“Chúng ta có chính nghĩa sáng ngời” [1]. Câu nói này vừa nghe quen quen nhưng cũng vừa nghe có vẻ là lạ. Quen, vì ở thế kỷ XX lúc tranh sáng tranh tối của thời cuộc, những kẻ thời cơ đã gieo vào lòng dân tộc Việt Nam những câu nói đại loại như câu nói trên. Lạ, vì nhân loại đã bước vào ngàn năm thứ 3 rồi mà vẫn có những kẻ “hùng hồn” nói ráo hoảnh những cụm từ trên mà không hề có một chút ngượng miệng.
Đối với những ai đã từng trải qua, từng sống ở những nước XHCN nói chung, ở Việt Nam nói riêng, thì họ đã nghe quá quen hai từ “chính nghĩa” này. “Chính nghĩa” này người đầu tiên ở Việt Nam “hô hoán” lên không phải là ai khác mà chính là “tổ phụ/giáo chủ” của ĐCSVN, Nguyễn Sinh Cung và sau nhiều lần thay tên đổi họ cuối cùng có cái tên là Hồ Chí Minh như thường được gọi hiện nay.
Vào tháng 07 năm 1920, Hồ Chí Minh đã bắt gặp và đọc được bản viết của Lê-nin có tựa đề: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” (Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 10. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.127), và kêu lên rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin” (Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 2. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.268).
Từ sự ngộ nhận về chủ nghĩa “chân chính nhất” này, Hồ Chí Minh đã ra sức truyền bá chủ nghĩa này vào Việt Nam. Trong bối cảnh mà ở Việt Nam lúc đó có hàng loạt các phong trào yêu nước đang hoạt động mạnh mẽ, Hồ Chí Minh đã khôn khéo, ma mãnh “ký sinh” chủ nghĩa này một cách tinh vi vào các phong trào yêu nước, vào lòng tự tôn dân độc của người dân Việt Nam, đồng thời thủ tiêu hoặc chỉ điểm những người không cùng “tuyến” hoặc là “rào cản” cho sự truyền bá chủ nghĩa này (xem Sự thật về Hồ Chí Minh http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=3766&Itemid=503). Thậm chí, nếu cần Hồ Chí Minh còn sẵn sàng “đốt cháy cả dãy trường sơn” để đạt được mục tiêu và mưu đồ bá quyền của mình.
Theo chân “thầy chí thánh” của mình, các tín đồ của chủ nghĩa “chân chính nhất” này đã vồ vập và cuồng tín đi theo và truyền bá nó. Hãy nghe Tố Hữu, một trong những tín đồ cuồng tín nhất, nói khi ông gặp được chủ nghĩa này:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim…”
Cũng chính “từ ấy” “mặt trời chân lý” này thay vì “chói” mà “trói” Tố Hữu và biến ông thành kẻ bồi bút, bán miệng nuôi trôn giống như bao tín đồ khác của CNCS.
Nhờ biết khôn khéo ký sinh vào lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của người dân Việt Nam và cùng với đội ngũ tín đồ cuồng tín và cực đoan, Hồ Chí Minh đã dần đưa thứ “chủ nghĩa chân chính nhất” này vào lòng dân tộc Việt Nam và gây không biết bao nhiêu tai ương cho dân tộc này. Nhiều người dân Việt Nam ngây thơ đã bị đầu độc nên đã chạy theo chủ nghĩa này lúc nào mà không hay biết. Họ đã vô tình trở thành lực lượng cướp quyền lực cho Hồ Chí Minh và trở thành bia đỡ đạn sống cho Hồ Chí Minh cũng như cho các “môn đồ” hay đồng đảng của Hồ Chí Minh trong suốt 80 năm qua với 4 cuộc chiến tranh tương tàn và ngày nay do bị “đầu độc” quá nặng, nên nhiều người vẫn chưa tỉnh ngộ vẫn còn đang là “thành trì” bảo vệ quyền lực cho cộng sản ở Việt Nam mà không hề hay biết.
Từ khi cái chủ nghĩa được gọi là “chân chính nhất” mà Hồ Chí Minh rước về và áp đặt ở Việt Nam, thực tiễn lịch sử cho thấy không thấy tính chân chính của nó ở chỗ nào mà chỉ thấy tội ác và tai hại mà thôi. Những tai ương mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng trong suốt 80 năm qua là không thể kể xiết. Bao nhiêu máu đổ, bao nhiêu tội ác “trúc lam sơn” không thể ghi hết. Nhân loại đã phải rùng mình khi nghĩ về chủ thuyết cộng sản và hậu quả của nó trong thế kỷ qua. Các riêng, những ai đã phải sống ở Việt Nam trong thế kỷ XX không khỏi rùng rợn “nổi gai ốc” khi nhắc đến từng dấu chấm thời gian, từng năm tháng trong thế kỷ này, đặc khi khi “chủ nghĩa chân chính nhất” này ở thời điểm “hoàng kim” của nó, như thời đấu tố địa chủ/trí thức, thảm sát Mậu thân, Mùa xuân 1975, thời đánh tư sản, chạy trốn cộng sản (thuyền nhân) và thời kỳ bao cấp/tem phiếu/tập thể hóa v.v.
Mừng thay, cái “chủ nghĩa chân chính nhất” này đã bị nhân loại vứt vào sọt rác lịch sử; cái nôi, cái thành trì của nó đã bị sụp đổ hoàn toàn không một tiếng súng, không kèn không trống, cách đây hai thập niên rồi. Thêm vào nữa, hy vọng nhờ ánh sáng văn minh của nhân loại ở thế kỷ XXI, những người còn đang mê muội, mù quáng tôn thờ “chủ nghĩa chân chính nhất” này còn rơi rớt ở một số dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam, sẽ dần sáng mắt ra mà từ bỏ cái chủ nghĩa chết người này, sẽ thôi không làm “kim chỉ nam” nữa, sẽ không đòi “vạn tuế, vạn vạn tuế” (ĐCSVN quang vinh muôn năm) nữa mà trả lại cho người dân những quyền làm người, trả lại đất nước cho người dân.
Ngoài ra, kẻ nào mù đi nữa cũng nhận thấy rằng cái chủ nghĩa chết người này đã và đang làm cho dân tộc Việt Nam trở lên nghèo đói, lạc hậu vào bậc nhất thế giới, các nước xung quanh có cùng xuất phát điểm như dân tộc Việt Nam nay đã tiến xa hàng thế kỷ so với Việt Nam, tham nhũng, tệ nan, thiếu tự do, mất dân chủ cũng vào bậc nhất thế giới (xem http://www.x-cafevn.org/node/309), nhân dân đi làm nô lệ và bị đày đọa ở xứ người khắp nơi trên thế giới ( xem http://vietbao.vn/Doi-song-Gia-dinh/Lao-dong-Viet-Nam-keu-cuu-tai-Malaysia-Mang-con-bo-giua-cho-nguoi/45205302/111/ ), phụ nữ, trẻ em xếp hàng bán mình, làm nô lệ tình dục cho ngoại quốc như những món hàng, như những con vật đem đi bán ngoài chợ ( xem http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=3833&Itemid =311 và ( http://vietbao.vn/Doi-song-Gia-dinh/Tham-canh-co-dau-Viet-tren-dat-Han-Bai-1-Com-nguoi-kho-lam-me-oi/45250817/111/> ), người dân bị bóc lột, đánh đập trên chính quê hương của mình bởi các ông chủ ngoại quốc (xem http://www.vietnamnet.vn/xahoi/2009/06/854202/ và (http://vietbao.vn/Xa-hoi/Giam-doc-Han-Quoc-danh-trong-thuong-nhan-vien-nguoi-Viet/10720163/157/ )..., thì những kẻ tự cho mình là “sáng”, là “đỉnh cao trí tuệ của loài người” thì ắt hẳn sẽ dễ dàng nhận ra điều đó.
Hơn nữa, trong thời hội nhập, những người đứng đầu “đỉnh cao trí tuệ loài người” này đã được đi đến nhiều nước văn minh, nhìn thấy tận mắt những người dân của họ được sống trong cảnh thịnh vượng, sung túc, bình an, được hưởng trọn vẹn quyền làm người, quyền dân chủ, được đi cả “lề phải” lẫn “lề trái”…, thì chắc chắn những “đỉnh cao trí tuệ loài người” này sẽ biết xấu hổ khi chìa tay bắt tay với các nhà lãnh đạo của các dân tộc văn minh; biết nhìn nhận lại “chủ nghĩa chân chính nhất” đang áp đặt, đè nặng lên dân tộc mình; biết nhục nhã khi mở miệng, xòe tay cúc cung van lạy xin bố thí từ các dân tộc khác trên thế giới. Thêm vào nữa, các vị “đỉnh cao trí tuệ loài người” này đi đến đâu đều hứa hẹn, cam kết, thề thốt với thế giới văn minh là khi về nhà sẽ “thay đổi” để phù hợp với chuẩn mực văn minh của nhân loại.
Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam có nhiều du học sinh đang theo học ở nước ngoài, mà toàn học ở các nước đại tư bản, hiếm hoặc hầu như không có du học sinh nào học tập ở các nước XHCN “anh em” như “chí phèo” thời đại mới – Bắc Hàn hay Cuba v.v. Dẫu rằng những du học sinh này đều là “con ông cháu cha” (nhân dân thường gọi là con ông bà “tư bản đỏ”), sau khi học tập ở các nước tư bản về, những vị con ông cháu cha này sẽ “kế vị” các chức vụ của cha mẹ mình, nhưng nhờ được hấp thụ nền văn minh, dân chủ và tư do của các nước tư bản, các nước văn minh qua quá trình sống và học tập trong môi trường này, thì có thể lạc quan nghĩ rằng những du học sinh này sẽ dần thay hoặc từ bỏ “chủ nghĩa chân chính nhất” mà cha mẹ họ đang tôn thờ.
Từ những lý do trên, tất cả những ai có tinh thần lạc quan đều có thể hy vọng vào sụ tự thay đổi từ bên trong những người đang theo đuổi cái “chủ nghĩa” chết người nói trên, nhờ đó sẽ có một Việt Nam dần dễ thở hơn và dân tộc Việt Nam sẽ dần hồi sinh.
Đáng tiếc, do cố chấp, mù quáng, cùng với ma lực của quyền lực sẵn có trong tay và đặc lợi, đặc quyền kinh tế, và nhu nhược không dám đối diện với sự thật, CSVN đã quyết bám lấy “chủ nghĩa” chết người này bằng mọi thủ đoạn. Những kẻ tự cho mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người” này đã đeo mặt nạ và găng tay để che đi sự nhem nhuốc, ác độc, máu me của mình khi bắt tay với các dân tộc văn minh trên thế giới, về nhà chúng tháo mặt nạ và găng tay ra, trở lại với bản chất thực của chúng. Chúng qùy mọp xin bố thí từ các quốc gia khác mà không hề biết nhục nhằn là gì. Những đứa con của chúng đi du học, nhưng thực ra thay vì học hoặc học cái tốt đẹp, thì những đứa trẻ này chỉ biết ăn chơi trác táng và phung phí tiền bạc của cha mẹ chúng nhờ đục khoét, vơ vét, cướp bóc từ người dân và từ tài nguyên của đất nước…mà có, và học cái cặn bã của nước ngoài, về nhà “mèo vẫn hoàn mèo”, rồi tiếp quản cái ghế của cha mẹ chúng đã được dọn sẵn cho chúng. Để rồi từ cái “chủ nghĩa chân chính nhất” như giáo chủ của CSVN đã gào lên và gieo rắc vào Việt Nam, thì nay môn đồ và hậu duệ “phát triển” thành “chính nghĩa sáng ngời”.
Để bảo vệ “chính nghĩa sáng ngời” này, CSVN đã cho xây dựng những thành quách kiên cố. Thành quách này gồm hai lớp: Điều 4, Hiến pháp nhà nước XHCN (xem Hiến pháp nước CHXNCNVN năm 1992. Nxb Chính trị quốc gia-2005-Bản sửa đổi) và Điều 88 Bộ luật hình sự (xem Bộ luật hình sự của nước CHXNCNVN số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999). (Chỉ cần bỏ đi một lớp thành quách nói trên, CSVN đã nhìn thấy ngày tận số của “chính nghĩa sáng ngời” rồi, đúng như lời nói nổi tiếng của Nguyễn Minh Triết: “Bỏ Điều 4 Hiến pháp đồng nghĩa với việc chúng ta tuyên bố tự sát” [2]). Bên cạnh đó, còn có cả một đội ngũ “bảo kê” hùng hậu: công an và quân đội được trang bị vũ khí tận răng, khi cần còn huy động cả “quần chúng nhân dân tự phát…tiền” (xã hội đen)[3] để bảo vệ thành trì này. Ngoài ra, CSVN còn không ngừng xây dựng một hệ thống giáo dục và tuyên truyền nhồi sọ một chiều với đội ngũ bồi bút bán miệng nuôi trôn hùng hậu ngày đêm suy tôn và đánh bóng “chính nghĩa sáng ngời” càng thêm “sáng ngời” hơn nữa!
Người dân Việt Nam rất hiền lành và vị tha. Dù tội ác của CSVN đã gây ra trong quá khứ như thế nào đi nữa, nếu CSVN biết quay đầu về với dân tộc, từ bỏ con đường tà ác xưa nay, chắc chắn người dân Việt Nam sẽ tha thứ cho. Nhưng nếu còn quyết bám víu vào cái ngụy “chính nghĩa” này mà gây thêm tội ác thì CSVN sẽ không còn đất dung thân. Đáng tiếc, CSVN không những không từ bỏ ngụy “chính nghĩa” này mà còn mạnh mẽ hô to: “Chúng ta có chính nghĩa sáng ngời” một cách công khai, vô liêm sỉ.
Khốn thay cho CSVN, đã có biết bao nhiêu cơ hội, bao điều kiện để chúng từ bỏ đường tà mà trở về với chính nghĩa thực, về với dân tộc; nhân dân đã cho chúng quá nhiều thời gian để cải tà, nhưng chúng không những đã khước từ mà còn cố chấp và làm cho con đường tà ngụy của chúng thêm tệ hơn. Tòa án công lý của nhân dân đang được dựng lên khắp nơi. CSVN phải trả lời trước người dân về những tội ác chúng đã gây ra, đã làm với đất nước, với dân tộc này; và phải chịu bản án thích đáng trước tòa án công lý!
Ghi chú
[1] Ngày 17/06/2009, Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước CHXHCNVN, tại buổi lễ kỷ niêm 50 năm ngày thành lập trường Học viện Ngoại giao đã có một bài diễn văn hùng hồn trước đám đông cử tọa, bao gồm một số cán bộ cao cấp của ĐCSVN, đại diện ngoại giao và các sinh viên của Học viện này. Sau đó, một số đoạn của bài phát biểu này đã được các báo đài “lề phải” loan tải, công bố rộng rãi.
Trong bài diễn văn có đoạn: “Cái sức mạnh của Việt Nam á, nước ta là một nước yếu,... Trên lĩnh vực này chúng ta không có bị động đâu, chúng ta phải luôn luôn chủ động. Chúng ta là có chính nghĩa sáng ngời, chúng ta từng là nước bị thực dân, đế quốc đô hộ, chúng ta đấu tranh để giải phóng dân tộc để dành lại quyền con người. Còn các thế lực thù địch chà đạp lên quyền con người, không những là trước đây mà hiện nay nữa họ còn đem bom đạn, đem quân đội, gieo rắc đau thương tang tóc hết nơi này đến nơi khác. Nhưng mà dì (vì) họ có tiền, họ mạnh hơn cho nên họ lớn tiếng nói họ nhân quyền chứ thực ra là họ vi phạm nhân quyền nhất thế giới”. (Xem thêm http://tiengnoitudodanchu.org/modules.php?name=News&file=print&sid=7701).
[2] Ngày 27/08/2007, Chủ tịch nước CHXNCNVN Nguyễn Minh Triết đã đến làm việc và nói chuyện để “lên dây cót tinh thần” cho các sỹ quan thuộc Tổng cục chiến tranh chính trị của quân đội nhân dân Việt Nam. Trong bài nói chuyện của mình, Nguyễn Minh Triết nói rằng quân đội được thành lập là “để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và trong đó ông nhấn mạnh “bỏ điều 4 Hiến pháp đồng nghĩa với việc chúng ta tuyên bố tự sát”.
[3] Thời gian vừa qua CSVN liên tục có các hành vi cướp bóc trắng trợn cả ngày lẫn đêm các cơ sở tôn giáo. Trong đó phải kể đến 3 vụ điển hình gần đây nhất là vụ Thái Hà, vụ Tòa Khâm Sứ và Tam Tòa-Vinh. Bên cạnh lực lượng cảnh sát và chó nghiệp vụ, CSVN còn huy động một loạt các kẻ côn đồ, du côn du đãng, nghiện hút đến tấn công các giáo dân khi họ cầu nguyện để đòi sự thật, đòi công lý và đòi quyền làm người.
Đối với những ai đã từng trải qua, từng sống ở những nước XHCN nói chung, ở Việt Nam nói riêng, thì họ đã nghe quá quen hai từ “chính nghĩa” này. “Chính nghĩa” này người đầu tiên ở Việt Nam “hô hoán” lên không phải là ai khác mà chính là “tổ phụ/giáo chủ” của ĐCSVN, Nguyễn Sinh Cung và sau nhiều lần thay tên đổi họ cuối cùng có cái tên là Hồ Chí Minh như thường được gọi hiện nay.
Vào tháng 07 năm 1920, Hồ Chí Minh đã bắt gặp và đọc được bản viết của Lê-nin có tựa đề: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” (Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 10. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.127), và kêu lên rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin” (Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 2. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.268).
Từ sự ngộ nhận về chủ nghĩa “chân chính nhất” này, Hồ Chí Minh đã ra sức truyền bá chủ nghĩa này vào Việt Nam. Trong bối cảnh mà ở Việt Nam lúc đó có hàng loạt các phong trào yêu nước đang hoạt động mạnh mẽ, Hồ Chí Minh đã khôn khéo, ma mãnh “ký sinh” chủ nghĩa này một cách tinh vi vào các phong trào yêu nước, vào lòng tự tôn dân độc của người dân Việt Nam, đồng thời thủ tiêu hoặc chỉ điểm những người không cùng “tuyến” hoặc là “rào cản” cho sự truyền bá chủ nghĩa này (xem Sự thật về Hồ Chí Minh http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=3766&Itemid=503). Thậm chí, nếu cần Hồ Chí Minh còn sẵn sàng “đốt cháy cả dãy trường sơn” để đạt được mục tiêu và mưu đồ bá quyền của mình.
Theo chân “thầy chí thánh” của mình, các tín đồ của chủ nghĩa “chân chính nhất” này đã vồ vập và cuồng tín đi theo và truyền bá nó. Hãy nghe Tố Hữu, một trong những tín đồ cuồng tín nhất, nói khi ông gặp được chủ nghĩa này:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim…”
Cũng chính “từ ấy” “mặt trời chân lý” này thay vì “chói” mà “trói” Tố Hữu và biến ông thành kẻ bồi bút, bán miệng nuôi trôn giống như bao tín đồ khác của CNCS.
Nhờ biết khôn khéo ký sinh vào lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của người dân Việt Nam và cùng với đội ngũ tín đồ cuồng tín và cực đoan, Hồ Chí Minh đã dần đưa thứ “chủ nghĩa chân chính nhất” này vào lòng dân tộc Việt Nam và gây không biết bao nhiêu tai ương cho dân tộc này. Nhiều người dân Việt Nam ngây thơ đã bị đầu độc nên đã chạy theo chủ nghĩa này lúc nào mà không hay biết. Họ đã vô tình trở thành lực lượng cướp quyền lực cho Hồ Chí Minh và trở thành bia đỡ đạn sống cho Hồ Chí Minh cũng như cho các “môn đồ” hay đồng đảng của Hồ Chí Minh trong suốt 80 năm qua với 4 cuộc chiến tranh tương tàn và ngày nay do bị “đầu độc” quá nặng, nên nhiều người vẫn chưa tỉnh ngộ vẫn còn đang là “thành trì” bảo vệ quyền lực cho cộng sản ở Việt Nam mà không hề hay biết.
Từ khi cái chủ nghĩa được gọi là “chân chính nhất” mà Hồ Chí Minh rước về và áp đặt ở Việt Nam, thực tiễn lịch sử cho thấy không thấy tính chân chính của nó ở chỗ nào mà chỉ thấy tội ác và tai hại mà thôi. Những tai ương mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng trong suốt 80 năm qua là không thể kể xiết. Bao nhiêu máu đổ, bao nhiêu tội ác “trúc lam sơn” không thể ghi hết. Nhân loại đã phải rùng mình khi nghĩ về chủ thuyết cộng sản và hậu quả của nó trong thế kỷ qua. Các riêng, những ai đã phải sống ở Việt Nam trong thế kỷ XX không khỏi rùng rợn “nổi gai ốc” khi nhắc đến từng dấu chấm thời gian, từng năm tháng trong thế kỷ này, đặc khi khi “chủ nghĩa chân chính nhất” này ở thời điểm “hoàng kim” của nó, như thời đấu tố địa chủ/trí thức, thảm sát Mậu thân, Mùa xuân 1975, thời đánh tư sản, chạy trốn cộng sản (thuyền nhân) và thời kỳ bao cấp/tem phiếu/tập thể hóa v.v.
Mừng thay, cái “chủ nghĩa chân chính nhất” này đã bị nhân loại vứt vào sọt rác lịch sử; cái nôi, cái thành trì của nó đã bị sụp đổ hoàn toàn không một tiếng súng, không kèn không trống, cách đây hai thập niên rồi. Thêm vào nữa, hy vọng nhờ ánh sáng văn minh của nhân loại ở thế kỷ XXI, những người còn đang mê muội, mù quáng tôn thờ “chủ nghĩa chân chính nhất” này còn rơi rớt ở một số dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam, sẽ dần sáng mắt ra mà từ bỏ cái chủ nghĩa chết người này, sẽ thôi không làm “kim chỉ nam” nữa, sẽ không đòi “vạn tuế, vạn vạn tuế” (ĐCSVN quang vinh muôn năm) nữa mà trả lại cho người dân những quyền làm người, trả lại đất nước cho người dân.
Ngoài ra, kẻ nào mù đi nữa cũng nhận thấy rằng cái chủ nghĩa chết người này đã và đang làm cho dân tộc Việt Nam trở lên nghèo đói, lạc hậu vào bậc nhất thế giới, các nước xung quanh có cùng xuất phát điểm như dân tộc Việt Nam nay đã tiến xa hàng thế kỷ so với Việt Nam, tham nhũng, tệ nan, thiếu tự do, mất dân chủ cũng vào bậc nhất thế giới (xem http://www.x-cafevn.org/node/309), nhân dân đi làm nô lệ và bị đày đọa ở xứ người khắp nơi trên thế giới ( xem http://vietbao.vn/Doi-song-Gia-dinh/Lao-dong-Viet-Nam-keu-cuu-tai-Malaysia-Mang-con-bo-giua-cho-nguoi/45205302/111/ ), phụ nữ, trẻ em xếp hàng bán mình, làm nô lệ tình dục cho ngoại quốc như những món hàng, như những con vật đem đi bán ngoài chợ ( xem http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=3833&Itemid =311 và ( http://vietbao.vn/Doi-song-Gia-dinh/Tham-canh-co-dau-Viet-tren-dat-Han-Bai-1-Com-nguoi-kho-lam-me-oi/45250817/111/> ), người dân bị bóc lột, đánh đập trên chính quê hương của mình bởi các ông chủ ngoại quốc (xem http://www.vietnamnet.vn/xahoi/2009/06/854202/ và (http://vietbao.vn/Xa-hoi/Giam-doc-Han-Quoc-danh-trong-thuong-nhan-vien-nguoi-Viet/10720163/157/ )..., thì những kẻ tự cho mình là “sáng”, là “đỉnh cao trí tuệ của loài người” thì ắt hẳn sẽ dễ dàng nhận ra điều đó.
Hơn nữa, trong thời hội nhập, những người đứng đầu “đỉnh cao trí tuệ loài người” này đã được đi đến nhiều nước văn minh, nhìn thấy tận mắt những người dân của họ được sống trong cảnh thịnh vượng, sung túc, bình an, được hưởng trọn vẹn quyền làm người, quyền dân chủ, được đi cả “lề phải” lẫn “lề trái”…, thì chắc chắn những “đỉnh cao trí tuệ loài người” này sẽ biết xấu hổ khi chìa tay bắt tay với các nhà lãnh đạo của các dân tộc văn minh; biết nhìn nhận lại “chủ nghĩa chân chính nhất” đang áp đặt, đè nặng lên dân tộc mình; biết nhục nhã khi mở miệng, xòe tay cúc cung van lạy xin bố thí từ các dân tộc khác trên thế giới. Thêm vào nữa, các vị “đỉnh cao trí tuệ loài người” này đi đến đâu đều hứa hẹn, cam kết, thề thốt với thế giới văn minh là khi về nhà sẽ “thay đổi” để phù hợp với chuẩn mực văn minh của nhân loại.
Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam có nhiều du học sinh đang theo học ở nước ngoài, mà toàn học ở các nước đại tư bản, hiếm hoặc hầu như không có du học sinh nào học tập ở các nước XHCN “anh em” như “chí phèo” thời đại mới – Bắc Hàn hay Cuba v.v. Dẫu rằng những du học sinh này đều là “con ông cháu cha” (nhân dân thường gọi là con ông bà “tư bản đỏ”), sau khi học tập ở các nước tư bản về, những vị con ông cháu cha này sẽ “kế vị” các chức vụ của cha mẹ mình, nhưng nhờ được hấp thụ nền văn minh, dân chủ và tư do của các nước tư bản, các nước văn minh qua quá trình sống và học tập trong môi trường này, thì có thể lạc quan nghĩ rằng những du học sinh này sẽ dần thay hoặc từ bỏ “chủ nghĩa chân chính nhất” mà cha mẹ họ đang tôn thờ.
Từ những lý do trên, tất cả những ai có tinh thần lạc quan đều có thể hy vọng vào sụ tự thay đổi từ bên trong những người đang theo đuổi cái “chủ nghĩa” chết người nói trên, nhờ đó sẽ có một Việt Nam dần dễ thở hơn và dân tộc Việt Nam sẽ dần hồi sinh.
Đáng tiếc, do cố chấp, mù quáng, cùng với ma lực của quyền lực sẵn có trong tay và đặc lợi, đặc quyền kinh tế, và nhu nhược không dám đối diện với sự thật, CSVN đã quyết bám lấy “chủ nghĩa” chết người này bằng mọi thủ đoạn. Những kẻ tự cho mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người” này đã đeo mặt nạ và găng tay để che đi sự nhem nhuốc, ác độc, máu me của mình khi bắt tay với các dân tộc văn minh trên thế giới, về nhà chúng tháo mặt nạ và găng tay ra, trở lại với bản chất thực của chúng. Chúng qùy mọp xin bố thí từ các quốc gia khác mà không hề biết nhục nhằn là gì. Những đứa con của chúng đi du học, nhưng thực ra thay vì học hoặc học cái tốt đẹp, thì những đứa trẻ này chỉ biết ăn chơi trác táng và phung phí tiền bạc của cha mẹ chúng nhờ đục khoét, vơ vét, cướp bóc từ người dân và từ tài nguyên của đất nước…mà có, và học cái cặn bã của nước ngoài, về nhà “mèo vẫn hoàn mèo”, rồi tiếp quản cái ghế của cha mẹ chúng đã được dọn sẵn cho chúng. Để rồi từ cái “chủ nghĩa chân chính nhất” như giáo chủ của CSVN đã gào lên và gieo rắc vào Việt Nam, thì nay môn đồ và hậu duệ “phát triển” thành “chính nghĩa sáng ngời”.
Để bảo vệ “chính nghĩa sáng ngời” này, CSVN đã cho xây dựng những thành quách kiên cố. Thành quách này gồm hai lớp: Điều 4, Hiến pháp nhà nước XHCN (xem Hiến pháp nước CHXNCNVN năm 1992. Nxb Chính trị quốc gia-2005-Bản sửa đổi) và Điều 88 Bộ luật hình sự (xem Bộ luật hình sự của nước CHXNCNVN số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999). (Chỉ cần bỏ đi một lớp thành quách nói trên, CSVN đã nhìn thấy ngày tận số của “chính nghĩa sáng ngời” rồi, đúng như lời nói nổi tiếng của Nguyễn Minh Triết: “Bỏ Điều 4 Hiến pháp đồng nghĩa với việc chúng ta tuyên bố tự sát” [2]). Bên cạnh đó, còn có cả một đội ngũ “bảo kê” hùng hậu: công an và quân đội được trang bị vũ khí tận răng, khi cần còn huy động cả “quần chúng nhân dân tự phát…tiền” (xã hội đen)[3] để bảo vệ thành trì này. Ngoài ra, CSVN còn không ngừng xây dựng một hệ thống giáo dục và tuyên truyền nhồi sọ một chiều với đội ngũ bồi bút bán miệng nuôi trôn hùng hậu ngày đêm suy tôn và đánh bóng “chính nghĩa sáng ngời” càng thêm “sáng ngời” hơn nữa!
Người dân Việt Nam rất hiền lành và vị tha. Dù tội ác của CSVN đã gây ra trong quá khứ như thế nào đi nữa, nếu CSVN biết quay đầu về với dân tộc, từ bỏ con đường tà ác xưa nay, chắc chắn người dân Việt Nam sẽ tha thứ cho. Nhưng nếu còn quyết bám víu vào cái ngụy “chính nghĩa” này mà gây thêm tội ác thì CSVN sẽ không còn đất dung thân. Đáng tiếc, CSVN không những không từ bỏ ngụy “chính nghĩa” này mà còn mạnh mẽ hô to: “Chúng ta có chính nghĩa sáng ngời” một cách công khai, vô liêm sỉ.
Khốn thay cho CSVN, đã có biết bao nhiêu cơ hội, bao điều kiện để chúng từ bỏ đường tà mà trở về với chính nghĩa thực, về với dân tộc; nhân dân đã cho chúng quá nhiều thời gian để cải tà, nhưng chúng không những đã khước từ mà còn cố chấp và làm cho con đường tà ngụy của chúng thêm tệ hơn. Tòa án công lý của nhân dân đang được dựng lên khắp nơi. CSVN phải trả lời trước người dân về những tội ác chúng đã gây ra, đã làm với đất nước, với dân tộc này; và phải chịu bản án thích đáng trước tòa án công lý!
Ghi chú
[1] Ngày 17/06/2009, Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước CHXHCNVN, tại buổi lễ kỷ niêm 50 năm ngày thành lập trường Học viện Ngoại giao đã có một bài diễn văn hùng hồn trước đám đông cử tọa, bao gồm một số cán bộ cao cấp của ĐCSVN, đại diện ngoại giao và các sinh viên của Học viện này. Sau đó, một số đoạn của bài phát biểu này đã được các báo đài “lề phải” loan tải, công bố rộng rãi.
Trong bài diễn văn có đoạn: “Cái sức mạnh của Việt Nam á, nước ta là một nước yếu,... Trên lĩnh vực này chúng ta không có bị động đâu, chúng ta phải luôn luôn chủ động. Chúng ta là có chính nghĩa sáng ngời, chúng ta từng là nước bị thực dân, đế quốc đô hộ, chúng ta đấu tranh để giải phóng dân tộc để dành lại quyền con người. Còn các thế lực thù địch chà đạp lên quyền con người, không những là trước đây mà hiện nay nữa họ còn đem bom đạn, đem quân đội, gieo rắc đau thương tang tóc hết nơi này đến nơi khác. Nhưng mà dì (vì) họ có tiền, họ mạnh hơn cho nên họ lớn tiếng nói họ nhân quyền chứ thực ra là họ vi phạm nhân quyền nhất thế giới”. (Xem thêm http://tiengnoitudodanchu.org/modules.php?name=News&file=print&sid=7701).
[2] Ngày 27/08/2007, Chủ tịch nước CHXNCNVN Nguyễn Minh Triết đã đến làm việc và nói chuyện để “lên dây cót tinh thần” cho các sỹ quan thuộc Tổng cục chiến tranh chính trị của quân đội nhân dân Việt Nam. Trong bài nói chuyện của mình, Nguyễn Minh Triết nói rằng quân đội được thành lập là “để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và trong đó ông nhấn mạnh “bỏ điều 4 Hiến pháp đồng nghĩa với việc chúng ta tuyên bố tự sát”.
[3] Thời gian vừa qua CSVN liên tục có các hành vi cướp bóc trắng trợn cả ngày lẫn đêm các cơ sở tôn giáo. Trong đó phải kể đến 3 vụ điển hình gần đây nhất là vụ Thái Hà, vụ Tòa Khâm Sứ và Tam Tòa-Vinh. Bên cạnh lực lượng cảnh sát và chó nghiệp vụ, CSVN còn huy động một loạt các kẻ côn đồ, du côn du đãng, nghiện hút đến tấn công các giáo dân khi họ cầu nguyện để đòi sự thật, đòi công lý và đòi quyền làm người.