Bao dung trong Văn Hóa và Huyền Sử Việt Nam
(Empathy and Tolerance in the Vietnamese Culture and Mythology)

Kính thưa Anh Chị Em Đồng bào,
Các bạn trẻ thân mến,

Tôi rất hân hạnh và cảm động được Ban Tổ chức của Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ (*) gọi về tham dự ngày họp mặt, vào mùa hè năm 2008 này. Thêm vào đó, Trung Tâm còn giao phó cho tôi trách nhiệm trình bày và chia sẻ về đề tài “Bao Dung trong Văn Hóa và Huyền Sử Việt Nam”.

Trước tiên, tôi xin thú thật với tất cả quý vị: tôi đang phân vân và lo ngại làm sao tôi có thể trao đổi và điều hợp buổi hội luận một cách nghiêm chỉnh về đề tài nầy, chỉ trong vòng trên dưới một hai tiếng đồng hồ mà thôi. Nói khác đi, làm sao tát cạn được một vấn đề, mà tôi đã học hỏi và nghiên cứu, trong bao nhiêu tháng tháng và năm năm, từ lứa tuổi mới lớn lên cho đến ngày hôm nay?

- Trước hết, từ khi đi vào lứa tuổi “tam thập nhi lập” (khả năng tự lập của tuổi 30),
- Cho đến giai đoạn tiếp theo là “tứ thập nhi bất hoặc”(không còn bị mê hoặc và sai lầm, vào tuổi lên 40)
- Ngang qua giai đoạn thứ ba là “ngũ thập nhi nhĩ thuận” (biết lắng nghe tiếng kêu đau thương của bà con xa gần, sống hai bên cạnh, từ khi tôi đi vào lứa tuổi 50),
- Sau đó, trong giai đoạn thứ tư là “lục thập nhi tri thiên mệnh” (khả năng nhận ra ý định nhiệm mầu của Trời Đất, vào lứa tuổi 60),
- Bây giờ là giai đoạn thứ năm “thất thập nhi tùng tâm” (đi theo tiếng gọi của Con Tim hay là con đường Tình Yêu, từ tuổi 70 trở lên),
- Cho đến một hôm không còn xa bao lăm, tôi sẽ trở thành “cổ lai hy” (con người thiên cổ, hòa mình với cát bụi và phân bón, nhằm tưới tẩm và nuôi sống những mùa màng đang từ từ lớn lên trong lòng của Quê Hương )…

Thay vì trình bày nhiều chi tiết rất quan trọng có mặt trong những giai đoạn hoặc lứa tuổi khác nhau, vừa được đề xuất, bài chia sẻ này chỉ muốn kêu mời quý vị và các bạn hãy cùng tôi khảo sát 3 câu hỏi chính yếu sau đây:

- Câu hỏi thứ nhất: BAO DUNG có nghĩa là gì? Lý tưởng mà chúng ta hướng đến hay là viễn ảnh Bao Dung mà chúng ta khát khao, tìm kiếm và cố quyết thực hiện cho đời mình cũng như cho Anh Chị Em Đồng bào, bao gồm những giá trị then chốt nào?

- Câu hỏi thứ hai: Trong hiện trạng của bản thân và cuộc đời, cũng như trong hiện tình của Quê Hương và Đất Nước Việt Nam, con đường bao dung ấy đang gặp những khó khăn và trắc trở như thế nào? Vì lý do gì?

- Câu hỏi thứ ba: Trên con đường trải dài từ khởi điểm đến tận điểm, chúng ta cần ngày ngày tiến lên những giai đoạn cụ thể như thế nào? Đâu là những động tác cần thiết, mà chúng ta cố quyết thực hiện, ngay bây giờ, với tất cả con tim cũng như trí óc, để trở thành con người có bản sắc bao dung. Nói khác đi, chúng ta không những CHỈ bao dung ở đầu môi chót lưỡi, hay là với những câu nói tuyên truyền láo khoét. Trái lại, con đường Bao Dung cần có mặt,trong từng quan hệ tiếp xúc và trao đổi của chúng ta với anh chị em đồng bào, ở đây và bây giờ, trong giây phút hiện tại của cuộc đời.

***

Phần thứ nhất:
Con đường Bao dung trong cuộc đời làm người của chúng ta


Muốn tìm hiểu ý nghĩa thâm sâu của con đường Bao Dung, trong nền Văn Hóa Việt Nam, theo ý kiến của tôi, nhân vật lịch sử cần được chúng ta qui chiếu một cách đặc biệt, là NGUYỄN TRÃI (3).

Hẳn thực, vào mùa thu năm 1427, sau gần 10 năm kháng chiến chống ngoại xâm, nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi – sau nầy sẽ trở thành Vua Lê Thái Tổ (1428-1433) - đã từ từ lớn mạnh và thu gặt nhiều thắng lợi vẻ vang. Viện quân bao gồm hơn 10 nghìn binh sĩ thiện nghệ, do Minh Triều từ phương Bắc gủi qua, bị phục kích và đánh tan tơi bời, phải rút về khỏi biên giới Đại Việt. Tàn quân còn đóng lại tại Đông Quan hay là Thủ đô Thăng Long (Hà Nội), bị bao vây tứ phía. Rốt cùng, viên tướng chỉ huy quân Minh là Vương Thông phải viết thư cho Lê Lợi xin nghị hòa.

Nghe tin ấy loan ra, toàn thể tướng lãnh, binh sĩ của Đại Việt, cũng như đoàn lũ bô lão, phụ nữ… từ khắp nơi tấp nập kéo nhau về yêu cầu Lê Lợi hãy tàn sát, tận diệt quân Minh, để báo thù cho Tổ Tiên và các Vong Linh đã hy sinh cho Đất Nước, trong vòng suốt 20 năm.

Toàn quân và toàn dân có mặt, đều vái lạy và kêu van: “Xin hãy giết sạch lũ giặc Tàu”.

Trong tình huống ấy, duy một mình NGUYỄN TRÃI, đơn thân độc mã, đã đứng lên đối diện với quần chúng đầy thù hận, can đảm trình bày và đề nghị Con Đường BAO DUNG, với những lời lẽ như sau:

“Trong hoàn cảnh hiện nay, tấn công quân thù và uống máu chúng… thì chả khó khăn gì đối với chúng ta.

Nhưng dự phóng lớn lao phải được xây dựng trên NHÂN NGHĨA và CÔNG CHÍNH.

Nhân đức đầu tiên và cuối cùng của chúng ta là ở chỗ biết bảo toàn các sinh mệnh, để dành cho những viễn cảnh lâu dài và to lớn hơn”. Nói khác đi, một cách dễ hiểu hơn, là mỗi người trong chúng ta – tuyệt đối không một ai bị loại trừ - có trách nhiệm trối lại cho các thế hệ con em của chúng ta sau này, một gia sản hay là một bài học về Lòng Từ Tâm và Bao la, Đại Lượng và Dung Thứ.

Sau lời phát biểu đầy nhân đạo và rộng lượng ấy, NGUYẼN TRÃI đã thinh lặng và LẮNG NGHE, ghi nhận nhiều vấn nạn nổi lên từ mọi phía. Trong số đó, có nhiều lời chỉ trích rất tàn ác và xiên xẹo… Nhiều lời mạ lị rất hèn hạ, lợi dụng cơ hội để bùng nổ và xuất hiện…

Trong cách trả lời của NGUYỄN TRÃI, chúng ta cần ghi nhận những bước đi lên sau đây:

• Thứ nhất, một cách thành tâm, thanh thản và đầy thân ái, Nguyễn Trãi không từ chối hay là phản bác những lý luận của bà con đã được phát biểu. Trái lại, Nguyễn Trãi đã coi trọng và nhìn nhận xúc động của họ. Lòng ước muốn báo thù là một tình cảm tự nhiên và chính đáng, nhất là sau gần 20 năm bị quân Minh tấn công, đàn áp và ức hiếp.

• Thứ hai, bên cạnh nhu cầu báo thù, Nguyễn Trãi đã GÂY Ý THỨC cho mọi người nhìn thấy rằng họ còn có những nhu cầu làm người cao cả, trọng đại và lâu bền hơn. Nhu cầu báo thù sẽ bùng lên và vụt tắt như ngọn lửa rơm. Trái lại, chúng ta cần phát huy lòng nhân từ và khoan hậu, để xây dựng một Đất Nước trường tồn, trọng đại và cao cả. Một Đất Nước Vạn Xuân. Một Đất Nước Đại Việt, ngày ngày biết vươn mình lên thấu tận Bầu Trời là quê hương đích thực của Mẹ Âu Cơ.

• Thứ ba, Nguyễn Trãi kêu mời mỗi người con của đất nước Đại Việt hãy ngày ngày tưới tẩm hạt mầm hòa bình và nhân đạo trong quả tim, để từ ngay bây giờ có thể trối lại cho các thế hệ tương lai một bài học “làm người” được cô động một cách tuyệt diệu, trong hai vần thơ sau đây:

Lấy ĐẠI NGHĨA mà thắng hung tàn,
“Đem CHÍ NHÂN mà thay cường bạo
”.

***

Phần Thứ Hai:
Những chướng ngại lớn lao trên con đường Bao Dung

(Bốn loại tinh yêu ma quái trong lòng Đất Nước)

Qua vài ba câu nói vắn gọn của bài Bình Ngô Đại Cáo vừa được trình bày trên đây, Nguyễn Trãi đã nhắc lại cho mỗi người trong chúng ta bài học “BAO DUNG, ĐỒNG CẢM, CHIA SẺ”, đã có mặt trong Huyền Sử và Văn Hóa Việt Nam, từ ngày Lập Nước, cách đây hơn 4000 năm. Bài học “LÀM NGƯỜI” ấy đặt nền móng trên những giá trị như Đại Nghĩa và Chí Nhân, Từ Tâm và Thứ Tha, Cao Thượng và Bất Bạo Động, Tôn Trọng Sự Sống của muôn loài muôn vật và muôn người trong Trời Đất.

Phải chăng từ ngày môi miệng còn thơm mùi sữa của Mẹ, mỗi người trong chúng ta đã biết líu lo và bập bẹ những bài ca dao nói về lòng Bao Dung:

- “Nhiễu điều phủ lấy gia gương,
“Người trong một Nước hãy thương nhau cùng”.
- “Bầu ơi thương lấy Bí cùng,
“Tuy rằng khác giống, cùng chung một giàn”.
- “Một miếng khi đói bằng một đọi khi no”.

Hẳn thực, Bao dung là con đường tất yếu của những ai mang danh hiệu là con Rồng cháu Tiên. Mẹ của chúng ta là Bà Âu Cơ. Quê Hương của Mẹ là Bầu Trời Cao Cả và Đại Lượng. Cha của chúng ta là Lạc Long Quân. Quê Hương của Ngài là Biển Cả Mênh Mông, là Đại Dương Bao La và Bát Ngát. Nhờ Tình Thương âu yếm của hai người Cha Mẹ đầu tiên ấy, chúng ta đã được cưu mang cùng một lúc, trong một bào thai duy nhất. Cho nên từ ngày ấy cho đến nay, chúng ta có tập tục gọi nhau là Anh Chị Em Đồng Bào.

Trong tinh thần và lăng kính ấy, con đường hay là quan hệ Bao Dung bao gồm ba chiều kích quan trọng, trong BẢN SẮC “Làm Người” của người Việt Nam:

• Chiều kích thứ nhất là Trời, Quê Hương của Mẹ chúng ta. Trời ở đây không phải chỉ là một ý niệm hoàn toàn lý thuyết, trừu tượng và duy tâm. Trời là Nguồn Gốc, là nơi xuất phát của chúng ta. Hẳn thực, khi Mẹ Âu Cơ cưu mang chúng ta trong cung dạ, Mẹ đã rót vào trong quả tim của chúng ta, dòng máu của Trời. Trời có mặt trong các bài ca dao và tục ngữ, mà mẹ đã hát lên, để ru chúng ta ngủ lúc chiều tối. Trời là Ngôi Nhà để chúng ta trở về, sau một cuộc đời lam lũ, chân lấm tay bùn, lên đồng cạn xuống đồng sâu. Mẹ đã ôm ấp chúng ta thế nào trong những ngày tấm bé, thì chúng ta cũng bắt chước Mẹ, mở rộng hai cánh tay, để sẵn sàng đón nhận mọi người anh chị em xa gần, tản mác khắp năm châu bốn bể, nhất là những ai đói rách, một ngày chưa có một loong gạo để lót lòng. Bài học đầu tiên của chúng ta phải chăng là “tứ hải giai huynh đệ”, bốn biển một nhà?

• Chiều kích thứ hai là Đất, Quê Hương của Người Cha chúng ta. Đất ở đây là Nước Non, Núi Rừng, Biển Cả mênh mông. Đất ở đây có nghĩa là “Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế cư”, trong bài Hịch Tướng Quân của Lý Thường Kiệt, trước khi lên đường đánh tan quân Nguyên. Đất được coi trọng, trong lời nhắn nhủ “bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu”. Cho nên chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ và gìn giữ. Không ý thức về chiều kích thứ hai nầy, chúng ta sẽ là những tên phản bội “rước voi về dày mả tổ”. Phải chăng Lời của Tổ Tiên còn vang vọng rõ nét trong đáy lòng sâu thẳm của chúng ta “Con không Cha là Nhà vô phúc”? Con không Cha ở đây có nghĩa là: con không tiếp tục con đường đi của Người Cha, hay là con không “Minh Minh Đức”, không ngày ngày đánh sáng Đức Sáng của Cha Ông và Tổ Tiên, trong chính bản thân mình..

• Chiều kích thứ ba là Người, là Nhân, có nghĩa là Anh Chi Em Đồng Bào, cùng có mặt với nhau trong một Bào Thai của Mẹ. Nói cách khác, chiều kích thứ ba là những quan hệ qua lại hai chiều – yêu thương, đùm bọc, tha thứ - giữa Anh Chị Em Đồng Bào với nhau, cũng như giũa chúng ta và những người khách nước ngoài đến thăm viếng, làm việc và cư ngụ trên Quê Hương của chúng ta:

Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến,
“Vun trồng cây ĐỨC, nuôi con ăn
”.

Nói tóm lại, Bao Dung bao gồm 3 gíá trị và ý nghĩa làm người sau đây:

Thứ nhất là Nhân Đạo, Đạo Làm Người,
Thứ hai là Tình Nghĩa keo sơn gắn bó giữa Anh Chị Em Đồng Bào,
Thứ ba là Nhân Đức và Đức Độ, Đại Lượng và Thứ Tha, khi một người Anh Chị Em có những lỗi lầm, sai trái lớn hay là nhỏ… đối với chúng ta.
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung sẽ nhường bước cho Vô Thần, Vô Tổ Quốc, Vô Đạo và Vô Nhân.
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung chỉ là tuyên truyền, láo khoét,
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung chỉ là huynh đệ tương tàn, bạo động, chiến tranh, mồ chôn tập thể và Đại lộ Kinh Hoàng…
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung sẽ bị tiêu diệt. Thay vào đó, chỉ còn lại một thứ luật rừng man rợ như: “Cá lớn nuốt cá bé”, hay là “gà một nhà bôi mặt đá nhau”…

Trong những ngày đầu tiên, trên những nẻo đường của Quê Hương, khi đi thăm viếng con cái tản mác khắp đó đây, Lạc Long Quân đã phải đối đầu với ba loại “tinh yêu ma quái” mà tôi vừa phác họa. Yêu Tinh là những quái vật, mang mặt người bên ngoài. Nhưng bên trong, với một tâm hồn tàn bạo, chúng nó tìm mọi cách để gieo tang tóc và đau thương. Chúng nó hủy diệt mọi loại quan hệ Bao Dung giũa Anh Chị Em Đồng Bào ruột thịt:

• Loại Yêu Tinh thứ nhất là Mộc Tinh. Đây là một loại cây chiên đàn không gốc, không rễ, không lá, không hoa và không có trái. Chúng nó có mặt trên những nẻo đường quanh co và hoang vắng, để đe dọa khách qua đường và đòi hỏi những người “yếu vía” phải sụp lạy, dâng cúng tiền của, vàng bạc. Theo cách thuyên giải của tôi, đó là những người lạm dụng quyền lục và chức tước, để thực thi những hành động bất chính như hối lộ, mua bán bằng cấp, địa vị…Sau cùng, những con Mộc Tinh nầy tìm mọi mánh khóe chính trị, để bán đứng Quê Hương cho ngoại bang, cho đế quốc thực dân, từ Âu Tây như Mỹ và Pháp, cũng như từ phía Bắc như Nga Sô và Trung Cộng…

• Loại Yêu Tinh thứ hai mang tên là Ngư Tinh, có nghĩa là “con Cá ăn thịt người”. Thay vì nuôi sống Anh Chị Em Đồng Bào, loại Ngư Tinh nầy chỉ nhả ra trong môi trường sinh thái của Quê Hương, nhiều loại độc tố, làm ô nhiễm những quan hệ giữa người với người, như chia rẽ hận thù giữa ba Miền Nam, Bắc Trung, giữa tôn giáo nầy với tôn giáo khác, giữa miền núi và vùng đồng bằng…

• Loại Yêu Tinh thứ ba có danh hiệu là Hồ Tinh. Đây là những con chồn lưu manh hay là những con cáo độc ác. Ban ngày, chúng nó ẩn núp trong những hang động u tối và quanh co. Ban đêm, mang mặt nạ người, chúng nó đi vào trong các khu phố hoặc thôn xóm đông dân cư, để bắt cóc đàn bá và con nít, đem về hãm hiếp hay là lạm dụng, dưới nhiều hình thức khác nhau.

• Loại Yêu Tinh thứ tư đã từ từ xuất hiện trên những nẻo đường của Quê Hương, sau khi Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ từ giã Cõi Đời nầy. Đó là hai con Yêu Tinh “Sơn Tinh và Thủy Tinh”. Thực ra, trước khi trở thành Tinh Yêu, Sơn và Thủy là Anh Em ruột thịt. Cả hai đều có tài năng xuất chúng. Tuy nhiên, theo lời nhận xét của Thi Sĩ Nguyễn Du, “Chữ Tài liền với chữ Tai một vần”, bởi vì trong tâm hồn, không có Thiện Căn, không có Ánh Sáng và Hơi Ấm của Trời. Khi hai con Yêu Tinh nầy đối đầu với nhau, chỗ ấy nảy sinh ra xung đột và hận thù, bạo động và chiến tranh, chết chóc và lầm than. Trong Lịch Sử của Nước Nhà, hai con Yêu Tinh nầy đã một thời gây ra tai nạn Nam Bắc phân tranh, biên giới Sông Gianh, Vĩ Tuyến 17.

Sau hơn bốn nghìn năm văn hiến, kể từ ngày Lạc Long Quân lập Nước và dựng Nước, bốn hiểm họa trên đây không bao giờ nhạt nhòa và tàn phai. Bốn con Yêu Tinh trên đây càng ngày càng lớn mạnh. Vào Thời Đại Nghìn Năm Thứ Ba, bốn con Yêu Tinh ấy đã len lõi nằm vùng, trong đáy sâu quả tim của tất cả mọi người chúng ta, không trừ sót một ai, đối với người Việt Nam ở trong Nước cũng như đối với người Việt Nam sinh sống ở Nước Ngoài. Chúng ta đã tiếp thu, hội nhập và phát huy thế nào bài học Bao Dung của Cha Ông và Tổ Tiên? Quí vị và quí bạn đã và đang giải quyết thế nào vấn nạn ấy, cho chính mình, cho người khác và nhất là cho con cháu và các thế hệ giới trẻ trong tương lai?

***

Phần Thứ Ba:
Chuyển biến những Chướng Ngại lớn lao trên con đường BAO DUNG của chúng ta?


Trong phần vừa rồi, tôi đã cố gắng liệt kê một cách can đảm và vắn gọn, nhưng khá đầy đủ và trung thực, những vấn đề xảy ra, khi hai người Việt Nam sống chung và làm việc với nhau. Một cách đặc biệt trong môi trường chính tri và xã hội.

Trong phần thứ ba còn lại nầy, tôi không có tham vọng hảo huyền là đề nghị từ ngoài hay là trình bày từ trên, phương thức hóa giải những vấn đề bế tắc của chúng ta. Mỗi người ở trong cũng như ngoài Nước có trách nhiệm khám phá Con Đường Bao Dung cho bản thân và cuộc đời trưởng thành của mình. Phần tôi, trong khuôn khổ của một bài chia sẻ, tôi chỉ muốn bập bẹ và cưu mang một Giấc Mơ Luyện Vàng, trong đáy sâu của tâm hồn.

Trong giấc mơ ấy, tôi thấy trước mặt tôi, hai người Việt Nam như hai hình tròn không đồng tâm, đứng tách rời và biệt lìa ra khỏi nhau, không có một vùng giao tiếp với nhau, cho dù nho nhỏ, rất nhỏ, nhỏ như một chấm hay là một phết.

Nhìn xong, tôi ngồi xuống khóc nức nở, khóc lớn tiếng, khóc như một trè thơ và không biết phải làm gì, để cho hai vòng tròn có thể gặp nhau.

Chính lúc ấy, Mẹ Âu Cơ hiện hình, dạy tôi đưa ra hai tay, cầm hai vòng tròn, từ từ đem lại gần nhau và tạo ra một vùng tiếp cận hay là tiếp giáp. Theo lời giải thích của Mẹ, bao lâu hai anh chị em, cho dù ruột thịt đến độ nào chăng nữa, chưa có một vùng tiếp cận còn gọi là vùng trung gian hay là vùng học tập ở giữa, hai người không thể cùng nhau thực hiện từng bước Con Đường Bao Dung Với Nhau, Nhờ Nhau và Cho Nhau.

Sau đó, Mẹ Âu Cơ cứ nhấn mạnh lui tới một nhận xét: Hai người Anh Chị Em Đồng Bào, tự bản chất làm người, phải KHÁC BIỆT đối với nhau, giống như TRỜI và BIỂN. Nhờ những nét khác biệt ấy, hai người mới có cơ may BỔ TÚC, ĐÓNG GÓP và KIỆN TOÀN cho nhau, làm nên những ĐẠI SỰ cho bản thân và cuộc đời, cho Quê Hương và cho Nhân Loại.

Ánh mắt con là cả một Bấu Trời,
“Bàn tay con huyền nhiệm thấu tầng mây,
“Bước chân con gieo Hạnh Phúc cho Đời,
“Quả tim con là nguồn suối không bao giờ cạn vơi
”.

Cho nên, hỡi con, để sáng tạo Con Đường Bao Dung, con hãy lắng nghe Trời, lắng nghe Đất, lắng nghe Biển Cả, lắng nghe Núi Sông. Tất cả là Bài Học Vô Tận. Tất Cả là Tiếng Nói của Tình Thương. Tất cả là GIA SẢN của Cha Ông và Tổ Tiên…

NB.- Xin kết thúc với bài hát Hãy gọi Biển về trong “Người Em Việt Nam,
Thơ: Nguyễn Văn Thành, Ân Đức Nguyễn Ngọc Hoan phổ nhạc.

Bí Chú (*): Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ, 13 g rue de l’Ill –
F.67116 Reichstett, France.
Thời gian họp mặt: từ chiều thứ 6 29 tháng 08 năm 2008 đến tối
Chủ nhật ngày 31 tháng 08 năm 2008.
Địa điểm họp mặt: Maison Notre Dame du Chant d’Oiseau
3-A, Avenue des Franciscains
1150 – Bruxelles, Belgique

Sách Tham Khảo:
1.- NGUYỄN Văn Thành - Nguyễn Trãi (1380-1442) - Định Hướng, France 2001
2.- NGUYỄN Văn Thành - Huyền Sử Việt Nam - Tủ Sách Tình Người, Lausanne 2008
3.- FERAY Yv. – Dix Mille Printemps – Piquier, Arles 1996
4.- NGUYỄN Văn Thành - Đường vào Nội Tâm - Tình Người Xuân 1997
5.- NGUYỄN Văn Thành - Sơn Tinh và Thủy Tinh - TN, Mùa Thu 2003
6.- NGUYỄN Văn Thành - Đồng Cảm để Đồng Hành - TN, Xuân 2003
7.- NGUYỄN Hữu Sơn - Nguyễn Trãi - NXB Giáo Dục, Hà Nội 2000