Chuyện phiếm Canada: NHỮNG KỲ QUAN



Phòng ăn nhà tôi nhìn ra một đồi thông. Bây giờ đầu tháng Ba, đã cuối đông nhưng tiết trời rất lạnh, lại có tuyết. Mỗi buổi sáng tôi tự ban cho mình một hạnh phúc đầu ngày, đó là uống cà phê và nhìn tuyết bay. Mưa rơi thì bao giờ cũng gây tiếng động, còn tuyết rơi thì không một âm thanh. Những hạt tuyết trắng như bông, giăng mắc đầy trời, rồi nhẹ nhàng đáp xuống trần gian., chao ơi là đẹp.

Bao giờ tôi cũng pha cho mình một phin cà phê, loại cà phê uống đến đâu xay đến đó, nó thơm lạ lùng. Mà cà phê này phải đi với sữa đặc hiệu Con Chim hay Ông Thọ cơ, mới ngon. Chính anh John, chàng rể Canada trong làng tôi, đã nhiều lần công nhận như vậy. Anh vẫn bảo cà phê cứt chồn với sữa đặc kiểu VN là một thứ bùa mê, uống nó rồi thì tự nhiên ta thấy mọi loại cà phê khác đều là nước lã.

Vừa nhâm nhi cà phê nóng, vừa nhìn tuyết bay bay, tôi thấy đời đẹp qúa. Đây là lúc tôi cầu nguyện tạ ơn Thượng Đế, tôi vừa uống vừa cầu nguyện. Đây là lúc tôi thiền đầu ngày.

Sáng nay, đang thiền với ly cà phê cứt chồn trên tay thì chuông điện thoại reng. Ông ODP mời tôi xuống phố ăn phở. Tôi nghĩ trong bụng là sao hôm nay ăn nhiều qúa vậy. Chả là vì làng chúng tôi đã có chương trình ăn trưa ở nhà cụ Chánh rồi mà. Ăn để mừng lễ Valentine, lễ tình yêu. Chúng tôi mừng lễ tình già, các cụ ạ.

Thay vì nhận lời xuống phố, tôi tả cho ông nghe niềm hạnh phúc tôiđang được hưởng. Ông nghe mê qúa liền bỏ phở và xin đến hưởng chung niềm hạnh phúc với tôi. Bèn nhất trí ngay. Khi tôi mở cửa đón ông thì một tiếng ‘surprise ‘ lớn vang lên và một trận cười rổn rảng nổ ra từ phía sau. Không phải chỉ có mình ông ODP, mà còn có anh John và anh H.O. À, phe liền ông trong làng đang chơi trò Canada. Các cụ biết trò chơi này rồi chứ. Cái trò làm tiệc bất ngờ rồi hô lớn tiếng ‘surprise’ ấy mà. Họ đã hẹn nhau đi ăn phở dưới phố nhưng khi nghe tôi tả cà phê và tuyết bay trên đồi thông, họ thích quá nên đã đổi ý. Tôi thật luống cuống vì không biết tiếp các đấng trượng phu trong làng thế nào cho đúng phép. Họ đã đoán trước việc này, các cụ ạ. Qủa là đáng nể thật. Ông ODP bảo tôi chỉ cần pha cho mỗi người một phin cà phê cứt chồn như tôi đang uống là đủ, còn những sự khác thì nhóm ông đã tiên liệu. Nói rồi ông đặt lên bàn một gói lớn. Các cụ có đoán được đây là gói gì không ? Tôi cũng chả đoán được. Anh John tiếp tay mở gói rồi cười hà hà : chúng tôi biết ông sợ phở vì nước phở nhiều bột ngọt và bánh phở sinh ra đường, bởi vậy chúng tôi mua mấy món ăn hiện nay được coi là rất lành mạnh, không đường, không mỡ, không cholesterol.

Nói xong, ông lôi ra nào bánh mì nâu hiệu ‘whole wheat’, nào chả quế chiên, nào rau thơm, nào phó mát loại ‘diet’. Và ông làm sandwich nhanh như máy. Thấy mọi người ngạc nhiên thì ông lại cười ha ha : Tôi lẹ vì được vợ sai làm món này hằng ngày mà ! Cái Chị Ba Biên Hòa này thật đáng nể.

Trong khi ông làm bánh mì thì tôi pha cà phê. Chắc các cụ đang thắc mắc làm sao tôi có đủ số phin cà phê cho mọi người, phải không ạ ? Thưa, tôi đã từng đãi cả làng cà phê, nên có đủ.

Cà phê cứt chồn của tôi ngon đã đành, mà bánh mì anh John làm cũng thật ngon hết ý. Bánh mì nâu nha, kẹp với miếng chả quế chiên nha, lát phó mát ‘diet’ chống mập nha, một chút bơ lạt nha, thêm chút lát xà lách và lá ngò nha. Một tổng hợp khẩu vị Canada-VN tuyệt vời như vậy, không ngon không bổ sao được !

Chỉ trong khoảng 15 phút, các nhà quân tử trong làng đã ngồi vào bàn ăn sáng. Chuyện nổ như pháo tết. Bao nhiêu chuyện cấm kỵ không được nói khi có phe các bà bây giờ được nói thả giàn. Ôi, sung sướng làm sao ! Anh John sung sướng nhất bọn. Anh nói lớn tiếng ‘Stag party’ muôn năm ! Nghĩ cũng hay và cũng lạ, phe liền ông Anh và Mỹ, hễ được tụ tập riêng thì gọi là stag party. Stag là con hươu đực. Chả lẽ kiếp trước các chú hươu đực cũng hay trốn vợ mà đàn đúm hể hả riêng sao ?

Anh John hỏi mọi người : Các quan bác đã biết tin nóng hổi về việc tiểu bang Virginia bên Hoa Kỳ chính thức lên tiếng nhận lỗi và xin lỗi người Da Đen chưa ? Ngày 24 tháng Hai vừa qua, bằng số phiếu 96-0, quốc hội Virginia công khai nhìn nhận những bất công đã đổ lên đầu tổ tiên Da Đen kể từ năm 1619 khi chuyến tầu đầu tiên chở người Phi Châu đến đây. Họ công khai nhận lỗi và công khai xin lỗi.

Hoa Kỳ có truyền thống đáng kính và đáng phục này. Nhiều lắm. Xin kể vài việc gần đây thôi. Tuần báo Time số ra ngày 19.2.2007 đã viết rất rõ : Năm 1988, Tổng Thống Ronald Reagan đã chính thức xin lỗi cộng đồng Nhật Bản về những bất công đã đổ xuống họ trong Đệ Nhị Thế Chiến. Năm 1993 Tổng Thống Bill Clinton đã xin lỗi dân Hawaii vì năm 1893 Hoa Kỳ đã hạ bệ Nữ Hoàng Liliuokalani vàsau đó sát nhập Hawaii vào Hoa Kỳ. Năm 2005 Thượng Viện tiểu bang Kansas đã bàn tới việc xin lỗi thổ dân Da Đỏ về những hành động man rợ người Da Trắng đã xử với họ...

Giáo Hoàng John-Paul II đã công khai xin lỗi thế giới và các tôn giáo khác, tổng cộng 94 lần.

Ông H.O. liền cắt ngang lời Anh John : Anh nói chuyện nước người làm tôi nhớ chuyện nước mình. Bây giờ khắp nơi đang ồn ào việc Thày Nhất Hạnh với tăng đoàn Làng Mai lập đàn cầu siêu ở VN. Theo tôi thì người phải lập đàn và chủ tế là đảng CSVN. Ông Vũ Quang Ninh chủ nhân Đài Little Saigon Radio và Việt Tide bên California đã rất có lý khi đặt ra câu hỏi : ‘Liệu họ có can đảm dâng hương trước bàn thờ tổ quốc, công khai tạ tội với quốc dân, xin lỗi tất cả dân tộc, tạ lỗi với đồng bào trong nước và đồng hương hải ngoại không ? ( Viet Tide số 290, ngày 02-02-07 )

Ông Nguyễn Văn Huy trên Thông Luận tháng Hai vừa qua cũng nói y như vậy ‘...Chính quyền CS hiện nay kêu gọi hoà hợp dân tộc nhưng không chấp nhận hoà giải. Đó là lời kêu gọi phục tùng. Chúng ta không thể chấp nhận thái độ này... Những nạn nhân phải được phục hồi danh dự, đảng CS phải long trọng nhận lỗi và xin lỗi.’

Cũng trên Thông Luận, Ông Bùi Tín đã khai triển lời phát biểu của cựu tổng thống Nga Xô Mikhail Gorbachev phát biểu ở Mỹ tháng Giêng vừa qua. Các cụ còn nhớ những lời Cụ Gorbachev nói ở Đại Học Columbia không ? Tôi có trình các cụ trong số báo trước rồi mà. Ông Tín viết thế này : Chế độ độc đảng sống dựa vào nói dối. Trên nói dối dưới, đảng nói dối dân, báo chí nói dối công chúng, đài loa nói dối thính giả, sách giáo khoa nói dối học sinh... Nói dối đi nói dối lại hằng trăm ngàn lần, ở khắp nơi, thì điều phi lý nhất cũng có thể bị người ta tin là thật. Khi buộc mọi người tin ở những điều giả dối, cấm không được nói khác nghĩ khác, chế độ độc đảng làm cho người dân mụ mị, mất tư duy độc lập, quen thói nhắm mắt vâng lời, để tin những điều bịa đặt, bóp méo, xuyên tạc...

Cụ Gorbachev là người đã sáng mắt. Ông Bùi tín là người đã tỉnh ngộ. Hai ông này xuất thân từ lò CS thì lời hai cựu đảng viên này đáng cho chúng ta suy ngẫm.

Về việc CSVN gian dối, ông Bùi Tín kể sơ sơ vài chuyện.

Như chuyện cậu học sinh Lê Văn Tám. Theo sách CS thì năm 1946, trò Tám đã tẩm xăng tự nguyện làm bó đuốc sống để lao vào đốt kho đạn của Pháp. Dối trá quá sức ! Từ chỗ ngoài đường tẩm xăng cháy bùng lên rồi chạy đến kho đạn, khoảng cách mấy trăm thước, làm sao trò Tám chạy nổi. Bộ kho đạn không có rào cản sao ? Thế mà chuyện này đã được CSVN viết thành truyện, dựng thành kịch, đặt thành giải thưởng, lưu truyền cả nước, bắt mọi người tin, hơn nửa thế kỷ.

Như chuyện thuỷ thủ Tôn Đức Thắng đã nổi loạn trền tàu. Chuyện này CS VN bịa đặt. Các nhà báo Mỹ đã tìm tòi các nguồn tài liệu về ông già Tôn Đức Thắng và đã khẳng định không hề có chuyện thủy thủ Tôn Đức Thắng kéo cờ khởi nghĩa trên biển Hắc Hải. Khi còn sống, chính Tôn Đức Thắng đã phủ nhận việc này, nhưng cấp lãnh đạo CSVN đã ép cụ yên lặng để cách mạng VN được tiếng là gắn bó với cách mạng Nga đã từ lâu...

Hôm nay ông H.O. thao thao bất tuyệt. Năm con heo, năm tuổi của ông có khác. Anh John há miệng ngồi nghe không biết chán. Ông ODP thấy ông H.O. diễn thuyết đã lâu nên xin góp ý. Ông lấy từ trong túi ra một tờ báo xuân Đinh Hợi, có tấm hình đại tướng Võ Nguyên Giáp rất lớn và hình Thiền sư Thích Nhất Hạnh rất lớn, 2 hình in bên nhau. Rồi ông đố mọi người tên tờ báo. Các cao thủ võ lâm trong làng tôi, xưa nay thông minh sáng láng có thừa thế mà cũng lắc đấu xin chịu. Ông liền cho biết : đây là báo Xuân Đinh Hợi của thiền viện Làng Mai bên Pháp. Làng Mai mượn lời báo Mỹ, ca tụng 2 vị này là 2 đại anh hùng dân tộc.

Các nhà quân tử đang chú tâm xem tờ báo này thì chuông điện thoại reo. Phe các bà đã làm cơm xong và ra lệnh phe liền ông chúng tôi phải tới trình diện khẩn cấp. Xin tuân thượng lệnh. Ông ODP vừa gấp báo lại vừa bảo : Thôi, năm mới, mấy cái chuyện nhức đầu này ta xếp lại, từ nay sẽ không nói đến nữa. Thời gian sẽ trả lời. Bây giờ chúng ta hãy đem cái vui về tặng các bà.

Và tài xế chở các nhà quân tử là chàng John.

Cụ Chánh đón chúng tôi từ cửa. Vừa bước vào nhà, chúng tôi đã ngửi thấy mùi thức ăn thơm lừng. Ông ODP hít một hơi dài rồi nói ngay : Ha ha, canh chua cá bông lau, cá kho tộ, dưa giá. Ha ha, cơm trắng Nàng Hương. Các cụ đã phục cái sành ăn của bồ chữ ODP chưa. Chỉ mới ngửi mà biết thức ăn. Phục ông này quá. Ông chỉ sai có chút xíu. Bữa nay không phải cá bông lau mà là cá mú. Tại sao lại cá mú ? Cụ B.95 chủ bếp trả lời : hôm nay chúng tôi có ý đãi hai vị cao tuổi nhất làng nhậu đầu cá. Phải cá mú / grouper thì đầu cá mới ngon. À, ra thế. Hôm nay làng tôi tôn kính đặc biệt Cụ Chánh, Ông ODP, và ông H.O. cũng là dân biết nhậu, được ăn ké. Tôi thấy mình nhà quê vô cùng. Anh John bảo tôi : Mình không nhà quê đâu, mình là dân Canada 100% đấy thôi. Chả là vì, dân da trắng ở đây, họ chỉ ăn lườn cá, còn đầu cá, sườn cá, đuôi cá thì bỏ đi.

Ông ODP nghe xong liền nói ngay : Cái mà quý vị ở đây bỏ đi thì chính là cái ngon nhất của con cá. Lời ông ODP làm tôi sực nhớ chuyện xảy ra cách đây gần ba chục năm. Hồi đó, vào khoảng 1976 hay 1977 gì đó, vào một buổi trưa chủ nhật, tôi nhận được một cú điện thoại rất bất ngờ. Người bên kia đầu giây xưng tên VN và tự giới thiệu là một linh mục VN tu dòng bên Đài Loan. Ông đến Toronto dự hội nghị quốc tế về tôn giáo. Ông đến đây một mình, hiện ở khách sạn. Ông thèm nói tiếng VN, ông lật sổ điện thoại và thấy tên VN nên đánh bạo gọi nói chuyện. Chúng tôi nói chuyện một hồi rồi ông linh mục mời tôi đi ăn cơm trưa. Lúc đó tôi đang đói rách nên có người mời đi ăn là tôi đi liền. Ông chờ tôi ở khách sạn. Tưởng ông sẽ đãi tôi bữa cơm tây, nhưng không phải vậy. Ông bảo ông thèm cơm Tàu và xin tôi dẫn xuống phố Tàu. Cái này dễ quá. Ông kéo tôi vào một nhà hàng cuối phố. Chúng tôi phải chờ nửa giờ mới có bàn. Tôi hỏi ông tại sao lại chọn nhà hàng này thì ông nói tỉnh bơ : Nhà hàng nào ngon thì khách mới chịu làm đuôi đứng chờ. Tôi thấy cái đuôi xếp hàng này dài thì tôi biết nhà hàng ngon. À, ra thế. Qủa thực lúc đó tôi là anh mán rừng mới ra tỉnh. Và ông đã chọn món ăn. Ông kêu một con cá hấp lớn nhất và một đĩa cơm chiên. Tôi vô cùng bối rối vì thấy ông chỉ ăn đầu cá, ăn một cách rất ngon lành. Ăn xong đầu cá thì tới bụng cá và đuôi cá. Tôi đánh bạo gắp một miếng lườn cá cho ông thì ông trả lại và cười : Tôi hiểu được ý của anh rồi. Không phải tôi có ý nhường món ngon cho anh đâu. Tôi tu dòng bên Đài Loan đã lâu nên cái khẩu vị của Đài Loan đã thành khẩu vị của tôi.

Thấy tôi còn bỡ ngỡ chưa hiểu gì thì ông nói tiếp : Theo cái bếp Đài Loan thì chỗ ngon nhất là cái đầu cá, rồi bụng cá, và đuôi cá. Chính vì thế mà anh thấy tôi đã ăn những chỗ ngon nhất, tôi đâu có nhường tí nào cho anh đâu... Rồi chúng tôi phá ra cười.

Bữa nay, tôi thấy Cụ Chánh, Ông ODP và ông H.O. nhậu rất say sưa, giống y như ông linh muc VN tu dòng Đài Loan khi xưa. Mãi cuối bữa, ông ODP mới lên tiếng ca ngợi đầu cá : nó chứa nhiều chất bổ cho óc, cho gan, cho xương, nó chứa nhiều chất béo ngậy và chất béo này là chất béo bổ, rất tốt cho cơ thể. Bao nhiêu cái chất ngon chất bổ đều tụ lại nơi đầu cá và đuôi cá...

À, hoá ra trong bàn tiệc hôm nay chỉ có ba vị là rành ăn mà thôi. Tôi, Anh John, Chị Ba, hai cô Huế, Cụ B.95 là vất đi hết. Đáng vất đi hết vì đã ngu ngốc cứ lườn cá với khóm thơm với bạc hà mà xì xụp...

Mãi rồi bữa ăn mới xong. Mãi rồi mới tới phần ăn tráng miệng và uống trà. Mãi rồi mới tới phần nói chuyện. Mở đầu phần này, Chị Ba Biên Hòa lên tiếng đầu tiên. Chị hỏi chồng rằng sáng nay phe liền ông có nói xấu phe liền bà nhiều không.

Cái anh John chồng chị Ba này thế mà lanh trí và khôn đáo để. Anh tránh chuyện CSVN dối trá và chuyện thày Nhất Hạnh lập trai đàn. Anh trả lời vợ tỉnh bơ : Vì còn năm con heo nên nói toàn chuyện con heo mà thôi. Chị Ba nghe tiếng ‘chuyện con heo’ thì hiểu ngay ra ý nghĩa dân gian thông thường, nên kêu lên : Ui cha mẹ ơi, biết ngay mà, hễ phe các ông họp là chỉ có nói chuyện đó ! Thật là oan cho chúng tôi quá, phải không các cụ ? Ông ODP phải lên tiếng giải cứu và minh oan cho anh John ngay : Không phải chuyện con heo bậy bạ đâu. Nhân còn hương vị năm Hợi nên chúng tôi nói chuyện Hợi trong lich sử. Chuyện con heo đánh Tây ấy mà.

Và phe các bà đã trúng kế của ông ODP. Bà nào cũng tròn xoe hai con mắt : Sao lại có chuyện con heo đánh Tây ? Để cho các bà hồi hộp một chập rồi ông mới kể chuyện anh hùng Nguyễn Trung Trực đốt tàu chiến của Pháp ngày 11-12-1861 tại Vàm Nhật Tảo, thuộc Long An ngày nay. Nguyễn Trung Trực đóng kịch giả làm lễ rước dâu. Đám rước rất dài, binh sĩ cải làm trai tráng cờ quạt trống phách, và khiêng một con heo quay lớn. Khi ngang tàu chiến Espérance của Tây, ông đóng kịch mang lễ vật đầu heo quay lên tàu biếu thuyền trưởng. Rồi xuất kỳ bất ý đánh úp, đốt được tàu giặc. Đó, con heo đánh Tây là thế.

Phe các bà thấy chuyện đánh Tây hay quá, đòi nghe nữa. Bồ chữ ODP kể tiếp về chiến công thứ hai của Nguyễn Trung Trực là hạ thành Rạch Giá của Tây vào đêm 15-7-1886 và lấy được rất nhiều súng đạn. Cụ thi sĩ Huỳnh Mẫn Đạt đã ca tụng chiến công oanh liệt này bằng 2 câu thơ bất hủ:

Hoả hồng Nhựt Tảo kinh thiên địa,

Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.

Cụ B.95 nghe chuyện heo đánh Tây thì thấy hay quá, nhưng khi nghe sang chuyện thơ phú chữ Hán thì cụ khựng lại. Cụ không để Chị Ba tra khảo chồng nữa, mà cụ quay ra xin anh John kể chuyện thời sự.

Anh John nói ngay chuyện mỹ nhân bạc mệnh Anna Nicole Smith bên Hoa Kỳ. Các cụ còn nhớ chuyện này chứ. Cái cô đào tóc vàng mắt xanh và có 2 quả núi lửa ấy mà. Biết bao nhiêu là chuyện. Cô ra đi mới 39 tuổi, để lại một gia tài kếch xù và một đứa con mới 5 tháng. Hiện có ba dũng sĩ tên Birkhead, Stern và Anhalt đang nhận mình là cha đích thực của đứa trẻ. Ông nào cũng cho mình là người đúc cốt chứ không phải người tráng men ! Nhưng đây là chuyện nhỏ. Anh John này cũng tếu lắm. Anh cười hà hà một lúc cho các bà đứng tim rồi mới nói tiếp. Trong các chuyện lớn về cô Smith này thì anh thích nhất chuyện cô cưới tỷ phú Howard Marshall vào năm 1994. Lúc đó cô mới hơ hớ 26 tuổi xanh. Chú rể cũng mới sơ sơ 89 tuổi vàng và ngồi xe lăn. Họ cách nhau chỉ có 63 tuổi. Nhằm nhò gì vì yêu nhau ai tính tuổi bao giờ. Ai cũng hiểu cô lấy chồng già vì yêu cái kho vàng của chồng, còn cụ Marshall thì yêu cô thật. Cụ yêu cái thân xác bốc lửa của cô. Lúc đó chưa có Viagara. Không biết cụ có nên cơm cháo gì không.Thiên hạ đoán rằng chắc cụ cũng được sơ sơ. Nếu không nên cơm cháo gì thì tại sao cụ lại chia gia tài cho cô ? Chỉ biết lấy cô mới được một năm rồi cụ thăng thiên. Thiên hạ lại đồn ầm lên : vì cụ cố quá nên cụ thành người quá cố. Trâu gìa hề, gặm cỏ non hề !

Rồi anh John bắt sang chuyện Canada ngay. Chắc anh sợ phe liền ông chúng tôi bình luận thêm về cô Smith. Anh này quả là khôn. Anh mà kéo dài chút nữa thì chuyện cô Smith sẽ đi xa lắm.

Anh nói về chủ quyền Bắc Băng Dương. Nhìn vào bản đồ các cụ sẽ thấy Canada có ba bề là đại dương. Phía đông là Đại Tây Dương, phiá tây là Thái Bình Dương, phía bắc là Bắc Băng Dương, phía nam là Hoa Kỳ. Lâu nay hàng hải thế giới đang nhắm cái thủy lộ phía bắc của Canada. Mai này khí hậu toàn cầu ấm lên, tuyết băng tan bớt đi thì đây là thủy lộ đông tây lý tưởng. Nếu so sánh với hải trình qua kênh Panada thì lối này sẽ ngắn hơn 26%. Đây mới là mặt tàu bè. Mặt kinh tế mới quan trọng. Dưới thủy lộ này là những mỏ vàng mỏ kim cương và dầu lửa. Canada vẫn tuyên bố mình là chủ nhân Bắc Băng Dương. Hoa Kỳ không chịu. Âu Châu không chịu. Hình như họ định đem vấn đề này ra toà án quốc tế.

Cụ B.95, bây giờ là công dân Canada nha, tỏ ra lo lắng. Cụ hỏi anh John : Vậy nếu ra tòa thì nước mình có thắng không ? Anh John trả lời ngay : Nhất định thắng vì Canada đã ghi trên quốc hiệu từ năm 1921 : A mare usque ad mare. Đó là lời tiếng Latinh trích trong Thánh Kinh, Ca Vịnh 72, câu 8 : ‘Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, cho đến muôn đời’.

Nghe đến đây, Cụ Chánh tiên chỉ làng mới lên tiếng : Cái đất nước Canada này rộng mênh mông, và có bao nhiêu kỳ quan tuyệt mỹ. Lão thấy hàng năm thiên hạ tứ phương đổ xô đến xứ này xem phong cảnh, còn chính mình, công dân Canada, đã đi thăm được bao nhiêu kỳ quan của đất nước ? Lão cứ nghe miền đông Canada đẹp vô cùng, đẹp đến độ dân Âu Châu, đặc biệt dân Đức và dân Hà Lan, nhiều người đã tới đây mua nhà hưu trí ở cho đến mãn đời.

Chị Ba Biên Hoà cũng phụ họa với Cụ Chánh : Đã từ lâu, vợ chồng cháu có chương trình đi thăm miền biển đông, thăm nơi con tàu Titanic đắm ngày xưa, ngắm các tảng Băng Sơn đang từ bắc cực trôi về, và nhậu tôm hùm và khoai tây thổ sản nổi tiếng quốc tế, thế mà vẫn lười biếng chưa vẽ xong lộ trình. Hay là làng ta đi chung một chuyến chăng ?

Nghe đến đây thì phe các bà đồng loạt vỗ tay, và nhất trí giao cho phe liền ông lên kế hoạch. Hấp dẫn quá, phải không các cụ ?

Ông ODP nghe đến đây thì tỏ ra lo lắng. Ông sợ theo cái đà nhất trí này, các bà dám đặt ông làm trưởng ban kế hoạch thì mệt cho ông quá. Ông bèn đánh trống lảng. Ông bảo đây là chuyện lớn, chúng ta cần thời gian nghiên cứu đã. Trong khi chờ đợi, tôi xin trình cả làng đôi điều về các kỳ quan thế giới. Bảy kỳ quan thế giới ngày xưa không còn là kỳ quan ngày nay nữa. Cơ quan UNESCO của LHQ đang nghĩ tới việc duyệt xét lại. Trong số 830 công trình được đề nghị, LHQ đã chọn ra 21 địa danh di sản văn hóa thế giới vào chung kết. Trong số này có Tháp Eiffel của Pháp, Tượng Thần Tự Do của Hoa Kỳ, Lâu đài Taj Mahal của Ấn Độ, Đền Machu Pichu của Peru, Đền Angkor của Cao Mên, Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc. Danh sách chung kết sẽ được LHQ công bố vào ngày 7.7.2007 sắp tới.

Kỳ tết vừa qua, trong bữa ăn với Cha Paolo, người bạn thân của làng, chúng tôi có nhắc tới chuyện UNESCO và các kỳ quan của thế giới trên đây. Ngài nhìn chúng tôi rồi hỏi : Sao lại không có Vịnh Hạ Long của VN trong danh sách là thế nào ? Cái ông Cha này vừa thông minh vừa hóm hỉnh vừa dễ thương thế đấy các cụ ạ. Ngài để chúng tôi trao đổi ý kiến một hồi lâu rồi nói : Đó là kỳ quan ngoại giới. Còn chính chúng ta đây này, chúng ta mang trong mình biết bao nhiêu là kỳ công của Thượng Đế. Thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, tiếng cười, tình yêu... đó là những kỳ quan. Trái tim con người là một kỳ quan vĩ đại. Mỗi giờ trái tim bơm máu di chuyển trong cơ thể bằng một con đường dài 32 cây số. Mỗi giờ trái tim biến đổi và bơm 25 tỷ hồng huyết cầu. Trái tim làm việc không một giây ngưng nghỉ. Trên thế gian này làm gì có bộ máy nào có thể làm việc bền bỉ và tuyệt vời như vậy, trong một đời người dài 60, 70, 80 năm. Đấy là mặt vật chất. Người ta còn gán cho trái tim phụ trách cả tình yêu nữa. Mà tình yêu thì vĩ đại biết chừng nào !

Tôi xin mượn ý Cha Paolo để chúc quý vị mỗi ngày mỗi nhìn ra các kỳ quan trong người.