự chia rẽ sâu thẳm nhất giữa đất và trời, giữa nhân loại với nhau đã khép lại, để nhường chỗ cho một Vương Quốc Nước Trời mở ra, Vương quốc của sự thật và tình yêu, của hoà bình và công lý.

Nối tiếp “con đường ngôn sứ” của Giêrêmia, nhất là của Chúa Giêsu, suốt 2000 năm nay, đã có hàng hàng lớp lớp những con người nam nữ dấn thân chọn lựa và thực thi sứ mệnh ngôn sứ cao cả nhưng cũng đầy gian nan nầy, một số đông đảo mà thư Do Thái trong Bài đọc 2 hôm nay đã dùng hình ảnh : “chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh”. Và không chỉ được sự nâng đỡ chắc chắn bởi “đám mây nhân chứng” nầy, chúng ta, mọi Kitô hữu thuộc bất cứ đấng bậc nào, ơn gọi nào, nhờ nhiệm tích Thánh Tẩy, được gọi mời đi làm nhân chứng, tham dự vào sứ mệnh ngôn sứ của chính Chúa Kitô.

Dĩ nhiên, trước những giới hạn và mõng dòn của phận người, làm sao không có những lúc chúng ta nãn lòng, mệt mỏi, muốn chùn bước thối lui trước “chén đắng” của sứ mệnh (như trải nghiệm của Giêrêmia và của cả Chúa Giêsu); nhưng, như lời động viên của Thánh Vịnh 139 mà Hội Thánh vang ca hôm nay :

“Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu.

Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi….

Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Đấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ.”

Không chỉ là lời cầu nguyện, mà hơn nữa, phải là một hành trang, một ngọn đuốc sáng mang theo để lên đường. Vâng, hành trang đó, ánh sáng đó chính là lời mà thư Do Thái ân cần nói với chúng ta : “Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa.”

Chúa Giêsu không ở đâu xa. Ngài đang ở đây, trong bàn Tiệc Thánh Thể nầy. Amen.

LM.Trương Đình Hiền.