Vấn Đề Cách Viết Tên Riêng Tiếng Nước Ngoài Trong Sách Báo Công Giáo (Bài 3)
LTS : Bài nghiên cứu: “Vấn Đề Cách Viết Tên Riêng Tiếng Nước Ngoài Trong Sách Báo Công Giáo” của Linh Mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã được soản thảo cách đây 5 năm, được phổ biến trong bản tin Hiệp Thông số 9, năm 2000, xuất bản tại Sàigòn. Đây là một vấn đề rất quan trọng cả về phương diện ngữ học lẫn tôn giáo. Bài viết đã được nghiên cứu một cách rất nghiêm nhặt, đặt ra nhiều vấn đề cho giới ngữ học Việt Nam cũng như giới chức Công Giáo phải suy tư để giải quyết vấn nạn làm sao viết tên riêng tiếng nước ngoài?
Công trình khảo cứu được viết cách đây 5 năm, nên một vài chi tiết nhỏ không hợp với thời điểm hiện tại (ví dụ mục tiêu nghiên cứu). Tuy nhiên, cốt lõi vấn đề nêu ra vẫn còn nguyên vẹn, và các nhà ngữ học vẫn còn tranh cãi về cách viết tên riêng tiếng nước ngoài. Chúng tôi cho phổ biến bài nghiên cứu này với chủ đích cung cấp tài liệu để các bậc thức giả tham khảo và đối chiếu. VietCatholic xin một lần chính thức cám ơn LM. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã cho phép đăng bài nghiên cứu này.
3. NHỮNG HƯỚNG CHÍNH ĐỂ GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ
Sau khi đã trình bày những vấn đề đặt ra trong cách viết các tên riêng tiếng nước ngoài, chúng ta thử tìm hiểu những ý kiến, những giải đáp của các nhà ngôn ngữ cũng như của những nhà chuyên môn khác. Chúng ta thấy có hai quan điểm đối lập : một phía chủ trương lấy chữ viết là chính, tôn trọng đến mức tối đa dạng chính tả tiếng nước ngoài; phía kia chủ trương lấy phát âm là chính, dựa vào phát âm tiếng nước ngoài mà phiên âm. Chúng tôi đã thu thập được một số điểm và xin trình bày vắn tắt như sau :
3.1. ĐỐI VỚI HAI CÁCH VIẾT TÊN RIÊNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI
3.1.1. Cách viết thứ nhất : "Viết theo chữ Latinh, viết liền các âm tiết và không có dấu thanh điệu". Cách viết này được hầu hết các nhà ngôn ngữ học chọn lựa.
a. Luận cứ của những nhà chuyên môn :
Chúng tôi xin ghi lại các lý do tiêu biểu được giáo sư Hoàng Phê đưa ra qua bài "Chuẩn của tiếng Việt văn hoá" trong Đề Tài Khoa Học "Tiếng Việt và Chữ Việt …".
- Cách viết này đáp ứng yêu cầu của ngôn ngữ văn hoá.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta dùng ngôn ngữ ở dạng tồn tại tự nhiên gọi là ngôn ngữ dân gian, không hề băn khoăn việc đúng hay sai, chuẩn hay không chuẩn. Nhưng trên sách báo, chúng ta sử dụng ngôn ngữ văn hoá, nghĩa là ở dạng có tác động ý thức của con người để đáp ứng nhu cầu hoạt động, xây dựng và phát triển văn hoá theo nghĩa rộng. Loại ngôn ngữ văn hoá này, cần phải được học tập ở nhà trường, phải luôn trau dồi và người sử dụng luôn phải đứng trước vấn đề chuẩn, vì chuẩn là khái niệm trung tâm của ngôn ngữ văn hoá.
Quả thực, tiếng nói có trước, chữ viết có sau, nhưng chỉ sau khi có chữ viết thì mới thực sự có ngôn ngữ văn hoá. Với ngôn ngữ văn hoá, chữ viết là chính chứ không phải phát âm. Phát âm có thể thay đổi, nhưng chữ viết có thể vẫn giữ nguyên từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Phát âm có thể khác nhau (tuỳ theo chất giọng địa phương), nhưng chữ viết thì phải thống nhất (trên toàn lãnh thổ). Hiện nay, chúng ta phát âm tiếng Việt không thống nhất. Chẳng hạn từ Nguyễn Trãi : Miền Bắc, Miền Nam và nhiều tỉnh Miền Trung phát âm khác nhau. Nếu ta viết theo phát âm thì chắc phải viết Nguyễn Chãi ở Bắc, Nguyểng Trải ở Nam. Thế thì còn gì là tiếng Việt văn hoá ?
- Cách viết này đáp ứng yêu cầu xã hội
Sự chọn lựa của xã hội hiện nay trong các sách báo đã nói lên sự nhất trí ở một mức độ nhất định. Sự nhất trí này xác định tính cách chuẩn xác của ngôn ngữ văn hoá, dù rằng sự nhất trí này nhiều khi không dễ dàng, vì vẫn còn những quan điểm khác nhau, trái ngược nhau.
Hơn nữa, cách viết chuẩn của ngôn ngữ văn hoá này không phải chỉ đáp ứng yêu cầu trong sáng tác văn học, trong ngành giáo dục, phổ cập khoa học, nhưng còn trong các phương tiện truyền thông (báo chí, radio, tivi), trong ngành tin học, trong việc giao lưu văn hoá giữa các nước phát triển.
- Cách viết này tôn trọng các tên riêng
Trên phạm vi quốc tế, thời đại ngày nay đã có yêu cầu thống nhất tối đa cách viết tên riêng (nhân danh, địa danh) ở dạng chính tả bằng chữ cái Latinh. Liên Hiệp Quốc đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về vấn đề này. Chúng ta có thuận lợi rất lớn là chữ Việt dùng mẫu tự Latinh. Không lẽ chúng ta lại phải phiên âm để "Việt hoá" tên riêng nước ngoài. Hơn nữa, đã là tên riêng thì không có sự tuỳ tiện thay đổi cách viết mà phải tôn trọng dạng viết có vẻ khác biệt của tên đó, ví dụ như Kontum, Hồ Dzếnh. Ngay trong nước ta, bên cạnh tiếng Việt còn có ngôn ngữ các dân tộc thiểu số anh em, không thể có vấn đề gọi là "Việt hoá" các tên riêng như Đăk Lăk, Pleiku, Chư Păk, Ayun Pa, …
- Cách viết này tạo được sự thống nhất ở trong nước cũng như ngoài quốc tế.
Cách viết này cũng bảo đảm một sự thống nhất trong tiếng Việt và một sự nhất trí tối đa với phiên âm quốc tế, vì nó tôn trọng tới mức tối đa chính tả của tên riêng trong các ngôn ngữ có chữ viết bằng chữ cái Latinh và với dạng viết như thế, nó đạt được sự thống nhất với các ngôn ngữ khác. Thật vậy, giải pháp phiên âm qua cách viết thứ hai chỉ đưa đến kết quả là gây nên sự hỗn loạn vì có nhiều cách phiên âm khác nhau.
Ngay các ngôn ngữ quen thuộc như tiếng Anh, tiếng Pháp, người ta còn phải có từ điển riêng để hướng dẫn cách phát âm các tên riêng. Do đó, trong báo chí, cùng một tên Regan, báo này phiên âm là Ri-gân, báo kia viết Rê-gân, báo nọ viết Ri-gơn, biết thế nào là đúng ? Hoặc tên Bắc Kinh : tiếng Anh Peking, tiếng Pháp Pékin, tới khi tiếng Trung Quốc chính thức ghi phiên âm bằng chữ cái Latinh là Beijing thì các bản văn Anh Pháp đều sửa lại theo đúng quy định. Tên nhà thơ Nguyễn Du, tiếng Anh, tiếng Pháp viết Nguyen Du, dù đọc khác, nhưng người ta cũng hiểu đó là thi hào người Việt. Còn nếu các nước này phiên âm theo tiếng của họ, tên Nguyễn Du sẽ hiểu khác ngay (x. Hoàng Phê, Chuẩn của tiếng Việt văn hoá, Sđd, tr 15-19).
- Cách viết này không xa lạ với đa số quần chúng cũng như với tinh thần dân tộc.
Việc viết nguyên dạng tên riêng nước ngoài quả thực có gây khó khăn cho đông đảo những người có trình độ văn hoá thấp nhưng nó không ghê gớm lắm như chúng ta tưởng. Thực tế là từ nhiều năm nay trên sách báo đầy những tên rất xa lạ với tiếng Việt như : UNESCO, UNICEF, ASEAN, World Cup, SEA Games, fax, video, stress, Aids, internet … Trong cuộc sống hàng ngày người dân cũng làm quen rất nhanh với những tên như : Honda, Dream, xà bông Lux, bột giặt Tide, mì Vifon, … Cách viết các tên này không phải là xa lạ với tinh thần dân tộc như có người đã chỉ trích, nhưng nó phản ánh một nhu cầu thực sự của ngôn ngữ văn hoá trong đời sống. Hơn nữa, nó cũng nói lên sự tiến bộ để tiếng Việt có thể hoà mình vào các ngôn ngữ và đạt tới sự cảm thông giữa mọi người trên thế giới. Đó là ta chưa nói đến chính tả thuật ngữ khoa học kỹ thuật hiện nay đang cần có sự thống nhất căn bản để hoà nhập với các ngôn ngữ quốc tế (x. Hoàng Phê, sđd, tr 20).
Giáo sư Cao Xuân Hạo đã viết một bài khá dài trong tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, số 220, ngày 1-9-1996, tr 11-16 và được in lại trong cuốn Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa (NXB Giáo Dục, 1999) ở trang 162-169 về "cách viết, cách đọc các tên riêng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt". Ông đã đưa ra rất nhiều lý do để bênh vực cách viết thứ nhất này. Ông cũng là một trong hai chuyên viên về ngôn ngữ được Đức Cha Emmanuel Lê Phong Thuận mời tới trình bày cho các thành viên của Uỷ Ban Phụng Tự thuộc HĐGM về cách viết tên riêng trong văn bản Công giáo tại Toà Tổng Giám Mục TP. HCM ngày 3-4-1997. Chúng tôi xin tóm tắt vài ý chính của ông như sau :
1. "… Ưu thế lớn nhất của chữ quốc ngữ là nó phân tích các từ hay các "tiếng" của tiếng Việt thành những đơn vị tương ứng với các âm vị của tiếng Châu Âu và do đó nó cho phép sắp xếp các chữ cái theo một trật tự hoàn toàn tự do. Nó làm cho nước ta gia nhập vào khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ Latinh, thứ chữ có lãnh vực phổ biến rộng nhất và có địa vị chủ đạo rõ ràng so với tất cả các thứ chữ khác. Cái ưu thế nói trên sẽ không được phát huy nếu ta buộc các tên riêng tiếng nước ngoài theo đúng quy tắc cấu tạo vần của tiếng Việt".
2. Chủ trương phiên âm tên riêng theo tiếng Việt đưa đến một kết quả đáng buồn : người đọc sách báo bị bắt buộc vừa viết sai lại vừa đọc sai. Còn nếu viết nguyên dạng, ít ra cũng còn có một mặt đúng là mặt chính tả. Điều này càng có ý nghĩa cho những ai tra cứu thêm về mặt sách vở. Ví dụ, một người làm công tác thư viện hay bán sách, nếu đã quen cách viết "Ăng-ghen", làm sao tìm được tác phẩm của "Engels" bằng tiếng nước ngoài.
3. Việc phiên âm như hiện nay không thể đưa đến sự thống nhất khi các tên nước ngoài phải tuân theo quy tắc ghép vần của tiếng Việt. Khi viết tên Karl Marx thành Các Mác, vào những năm 1940, người ta còn tạm chấp nhận được. Nhưng ngày nay nếu viết "Mác" như thế thì làm sao phân biệt được giữa các tên Mach, Mars, Marc, Max, March, Marsch, Makt, Macht … Cách phiên âm như thế vừa thiếu tôn trọng, vừa thiếu chính xác đối với tên người, tên nước.
4/ Tên riêng tiếng nước ngoài không phải là những từ của tiếng Việt. Ta phải tôn trọng tên của họ cũng như người nước ngoài đã tôn trọng tên Việt của ta : nên cần giữ đúng nguyên dạng Latinh hay được Latinh hoá theo ngôn ngữ quốc tế. Có ý kiến cho rằng "quần chúng không thể đọc được những tên riêng nếu không phiên âm". Nhưng ngoài việc phiên âm khác nhau làm sai tên gốc, ta còn thấy đánh giá quần chúng như thế quả là thấp kém. Sự giao lưu văn hoá quốc tế, các phương tiện thông tin như báo chí, truyền thanh, truyền hình đang chứng minh ngược lại ý kiến này. Hơn nữa, người Việt không cần đọc cho đúng các tên ấy mà cần biết cách viết và nhìn cho quen mắt là đủ. Chẳng mấy ai phải đọc thành tiếng một trang sách hay bài báo có những tên riêng tiếng nước ngoài, trừ ra một vài người, do nghề nghiệp, cần biết đọc các tên ấy cho đúng, chẳng hạn các phát thanh viên. Hơn nữa, chính dạng chính tả sẽ giúp cho người đọc tên riêng khám phá ra quốc tịch, gốc gác của nhân vật (ví dụ : Mark và Marc), nhận ra những sắc thái tu từ của cách gọi tên kính trọng, thân mật, âu yếm (ví dụ : Mary, May, Mae, Marietta …) để có thể thưởng thức văn bản, nghệ thuật. Khi phiên âm, người ta làm mất những đặc tính này.
Một số nhà ngôn ngữ khác như ông Phạm Ngọc Uyển, Lê Quý Kỳ còn đưa thêm một số đề nghị sau về cách viết tiếng Việt (x. Đề tài khoa học, Sđd, tr 118-123) :
Chính Phủ hay Quốc Hội nước ta nên thông qua một bộ luật hay một nghị định về tiếng Việt. Bây giờ là thời đổi mới, nên nhân tiện đổi mới và thống nhất một số từ ngữ. Trong bản pháp lệnh chỉ nên nêu các nguyên tắc phiên âm các tên riêng nước ngoài và quy định cụ thể một số tên thôi. Còn việc phiên âm các tên riêng là nhiệm vụ của từ điển. Tiếc rằng trong các từ điển tiếng Việt hiện nay còn thiếu phần này.
Một trong những quy định đó là cố gắng trở về với tên gốc, trừ những từ đã quá quen thuộc rồi. Khi viết thì viết theo nguyên bản trước, rồi phiên âm đặt trong ngoặc đơn và có thể chua thêm nghĩa. Ví dụ : Côte - d’ Ivoire (Cốt-đi-voa : Bờ Biển Ngà).
Đối với các tên gốc Slave thì nên Latinh hoá, coi đó như tiếng gốc rồi phiên âm. Ví dụ : Leningrad (Lê-nin-grat : thành phố Lênin).
Trường hợp tên riêng gốc các tiếng khác (Arab, Nhật Bản, Trung Hoa …) thì cũng Latinh hoá rồi phiên âm. Ví dụ : Beijing (Pékin, Bắc Kinh, kinh đô ở phía bắc của đất nước).
Tóm lại, các nhà ngôn ngữ học hầu như đã thống nhất quan điểm về việc viết các tên riêng tiếng nước ngoài theo cách viết thứ nhất. Thực tiễn của đời sống văn hoá Việt Nam cũng đã nói lên điều đó, tuy dù có một số ý kiến không tán thành. Người Công giáo chúng ta có quyền chờ đợi một quy định của Nhà Nước để chính thức hoá quan điểm được đa số công nhận này, hay chúng ta dám mạnh dạn dấn bước như đã từng thể hiện tính cách sáng tạo của mình khi làm ra chữ quốc ngữ. Tất cả đều tuỳ thuộc sự chọn lựa của chúng ta.
b. Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) lên tiếng về cách viết này
HĐGMVN không ngồi yên chờ đợi mà đã họp bàn nhiều lần về vấn đề này.
- Ngày 30-8-1996 với đa số phiếu tuyệt đối : 25/28 phiếu thuận, Hội đồng đã quyết định về cách viết các tên riêng trong các bản văn phụng vụ như sau :
1/ Tên các thánh trong các sách Phụng vụ giữ nguyên ngữ Latinh. Ví dụ : F. de Sales thay vì đờ Xan, Chanel thay vì Sa-nen, Sigmaringen thay vì Dích-ma-rinh-gân, Clara thay vì Cơ-la-ra như các bản in của Sách Lễ Roma và sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ hiện nay.
Nếu tên không thuộc ngôn ngữ Latinh thì được viết theo truyền thống phụng vụ Latinh. Ví dụ : C. Lwanga thay vì Loan-ga. Các tên quá quen thuộc thì vẫn giữ nguyên theo truyền thống như : Giêsu, Maria, Giuse, Phêrô…
2/ Đối với tên riêng Kinh Thánh trong các sách phụng vụ như Sách Bài Đọc, chọn cách phiên âm theo Bản dịch Kinh Thánh Phổ Thông (Nova Vulgata), còn các sách khác không phải phụng vụ, được tự do chọn cách phiên âm.
- Ngày 14-3-1997, Ban Thường Vụ HĐGMVN lại họp bàn vấn đề cách viết các tên riêng trong các bản dịch sách phụng vụ do có những ý kiến khác nhau được gửi về.
Chúng tôi cũng ghi nhận sự quan tâm của HĐGMVN về vấn đề này khi tổ chức cho các thành viên của Uỷ ban Phụng tự gặp gỡ và lắng nghe các nhà ngôn ngữ học trình bày quan điểm của mình qua buổi gặp mặt tại Toà Tổng Giám Mục TP. HCM vào ngày 3-4-1997. Trong cuộc họp mặt này có giáo sư Cao Xuân Hạo và tu sĩ Phạm Hữu Lai, S.J., dưới sự chủ toạ của Đức Cha Emm. Lê Phong Thuận, chủ tịch Uỷ ban. Giáo sư Hạo cũng đề nghị việc nên đặt các tên riêng ở cách nào cho thống nhất : danh cách hay dụng cách như hiện nay.
- Ngày 8-10-1997, HĐGMVN đã bàn lại vấn đề, thẩm định các ý kiến từ các nơi gửi về và đã biểu quyết giữ lại quyết định của HĐGMVN năm 1996 với đa số tuyệt đối 22/24 phiếu thuận.
Chúng tôi cũng ghi nhận là sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ (tái bản năm 1999) và tập Những Ngày Lễ Công Giáo 1998-1999, 1999-2000 do Toà Tổng Giám Mục TP. HCM chịu trách nhiệm xuất bản, sau khi có quyết định của HĐGM, vẫn giữ nguyên cách phiên âm sang tiếng Việt, chứ không theo tinh thần chung của quyết định này. Ngoài ra, các sách Kinh Thánh Tân Ước và Kinh Thánh Trọn Bộ, các tập Kinh Sách in trong các năm 1998-1999 của Nhóm Phiên Dịch CGKPV vẫn giữ nguyên tên riêng theo cách viết thứ hai được trình bày sau đây. Lý do trước hết là quyết định của HĐGM không được thông báo chính thức cho mọi thành phần Dân Chúa. Thêm vào đó còn có một vài điểm chưa rõ trong quyết định này mà chúng tôi sẽ bàn đến ở phần sau. Cuối cùng là Nhóm Phiên Dịch CGKPV có chủ trương riêng của mình vì cho rằng các sách Kinh, sách Thánh cần phải đọc, nên đã chú ý đến phần âm hơn phần chữ.
3.1.2. Cách viết thứ hai : Viết theo cách phiên âm tiếng Việt, viết rời các âm tiết và có dấu gạch nối, có dấu thanh điệu.
a. Luận cứ của các nhà chuyên môn
Cách viết này cũng được một vài nhà ngôn ngữ học và một số nhà chuyên môn khác sử dụng với những lý do được nêu như sau :
- Việt hoá triệt để tên riêng tiếng nước ngoài là "bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, chống mọi sự xâm nhập lai căng, giả tạo, làm hỏng tiếng nói của dân tộc" (x. Lưu Văn Làng, báo Khoa Học và Đời Sống, số 11, ngày 1-6-1983).
- Cách viết này dễ đọc trong tiếng nói của ta, nhất là đối với quần chúng bình dân.
Ông Phụng Nghi, trong cuốn 100 năm phát triển của tiếng Việt, đã tóm tắt 2 ý kiến thuận và 6 ý kiến nghịch cho cách viết này (x. sđd, NXB TP. HCM, 1993, tr 87-89). Chúng tôi chỉ trình bày 2 ý kiến thuận như trên. Các ý kiến nghịch tương tự như phần trình bày ở số 3.1.1 trong cách viết thứ nhất.
b. Các ý kiến về cách viết thứ hai của Nhóm Phiên dịch CGKPV
Năm 1996, Nhóm Phiên dịch CGKPV đã gửi một tập tài liệu cho HĐGMVN và một số người quan tâm để nói về "Vấn đề phiên âm các tên riêng trong Sách Thánh". Tài liệu đề ngày 9-8-1998, dài 6 trang, khổ giấy A4. Chúng tôi xin tóm lược các lý do chính như sau.
Nhóm dựa vào 3 tiền đề chính sau đây :
- Thứ nhất, vấn đề phiên âm các tên riêng (bất luận là trong Sách Thánh hay trong các sách không phải là Sách Thánh thì cũng vậy) là vấn đề liên quan tới ngôn ngữ học, nên phải theo những nguyên tắc khoa học.
- Thứ hai, việc dịch Sách Thánh (hay sách Phụng vụ) nhằm phục vụ mọi người Việt Nam, dù là tín hữu hay không, chứ không chỉ phục vụ những người có trình độ học vấn cao, biết ngoại ngữ.
- Thứ ba, phải tính đến những ngoại lệ".
Tiếp theo, Nhóm giải thích về các tiền đề như sau : "Xét về mặt khoa học, tiếng Việt Nam vốn có nhiều âm gần các âm của tiếng Híp-ri và Hy-Lạp hơn những thứ tiếng thuộc họ La-tinh, nên Nhóm đã dịch Ha-lê-lui-a (Alleluia), Khác-gai (Aggée), Hô-sê-a (Osée), Ma-lơ-khi (Malachie), Mi-kha (Miché). Nhóm đã dịch thẳng từ Hip-ri thay vì qua tiếng trung gian Hy-Lạp và La-tinh". "Vì thế, Nhóm đã chọn phiên âm theo âm gần nhất có trong tiếng Việt. Nguyên tắc này cũng đã được Hội nghị Ngôn ngữ 1997(?) công nhận và Từ điển Bách khoa 1995 áp dụng".
Nhóm xác định "phiên dịch Sách Thánh là để phục vụ tất cả mọi người Việt Nam". "Bản dịch nhằm đến với bất cứ độc giả nào biết đọc tiếng Việt, dù phải đánh vần từng chữ. Do đó, trong mức độ có thể, phân biệt các phụ âm ở đầu âm để theo sát ngôn ngữ gốc và dùng gạch nối giữa các vần, để người đọc không biết ngoại ngữ cũng đọc được dễ dàng, nhất là những tên riêng dài như Na-bu-cô-đô-no-xo, Ê-dê-ki-en …"
"Những ngoại lệ : đối với những tên quá thông dụng, cố gắng giữ cách phiên âm quen dùng trong Hội Thánh. Ví dụ : Thánh Giu-se, Phê-rô. Vấn đề là ở chỗ : thế nào là thông dụng ? Tất nhiên không thể đặt linh mục tu sĩ làm chuẩn mà phải lấy quảng đại quần chúng giáo dân làm chuẩn. Cố gắng tránh những âm nghe không được thanh, ví dụ Yehudit phiên âm là Giu-đi-tha".
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đăng nguyên văn các tiền đề cũng như các lời giải thích của Nhóm CGKPV, để các nhà khoa học, ngôn ngữ học và quần chúng cùng tham gia góp ý. Chúng ta hi vọng sẽ tìm được quyết định chung trong việc thống nhất cách viết các tên riêng.
LTS : Bài nghiên cứu: “Vấn Đề Cách Viết Tên Riêng Tiếng Nước Ngoài Trong Sách Báo Công Giáo” của Linh Mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã được soản thảo cách đây 5 năm, được phổ biến trong bản tin Hiệp Thông số 9, năm 2000, xuất bản tại Sàigòn. Đây là một vấn đề rất quan trọng cả về phương diện ngữ học lẫn tôn giáo. Bài viết đã được nghiên cứu một cách rất nghiêm nhặt, đặt ra nhiều vấn đề cho giới ngữ học Việt Nam cũng như giới chức Công Giáo phải suy tư để giải quyết vấn nạn làm sao viết tên riêng tiếng nước ngoài?
Công trình khảo cứu được viết cách đây 5 năm, nên một vài chi tiết nhỏ không hợp với thời điểm hiện tại (ví dụ mục tiêu nghiên cứu). Tuy nhiên, cốt lõi vấn đề nêu ra vẫn còn nguyên vẹn, và các nhà ngữ học vẫn còn tranh cãi về cách viết tên riêng tiếng nước ngoài. Chúng tôi cho phổ biến bài nghiên cứu này với chủ đích cung cấp tài liệu để các bậc thức giả tham khảo và đối chiếu. VietCatholic xin một lần chính thức cám ơn LM. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã cho phép đăng bài nghiên cứu này.
3. NHỮNG HƯỚNG CHÍNH ĐỂ GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ
Sau khi đã trình bày những vấn đề đặt ra trong cách viết các tên riêng tiếng nước ngoài, chúng ta thử tìm hiểu những ý kiến, những giải đáp của các nhà ngôn ngữ cũng như của những nhà chuyên môn khác. Chúng ta thấy có hai quan điểm đối lập : một phía chủ trương lấy chữ viết là chính, tôn trọng đến mức tối đa dạng chính tả tiếng nước ngoài; phía kia chủ trương lấy phát âm là chính, dựa vào phát âm tiếng nước ngoài mà phiên âm. Chúng tôi đã thu thập được một số điểm và xin trình bày vắn tắt như sau :
3.1. ĐỐI VỚI HAI CÁCH VIẾT TÊN RIÊNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI
3.1.1. Cách viết thứ nhất : "Viết theo chữ Latinh, viết liền các âm tiết và không có dấu thanh điệu". Cách viết này được hầu hết các nhà ngôn ngữ học chọn lựa.
a. Luận cứ của những nhà chuyên môn :
Chúng tôi xin ghi lại các lý do tiêu biểu được giáo sư Hoàng Phê đưa ra qua bài "Chuẩn của tiếng Việt văn hoá" trong Đề Tài Khoa Học "Tiếng Việt và Chữ Việt …".
- Cách viết này đáp ứng yêu cầu của ngôn ngữ văn hoá.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta dùng ngôn ngữ ở dạng tồn tại tự nhiên gọi là ngôn ngữ dân gian, không hề băn khoăn việc đúng hay sai, chuẩn hay không chuẩn. Nhưng trên sách báo, chúng ta sử dụng ngôn ngữ văn hoá, nghĩa là ở dạng có tác động ý thức của con người để đáp ứng nhu cầu hoạt động, xây dựng và phát triển văn hoá theo nghĩa rộng. Loại ngôn ngữ văn hoá này, cần phải được học tập ở nhà trường, phải luôn trau dồi và người sử dụng luôn phải đứng trước vấn đề chuẩn, vì chuẩn là khái niệm trung tâm của ngôn ngữ văn hoá.
Quả thực, tiếng nói có trước, chữ viết có sau, nhưng chỉ sau khi có chữ viết thì mới thực sự có ngôn ngữ văn hoá. Với ngôn ngữ văn hoá, chữ viết là chính chứ không phải phát âm. Phát âm có thể thay đổi, nhưng chữ viết có thể vẫn giữ nguyên từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Phát âm có thể khác nhau (tuỳ theo chất giọng địa phương), nhưng chữ viết thì phải thống nhất (trên toàn lãnh thổ). Hiện nay, chúng ta phát âm tiếng Việt không thống nhất. Chẳng hạn từ Nguyễn Trãi : Miền Bắc, Miền Nam và nhiều tỉnh Miền Trung phát âm khác nhau. Nếu ta viết theo phát âm thì chắc phải viết Nguyễn Chãi ở Bắc, Nguyểng Trải ở Nam. Thế thì còn gì là tiếng Việt văn hoá ?
- Cách viết này đáp ứng yêu cầu xã hội
Sự chọn lựa của xã hội hiện nay trong các sách báo đã nói lên sự nhất trí ở một mức độ nhất định. Sự nhất trí này xác định tính cách chuẩn xác của ngôn ngữ văn hoá, dù rằng sự nhất trí này nhiều khi không dễ dàng, vì vẫn còn những quan điểm khác nhau, trái ngược nhau.
Hơn nữa, cách viết chuẩn của ngôn ngữ văn hoá này không phải chỉ đáp ứng yêu cầu trong sáng tác văn học, trong ngành giáo dục, phổ cập khoa học, nhưng còn trong các phương tiện truyền thông (báo chí, radio, tivi), trong ngành tin học, trong việc giao lưu văn hoá giữa các nước phát triển.
- Cách viết này tôn trọng các tên riêng
Trên phạm vi quốc tế, thời đại ngày nay đã có yêu cầu thống nhất tối đa cách viết tên riêng (nhân danh, địa danh) ở dạng chính tả bằng chữ cái Latinh. Liên Hiệp Quốc đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về vấn đề này. Chúng ta có thuận lợi rất lớn là chữ Việt dùng mẫu tự Latinh. Không lẽ chúng ta lại phải phiên âm để "Việt hoá" tên riêng nước ngoài. Hơn nữa, đã là tên riêng thì không có sự tuỳ tiện thay đổi cách viết mà phải tôn trọng dạng viết có vẻ khác biệt của tên đó, ví dụ như Kontum, Hồ Dzếnh. Ngay trong nước ta, bên cạnh tiếng Việt còn có ngôn ngữ các dân tộc thiểu số anh em, không thể có vấn đề gọi là "Việt hoá" các tên riêng như Đăk Lăk, Pleiku, Chư Păk, Ayun Pa, …
- Cách viết này tạo được sự thống nhất ở trong nước cũng như ngoài quốc tế.
Cách viết này cũng bảo đảm một sự thống nhất trong tiếng Việt và một sự nhất trí tối đa với phiên âm quốc tế, vì nó tôn trọng tới mức tối đa chính tả của tên riêng trong các ngôn ngữ có chữ viết bằng chữ cái Latinh và với dạng viết như thế, nó đạt được sự thống nhất với các ngôn ngữ khác. Thật vậy, giải pháp phiên âm qua cách viết thứ hai chỉ đưa đến kết quả là gây nên sự hỗn loạn vì có nhiều cách phiên âm khác nhau.
Ngay các ngôn ngữ quen thuộc như tiếng Anh, tiếng Pháp, người ta còn phải có từ điển riêng để hướng dẫn cách phát âm các tên riêng. Do đó, trong báo chí, cùng một tên Regan, báo này phiên âm là Ri-gân, báo kia viết Rê-gân, báo nọ viết Ri-gơn, biết thế nào là đúng ? Hoặc tên Bắc Kinh : tiếng Anh Peking, tiếng Pháp Pékin, tới khi tiếng Trung Quốc chính thức ghi phiên âm bằng chữ cái Latinh là Beijing thì các bản văn Anh Pháp đều sửa lại theo đúng quy định. Tên nhà thơ Nguyễn Du, tiếng Anh, tiếng Pháp viết Nguyen Du, dù đọc khác, nhưng người ta cũng hiểu đó là thi hào người Việt. Còn nếu các nước này phiên âm theo tiếng của họ, tên Nguyễn Du sẽ hiểu khác ngay (x. Hoàng Phê, Chuẩn của tiếng Việt văn hoá, Sđd, tr 15-19).
- Cách viết này không xa lạ với đa số quần chúng cũng như với tinh thần dân tộc.
Việc viết nguyên dạng tên riêng nước ngoài quả thực có gây khó khăn cho đông đảo những người có trình độ văn hoá thấp nhưng nó không ghê gớm lắm như chúng ta tưởng. Thực tế là từ nhiều năm nay trên sách báo đầy những tên rất xa lạ với tiếng Việt như : UNESCO, UNICEF, ASEAN, World Cup, SEA Games, fax, video, stress, Aids, internet … Trong cuộc sống hàng ngày người dân cũng làm quen rất nhanh với những tên như : Honda, Dream, xà bông Lux, bột giặt Tide, mì Vifon, … Cách viết các tên này không phải là xa lạ với tinh thần dân tộc như có người đã chỉ trích, nhưng nó phản ánh một nhu cầu thực sự của ngôn ngữ văn hoá trong đời sống. Hơn nữa, nó cũng nói lên sự tiến bộ để tiếng Việt có thể hoà mình vào các ngôn ngữ và đạt tới sự cảm thông giữa mọi người trên thế giới. Đó là ta chưa nói đến chính tả thuật ngữ khoa học kỹ thuật hiện nay đang cần có sự thống nhất căn bản để hoà nhập với các ngôn ngữ quốc tế (x. Hoàng Phê, sđd, tr 20).
Giáo sư Cao Xuân Hạo đã viết một bài khá dài trong tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, số 220, ngày 1-9-1996, tr 11-16 và được in lại trong cuốn Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa (NXB Giáo Dục, 1999) ở trang 162-169 về "cách viết, cách đọc các tên riêng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt". Ông đã đưa ra rất nhiều lý do để bênh vực cách viết thứ nhất này. Ông cũng là một trong hai chuyên viên về ngôn ngữ được Đức Cha Emmanuel Lê Phong Thuận mời tới trình bày cho các thành viên của Uỷ Ban Phụng Tự thuộc HĐGM về cách viết tên riêng trong văn bản Công giáo tại Toà Tổng Giám Mục TP. HCM ngày 3-4-1997. Chúng tôi xin tóm tắt vài ý chính của ông như sau :
1. "… Ưu thế lớn nhất của chữ quốc ngữ là nó phân tích các từ hay các "tiếng" của tiếng Việt thành những đơn vị tương ứng với các âm vị của tiếng Châu Âu và do đó nó cho phép sắp xếp các chữ cái theo một trật tự hoàn toàn tự do. Nó làm cho nước ta gia nhập vào khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ Latinh, thứ chữ có lãnh vực phổ biến rộng nhất và có địa vị chủ đạo rõ ràng so với tất cả các thứ chữ khác. Cái ưu thế nói trên sẽ không được phát huy nếu ta buộc các tên riêng tiếng nước ngoài theo đúng quy tắc cấu tạo vần của tiếng Việt".
2. Chủ trương phiên âm tên riêng theo tiếng Việt đưa đến một kết quả đáng buồn : người đọc sách báo bị bắt buộc vừa viết sai lại vừa đọc sai. Còn nếu viết nguyên dạng, ít ra cũng còn có một mặt đúng là mặt chính tả. Điều này càng có ý nghĩa cho những ai tra cứu thêm về mặt sách vở. Ví dụ, một người làm công tác thư viện hay bán sách, nếu đã quen cách viết "Ăng-ghen", làm sao tìm được tác phẩm của "Engels" bằng tiếng nước ngoài.
3. Việc phiên âm như hiện nay không thể đưa đến sự thống nhất khi các tên nước ngoài phải tuân theo quy tắc ghép vần của tiếng Việt. Khi viết tên Karl Marx thành Các Mác, vào những năm 1940, người ta còn tạm chấp nhận được. Nhưng ngày nay nếu viết "Mác" như thế thì làm sao phân biệt được giữa các tên Mach, Mars, Marc, Max, March, Marsch, Makt, Macht … Cách phiên âm như thế vừa thiếu tôn trọng, vừa thiếu chính xác đối với tên người, tên nước.
4/ Tên riêng tiếng nước ngoài không phải là những từ của tiếng Việt. Ta phải tôn trọng tên của họ cũng như người nước ngoài đã tôn trọng tên Việt của ta : nên cần giữ đúng nguyên dạng Latinh hay được Latinh hoá theo ngôn ngữ quốc tế. Có ý kiến cho rằng "quần chúng không thể đọc được những tên riêng nếu không phiên âm". Nhưng ngoài việc phiên âm khác nhau làm sai tên gốc, ta còn thấy đánh giá quần chúng như thế quả là thấp kém. Sự giao lưu văn hoá quốc tế, các phương tiện thông tin như báo chí, truyền thanh, truyền hình đang chứng minh ngược lại ý kiến này. Hơn nữa, người Việt không cần đọc cho đúng các tên ấy mà cần biết cách viết và nhìn cho quen mắt là đủ. Chẳng mấy ai phải đọc thành tiếng một trang sách hay bài báo có những tên riêng tiếng nước ngoài, trừ ra một vài người, do nghề nghiệp, cần biết đọc các tên ấy cho đúng, chẳng hạn các phát thanh viên. Hơn nữa, chính dạng chính tả sẽ giúp cho người đọc tên riêng khám phá ra quốc tịch, gốc gác của nhân vật (ví dụ : Mark và Marc), nhận ra những sắc thái tu từ của cách gọi tên kính trọng, thân mật, âu yếm (ví dụ : Mary, May, Mae, Marietta …) để có thể thưởng thức văn bản, nghệ thuật. Khi phiên âm, người ta làm mất những đặc tính này.
Một số nhà ngôn ngữ khác như ông Phạm Ngọc Uyển, Lê Quý Kỳ còn đưa thêm một số đề nghị sau về cách viết tiếng Việt (x. Đề tài khoa học, Sđd, tr 118-123) :
Chính Phủ hay Quốc Hội nước ta nên thông qua một bộ luật hay một nghị định về tiếng Việt. Bây giờ là thời đổi mới, nên nhân tiện đổi mới và thống nhất một số từ ngữ. Trong bản pháp lệnh chỉ nên nêu các nguyên tắc phiên âm các tên riêng nước ngoài và quy định cụ thể một số tên thôi. Còn việc phiên âm các tên riêng là nhiệm vụ của từ điển. Tiếc rằng trong các từ điển tiếng Việt hiện nay còn thiếu phần này.
Một trong những quy định đó là cố gắng trở về với tên gốc, trừ những từ đã quá quen thuộc rồi. Khi viết thì viết theo nguyên bản trước, rồi phiên âm đặt trong ngoặc đơn và có thể chua thêm nghĩa. Ví dụ : Côte - d’ Ivoire (Cốt-đi-voa : Bờ Biển Ngà).
Đối với các tên gốc Slave thì nên Latinh hoá, coi đó như tiếng gốc rồi phiên âm. Ví dụ : Leningrad (Lê-nin-grat : thành phố Lênin).
Trường hợp tên riêng gốc các tiếng khác (Arab, Nhật Bản, Trung Hoa …) thì cũng Latinh hoá rồi phiên âm. Ví dụ : Beijing (Pékin, Bắc Kinh, kinh đô ở phía bắc của đất nước).
Tóm lại, các nhà ngôn ngữ học hầu như đã thống nhất quan điểm về việc viết các tên riêng tiếng nước ngoài theo cách viết thứ nhất. Thực tiễn của đời sống văn hoá Việt Nam cũng đã nói lên điều đó, tuy dù có một số ý kiến không tán thành. Người Công giáo chúng ta có quyền chờ đợi một quy định của Nhà Nước để chính thức hoá quan điểm được đa số công nhận này, hay chúng ta dám mạnh dạn dấn bước như đã từng thể hiện tính cách sáng tạo của mình khi làm ra chữ quốc ngữ. Tất cả đều tuỳ thuộc sự chọn lựa của chúng ta.
b. Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) lên tiếng về cách viết này
HĐGMVN không ngồi yên chờ đợi mà đã họp bàn nhiều lần về vấn đề này.
- Ngày 30-8-1996 với đa số phiếu tuyệt đối : 25/28 phiếu thuận, Hội đồng đã quyết định về cách viết các tên riêng trong các bản văn phụng vụ như sau :
1/ Tên các thánh trong các sách Phụng vụ giữ nguyên ngữ Latinh. Ví dụ : F. de Sales thay vì đờ Xan, Chanel thay vì Sa-nen, Sigmaringen thay vì Dích-ma-rinh-gân, Clara thay vì Cơ-la-ra như các bản in của Sách Lễ Roma và sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ hiện nay.
Nếu tên không thuộc ngôn ngữ Latinh thì được viết theo truyền thống phụng vụ Latinh. Ví dụ : C. Lwanga thay vì Loan-ga. Các tên quá quen thuộc thì vẫn giữ nguyên theo truyền thống như : Giêsu, Maria, Giuse, Phêrô…
2/ Đối với tên riêng Kinh Thánh trong các sách phụng vụ như Sách Bài Đọc, chọn cách phiên âm theo Bản dịch Kinh Thánh Phổ Thông (Nova Vulgata), còn các sách khác không phải phụng vụ, được tự do chọn cách phiên âm.
- Ngày 14-3-1997, Ban Thường Vụ HĐGMVN lại họp bàn vấn đề cách viết các tên riêng trong các bản dịch sách phụng vụ do có những ý kiến khác nhau được gửi về.
Chúng tôi cũng ghi nhận sự quan tâm của HĐGMVN về vấn đề này khi tổ chức cho các thành viên của Uỷ ban Phụng tự gặp gỡ và lắng nghe các nhà ngôn ngữ học trình bày quan điểm của mình qua buổi gặp mặt tại Toà Tổng Giám Mục TP. HCM vào ngày 3-4-1997. Trong cuộc họp mặt này có giáo sư Cao Xuân Hạo và tu sĩ Phạm Hữu Lai, S.J., dưới sự chủ toạ của Đức Cha Emm. Lê Phong Thuận, chủ tịch Uỷ ban. Giáo sư Hạo cũng đề nghị việc nên đặt các tên riêng ở cách nào cho thống nhất : danh cách hay dụng cách như hiện nay.
- Ngày 8-10-1997, HĐGMVN đã bàn lại vấn đề, thẩm định các ý kiến từ các nơi gửi về và đã biểu quyết giữ lại quyết định của HĐGMVN năm 1996 với đa số tuyệt đối 22/24 phiếu thuận.
Chúng tôi cũng ghi nhận là sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ (tái bản năm 1999) và tập Những Ngày Lễ Công Giáo 1998-1999, 1999-2000 do Toà Tổng Giám Mục TP. HCM chịu trách nhiệm xuất bản, sau khi có quyết định của HĐGM, vẫn giữ nguyên cách phiên âm sang tiếng Việt, chứ không theo tinh thần chung của quyết định này. Ngoài ra, các sách Kinh Thánh Tân Ước và Kinh Thánh Trọn Bộ, các tập Kinh Sách in trong các năm 1998-1999 của Nhóm Phiên Dịch CGKPV vẫn giữ nguyên tên riêng theo cách viết thứ hai được trình bày sau đây. Lý do trước hết là quyết định của HĐGM không được thông báo chính thức cho mọi thành phần Dân Chúa. Thêm vào đó còn có một vài điểm chưa rõ trong quyết định này mà chúng tôi sẽ bàn đến ở phần sau. Cuối cùng là Nhóm Phiên Dịch CGKPV có chủ trương riêng của mình vì cho rằng các sách Kinh, sách Thánh cần phải đọc, nên đã chú ý đến phần âm hơn phần chữ.
3.1.2. Cách viết thứ hai : Viết theo cách phiên âm tiếng Việt, viết rời các âm tiết và có dấu gạch nối, có dấu thanh điệu.
a. Luận cứ của các nhà chuyên môn
Cách viết này cũng được một vài nhà ngôn ngữ học và một số nhà chuyên môn khác sử dụng với những lý do được nêu như sau :
- Việt hoá triệt để tên riêng tiếng nước ngoài là "bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, chống mọi sự xâm nhập lai căng, giả tạo, làm hỏng tiếng nói của dân tộc" (x. Lưu Văn Làng, báo Khoa Học và Đời Sống, số 11, ngày 1-6-1983).
- Cách viết này dễ đọc trong tiếng nói của ta, nhất là đối với quần chúng bình dân.
Ông Phụng Nghi, trong cuốn 100 năm phát triển của tiếng Việt, đã tóm tắt 2 ý kiến thuận và 6 ý kiến nghịch cho cách viết này (x. sđd, NXB TP. HCM, 1993, tr 87-89). Chúng tôi chỉ trình bày 2 ý kiến thuận như trên. Các ý kiến nghịch tương tự như phần trình bày ở số 3.1.1 trong cách viết thứ nhất.
b. Các ý kiến về cách viết thứ hai của Nhóm Phiên dịch CGKPV
Năm 1996, Nhóm Phiên dịch CGKPV đã gửi một tập tài liệu cho HĐGMVN và một số người quan tâm để nói về "Vấn đề phiên âm các tên riêng trong Sách Thánh". Tài liệu đề ngày 9-8-1998, dài 6 trang, khổ giấy A4. Chúng tôi xin tóm lược các lý do chính như sau.
Nhóm dựa vào 3 tiền đề chính sau đây :
- Thứ nhất, vấn đề phiên âm các tên riêng (bất luận là trong Sách Thánh hay trong các sách không phải là Sách Thánh thì cũng vậy) là vấn đề liên quan tới ngôn ngữ học, nên phải theo những nguyên tắc khoa học.
- Thứ hai, việc dịch Sách Thánh (hay sách Phụng vụ) nhằm phục vụ mọi người Việt Nam, dù là tín hữu hay không, chứ không chỉ phục vụ những người có trình độ học vấn cao, biết ngoại ngữ.
- Thứ ba, phải tính đến những ngoại lệ".
Tiếp theo, Nhóm giải thích về các tiền đề như sau : "Xét về mặt khoa học, tiếng Việt Nam vốn có nhiều âm gần các âm của tiếng Híp-ri và Hy-Lạp hơn những thứ tiếng thuộc họ La-tinh, nên Nhóm đã dịch Ha-lê-lui-a (Alleluia), Khác-gai (Aggée), Hô-sê-a (Osée), Ma-lơ-khi (Malachie), Mi-kha (Miché). Nhóm đã dịch thẳng từ Hip-ri thay vì qua tiếng trung gian Hy-Lạp và La-tinh". "Vì thế, Nhóm đã chọn phiên âm theo âm gần nhất có trong tiếng Việt. Nguyên tắc này cũng đã được Hội nghị Ngôn ngữ 1997(?) công nhận và Từ điển Bách khoa 1995 áp dụng".
Nhóm xác định "phiên dịch Sách Thánh là để phục vụ tất cả mọi người Việt Nam". "Bản dịch nhằm đến với bất cứ độc giả nào biết đọc tiếng Việt, dù phải đánh vần từng chữ. Do đó, trong mức độ có thể, phân biệt các phụ âm ở đầu âm để theo sát ngôn ngữ gốc và dùng gạch nối giữa các vần, để người đọc không biết ngoại ngữ cũng đọc được dễ dàng, nhất là những tên riêng dài như Na-bu-cô-đô-no-xo, Ê-dê-ki-en …"
"Những ngoại lệ : đối với những tên quá thông dụng, cố gắng giữ cách phiên âm quen dùng trong Hội Thánh. Ví dụ : Thánh Giu-se, Phê-rô. Vấn đề là ở chỗ : thế nào là thông dụng ? Tất nhiên không thể đặt linh mục tu sĩ làm chuẩn mà phải lấy quảng đại quần chúng giáo dân làm chuẩn. Cố gắng tránh những âm nghe không được thanh, ví dụ Yehudit phiên âm là Giu-đi-tha".
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đăng nguyên văn các tiền đề cũng như các lời giải thích của Nhóm CGKPV, để các nhà khoa học, ngôn ngữ học và quần chúng cùng tham gia góp ý. Chúng ta hi vọng sẽ tìm được quyết định chung trong việc thống nhất cách viết các tên riêng.