Chúa Nhật 2 Phục Sinh ABC
Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các Môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết trỗi dậy:

- LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (23).
- LẦN THỨ HAI sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin ! (29)

3. CHÚ THÍCH:

- C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Từ nay ngày Chúa Nhật sẽ thay thế cho ngày Thứ Bảy (Sa-bát) hưu lễ của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Chúa Phục Sinh hiện đến Nhà Tiệc Ly khi cửa nhà vẫn đóng kín, cho thấy thân xác của Người sau phục sinh mang đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các Môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người lại truyền cho Hội Thánh. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các Môn đệ. Rồi đến lượt các Môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các phép bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thổi hơi để ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các Giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của mình.
- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông thường nêu ra thắc mắc để xin Thầy giải đáp (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm cũng nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Tin Mừng Mat-thêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Tin Mừng Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Tin Mừng Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc 24,38).
- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người lại thông cảm và kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
- C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất như sau: Đức Giê-su vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì tin vào mầu nhiệm ấy.

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật để thay ngày Thứ Bảy (Sa-bát) của đạo Do thái?
2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Chúa phục sinh có đặc tính gì?
3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì?
4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông?
5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và từ khi nào?
6) Đức Giê-su thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ nhằm mục đích gì?
7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh khi nào?
8) Tin Mừng cho biết gì về Tông đồ Tô-ma?
9) Các Tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su không?
10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của tông đồ Tô-ma?
11) Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn vào mầu nhiệm phục sinh qua câu nói nào?
12) Sự cứng lòng của Tô-ma xưa có giá trị thế nào đối với đức tin của tín hữu hôm nay?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA:

“Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).

2. CÂU CHUYỆN:

1) TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

Một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan ra thuyết phục thiên hạ nhưng chẳng có ai tin theo tôn giáo của ông. Ông bèn than thở với anh bạn thân là Na-pô-lê-ông thì nhận được một lời khuyên như sau: “Nếu anh muốn người ta tin theo đạo của anh thì cũng dễ thôi: Anh hãy làm như thế này: Thứ năm hãy ăn bữa tiệc cuối cùng, rồi thứ sáu để người ta đóng đinh trên khổ giá rồi chôn cất trong mồ. Rồi đến ngày Chúa Nhật thì sống lại! Chắc chắn sẽ có rất đông người tin theo đạo của anh !”.
Điều có sức lôi cuốn thuyết phục người ta tin theo chính là phục sinh từ cõi chết.

2) LÀM CHỨNG BẰNG VIỆC SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ DANH CHÚA :

Tờ báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang thực tập làm thủy thủ trên một chiếc tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ còn duy nhất cậu bé này tin vào Chúa.
Trong ngày từ giã trước khi con lên tàu, bà mẹ đạo đức đã khuyên dạy con trai như sau: “Chúa đặt con trên con tàu này là để con làm chứng nhân cho Người”.
Từ ngày đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ nhàn rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để ăn chơi sa đọa, thì cậu bé đều ra sức ngăn cản. Nhưng không những bọn thủy thủ không nghe, mà còn hè nhau chế diễu cậu. Chẳng hạn: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện trước bữa ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn trước mặt giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người của cậu. Đáp lại, cậu thiếu niên luôn mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa tha tội cho họ.
Một lần kia khi đang làm việc trên boong, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Khi cậu bơi lại gần tàu thì họ lại dùng sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa thì các bạn sẽ được ơn cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi sắp chịu chết vì danh Chúa !” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau tỉnh dậy, thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa nhưng hãy hồi tâm sám hối quay về với Chúa. Kết quả là từ ngày đó, toàn thể thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối cầu nguyện và thành tâm sám hối trở về với Chúa.

3) LỜI NÓI HƯƠNG BAY, GƯƠNG BÀY LÔI KÉO:

Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh trước khi đi ngủ, liệu bây giờ sống chung trong quân ngũ, anh có nên tiếp tục quỳ đọc kinh không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại phải thay đổi cách sống hay sao?”
Nghĩ thế anh liền quyết định cứ tiếp tục mỗi tối quỳ gối đọc kinh trước khi ngủ. Khi đọc kinh như thế, anh nhận thấy mọi người trong phòng đều quan sát anh và biết anh là người Công Giáo. Và anh cũng phát hiện ra trong toàn trại lính chỉ có mình anh là người Công Giáo. Rồi mười phút cầu nguyện hằng ngày ấy thường là đề tài để các bạn bè sau đó tranh cãi nhau hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đã đến nói với anh:
– Đến nay anh chính là một người tín hữu tốt nhất mà tôi từng biết.
Anh đápi:
– Có lẽ tôi không dám nghĩ mình là người Kitô hữu tốt nhất, mà chỉ là người dám công khai biểu lộ đức tin của mình mà thôi. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói. ( Trích Tuyển tập chuyện hay).

4) ĐI THEO ĐẠO DO CẢM NGHIỆM ĐƯỢC LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA:

Có một phóng viên của một tờ báo chủ trương vô thần chống đối tôn giáo. Một hôm anh ta tìm đến gặp một người tân tòng để làm một cuộc phỏng vấn viết bài chống lại đạo. Anh hỏi người tân tòng:
- “Ông mới chịu phép rửa tội để gia nhập đạo Chúa phải không?
- Vâng.
- Thế thì chắc ông đã phải có kiến thức và hiểu biết nhiều về ông Giê-su. Vậy ông hãy cho tôi biết: ông Giê-su là người nước nào?
- Rất tiếc. Nghe đâu Đức Giê-su là người Do-thái thì phải!
- Thế ông Giê-su đi giảng đạo được mấy năm và chết năm bao nhiêu tuổi?
- Tôi có nghe nói nhưng không nhớ rõ lắm.
- Vậy, anh có biết nội dung các bài giảng của ông Giê-su hay không?
- Điều này thì tôi xin chịu!
- Như vậy là anh đã biết quá ít và mơ hồ. Vậy tại sao ông lại quyết định đi theo đạo của ông Giê-su?
- Anh nói như vậy cũng chỉ đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Giê-su. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước đây, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, lại còn bị mắc nợ chồng chất không thể trả nổi. Mỗi tối, khi tôi về nhà trong tình trạng lè nhè, vợ và các con tôi đều bực tức và buồn tủi… Nhưng bây giờ thì tôi đã dứt khoát với quá khứ không tốt ấy: Tôi chừa được tật nghiện rượu và đã trả được hết nợ nần. Nhờ quen với một vị linh mục và vị này đã tận tình giúp tôi làm lại cuộc đời. Bây giờ gia đình tôi đã lấy lại niềm vui và hạnh phúc. Mỗi buổi chiều các con tôi đều mong đợi tôi về nhà sau ca làm. Tất cả những điều này, tôi xác tín là do Chúa Giê-su đã thương ban cho tôi. Và đó là lý do tại sao tôi quyết định theo đạo…
Nghe đến đó anh phóng viên đành hậm hực ra về. Anh không ngờ lại gặp một người tín hữu có một đức tin mạnh mẽ vào Đức Ki-tô như thế…

3. THẢO LUẬN:
Để chu toàn sứ mệnh được sai đi, mỗi người chúng ta cần làm gì để giúp anh em lương dân tin yêu Chúa để được hưởng ơn cứu độ?

4. SUY NIỆM :

1) LỄ KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT :

- Hôm nay, Chúa Nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Chúa Thương Xót. Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Ma-ri-a Faus-ti-na được phong thánh. Nữ tu này đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giê-su và bà đã diễn tả để vẽ lên bức hình của Chúa Thương Xót với hàng chữ: “Lạy Chúa Giê-su, Con tín thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giê-su đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Người phát tỏa ra hai luồng sáng là màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc khổ nạn, khi Trái Tim Người bị lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá. Ánh sáng xanh lợt biểu tượng cho nước rửa sạch và thanh tẩy linh hồn. Ánh sáng đỏ biểu tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn.
- Chúa Giê-su đã đặt nữ tu Faus-ti-na là thư ký và tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót. Người cho biết : Lòng Thương Xót của Người luôn sẵn sàng tha thứ cho những tội nhân xấu xa nhất và cả với người tuyệt vọng nhất. Người mong muốn mọi người hãy đi xưng tội và rước lễ để hoàn toàn nhận được ơn tha thứ trong ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì “Tình thương mạnh hơn tội lỗi”.

2) SỨ ĐIỆP CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:

- Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra và giúp tất cả các môn đệ được ơn hoán cải. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, tất cả các ông đều bị vấp ngã: Các ông chạy trốn, vào trong nhà đóng cửa kỹ vì sợ người Do thái. Chính khi đó, Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các ông. Người không những chữa lành vết thương tâm hồn qua lời chào chúc: “Bình an » và thổi hơi ban Thần khí (Ga 20,19-20), mà Người còn sai họ đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Đây chính là bằng chứng Lòng Chúa Thương Xót dành cho các ông.
- Riêng tông đồ Tô-ma còn cảm nghiệm được Lòng Chúa Thương Xót khi Người cho ông không những được nhìn thấy Chúa như các môn đệ khác, mà còn đáp ứng đòi hỏi của ông được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Người. Trước tình thương của Chúa, Tô-ma đã biểu lộ lòng tin yêu qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Quả thực đúng như có người đã nói: “Chính ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; chính bàn tay đa nghi của ông đã dạy cho mọi người sự thật này là: Chúa Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy”.

3) MẦU NHIỆM PHỤC SINH VÀ SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG:

- Chúa Phục Sinh chính là Tin Mừng lớn lao mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của các môn đệ, nên họ không thể không chia sẻ cho người khác: Ma-ri-a Mác-đa-la sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã chạy về báo tin cho Phê-rô và Gio-an rồi hai ông đã chay ra mộ và đã đạt được đức tin; Chúa Phục Sinh cũng khiến hai môn đệ làng Em-mau lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để loan tin mừng các anh em; Và sau này, sau khi gặp Chúa Phục sinh tại thành Đa-mát, Sau-lô từ một kẻ bách hại đạo Chúa đã trở thành tông đồ hăng say đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho dân ngoại…
- Loan báo Tin Mừng là thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa nhờ ơn Thánh Thần như lời Chúa Giê-su: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

4) RAO GIẢNG TIN MỪNG LÀ LÀM CHỨNG VỀ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:

- Đức Thánh Cha Phao-lô VI dạy: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới tin. Do đó, người rao giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng trước hết bằng chính cuộc sống của mình. Thật vậy, ai mà tin được là Tin Mừng thực sự khi chính người rao giảng lại mang nét mặt cau có buồn rầu? Ai mà tin được là Tin Mừng giải phóng khi chính người rao giảng lại ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi và làm nô lệ cho các đam mê bất chính? Ai mà tin được là Tin Mừng cứu độ khi chính người rao giảng lại sống ích kỷ vô cảm, khi gia đình họ lại luôn bất hòa và đổ vỡ hạnh phúc?
- Trong ngày Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót hôm nay, cùng với thánh nữ Faus-ti-na, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ gặp phải trong cuộc sống như: bệnh tật, tai ương hoạn nạn và những điều rủi ro trái ý… kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giê-su trên cây thập giá, để đền tội chúng ta và mọi người. Hãy noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai làm chứng về lòng Chúa thương xót bằng nếp sống như sau: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chính sự phục sinh của Chúa động viên chúng con vui mừng và can đảm vượt qua những mất mát thua thiệt gặp phải trong cuộc sống. Ước gì chúng con biết noi gương Thiên Chúa giàu lòng thương xót: luôn gieo sự bình an và niềm hy vọng khắp nơi, gieo niềm an ủi cho những người bệnh hoạn tật nguyền, gieo tình thương và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát, giúp những ai đang lạc xa Chúa được mau trở về để nhận được ơn cứu độ của Chúa cùng với chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON