CHO TÔI NIỀM VUI
Văn hào Victor Hugo (1787-1833) viết trong ‘Notre-Dame de Paris’ hay ’Quasimodo (tên trong tiểu thuyết) de Notre-Dame de Paris’ (VN dịch : Thằng Gù (Còng Lưng) Nhà Thờ Đức Bà’, viết 1482, nxb Gallimard. 1966 và 1974. A/15, 700 trang.
Bìa 1, có hình ‘Thằng Gù’ và bìa 4 có ghi : et Quasimodo… vit et balancer au bout de la corde et à deux toises…La corde fit plusieurs tours sur elle-même.
Ngòai tựa ‘qúy-đẹp, 1831’, gs Louis Chevalier. Sách xin tóm trong 9 tập
I. La grande salle : Từ 1482, mới có vài con phố chung quanh. Thỉnh thoảng có đám đông trẻ tứ chiếng không quen nhau đến cười nói toe tooét tầm phào, đi, lại. Có người lặn lội từ Troyes hay Genève. Họ nói là ‘đại hội’ và nằm dài ra bãi cỏ, bờ sông múa hát nhảy. Quần áo mầ¬u ¬xanh đỏ tươi. Kết thành nhóm. Trong nhà nhìn ra cho là vui. (pp, 37-94)
II. De Charybde sa Seylla. Phòng Seylla : Sáng sớm Paris vắng teo. Ít người qua lại. Trên các cầu St-Michel, Pont- au-Change và Petit-Pont đã có mấy trẻ tinh nghịch đốt pháo tiêu. Vài xe ngựa cọc cạch qua lại. Trên bancon, mấy cụ gìa hít thở. Dân cư thưa thớt ngái ngủ cuốc bộ đi làm (pp, 95-154)
III Notre Dame, Nhà Thờ Đức Bà Paris chưa xây xong. Nhưng trên khu đất rộng có dentelles giăng mắc đầy, bao vây phân ranh. Lâu lâu có hòa nhạc và sau có thánh lễ. Những người mộ đạo quì tại chỗ đọc kinh lần chuỗi chung quanh tượng Đức Mẹ ‘Pièta’. Nhà Thờ Đức Bà như ‘cánh hạc bay cao’. Có sông Seine chảy hai chiều. (pp, 155-192)
IV Les bonnes âmes : Những linh hồn thánh thiện. 1467, sáng Chủ Nhật, Quasimodo đi lễ tại Notre-Dame de Paris, nằm trong băng-ca vải gỗ do bà đẩy tại parvis, hàng đầu bệnh nhân, với 4 bệnh khác : Agnès, Jeromen, Aloise và bà giàu có. (pp : 193-197)
V Abbas Beati Martini (Giáo chủ Beati Martini) ít nói, dịp Noel hay tìm bệnh nhân nghèo đâng lễ. Chật chỗ. Có bs Jacques Claude bên cạnh. Sau lễ thăm và phát quà. Lấy thơm thảo. (pp 198-388)
VI L’ecu change en feuille séché (Vàng thau lẫn lộn). Đối thọai giữa Hélas và Gringroire về đại học. Lớp rộng học trò ít. Sỹ quan ngồi lẫn luật sư, bác sỹ. Nam-Nữ ngồi lẫn lộn. Không kiểm soát. Đại học Công Giáo nhiều hơn. Các bà mẹ than phiền con mình dễ mất nết (pp 389-450)
VII Du danger de confier son secret à une chèvre (nguy hỉểm khi lọt vào hang sói. Nhiều bạn trẻ còn thích ở trường hay ra đường đi bata, tiện, nhanh. Không ai ròm ngó. Chỉ người con gái tôi yêu. Nhưng chín bỏ làm mườì. (pp 449-451)
VIII L’écu changé en feuille sèche (thay lá khô). Trên sân khấu có người trẻ hỏi người già, luật sư: Có cấn thay ngay lá khô héo tàn không? Người già trả ngay : có, nhưng phải đợi rụng. Vì nó chưa lìa cành. Còn nhựa. Rụng sẽ bay xa. Đó là triết lý sống, phải theo, vả có rễ bám sâu trong lòng đất khó bứng. Lại có bạn trẻ bên cạnh gật gù đồng ý ngay. (pp 390-450)
IX Xưa, chiếc bí tất (pp 451-492) và Le petit soulièr (Giầy nhỏ) (pp 582-682) bỏ đầu giường. Sáng dạy, đầy bánh kẹo là của Thánh Nicolas. Nay, có Bouche de Noel và Galettes des Rois.
Cho tôi niềm vui
Mỗi ngày cho tôi một niềm vui
Chọn những bông hoa và nụ cười
Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em tựa lá bay
Mỗi ngày cho tôi một mình đi
Mỗi ngày cho tôi một lần thôi
Mỗi ngày cho tôi ngồi thật yên
Và như thế tôi vui sống từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Hãy yêu cuộc đời này bằng trái tim tôi
(Trịnh Công Sơn)
Kết luận bằng tóm lược tác phẩm viết trong 6 năm bằng tiếng Anh dịp Năm Thánh, do nxb Hoa Kỳ Ramdom House tại Anh, tên là ‘Hope’ (Hy Vọng) của ĐGH Phanxico cung cấp tài liệu và hình ảnh, 14.1. 25, về ‘Đời Mình’. Tác phẩm có tính cách Lịch Sử, di cư tuổi trẻ (VietCatholic 14.1.25)
Văn hào Victor Hugo (1787-1833) viết trong ‘Notre-Dame de Paris’ hay ’Quasimodo (tên trong tiểu thuyết) de Notre-Dame de Paris’ (VN dịch : Thằng Gù (Còng Lưng) Nhà Thờ Đức Bà’, viết 1482, nxb Gallimard. 1966 và 1974. A/15, 700 trang.
Bìa 1, có hình ‘Thằng Gù’ và bìa 4 có ghi : et Quasimodo… vit et balancer au bout de la corde et à deux toises…La corde fit plusieurs tours sur elle-même.
Ngòai tựa ‘qúy-đẹp, 1831’, gs Louis Chevalier. Sách xin tóm trong 9 tập
I. La grande salle : Từ 1482, mới có vài con phố chung quanh. Thỉnh thoảng có đám đông trẻ tứ chiếng không quen nhau đến cười nói toe tooét tầm phào, đi, lại. Có người lặn lội từ Troyes hay Genève. Họ nói là ‘đại hội’ và nằm dài ra bãi cỏ, bờ sông múa hát nhảy. Quần áo mầ¬u ¬xanh đỏ tươi. Kết thành nhóm. Trong nhà nhìn ra cho là vui. (pp, 37-94)
II. De Charybde sa Seylla. Phòng Seylla : Sáng sớm Paris vắng teo. Ít người qua lại. Trên các cầu St-Michel, Pont- au-Change và Petit-Pont đã có mấy trẻ tinh nghịch đốt pháo tiêu. Vài xe ngựa cọc cạch qua lại. Trên bancon, mấy cụ gìa hít thở. Dân cư thưa thớt ngái ngủ cuốc bộ đi làm (pp, 95-154)
III Notre Dame, Nhà Thờ Đức Bà Paris chưa xây xong. Nhưng trên khu đất rộng có dentelles giăng mắc đầy, bao vây phân ranh. Lâu lâu có hòa nhạc và sau có thánh lễ. Những người mộ đạo quì tại chỗ đọc kinh lần chuỗi chung quanh tượng Đức Mẹ ‘Pièta’. Nhà Thờ Đức Bà như ‘cánh hạc bay cao’. Có sông Seine chảy hai chiều. (pp, 155-192)
IV Les bonnes âmes : Những linh hồn thánh thiện. 1467, sáng Chủ Nhật, Quasimodo đi lễ tại Notre-Dame de Paris, nằm trong băng-ca vải gỗ do bà đẩy tại parvis, hàng đầu bệnh nhân, với 4 bệnh khác : Agnès, Jeromen, Aloise và bà giàu có. (pp : 193-197)
V Abbas Beati Martini (Giáo chủ Beati Martini) ít nói, dịp Noel hay tìm bệnh nhân nghèo đâng lễ. Chật chỗ. Có bs Jacques Claude bên cạnh. Sau lễ thăm và phát quà. Lấy thơm thảo. (pp 198-388)
VI L’ecu change en feuille séché (Vàng thau lẫn lộn). Đối thọai giữa Hélas và Gringroire về đại học. Lớp rộng học trò ít. Sỹ quan ngồi lẫn luật sư, bác sỹ. Nam-Nữ ngồi lẫn lộn. Không kiểm soát. Đại học Công Giáo nhiều hơn. Các bà mẹ than phiền con mình dễ mất nết (pp 389-450)
VII Du danger de confier son secret à une chèvre (nguy hỉểm khi lọt vào hang sói. Nhiều bạn trẻ còn thích ở trường hay ra đường đi bata, tiện, nhanh. Không ai ròm ngó. Chỉ người con gái tôi yêu. Nhưng chín bỏ làm mườì. (pp 449-451)
VIII L’écu changé en feuille sèche (thay lá khô). Trên sân khấu có người trẻ hỏi người già, luật sư: Có cấn thay ngay lá khô héo tàn không? Người già trả ngay : có, nhưng phải đợi rụng. Vì nó chưa lìa cành. Còn nhựa. Rụng sẽ bay xa. Đó là triết lý sống, phải theo, vả có rễ bám sâu trong lòng đất khó bứng. Lại có bạn trẻ bên cạnh gật gù đồng ý ngay. (pp 390-450)
IX Xưa, chiếc bí tất (pp 451-492) và Le petit soulièr (Giầy nhỏ) (pp 582-682) bỏ đầu giường. Sáng dạy, đầy bánh kẹo là của Thánh Nicolas. Nay, có Bouche de Noel và Galettes des Rois.
Cho tôi niềm vui
Mỗi ngày cho tôi một niềm vui
Chọn những bông hoa và nụ cười
Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em tựa lá bay
Mỗi ngày cho tôi một mình đi
Mỗi ngày cho tôi một lần thôi
Mỗi ngày cho tôi ngồi thật yên
Và như thế tôi vui sống từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Hãy yêu cuộc đời này bằng trái tim tôi
(Trịnh Công Sơn)
Kết luận bằng tóm lược tác phẩm viết trong 6 năm bằng tiếng Anh dịp Năm Thánh, do nxb Hoa Kỳ Ramdom House tại Anh, tên là ‘Hope’ (Hy Vọng) của ĐGH Phanxico cung cấp tài liệu và hình ảnh, 14.1. 25, về ‘Đời Mình’. Tác phẩm có tính cách Lịch Sử, di cư tuổi trẻ (VietCatholic 14.1.25)