Con người học hỏi về thế giới thiên nhiên qua sách vở, qua kinh nghiệm của người khác hoặc do chính mình tự quan sát. Dường như chuyên gia trong ngành nghề nào cũng có sở thích riêng về ngành đó, nhờ đó mà họ thích thú học về ngành họ ưa thích. Càng học càng thú và càng thu thập được nhiều kinh nghiệm.

Khi tạo dựng con người Thiên Chúa đặt vào trái tim mỗi người mầm mống tình yêu. Tình yêu nguyên thủy này giúp con người phát triển, lớn lên, và tồn tại. Trong thời gian học hỏi, tìm tòi, tham vọng cá nhân, chủ thuyết chính trị, và hoàn cảnh xã hội, ít nhiều ảnh hưởng đến nhận xét, phán đoán của cá nhân đó. Từ đó dẫn đến í kiến khác biệt về thế giới quan của cá nhân đó.

Có người tin vào Thiên Chúa, kẻ khác lại cho là không có Thiên Chúa. Dù tin hay không tin Chúa, không ai có thể chối bỏ sự hiện hữu của mình. Cũng không ai có thể chối bỏ tình yêu mình yêu mình, và yêu tha nhân. Đối với Kitô hữu, Đức Kitô dậy hai điều răn quan trọng. Hai điều răn này là căn bản của tất cả các điều răn khác, đó là: Mến Chúa và yêu tha nhân như Đức Kitô dậy. Người không tin vào Chúa thực hành phần hai của điều răn yêu thương. Họ khôn gyêu Chúa, nhưng yêu chính họ và yêu tha nhân. Có sự khác biệt trong cách yêu thương này. Tin vào Đức Kitô dậy, ta yêu tha nhân như chính Ngài yêu ta, yêu người như yêu ta. Người không tin vào Chúa thì yêu tha nhân theo í riêng họ, từ đó sinh ra biết bao đau thương, bởi khác biệt về hiểu biết, từ đó dẫn đến thực hành khác biệt giới luật yêu thương.

Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân là giới răn chung cho các Kitô hữu. Đây là sứ mạng chung của các Kitô hữu. Ngoài sứ mạng chung này ra, một số còn được mặc khải cho ơn gọi đặc biệt. Ơn gọi đặc biệt này Thiên Chúa toàn quyền định đoạt, và điều này ngoài sự hiểu biết, lí giải của con người. Chính Đức Kitô xác nhận mặc khải đặc biệt này khi Phêrô thưa với Đức Kitô: Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Đức Kitô nói với ông: Này anh Phêrô, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân, mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời' Mat 16:17

Hiểu, biết về Thiên Chúa và tin Thiên Chúa hiện hữu là hai thực thể hoàn toàn khác biệt. Người ta tự học để có kiến thức về Thiên Chúa, nhưng không ai có thể tự học yêu mến, tin theo Ngài. Đức tin có được là do Chúa ban, và ai đón nhận cách chân thành sẽ nhận biết, yêu mến và tin theo Thiên Chúa. Chúa ban ơn đặc biệt cho ai người đó lãnh nhận, và Ngài có toàn quyền, tự do mặc khải về tình yêu Ngài cho kẻ Ngài tuyển chọn. Chúa chọn Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa; Chúa chọn bà Elizabeth là mẹ thánh Gioan Tẩy giả; Chúa chọn thánh Gioan Tẩy Giả là người tiên phong, mở đường cho Đấng Cứu Thế.

Bà Elizabeth không phải là học giả Kinh thánh, kiến thức về lòng Chúa xót thương như mọi người; nhờ ơn Chúa ban, khi nghe lời người bà con, bà Maria chào, tâm hồn bà Elizabeth rực rỡ, bừng lên niềm vui. Bà nhận ra đây là Mẹ Thiên Chúa. Qúi tử chưa sinh, cậu trai vừa sáu tháng, đang trong lòng mẹ, nghe lời bà Maria cũng nhảy mừng, hớn hở.

Người không yêu mến Thiên Chúa nghe điều này, đi đến kết luận, đây là chuyện giả tưởng, hoang đường bởi nó không hợp lí, cũng chẳng hợp lẽ vào đâu. Người yêu mến Thiên Chúa nhìn với con mắt đức tin lại tin, Thiên Chúa làm được mọi sự, kể cả điều xem ra vô lí, phản khoa học, bởi quyền phép Chúa vượt lên trên các tầng trời.

Chúa rất ít khi can thiệp vào luật thiên nhiên, nhưng khi Ngài phán bảo, thiên nhiên luôn vâng phục bởi Ngài là Chúa của thiên nhiên. Bà Elizbeth chỉ biết khiêm nhường, cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa. Bà lớn tiếng ca tụng Chúa, tử hỏi: 'Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này' Lc 1,45.

Vì tai tôi vừa nghe lời chào, hài nhi trong lòng nhảy lên vui sướng, chào mừng. Bà Elizabeth và con bà vui mừng không phải do hiểu lời Chào, mà do nghe lời chào. Lời chào bình dân kia thường nghe trên môi miệng mọi người, nhưng cảm thấy vui mừng, rộn rực, nhận ra là tiếng nói Mẹ Thiên Chúa thì chỉ có hai mẹ con bà Elizabeth. Điểm cần nhấn mạnh ở đây không phải là hiểu, hay hợp lí, mà chính là nghe và nhận biết. Trung tâm điểm của mầu nhiệm, mặc khải Chúa xuống thế làm người, và ngụ giữa chúng ta, là Chúa yêu thương nhân loại. Tình yêu chân thành không kể gì đến vô lí, hay hợp lí,bởi tình yêu đó có tính toán, lí luận. Tình cảm con người dành cho nhau vượt trên mọi lí luận hợp lí. Khi nghe lời chào, tim bà Elizabeth, và con bà tràn ngập niềm vui, an bình và hy vọng. Hai mẹ con đều không hiểu về việc viếng thăm, nhưng tâm hồn hai mẹ con tràn ngập niềm vui, hoan lạc và họ nhận biết đây chính là ơn Chúa ban. Gioan chưa sinh ra nhưng tim ông cảm nghiệm niềm vui. Điều này cho biết ơn Chúa ban không phải để hiểu, nhưng để nhận biết, mừng vui đón nhận và dâng lời cảm tạ.

Chúng ta chưa bao giờ được nhìn thấy Chúa, nhưng trong nhiều trường hợp chúng ta cảm thấy Chúa rất gần kề, Chúa che chở, ban sức mạnh nội tâm, ban ơn bình an trên đường lữ hành. Đây cũng là kinh nghiệm các thánh của Chúa khi sống ở trần gian cảm nghiệm.

Chúng ta xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.

TiengChuong.org

Knowledge

We are able to gain knowledge of the natural world from reading books, by learning from each other, and from observing the natural world ourselves. An expert in any particular field of studies often has personal interest on that field. The more one pays attention to a particular organism or species the more s/he gains knowledge of it.

Each one of us is endowed with an innate gift, that is essential for us to grow, to learn, and to survive. In the process of learning, personal ambition, ideology and environment, somehow influence the mind of a person, and that shapes one's personal outlook of the world.

Whether one believes or denies God's existence; one can't deny his/her very own existence. One can deny God's love, but no one can deny the duty of care for others. For Christians, the common call for us all is to embrace the two inseparable virtues, and that is to love God, and our neighbours. They are Jesus' commandments of love for us. Apart from that common call, some are called for a specific mission. This special call goes beyond any human explanation, as once Jesus told Peter when he made the confession that,

'You are the Christ, the Son of the living God'. Jesus told Peter. 'You are a happy man! because it was not flesh and blood that revealed this to you, but my Father in heaven' Mat 16,17.

A person can gain knowledge of the world through years of hard studies, but no one is able to please God by hard labour. Upon whom God shows favour is decided by God's free will. Human beings humbly learn to welcome God's will. God chose Mary to be Mother of God; God chose Elizabeth to be mother of John the Baptist, and God chose John to be God's forerunner.

Elizabeth was not a biblical scholar, and yet hearing Mary's greeting, Elizabeth knew Mary, her cousin, was the Mother of God. She was extremely happy receiving Mary into her home. In a humble spirit, Elizabeth was praising God, saying it was God's favour upon her. She wouldn't deserve it, and wouldn't be able to understand why God had chosen her. The same kind of knowledge was given to her unborn child, John the Baptist, who recognized Mary when she came to visit his mother, Elizabeth. The unborn child jumped for joy in his mother's womb.

For those who see the account of the Incarnation with the eyes of reason, it is a fairy tale. To those who see the Incarnation with the eyes of faith, it is real and true. Both Elizabeth and John knew Mary was the Mother of God not through reasoning, but listening. The focal point was not about reasoning, but rather about listening.

The natural world always obeys God, because God is the Lord of nature. The heart of the Incarnation was about God's outpouring love for us. Love has no logic, because it listens to the voice of a heart. There is no logic in human relationships. For both Elizabeth and John, their hearts, were filled with joy and peace when they heard Mary's greetings. They didn't understand the calls, but they loved God above all things.

We have never seen God, but sometimes we feel God is near, and that was the experience all holy men and women enjoyed.

We pray to have more faith in God.