MỘT VÀI SUY NGHĨ NHÂN SỰ KIỆN XẢY RA ĐỐI VỚI ĐỨC CHA CHÂU NGỌC TRI
Phải nói rằng khi đọc các bản tin của VietCatholic về những gì xảy ra đối với Đức Cha Châu Ngọc Tri, Giám Mục Đà Nẵng, tâm tình của tôi thật là buồn và bất ngờ. Bất ngờ là vì một sự kiện nhỏ như thế nhưng lại được một số người thừa nước đục thả câu, lợi dụng xé ra to, như kiểu đạo diễn đã dàn dựng một kịch bản gây giật gân. Tôi không hề biết sự việc xảy ra thế nào, nhưng khi nghe một số người bạn kể lại, tôi cũng tìm đọc xem thực hư ra sao. Việc một số người Việt ở hải ngoại luôn tìm cách chất vấn các Giám mục VN liên quan đến những vấn đề chính trị, mỗi lần các ngài có việc sang Hoa Kỳ là chuyện không mới lạ gì. Các Giám mục hay Linh mục trong nước mỗi khi ra nước ngoài đều đã ý thức điều đó trước rồi. Chuyện bất ngờ là lần này một điều nhỏ như thế lại được lợi dụng làm cớ để phê bình chỉ trích nói xấu các Giám mục, kéo luôn cả Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vào đó. Tệ hại nhất là nhóm nhỏ chỉ trích này luôn tự xưng là “Kitô hữu”, nhân danh Tin Mừng, nhân danh Đức tin, nhân danh Thiên Chúa, nhân danh sứ mạng ngôn sứ…
Nhóm nhỏ này tự muốn nhân danh và đòi hỏi quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…, nói chung là nhân danh việc bảo vệ quyền và phẩm giá con người để chất vấn và phê phán Hội Đồng Giám Mục VN, và một khi đã dựa vào cái gọi là nhân quyền và phẩm giá của con người, họ lại tự cho mình cái quyền được làm tất cả mọi sự, ngay cả cái quyền xúc phạm và bôi nhọ người khác. Họ lên án cách cực đoan những ai không cùng một phương pháp đấu tranh như họ, phê phán chỉ trích những ai không bảo vệ quyền con người theo kiểu cách như họ.
Đúng là buồn thật, khi mà tự xưng là giáo dân, là Kitô hữu nhưng lại không biết hiệp thông và đồng cảm với các vị lãnh đạo Giáo Hội, không có tinh thần cảm thông cùng với Giáo Hội (sentire cum Ecclesia). Tất cả đều nhân danh Tin Mừng, nhân danh Kitô hữu, nhân danh sứ mệnh ngôn sứ để phê phán đến độ phi lý và phiến diện các vị Giám Mục của Giáo Hội. Tôi chỉ thắc mắc là họ nhân danh kiểu “kitô hữu” nào, “sứ mạng ngôn sứ” nào, “tin mừng” nào để cho mình là chính nghĩa mà phê phán người khác là nhu nhược, là thỏa hiệp… ?
Thật sự nếu bước vào trong một số trang web “chống các Giám Mục” này thì mới thấy rõ ở đó ngự trị bởi hận thù ích kỷ nhỏ nhen, ở đó không có ngôn ngữ và thái độ của Tin Mừng của Chúa Kitô, ở đó chỉ có chiều kích bè phái mà không có chiều kích Giáo Hội. Người ta có thể thấy ở đó dấu thánh giá, thấy hình ảnh của các vị lãnh đạo của Giáo Hội là các Đức Thánh Cha..., nhưng nếu Đức Thánh Cha Biển Đức XVI biết đọc tiếng Việt, thì chắc hẳn ngài buồn lắm, buồn vì Tin Mừng bị bóp méo, buồn vì chính ngài đang bị lợi dụng như một công cụ để phục vụ cho tư tưởng hận thù hẹp hòi của họ.
Một điểm quan trọng nhất được các nhà chống đối các Giám Mục VN thương nhắc đi nhắc lại, vì nó có nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đó là sứ mạng ngôn sứ. Người ta chất vấn sứ mạng ngôn sứ của Hội Đồng Giám Mục VN. Tâm tình bất ngờ và buồn của tôi ở đây chuyển sang một vài suy nghĩ về ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ.
Ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu: ơn gọi sống với Chúa để được sai đi.
Người Kitô hữu qua Bí tích Rửa Tội, được mời gọi góp phần vào công trình cứu độ của Chúa Kitô, làm chứng cho Tin Mừng của Ngài. Chính vì thế qua Bí tích Rửa Tội, Chúa Kitô, qua trung gian Giáo Hội, đã trao phó cho họ ba sứ mạng chính yếu: Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế (Mục Tử). Ba sứ mạng này, không tách rời nhau, đều bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Kitô khi còn ở trần gian. Cung cách thể hiện các sứ mạng này vì thế phải mặc lấy tâm tình và cung cách của Chúa Kitô (cf. Phil 2).
Bí tích Rửa Tội trước khi trao phó cho họ một sứ mạng thì đã mời gọi họ bước vào một thái độ và lối sống Kitô giáo (éthos chrétien). Họ được mời gọi phải thấm nhiễm tinh thần Tin Mừng trước khi trao ban nó, nếu không họ có thể trở thành những phản chứng chứ không phải là những người làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Phải sống những giá trị Tin Mừng trước tiên thì mới có khả năng trao ban, vì không ai cho cái mà mình không có. Những hình thức bảo vệ nhân quyền và phẩm giá con người cuối cùng chỉ là một ý thức hệ như bao ý thức hệ khác nếu cuộc đấu tranh đó không do ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, không do thấm nhiễm Tin Mừng của Chúa Kitô, hay tệ hơn nữa nếu nó được đánh động bởi lòng thù hận chính trị, hoàn toàn trái ngược với giới luật yêu thương tha nhân và ngay cả kẻ thù của Chúa Kitô. Nói như Thánh Phaolô, nó chỉ là tiếng kèng la đinh tai nhức óc, vì thiếu Đức Ái của Chúa Kitô (cf. 1Cor 13).
Người Kitô hữu cần ý thức rằng họ đang làm chứng cho Chúa Kitô, cho Nước Thiên Chúa (cf Mc 1,15), qua việc thực thi bác ái, chứ không phải cho một ý thức hệ nào khác, dù là hay đến mấy. Người ta đã thấy rõ tai hại của một thứ chủ nghĩa nhân bản vô thần hay ngay cả một triết thuyết nhân vị duy nhân bản cuối cùng đã làm hại chính con người, làm hại cho cả những giá trị nhân bản mà họ đang đeo đuổi. Nơi người Kitô hữu điều đó càng đúng, nếu họ chỉ rêu rao về một thứ thiên đàng trần thế mà đánh mất đi chiều kích thiêng liêng nơi chính cuộc sống của họ. Đó cũng chính là lời lên án mới đây của ĐTC Biển Đức XVI trong cuốn sách của Ngài: Giêsu Nazareth, (cf. chương 2, Những cám dỗ của Chúa Giêsu.).
Việc đấu tranh cho quyền và phẩm giá của con người không được phép thực hiện với bất cứ thủ đoạn nào đi ngược với Tin Mừng, đi ngược lại với cùng đích của ơn gọi ngôn sứ, đó là thể hiên ơn cứu độ của Thiên Chúa, thể hiện Vương Quốc của Ngài, một Vương quốc đã đến, đang đến và sẽ đến. Cái nguy cơ ở chỗ là người ta dễ dàng khoát cho mình một chiếc áo dân chủ nhân quyền bên ngoài để che đậy những thù hận đang gậm nhấm con người ở bên trong. Động lực thù hận này chắc chắn sẽ làm tiêu tan nhũng nổ lực “ngôn sứ” mà người ta hằng rêu rao. Cái nguy cơ đó là người ta dễ dàng chính trị hóa Tin Mừng, thay vì để cho ánh sáng Lời Chúa soi dẫn. Nguy cơ đó là người ta sẽ bôi nhọ hình ảnh Chúa Kitô hơn là làm chứng về Ngài. Chắc chắn không có môt Tin Mừng hay Đức tin viễn vông, không nhập cuộc vào các thực tại trần thế, nhưng Tin Mừng hay Đức Tin phải là nguồn suối cho mọi sứ mạng ngôn sứ.
ĐTC đương kim có những khẳng định thích đáng về vai trò ngôn sứ của các Kitô hữu trong cuộc sống của họ, đúng vậy, nhưng Ngài đã không ngừng ngại minh định cho thấy rằng đâu mới thực sự là nền tảng căn bản của ơn gọi ngôn sứ này. Quả thật, trong tác phẩm của Ngài được nêu trên (xem phần dẫn nhập, tr 21-28), đứng trước nguy cơ của một số ngôn sứ giả, ngài cho thấy thái độ căn bản và nền tảng đầu tiên của vị ngôn sứ không phải là hành động này hành động nọ trong xã hội, nhưng cốt yếu là một sự hiện diện “ mặt đối mặt với Thiên Chúa”. Quả thật, khi chú giải các đoạn Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật (18, 9-15; 34,10), ngài cho thấy tác giả loan báo về một vị ngôn sứ mới vượt quá cơ chế ngôn sứ của Cựu Ước. Vị ngôn sứ này chính là Chúa Giêsu, người đã thật sự sống với Thiên Chúa là Cha của Ngài, để rồi tất cả sức mạnh rao giảng Tin Mừng, những lời nói và việc làm của Ngài đều được múc lấy từ sự gặp gỡ “mặt đối mặt” sâu xa này với Thiên Chúa. Chính ở đó mà ĐTC Biển Đức XVI đã mời gọi hãy vượt quá cái nhìn hay cách sống lệch lạc của cái gọi là “ơn ngôn sứ”. ĐTC kết luận: vị ngôn sứ “không hiện diện ở đó để thông truyền những biến cố ngày mai hay của ngày hôm sau và như thế là để thỏa mãn óc tò mò hay cái nhu cầu an toàn của con người. Ngài chỉ cho chúng ta khuôn mặt của Thiên Chúa và do đó, con đường mà chúng ta phải theo…” (x. Jésus de Nazareth, Flammarion, 2007, tr.24).
Mối tương quan giữa 3 sứ mạng: Tư Tế-Ngôn Sứ-Vương Đế (Mục Tử)
Trong mắt của các vị “đấu tranh ngôn sứ”, họ chỉ nhìn phiếm diện được rằng sứ mệnh ngôn sứ đó chỉ là lên án những bất công trong xã hội, đòi hỏi tự do dân chủ, dân quyền cho người dân bị áp bức. Đó là một nét quan trọng của ơn gọi ngôn sứ, nó phát xuất từ sứ mệnh của Chúa Kitô: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngừoi đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…giải thoát những ai bị giam cầm…” (Lc 4, 18-19), nhưng đó không phải là tất cả sứ mạng của Ngài, thái độ cư xử của Ngài. Ngoài việc biết đọc các dấu chỉ của thời đại, vị ngôn sứ cũng là người biết nhìn về tương lai với thái độ khôn ngoan. Chúng ta nhận thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi, đối với cỏ lùng là thế nào. Ngài nhìn vào thân phận hiện hiện tại của tội nhân nhưng đồng thời cũng nhìn về tương lai của họ, ngài chờ đợi sự hoán cải, không nôn nóng. Ngài nhìn họ với sự tôn trọng. Ngài lên án tội lỗi, nhưng ngài vẫn tôn trọng phẩm giá con người của họ. Ngài là vị ngôn sứ, nhưng cũng là vị mục tử nhân lành. Thậm chí ngài dạy các môn đệ hãy cầu nguyện cho những người bắt bớ họ.
Các nhà phê phán Hội Đồng Giám Mục VN chỉ nhìn thấy một Chúa Kitô-Ngôn Sứ, nhưng lại quên đi một Chúa Kitô-Mục Tử, một Chúa Kitô- Tư Tế. Họ chỉ thấy nghĩa vụ lên án những bất công, đàn áp, nhưng lại không thấy với chức năng tư tế của Bí Tích Rửa Tội, họ phải có nghĩa vụ cầu nguyện cho người khác và cho cả chính bản thân mình nữa. Họ không thấy là họ phải có nghĩa vụ sống với Thiên Chúa mà sứ mạng tư tế mời gọi họ thánh hóa chính bản thân mình trước, rồi thánh hóa người khác. Họ cũng quên đi hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử, đã ân cần săn sóc đàn chiên, bỏ 99 con chiên lành mạnh lại, để đi tìm con chiên lạc. Vị mục tử sẵn sàng hy sinh vì đoàn chiên. Họ chỉ thấy một Chúa Giêsu đuổi dân buôn bán ra khỏi đền thờ, mà quên rằng cũng chính Ngài, hằng ngày kiên nhẫn chờ đợi sự trở về của người con lầm lạc. Sứ mạng ngôn sứ đâu chỉ có đập phá, nhổ…, nhưng còn là xây dựng vun trồng (x.Gr 1, 10). Sứ mạng ngôn sứ không thể tách rời các sự mạng khác của ngừoi Kitô hữu, hay nói đúng hơn các sứ mạng này đan quyện hài hòa với nhau.
Hiểu như thế chúng ta sẽ hiểu được lời mời gọi của ĐHY Phạm Minh Mẫn mới đây về bổn phận học hỏi giáo huấn của Giáo Hội và bổn phận cầu nguyện thật là cấp thiết là chừng nào. Phải chăng khi nhắc nhở đến bổn phẩn cầu nguyện của người Kitô hữu, ngài đã không muốn nói rằng nếu anh muốn làm ngôn sứ, thì trước hết anh phải biết cầu nguyện cho tha nhân, cho những người bách hại chúng ta, và đặc biệt, là anh phải biết sống với Thiên Chúa, diện đối diện với Ngài, để Ngài biến đổi anh, trước khi anh muốn đi lên án và muốn biến đổi người khác. Không ai có quyền đẩy người anh em ra khỏi Nước Trời, nhưng mọi người phải có nghĩa vụ cầu nguyện cho họ. Và một khi đã bắt đầu chân thành cầu nguyện cho tha nhân, thì thái độ thù hận sẽ không còn chỗ đứng, trong đời sống cá nhân nói riêng và cộng đoàn nói chung.
Được sai đi
Một điều quan trọng khác nữa của ơn gọi ngôn sứ, đó là được sai đi. Không có vị ngôn sứ nào trong lịch sử cứu độ mà không được sai đi. Không có ngôn sứ tự thân không cần đến một thẩm quyền nào. Lý luận rằng: qua Bí Tích Rửa Tội, Chúa Giêsu đã trao cho tôi 3 sứ mạng như thế là chưa đủ sao ? Còn ai có thẩm quyền trên Ngài nữa ? Đúng vậy, Chúa Kitô trao cho người Kitô hữu các sứ mạng loan báo và làm chứng cho Triều Đại Thiên Chúa, nhưng Ngài chỉ làm điều ấy qua trung gian của Giáo Hội. Lại một cái nhìn phiếm diện khác nữa, nếu người ta tự cho mình cái ơn ngôn sứ bên ngoài Giáo Hội ! Hành động bên ngoài Giáo Hội hữu hình này thì chẳng khác gì biến mình thành một “ lạc giáo ngôn sứ”. Chắc chắn ĐTC Biển Đức XVI không khích lệ một hình thức ngôn sứ tự mãn như vậy. Chính Ngài đã trích dẫn câu nói của một thần học gia dòng Tên, người Đức, Alfred Delp, câu nói này được viết trong văn mạch nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chiều kích thiêng liêng của cuộc sống, nhưng để trích dẫn ở đây để nói về tầm quan trọng của việc bước theo Chúa Kitô trong Giáo Hội vẫn hoàn toàn đúng: “bánh ăn là quan trọng, tự do thì quan trọng hơn, nhưng điều quan trọng nhất đó là sự trung thành liên lĩ và sự tôn thờ không bao giờ được bội phản” (sđd, p.53).Và Giáo Hội hữu hình này không phải chỉ là một tập hợp những giáo hội lẻ tẻ khác, nhưng nơi nó mang một sự hiêp nhất và hiệp thông sâu xa giữa các thành phần khác nhau trong Giáo Hội. Nó làm nên một thực thể tròn đầy, và hơn bất kỳ đâu khác trong Giáo Hội này, thì người ta mới gặp được Chúa Kitô đích thực. Đó không phải là minh định mới nhất của Bộ giáo lý đức tin về thuật ngữ “subsistit in” đó sao ? Người Kitô hữu hành động như thế không chỉ nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi), nhưng còn nhân danh Giáo Hội nữa (in persona Ecclésiae). Như vậy ơn ngôn sứ hiểu theo một nghĩa nào đó là sống với Thiên Chúa và sống trong Giáo Hội. Đó là thái độ đầu tiên và căn bản vậy.
Cảm thông cùng với Giáo Hội
Qua đó chúng ta thấy tầm quan trọng của việc gắn bó và ở trong Giáo Hội, cảm thông với Giáo Hội là điều hết sức quan trọng. Bước đi cùng Giáo Hội, cảm thông với Giáo Hội đó mới là thái độ căn bản và đầu tiên của người Kitô hữu chứ không phải là thái độ chỉ trích, phê phán, phóng đại, vu khống. Trách nhiệm người Kitô hữu ở đây thật lớn lao, họ có nguy cơ gây gương mù gương xấu cho những người ngoài Kitô giáo, và tệ hơn nữa họ lại gây cớ vấp phạm cho những anh em cùng niềm tin với mình. Phải quay trở về thái độ ngôn sứ căn bản mà ĐTC Biển Đức nhắc đến là điều thiết yếu: diện đối diện với Thiên Chúa. Phải biết cầu nguyện cho tha nhân, dẹp bỏ đi những thù hận, thái độ cực đoan kinh niên lên án người khác. Chúa Giêsu đã từng khiển trách các môn đệ là họ có tinh thần của ai khi rao giảng Tin Mừng ? Cái thái độ muốn lửa từ trời đến thiêu đốt những người không đón tiếp họ, không cùng quan điểm và phưong pháp như họ đó là thái độ phi ngôn sứ.
Tinh thần hiệp nhất và hiệp thông này được thấy rõ nhất trong là thư mới đây của ĐTC gởi cho Giáo Hội Trung Hoa, bên cạnh những lời có tính cách ngôn sứ và có tính cách giáo luật, sự nổi bật trên tất cả đó là lời mời gọi yêu thương, hiệp nhất và hiệp thông nơi Giáo Hội Trung Hoa. Thái độ đối thoại, tôn trọng đó mới thật sự là thái đội ngôn sứ thời nay. Chỉ cần nhìn vào những hoa trái, những thai độ và ngôn ngữ của chúng ta, thì người ta sẽ nhận ra ngay chúng ta đang đấu tranh vì Tin Mừng hay vì lòng hận thù, vì những mưu mô chính trị.
Ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan
Một điều thấy rất rõ nơi các phê phán các Giám Mục, tất cả đều có điểm chung này: không thể hiện sứ mạng ngôn sứ. Những người chống đối hay “góp ý” đều dựa vào đó để lên án các ngài.
Các Giám mục cần thể hiện ơn ngôn sứ, điều đó đúng không hề sai. Nhưng thể hiện ơn ngôn sứ đâu phải là như thế này…như thế nọ…thì mới là có ơn ngôn sứ. Khi thực hành sứ mệnh ngôn sứ, các Giám Mục có đường lối và phương pháp riêng của các ngài, các ngài hiểu đâu là điều tốt nhất cho Giáo Hội trong hoàn cảnh hiện nay. Các ngài chọn một con đuờng khôn ngoan nhất với tất cả trách nhiệm lớn lao của vị mục tử. Đứng ở ngoài thật là dễ dàng để mà nói, nhưng khi ở trong hoàn cảnh của các ngài thì mới có thể hiểu được tất cả những băn khoăn mục vụ. Cần phải có thái độ quảng đại và cảm thông. Vả lại, việc chọn đường lối đối thoại thẳng thắn trong sự tôn trọng đó không phải là thái độ của Chúa Kitô, của Vatican II… ?
Ở đây cũng cần phải chỉ rõ một phiếm diện khác nữa nơi những người đòi hỏi thể hiện ơn ngôn sứ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Bởi vì ơn ngôn sứ có một nền tảng Thánh Kinh và thần học vững chắc, nên họ chỉ biết bám vào đó để phê phán chỉ trích người khác. Thế nhưng trong KinhThánh, ơn ngôn sứ không phải là chiều kích duy nhất, nhưng còn một chiều kích khác không kém phần quan trọng đó là ơn khôn ngoan. Đây cũng là chủ đề xuyên suốt của Kinh Thánh. Ghislan Lafont là người đã nghiên cứu sâu sắc hai chiều kích này của Kinh Thánh trong cuốn sách mang tựa đề “La Sagesse et la Prophétie” ( nhà xuất bản Cerf, 1999). Ông cho thấy trong lịch sử cứu độ có lúc chiều kích ngôn sứ nổi bậc, nhưng lúc khác lại là chiều kích khôn ngoan, nhưng cả hai chiều kích đó không bao giờ được tách rời nhau: “Đã hẳn trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan đan quyện không tách rời nhau. Một số bản văn Kinh Thánh trình bày cho chúng ta Mầu Nhiệm đức tin bằng từ thuật ngữ “chon lựa” và “giao ước”, chúng viết lại các biến cố dưới ánh sáng của Lời, làm sáng tỏ tương lai bằng nhờ ánh sáng của lời hứa. Một số bản văn khác tìm hiểu trật tự của sự việc, giải thích cái đúng và cái sai, mô tả một nghệ thuật sống dưới sự hướng dẫn của Đức tin, và sau hết đi lên cho đến tận sự Khôn Ngoan vĩnh hằng của Ngôi Lời để hiểu thực tai…” (xem phần lời tựa).
Đối với tác giả, “ hai lối tiếp cận này làm phong phú lẫn nhau, dù đôi khi có đối chọi nhau, cho đến chổ lịch sử cứu độ tiến triển. Chúng ta nhận thấy hai lối tiếp cận này trong lịch sử thần học Kitô giáo. Đôi khi, sức mạnh ngôn sứ của lời đức tin lùi bước trước lòng sốt sắng chiêm niệm của ơn khôn ngoan, trong nền thần học này hay nền thần học khác…nhưng vào thời kỳ mà không gian-thời gian được biểu lộ theo cách mới mẻ, và cả vũ trụ cũng như các nền văn minh được đánh dấu bởi những đoạn tuyệt, thì những biến chuyển, tiến hóa, vấn đề về ý nghĩa lại trở nên ngày càng hàm súc. Ở đó có lời mời gọi làm sống lại cảm hứng ngôn sứ của thần học, không chỉ làm nổi bật giá trị lịch sử cứu độ một lần nữa, nhưng còn tìm hiểu ý nghĩa, và dấn thân vào đó, liên quan đức tin và sự hiểu biết, của lịch sử toàn diện, của thời ký lâu dài này, diễn ra từ khi Chúa Kitô phục sinh”.
Như thế để thấy rằng chỉ viện vào ơn ngôn sứ và bỏ qua ơn khôn ngoan để phê phán người khác là hoàn toàn phiếm diện và thiếu trung thực. Cần phải quan tâm đến cả hai trong ơn gọi của người Kitô hữu. Và như Ghislan Lafont ghi nhận có những thời điểm, những bối cảnh lịch sử lúc thì ơn ngôn sứ được đòi hỏi, lúc khác thì lại là ơn khôn ngoan. Và các Giám Mục được Giáo Hội chọn lựa là người biết và có quyền chọn lựa ơn nào thích hợp cho hoàn cảnh nào. Vả lại, phải chăng nơi các ngài hoàn toàn vắng bóng ơn ngôn sứ ? Đôi khi các ngài vẫn có tiếng nói ngôn sứ. Chẳng hạn bức thư củ Hội Động Giám Mục VN gởi cho chủ tịch nuớc Nguyễn Minh Triết, trong đó các ngài đòi hỏi quyền tự do tôn giáo, đòi hỏi cương vị của Giáo Hội trong xã hội cần phải được tôn trọng…, một bức thư như thế hẳn là nặng ký hơn rất nhiều đối với những tiếng kèng la vô hiệu quả của những người phê phán các ngài. Một bức thư như thế phải chăng đã không thể hiện rõ ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan của các ngài rồi sao ? Rồi những lên tiếng đây đó của một số Hồng Y, Giám mục, làm sao chúng ta có thể để cho lòng hận thù làm quên đi điều đó được ? Xét như là một Hội Đồng Giám Mục, các ngài có đường lối khôn ngoan của các ngài, và không ai có thể lèo lái các ngài được.
Những mẫu mực về ơn khôn ngoan
Các ngài đã sống với Thiên Chúa, nhìn vào Chúa Kitô, để cho Ngài hướng dẫn chứ không để cho bất cứ đảng phái hay ý thức hệ nào lèo lái.
Các ngài hẳn đã nhìn thấy sự thất bại của một ngôn sứ Elia mãnh liệt trong lời nói và việc làm, thế nhưng rồi Ngôn sứ Elia cũng đã tìm về sống với Thiên Chúa trong sa mạc trong 40 ngày, ở đó ngôn sứ, diện đối diện với Thiên Chúa, sẽ múc lấy sức mạnh của Đáng Khôn Ngoan vĩnh hằng, ở đó ngài sẽ hiểu rằng ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan “ đan quyện không thể tách rời nhau”.
Các Giám Mục hẳn cũng đã nhìn vào Chúa Giêsu một vị ngôn sứ “đầy uy quyền trong lời nói và việc làm”, nhưng chính Ngài cũng đã từng phải lánh mình đi trước những mưu mô chính trị đang lèo lái Ngài làm vua của họ. Ngài có những thời gian sống diện đối diện với Thiên Chúa là Cha của Ngài. Mọi hoạt động ngôn sứ của Ngài có nền tảng từ đó. Người ta có thể thắc mắc là tại sao trong hoàn cảnh thực tế và cụ thể, nguời dân đang cần đến Ngài, vậy mà Ngài lại lánh đi, “im lặng” ? Đơn giản vì Chúa Giêsu làm chủ con nguời và hành vi của Ngài, chứ Ngài không chạy theo nhưng triết thuyết viễn vông, những mưu mô chính trị hay những đòi hỏi nhất thời. Ngài là vị ngôn sứ biết nhìn vào thực tại và cả tương lai. Đó là sự khôn ngoan của một vị ngôn sứ.
Kinh Thánh và lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhiều khuôn mặt ngôn sứ nổi bật, nhưng cũng không hề thiếu những khuôn mặt khôn ngoan nhưĐức Maria, Thánh Cả Giuse…và biết bao nhiêu khuôn mặt thầm lặng khác đã góp phần quan trọng tột bậc trong sứ mạng rao giảng và làm chứng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
Thay lời kết
Chúng ta hãy biết đặt tin tưởng vào đường lối của Hội Đồng Giám Mục VN, thay vì chỉ trích phê phán phiến diện các ngài, tin rằng qua các ngài Thiên Chúa đã và đang hành đông. Nếu có một sự yếu đuối nào đó, nơi một vị nào đó, thì đó không phải là Hội Đồng Giám Mục VN. Thế nhưng ngay cả trong sự yếu đuối của các ngài, thì Thiên Chúa đã có một chương trình cho Giáo Hội Việt Nam, chúng ta hãy có cái nhìn quảng đại, cảm thông và cầu nguyện cho các ngài. Những kẻ thù của Giáo Hội sẽ mỉm cười vì thấy sự thiếu hiệp thông và tôn trọng các Giám Mục nơi những con người tự xưng là Kitô hữu. Nổ lực đấu tranh cho tự do, quyền và phẩm giá con người sẽ còn lâu mới thấy ngày thành công, nếu chỉ biết chia rẻ mà không biết xây dựng. Nó chỉ làm yếu đi súc mạnh Tin Mừng nơi chúng ta và làm gia tăng lòng thù hận gây thất bại mà thôi. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là “ngôn sứ” của Thầy đó là các con hãy ….”
Tiến Nhân
(Paris, Pháp quốc, Chúa Nhật 26/8/2007)
Phải nói rằng khi đọc các bản tin của VietCatholic về những gì xảy ra đối với Đức Cha Châu Ngọc Tri, Giám Mục Đà Nẵng, tâm tình của tôi thật là buồn và bất ngờ. Bất ngờ là vì một sự kiện nhỏ như thế nhưng lại được một số người thừa nước đục thả câu, lợi dụng xé ra to, như kiểu đạo diễn đã dàn dựng một kịch bản gây giật gân. Tôi không hề biết sự việc xảy ra thế nào, nhưng khi nghe một số người bạn kể lại, tôi cũng tìm đọc xem thực hư ra sao. Việc một số người Việt ở hải ngoại luôn tìm cách chất vấn các Giám mục VN liên quan đến những vấn đề chính trị, mỗi lần các ngài có việc sang Hoa Kỳ là chuyện không mới lạ gì. Các Giám mục hay Linh mục trong nước mỗi khi ra nước ngoài đều đã ý thức điều đó trước rồi. Chuyện bất ngờ là lần này một điều nhỏ như thế lại được lợi dụng làm cớ để phê bình chỉ trích nói xấu các Giám mục, kéo luôn cả Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vào đó. Tệ hại nhất là nhóm nhỏ chỉ trích này luôn tự xưng là “Kitô hữu”, nhân danh Tin Mừng, nhân danh Đức tin, nhân danh Thiên Chúa, nhân danh sứ mạng ngôn sứ…
Nhóm nhỏ này tự muốn nhân danh và đòi hỏi quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…, nói chung là nhân danh việc bảo vệ quyền và phẩm giá con người để chất vấn và phê phán Hội Đồng Giám Mục VN, và một khi đã dựa vào cái gọi là nhân quyền và phẩm giá của con người, họ lại tự cho mình cái quyền được làm tất cả mọi sự, ngay cả cái quyền xúc phạm và bôi nhọ người khác. Họ lên án cách cực đoan những ai không cùng một phương pháp đấu tranh như họ, phê phán chỉ trích những ai không bảo vệ quyền con người theo kiểu cách như họ.
Đúng là buồn thật, khi mà tự xưng là giáo dân, là Kitô hữu nhưng lại không biết hiệp thông và đồng cảm với các vị lãnh đạo Giáo Hội, không có tinh thần cảm thông cùng với Giáo Hội (sentire cum Ecclesia). Tất cả đều nhân danh Tin Mừng, nhân danh Kitô hữu, nhân danh sứ mệnh ngôn sứ để phê phán đến độ phi lý và phiến diện các vị Giám Mục của Giáo Hội. Tôi chỉ thắc mắc là họ nhân danh kiểu “kitô hữu” nào, “sứ mạng ngôn sứ” nào, “tin mừng” nào để cho mình là chính nghĩa mà phê phán người khác là nhu nhược, là thỏa hiệp… ? Thật sự nếu bước vào trong một số trang web “chống các Giám Mục” này thì mới thấy rõ ở đó ngự trị bởi hận thù ích kỷ nhỏ nhen, ở đó không có ngôn ngữ và thái độ của Tin Mừng của Chúa Kitô, ở đó chỉ có chiều kích bè phái mà không có chiều kích Giáo Hội. Người ta có thể thấy ở đó dấu thánh giá, thấy hình ảnh của các vị lãnh đạo của Giáo Hội là các Đức Thánh Cha..., nhưng nếu Đức Thánh Cha Biển Đức XVI biết đọc tiếng Việt, thì chắc hẳn ngài buồn lắm, buồn vì Tin Mừng bị bóp méo, buồn vì chính ngài đang bị lợi dụng như một công cụ để phục vụ cho tư tưởng hận thù hẹp hòi của họ.
Một điểm quan trọng nhất được các nhà chống đối các Giám Mục VN thương nhắc đi nhắc lại, vì nó có nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đó là sứ mạng ngôn sứ. Người ta chất vấn sứ mạng ngôn sứ của Hội Đồng Giám Mục VN. Tâm tình bất ngờ và buồn của tôi ở đây chuyển sang một vài suy nghĩ về ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ.
Ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu: ơn gọi sống với Chúa để được sai đi.
Người Kitô hữu qua Bí tích Rửa Tội, được mời gọi góp phần vào công trình cứu độ của Chúa Kitô, làm chứng cho Tin Mừng của Ngài. Chính vì thế qua Bí tích Rửa Tội, Chúa Kitô, qua trung gian Giáo Hội, đã trao phó cho họ ba sứ mạng chính yếu: Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế (Mục Tử). Ba sứ mạng này, không tách rời nhau, đều bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Kitô khi còn ở trần gian. Cung cách thể hiện các sứ mạng này vì thế phải mặc lấy tâm tình và cung cách của Chúa Kitô (cf. Phil 2).
Bí tích Rửa Tội trước khi trao phó cho họ một sứ mạng thì đã mời gọi họ bước vào một thái độ và lối sống Kitô giáo (éthos chrétien). Họ được mời gọi phải thấm nhiễm tinh thần Tin Mừng trước khi trao ban nó, nếu không họ có thể trở thành những phản chứng chứ không phải là những người làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Phải sống những giá trị Tin Mừng trước tiên thì mới có khả năng trao ban, vì không ai cho cái mà mình không có. Những hình thức bảo vệ nhân quyền và phẩm giá con người cuối cùng chỉ là một ý thức hệ như bao ý thức hệ khác nếu cuộc đấu tranh đó không do ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, không do thấm nhiễm Tin Mừng của Chúa Kitô, hay tệ hơn nữa nếu nó được đánh động bởi lòng thù hận chính trị, hoàn toàn trái ngược với giới luật yêu thương tha nhân và ngay cả kẻ thù của Chúa Kitô. Nói như Thánh Phaolô, nó chỉ là tiếng kèng la đinh tai nhức óc, vì thiếu Đức Ái của Chúa Kitô (cf. 1Cor 13).
Người Kitô hữu cần ý thức rằng họ đang làm chứng cho Chúa Kitô, cho Nước Thiên Chúa (cf Mc 1,15), qua việc thực thi bác ái, chứ không phải cho một ý thức hệ nào khác, dù là hay đến mấy. Người ta đã thấy rõ tai hại của một thứ chủ nghĩa nhân bản vô thần hay ngay cả một triết thuyết nhân vị duy nhân bản cuối cùng đã làm hại chính con người, làm hại cho cả những giá trị nhân bản mà họ đang đeo đuổi. Nơi người Kitô hữu điều đó càng đúng, nếu họ chỉ rêu rao về một thứ thiên đàng trần thế mà đánh mất đi chiều kích thiêng liêng nơi chính cuộc sống của họ. Đó cũng chính là lời lên án mới đây của ĐTC Biển Đức XVI trong cuốn sách của Ngài: Giêsu Nazareth, (cf. chương 2, Những cám dỗ của Chúa Giêsu.).
Việc đấu tranh cho quyền và phẩm giá của con người không được phép thực hiện với bất cứ thủ đoạn nào đi ngược với Tin Mừng, đi ngược lại với cùng đích của ơn gọi ngôn sứ, đó là thể hiên ơn cứu độ của Thiên Chúa, thể hiện Vương Quốc của Ngài, một Vương quốc đã đến, đang đến và sẽ đến. Cái nguy cơ ở chỗ là người ta dễ dàng khoát cho mình một chiếc áo dân chủ nhân quyền bên ngoài để che đậy những thù hận đang gậm nhấm con người ở bên trong. Động lực thù hận này chắc chắn sẽ làm tiêu tan nhũng nổ lực “ngôn sứ” mà người ta hằng rêu rao. Cái nguy cơ đó là người ta dễ dàng chính trị hóa Tin Mừng, thay vì để cho ánh sáng Lời Chúa soi dẫn. Nguy cơ đó là người ta sẽ bôi nhọ hình ảnh Chúa Kitô hơn là làm chứng về Ngài. Chắc chắn không có môt Tin Mừng hay Đức tin viễn vông, không nhập cuộc vào các thực tại trần thế, nhưng Tin Mừng hay Đức Tin phải là nguồn suối cho mọi sứ mạng ngôn sứ.
ĐTC đương kim có những khẳng định thích đáng về vai trò ngôn sứ của các Kitô hữu trong cuộc sống của họ, đúng vậy, nhưng Ngài đã không ngừng ngại minh định cho thấy rằng đâu mới thực sự là nền tảng căn bản của ơn gọi ngôn sứ này. Quả thật, trong tác phẩm của Ngài được nêu trên (xem phần dẫn nhập, tr 21-28), đứng trước nguy cơ của một số ngôn sứ giả, ngài cho thấy thái độ căn bản và nền tảng đầu tiên của vị ngôn sứ không phải là hành động này hành động nọ trong xã hội, nhưng cốt yếu là một sự hiện diện “ mặt đối mặt với Thiên Chúa”. Quả thật, khi chú giải các đoạn Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật (18, 9-15; 34,10), ngài cho thấy tác giả loan báo về một vị ngôn sứ mới vượt quá cơ chế ngôn sứ của Cựu Ước. Vị ngôn sứ này chính là Chúa Giêsu, người đã thật sự sống với Thiên Chúa là Cha của Ngài, để rồi tất cả sức mạnh rao giảng Tin Mừng, những lời nói và việc làm của Ngài đều được múc lấy từ sự gặp gỡ “mặt đối mặt” sâu xa này với Thiên Chúa. Chính ở đó mà ĐTC Biển Đức XVI đã mời gọi hãy vượt quá cái nhìn hay cách sống lệch lạc của cái gọi là “ơn ngôn sứ”. ĐTC kết luận: vị ngôn sứ “không hiện diện ở đó để thông truyền những biến cố ngày mai hay của ngày hôm sau và như thế là để thỏa mãn óc tò mò hay cái nhu cầu an toàn của con người. Ngài chỉ cho chúng ta khuôn mặt của Thiên Chúa và do đó, con đường mà chúng ta phải theo…” (x. Jésus de Nazareth, Flammarion, 2007, tr.24).
Mối tương quan giữa 3 sứ mạng: Tư Tế-Ngôn Sứ-Vương Đế (Mục Tử)
Trong mắt của các vị “đấu tranh ngôn sứ”, họ chỉ nhìn phiếm diện được rằng sứ mệnh ngôn sứ đó chỉ là lên án những bất công trong xã hội, đòi hỏi tự do dân chủ, dân quyền cho người dân bị áp bức. Đó là một nét quan trọng của ơn gọi ngôn sứ, nó phát xuất từ sứ mệnh của Chúa Kitô: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngừoi đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…giải thoát những ai bị giam cầm…” (Lc 4, 18-19), nhưng đó không phải là tất cả sứ mạng của Ngài, thái độ cư xử của Ngài. Ngoài việc biết đọc các dấu chỉ của thời đại, vị ngôn sứ cũng là người biết nhìn về tương lai với thái độ khôn ngoan. Chúng ta nhận thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi, đối với cỏ lùng là thế nào. Ngài nhìn vào thân phận hiện hiện tại của tội nhân nhưng đồng thời cũng nhìn về tương lai của họ, ngài chờ đợi sự hoán cải, không nôn nóng. Ngài nhìn họ với sự tôn trọng. Ngài lên án tội lỗi, nhưng ngài vẫn tôn trọng phẩm giá con người của họ. Ngài là vị ngôn sứ, nhưng cũng là vị mục tử nhân lành. Thậm chí ngài dạy các môn đệ hãy cầu nguyện cho những người bắt bớ họ.
Các nhà phê phán Hội Đồng Giám Mục VN chỉ nhìn thấy một Chúa Kitô-Ngôn Sứ, nhưng lại quên đi một Chúa Kitô-Mục Tử, một Chúa Kitô- Tư Tế. Họ chỉ thấy nghĩa vụ lên án những bất công, đàn áp, nhưng lại không thấy với chức năng tư tế của Bí Tích Rửa Tội, họ phải có nghĩa vụ cầu nguyện cho người khác và cho cả chính bản thân mình nữa. Họ không thấy là họ phải có nghĩa vụ sống với Thiên Chúa mà sứ mạng tư tế mời gọi họ thánh hóa chính bản thân mình trước, rồi thánh hóa người khác. Họ cũng quên đi hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử, đã ân cần săn sóc đàn chiên, bỏ 99 con chiên lành mạnh lại, để đi tìm con chiên lạc. Vị mục tử sẵn sàng hy sinh vì đoàn chiên. Họ chỉ thấy một Chúa Giêsu đuổi dân buôn bán ra khỏi đền thờ, mà quên rằng cũng chính Ngài, hằng ngày kiên nhẫn chờ đợi sự trở về của người con lầm lạc. Sứ mạng ngôn sứ đâu chỉ có đập phá, nhổ…, nhưng còn là xây dựng vun trồng (x.Gr 1, 10). Sứ mạng ngôn sứ không thể tách rời các sự mạng khác của ngừoi Kitô hữu, hay nói đúng hơn các sứ mạng này đan quyện hài hòa với nhau.
Hiểu như thế chúng ta sẽ hiểu được lời mời gọi của ĐHY Phạm Minh Mẫn mới đây về bổn phận học hỏi giáo huấn của Giáo Hội và bổn phận cầu nguyện thật là cấp thiết là chừng nào. Phải chăng khi nhắc nhở đến bổn phẩn cầu nguyện của người Kitô hữu, ngài đã không muốn nói rằng nếu anh muốn làm ngôn sứ, thì trước hết anh phải biết cầu nguyện cho tha nhân, cho những người bách hại chúng ta, và đặc biệt, là anh phải biết sống với Thiên Chúa, diện đối diện với Ngài, để Ngài biến đổi anh, trước khi anh muốn đi lên án và muốn biến đổi người khác. Không ai có quyền đẩy người anh em ra khỏi Nước Trời, nhưng mọi người phải có nghĩa vụ cầu nguyện cho họ. Và một khi đã bắt đầu chân thành cầu nguyện cho tha nhân, thì thái độ thù hận sẽ không còn chỗ đứng, trong đời sống cá nhân nói riêng và cộng đoàn nói chung.
Được sai đi
Một điều quan trọng khác nữa của ơn gọi ngôn sứ, đó là được sai đi. Không có vị ngôn sứ nào trong lịch sử cứu độ mà không được sai đi. Không có ngôn sứ tự thân không cần đến một thẩm quyền nào. Lý luận rằng: qua Bí Tích Rửa Tội, Chúa Giêsu đã trao cho tôi 3 sứ mạng như thế là chưa đủ sao ? Còn ai có thẩm quyền trên Ngài nữa ? Đúng vậy, Chúa Kitô trao cho người Kitô hữu các sứ mạng loan báo và làm chứng cho Triều Đại Thiên Chúa, nhưng Ngài chỉ làm điều ấy qua trung gian của Giáo Hội. Lại một cái nhìn phiếm diện khác nữa, nếu người ta tự cho mình cái ơn ngôn sứ bên ngoài Giáo Hội ! Hành động bên ngoài Giáo Hội hữu hình này thì chẳng khác gì biến mình thành một “ lạc giáo ngôn sứ”. Chắc chắn ĐTC Biển Đức XVI không khích lệ một hình thức ngôn sứ tự mãn như vậy. Chính Ngài đã trích dẫn câu nói của một thần học gia dòng Tên, người Đức, Alfred Delp, câu nói này được viết trong văn mạch nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chiều kích thiêng liêng của cuộc sống, nhưng để trích dẫn ở đây để nói về tầm quan trọng của việc bước theo Chúa Kitô trong Giáo Hội vẫn hoàn toàn đúng: “bánh ăn là quan trọng, tự do thì quan trọng hơn, nhưng điều quan trọng nhất đó là sự trung thành liên lĩ và sự tôn thờ không bao giờ được bội phản” (sđd, p.53).Và Giáo Hội hữu hình này không phải chỉ là một tập hợp những giáo hội lẻ tẻ khác, nhưng nơi nó mang một sự hiêp nhất và hiệp thông sâu xa giữa các thành phần khác nhau trong Giáo Hội. Nó làm nên một thực thể tròn đầy, và hơn bất kỳ đâu khác trong Giáo Hội này, thì người ta mới gặp được Chúa Kitô đích thực. Đó không phải là minh định mới nhất của Bộ giáo lý đức tin về thuật ngữ “subsistit in” đó sao ? Người Kitô hữu hành động như thế không chỉ nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi), nhưng còn nhân danh Giáo Hội nữa (in persona Ecclésiae). Như vậy ơn ngôn sứ hiểu theo một nghĩa nào đó là sống với Thiên Chúa và sống trong Giáo Hội. Đó là thái độ đầu tiên và căn bản vậy.
Cảm thông cùng với Giáo Hội
Qua đó chúng ta thấy tầm quan trọng của việc gắn bó và ở trong Giáo Hội, cảm thông với Giáo Hội là điều hết sức quan trọng. Bước đi cùng Giáo Hội, cảm thông với Giáo Hội đó mới là thái độ căn bản và đầu tiên của người Kitô hữu chứ không phải là thái độ chỉ trích, phê phán, phóng đại, vu khống. Trách nhiệm người Kitô hữu ở đây thật lớn lao, họ có nguy cơ gây gương mù gương xấu cho những người ngoài Kitô giáo, và tệ hơn nữa họ lại gây cớ vấp phạm cho những anh em cùng niềm tin với mình. Phải quay trở về thái độ ngôn sứ căn bản mà ĐTC Biển Đức nhắc đến là điều thiết yếu: diện đối diện với Thiên Chúa. Phải biết cầu nguyện cho tha nhân, dẹp bỏ đi những thù hận, thái độ cực đoan kinh niên lên án người khác. Chúa Giêsu đã từng khiển trách các môn đệ là họ có tinh thần của ai khi rao giảng Tin Mừng ? Cái thái độ muốn lửa từ trời đến thiêu đốt những người không đón tiếp họ, không cùng quan điểm và phưong pháp như họ đó là thái độ phi ngôn sứ.
Tinh thần hiệp nhất và hiệp thông này được thấy rõ nhất trong là thư mới đây của ĐTC gởi cho Giáo Hội Trung Hoa, bên cạnh những lời có tính cách ngôn sứ và có tính cách giáo luật, sự nổi bật trên tất cả đó là lời mời gọi yêu thương, hiệp nhất và hiệp thông nơi Giáo Hội Trung Hoa. Thái độ đối thoại, tôn trọng đó mới thật sự là thái đội ngôn sứ thời nay. Chỉ cần nhìn vào những hoa trái, những thai độ và ngôn ngữ của chúng ta, thì người ta sẽ nhận ra ngay chúng ta đang đấu tranh vì Tin Mừng hay vì lòng hận thù, vì những mưu mô chính trị.
Ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan
Một điều thấy rất rõ nơi các phê phán các Giám Mục, tất cả đều có điểm chung này: không thể hiện sứ mạng ngôn sứ. Những người chống đối hay “góp ý” đều dựa vào đó để lên án các ngài.
Các Giám mục cần thể hiện ơn ngôn sứ, điều đó đúng không hề sai. Nhưng thể hiện ơn ngôn sứ đâu phải là như thế này…như thế nọ…thì mới là có ơn ngôn sứ. Khi thực hành sứ mệnh ngôn sứ, các Giám Mục có đường lối và phương pháp riêng của các ngài, các ngài hiểu đâu là điều tốt nhất cho Giáo Hội trong hoàn cảnh hiện nay. Các ngài chọn một con đuờng khôn ngoan nhất với tất cả trách nhiệm lớn lao của vị mục tử. Đứng ở ngoài thật là dễ dàng để mà nói, nhưng khi ở trong hoàn cảnh của các ngài thì mới có thể hiểu được tất cả những băn khoăn mục vụ. Cần phải có thái độ quảng đại và cảm thông. Vả lại, việc chọn đường lối đối thoại thẳng thắn trong sự tôn trọng đó không phải là thái độ của Chúa Kitô, của Vatican II… ?
Ở đây cũng cần phải chỉ rõ một phiếm diện khác nữa nơi những người đòi hỏi thể hiện ơn ngôn sứ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Bởi vì ơn ngôn sứ có một nền tảng Thánh Kinh và thần học vững chắc, nên họ chỉ biết bám vào đó để phê phán chỉ trích người khác. Thế nhưng trong KinhThánh, ơn ngôn sứ không phải là chiều kích duy nhất, nhưng còn một chiều kích khác không kém phần quan trọng đó là ơn khôn ngoan. Đây cũng là chủ đề xuyên suốt của Kinh Thánh. Ghislan Lafont là người đã nghiên cứu sâu sắc hai chiều kích này của Kinh Thánh trong cuốn sách mang tựa đề “La Sagesse et la Prophétie” ( nhà xuất bản Cerf, 1999). Ông cho thấy trong lịch sử cứu độ có lúc chiều kích ngôn sứ nổi bậc, nhưng lúc khác lại là chiều kích khôn ngoan, nhưng cả hai chiều kích đó không bao giờ được tách rời nhau: “Đã hẳn trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan đan quyện không tách rời nhau. Một số bản văn Kinh Thánh trình bày cho chúng ta Mầu Nhiệm đức tin bằng từ thuật ngữ “chon lựa” và “giao ước”, chúng viết lại các biến cố dưới ánh sáng của Lời, làm sáng tỏ tương lai bằng nhờ ánh sáng của lời hứa. Một số bản văn khác tìm hiểu trật tự của sự việc, giải thích cái đúng và cái sai, mô tả một nghệ thuật sống dưới sự hướng dẫn của Đức tin, và sau hết đi lên cho đến tận sự Khôn Ngoan vĩnh hằng của Ngôi Lời để hiểu thực tai…” (xem phần lời tựa).
Đối với tác giả, “ hai lối tiếp cận này làm phong phú lẫn nhau, dù đôi khi có đối chọi nhau, cho đến chổ lịch sử cứu độ tiến triển. Chúng ta nhận thấy hai lối tiếp cận này trong lịch sử thần học Kitô giáo. Đôi khi, sức mạnh ngôn sứ của lời đức tin lùi bước trước lòng sốt sắng chiêm niệm của ơn khôn ngoan, trong nền thần học này hay nền thần học khác…nhưng vào thời kỳ mà không gian-thời gian được biểu lộ theo cách mới mẻ, và cả vũ trụ cũng như các nền văn minh được đánh dấu bởi những đoạn tuyệt, thì những biến chuyển, tiến hóa, vấn đề về ý nghĩa lại trở nên ngày càng hàm súc. Ở đó có lời mời gọi làm sống lại cảm hứng ngôn sứ của thần học, không chỉ làm nổi bật giá trị lịch sử cứu độ một lần nữa, nhưng còn tìm hiểu ý nghĩa, và dấn thân vào đó, liên quan đức tin và sự hiểu biết, của lịch sử toàn diện, của thời ký lâu dài này, diễn ra từ khi Chúa Kitô phục sinh”.
Như thế để thấy rằng chỉ viện vào ơn ngôn sứ và bỏ qua ơn khôn ngoan để phê phán người khác là hoàn toàn phiếm diện và thiếu trung thực. Cần phải quan tâm đến cả hai trong ơn gọi của người Kitô hữu. Và như Ghislan Lafont ghi nhận có những thời điểm, những bối cảnh lịch sử lúc thì ơn ngôn sứ được đòi hỏi, lúc khác thì lại là ơn khôn ngoan. Và các Giám Mục được Giáo Hội chọn lựa là người biết và có quyền chọn lựa ơn nào thích hợp cho hoàn cảnh nào. Vả lại, phải chăng nơi các ngài hoàn toàn vắng bóng ơn ngôn sứ ? Đôi khi các ngài vẫn có tiếng nói ngôn sứ. Chẳng hạn bức thư củ Hội Động Giám Mục VN gởi cho chủ tịch nuớc Nguyễn Minh Triết, trong đó các ngài đòi hỏi quyền tự do tôn giáo, đòi hỏi cương vị của Giáo Hội trong xã hội cần phải được tôn trọng…, một bức thư như thế hẳn là nặng ký hơn rất nhiều đối với những tiếng kèng la vô hiệu quả của những người phê phán các ngài. Một bức thư như thế phải chăng đã không thể hiện rõ ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan của các ngài rồi sao ? Rồi những lên tiếng đây đó của một số Hồng Y, Giám mục, làm sao chúng ta có thể để cho lòng hận thù làm quên đi điều đó được ? Xét như là một Hội Đồng Giám Mục, các ngài có đường lối khôn ngoan của các ngài, và không ai có thể lèo lái các ngài được.
Những mẫu mực về ơn khôn ngoan
Các ngài đã sống với Thiên Chúa, nhìn vào Chúa Kitô, để cho Ngài hướng dẫn chứ không để cho bất cứ đảng phái hay ý thức hệ nào lèo lái.
Các ngài hẳn đã nhìn thấy sự thất bại của một ngôn sứ Elia mãnh liệt trong lời nói và việc làm, thế nhưng rồi Ngôn sứ Elia cũng đã tìm về sống với Thiên Chúa trong sa mạc trong 40 ngày, ở đó ngôn sứ, diện đối diện với Thiên Chúa, sẽ múc lấy sức mạnh của Đáng Khôn Ngoan vĩnh hằng, ở đó ngài sẽ hiểu rằng ơn ngôn sứ và ơn khôn ngoan “ đan quyện không thể tách rời nhau”.
Các Giám Mục hẳn cũng đã nhìn vào Chúa Giêsu một vị ngôn sứ “đầy uy quyền trong lời nói và việc làm”, nhưng chính Ngài cũng đã từng phải lánh mình đi trước những mưu mô chính trị đang lèo lái Ngài làm vua của họ. Ngài có những thời gian sống diện đối diện với Thiên Chúa là Cha của Ngài. Mọi hoạt động ngôn sứ của Ngài có nền tảng từ đó. Người ta có thể thắc mắc là tại sao trong hoàn cảnh thực tế và cụ thể, nguời dân đang cần đến Ngài, vậy mà Ngài lại lánh đi, “im lặng” ? Đơn giản vì Chúa Giêsu làm chủ con nguời và hành vi của Ngài, chứ Ngài không chạy theo nhưng triết thuyết viễn vông, những mưu mô chính trị hay những đòi hỏi nhất thời. Ngài là vị ngôn sứ biết nhìn vào thực tại và cả tương lai. Đó là sự khôn ngoan của một vị ngôn sứ.
Kinh Thánh và lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhiều khuôn mặt ngôn sứ nổi bật, nhưng cũng không hề thiếu những khuôn mặt khôn ngoan nhưĐức Maria, Thánh Cả Giuse…và biết bao nhiêu khuôn mặt thầm lặng khác đã góp phần quan trọng tột bậc trong sứ mạng rao giảng và làm chứng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
Thay lời kết
Chúng ta hãy biết đặt tin tưởng vào đường lối của Hội Đồng Giám Mục VN, thay vì chỉ trích phê phán phiến diện các ngài, tin rằng qua các ngài Thiên Chúa đã và đang hành đông. Nếu có một sự yếu đuối nào đó, nơi một vị nào đó, thì đó không phải là Hội Đồng Giám Mục VN. Thế nhưng ngay cả trong sự yếu đuối của các ngài, thì Thiên Chúa đã có một chương trình cho Giáo Hội Việt Nam, chúng ta hãy có cái nhìn quảng đại, cảm thông và cầu nguyện cho các ngài. Những kẻ thù của Giáo Hội sẽ mỉm cười vì thấy sự thiếu hiệp thông và tôn trọng các Giám Mục nơi những con người tự xưng là Kitô hữu. Nổ lực đấu tranh cho tự do, quyền và phẩm giá con người sẽ còn lâu mới thấy ngày thành công, nếu chỉ biết chia rẻ mà không biết xây dựng. Nó chỉ làm yếu đi súc mạnh Tin Mừng nơi chúng ta và làm gia tăng lòng thù hận gây thất bại mà thôi. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là “ngôn sứ” của Thầy đó là các con hãy ….”
Tiến Nhân
(Paris, Pháp quốc, Chúa Nhật 26/8/2007)