Hồi ký: Toà án nhân dân và những án tử hình
Đội chỉ huấn luyện, chỉ bảo, thúc đẩy nhân dân. Đội bảo sao, án tội thế nào, nhân dân làm thế, thường là quá sợ hãi mà làm. Có làm theo chỉ là “bị” phát động, quá sợ hãi mà làm theo. Mọi việc đều do hình thức nhân dân thi hành. Đặc biệt có Toà án nhân dân, hằng ngày nhóm họp để xét xử những “tội phạm” đã bị đấu tố nhiều hoặc lên án.
Toà án nhân dân thành phần là các bần cố nông, một chữ không biết mà đứng làm quan toà, làm thẩm phán. Tôi biết một bà thẩm phán ở xứ Phú ốc, khi tôi lên làm lễ, cũng ra chào bà. Nhà bà ở gần ngay đường vào nhà thờ, toà án có khi họp phiên toà ngay nhà bà, chật chội phải chui rúc. Bà trạc gần 70, có cô con gái tiến bộ, lấy ông chủ tịch thôn ngoại giáo. Bà thật hiền lành, đạo đức, chữ nghĩa không biết, không biết ăn nói nữa. Tôi gặp bà, bà lễ phép chào tôi và chỉ cười, đúng là bà lão nhà quê, thế mà quyền sinh sát ở trong tay bà. Cũng may là làng Phú ốc chỉ có ba bốn người Công giáo bị quy lên địa chủ: Ông lang Thản, ông Chuân ngày xưa đi lính cho Pháp, ông Cố Nhụ (có hai linh mục Trinh và Thiện đi Nam) bà kế ở nhà, bị quy là địa chủ, ông Kiề u công nhân nhà máy dệt…
Có người làm việc cho nhà nước, cha mẹ anh em cũng vẫn bị quy tội như thường. Ông Chuân có con làm cán bộ, em làm hiệu trưởng trường Lục Quân, những người này hình như sợ liên quan, không dám thăm hỏi anh chị em gì cả. Chỉ có đám trẻ, gặp ông ở đường làng, ông để râu, đám trẻ đến giật râu ông và bảo: “Chào ông bà nông dân đi”. Ông Chuân cũng phải khoanh tay chào lũ trẻ: “Con chào Ông Bà nông dân ạ”. Các địa chủ khi gặp bất cứ người già hay trẻ, phải xưng hô là “con”, và thưa chào “ông” hay “bà nông dân”.
Như thế là uy thế của địa chủ đãbị hạ trong hội nghị, trong quần chúng. Cả cái tiếng địa chủ cũng do tuyên truyền, trở nên cái gì ác quái, ghê gớm, xấu xa trong đầu óc quần chúng. Phải công nhận cái tài nhồi sọ của Cộng sản.
Cùng bị hại với những người bị quy là địa chủ, còn có những người khác phải mang danh từ tội ác còn nặng nề hơn; đó là “bọn cường hào ác bá, bọn ác ôn”. Những người này là ai? Thường là những người làm việc dưới các chế độ khác như thời Pháp cai trị, hoặc thời quốc gia. Họ làm quan, là viên chức, như Chánh phó tổng, Chánh phó hương hội, Lý trưởng, Thơ ký, Thủ quỹ của hương hội. Thậm chí cả những người nào có uy tín trong quần chúng, những người nào có vẻ đạo mạo….
Quy thành địa chủ, thì phải theo tiêu chuẩn nào đó, như người đó có một số mẫu ruộng, hoặc nhà ngói gốc mít, ao cả ruộng liền, rồi thuê người làm hơn là làm lấy, như thế dễ dàng quy vào hạng bóc lột. Như vậy, việc quy lên địa chủ ở nông thôn Việt Nam, bị giới hạn nhiều, vì ít làng có nhiều người có ruộng liền ao cả. ở Việt Nam, chỉ có người có vài ba mẫu ruộng cũng bị coi là địa chủ; trong khi ở các nước khác, địa chủ là người có hàng trăm, nghìn mẫu ruộng.
Nhưng những người có uy tín, có thế lực, thậm chí được nhiều kính nể, thì tương đối nhiều hơn là con số địa chủ. Thậm chí ở xã hội ta, một xã hội có thể coi là phong kiến, những người làm việc hương lý có những hành vi tàn bạo, bất công, ức hiếp, hà lạm…con số không phải là nhỏ. Vả lại dân ta hiền lành, nên có nơi có người chẳng giữ chức vụ gì, nhưng vẫn có thể xưng hùng xưng bá, bắt nạt người khác với những hành vi tàn bạo, đốt nhà cướp của, cả làng khiếp sợ, không ai dám nho nhoe.
Tất cả những người có uy tín, hương chức có hành vi tàn ác, hoặc chỉ làm việc cho chế độ cũ (viên chức, lính tráng) đều bị quy là cường hào ác bá, ác ôn, và những nhân vật loại này còn nặng tội hơn là địa chủ, và đáng bị tiêu diệt hơn.
Thế còn những viên chức trong đạo thì sao? Cải cách ruộng đất làm ra vẻ rất tôn trọng tự do tín ngưỡng. Nhà thờ nhà xứ được bảo đảm, ngoài ra đều phải theo luật cải cách ruộng đất. Chẳng hạn nhà xứ nào có nhiều ruộng đất, cha xứ cũng phải đấu tố, xỉ vả như các người khác.
Tôi chỉ thấy có cha Thính ở Vĩnh Đà không bị đấu tố, vì ngài không dính dáng đến ruộng nương, không ăn nhờ vào ai, ngài còn tuyên bố: “Mỗi ngày tôi chỉ vài chiếc bánh đa và nước lã là đủ”.
Nhưng cha Thu, thư ký cho Đức Cha Tĩnh giáo phận Bùi Chu bị đổ cho cái tội “khoan đê”. Ngài cho lời vu khống đó là quá trẻ con, ai lại dùng chiếc khoan gỗ của thợ mộc mà khoan cho vỡ đê được. Thấy quá lố bịch ngài nhận cho xong. Thế mà thành tội thật và ngài bị đem ra xử bắn vì tội khoan đê. (cũng có người bị khép tội khoan đê như thế, người đó phải cầm cái khoan của thợ mộc, khoan vào đê, cán bộ chụp hình, làm chứng cớ tội phạm).
Hình phạt dành cho địa chủ, cường hào gian ác v.v… do Toà án nhân dân lên án. Nói đúng ra là cán bộ cải cách, chứ bà Thẩm Phán tên là Thậm ở Phú ốc nói một câu cũng không ra câu, thì lên án làm sao?
Án phạt trước hết là tịch thu nhà cửa ruộng đất. Người đó bị đuổi ra khỏi nhà, đi ở đâu thì đi. Họ dựng một cái lều ở đất hoang nào đó để độ thân, còn nhà cửa thì được chia cho ông bà nông dân, đặc biệt là bần cố nông loại nhất, nhà to thì chia cho hai ba người. Bên lương, họ không có 10 điều răn Chúa, họ dễ dàng đến ở. Trước đây ở các lều, các nhà lụp xụp, nay được mấy gian nhà ngói, làm gì mà không nhận.
Nhưng bà con Công giáo thì khác, cũng có người ép tình nhận, đến ở ít lâu, sau này có dịp trả lại. Có người không nhận, ít người vui vẻ nhận.
Khi hai ba người được một cái nhà, họ thường chia nhau, rỡ đi bán. Bán đi tiêu hết tiền, lại trở về cảnh sống nơi túp lều. Ông trùm Tứ, xứ Ba Trại có căn nhà lá ba gian, được chia cho hai người, lập tức họ chia đôi mỗi người được gian rưỡi, họ lấy cưa, cưa đôi gian giữa. Không biết rỡ về làm được gì, hoạ chăng dựng được túp lều?
Chú tôi ở Kim Lâm, tuy hai ông bà đã chết, hoặc đi Nam, có cô con gái lấy chồng cán bộ, anh Hân, cũng bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho hai người Công giáo, hai người chỉ lẫm lờ nhận, nhưng không dám ở bao giờ. Em tôi vẫn giữ mãi cho đến ngày không ở thì dâng cho họ giáo để làm nhà phòng. Cảnh nhà cửa bị tịch thu nó tương tự như thế.
Còn ao vườn ruộng đất? Dĩ nhiên là được đem chia cho nông dân hết, theo nguyên tắc chung. Đất đai là công thổ, tất cả là của nhà nước. Do đó mà ao vườn đất đai nhà thờ, nhà xứ, cũng được đem ra chia hết.
Còn bản thân những thành phần có tội với nhân dân thì sao? Từ khi cải cách được phát động, tối nào cũng họp bà con nông dân Đội cải cách nhờ chính sách “ba cùng” đãnắm bắt tình hình các hộ, đãchia ra từng thành phần: địa chủ, hay loại người tương tự, phú nông, trung nông, bần nông, cố nông. Chỉ có phú nông trở xuống mới được đi họp, và dĩ nhiên bần cố nông là nòng cốt, là lãnh đạo.
Ai mà không được đi họp, lo ngay ngáy. Số phận từ đây đãđược định đoạt, thành phần có tội, đáng bị loại trừ khỏi xã hội. Thành phần tuy đãđược đội ấn định, song để cho có vẻ “nhân dân” sẽ là các cuộc họp của nhân dân, bị vạch mặt rồi định đoạt số phận.
Có hai vòng họp, vòng họp thứ nhất thành phần xấu không được tham dự. Trong vòng họp này, bà con nông dân vạch mặt bọn “địa chủ, cường hào gian ác”. Ai cũng phải phát biểu, nói thật thì ít, bịa đặt vu khống thì nhiều, vừa nói vừa làm ra vẻ căm phẫn, vừa nói vừa xỉa xói.
Sau khi đãcho việc tố cáo là đủ, các cuộc họp chuyển sang vòng hai. Từ đây những người đãbị các cuộc hội họp tố, nay họ được triệu tập đến họp, để các thành viên khác đấu. Những cuộc đấu tố này chẳng khác gì những phiên toà lên án tội nhân. Những người bị tố trong các buổi họp trước đây, nay đãthành tội nhân mà nhân dân sẽ lên án.
Tội nhân bị tố nặng, như có nợ máu với nhân dân, có thể bị trói tay, quỳ hay ngồi trên đất ở giữa hội nghị. Những người đấu tố lần lượt kể tội. Phạm nhân bị cưỡng bức đó, chỉ còn một việc cúi đầu nhận tội. Nếu tỏ dấu thanh minh, sẽ bị coi là ngoan cố, tội càng nặng hơn, không ai được phép bào chữa. Chỉ tỏ vẻ thương cảm mà không tỏ vẻ phẫn uất, cũng rất nguy hiểm, có thể bị coi là liên quan, và chịu vạ lây. Con cái cũng không được tỏ bầy cảm tình đối với cha mẹ, còn phải đấu tố cha mẹ là khác, để may ra được ra khỏi thành phần.
Không phải người bị đấu tố nào cũng phải xử bắn, họ bị phân loại. Trên hết là địa chủ gian ác, bóc lột, có nhiều ruộng, lại bị tố cáo có những hành vi bóc lột, đánh đập người ở. ở bên Công giáo hạng này thì có ít, vì phần lớn những người giầu có, nhiều ruộng nhiều thóc, như ở Sơn Miêng, nhà giầu ở xứ Tâng (An Phú) Kẻ Vác… Họ hiểu thế nào là Cộng sản, đãmau chạy xa bay vào Nam từ năm 1954 rồi, một số đồng bào bên lương, đặc biệt là ở thành phố, cũng đãhiểu và cũng cao chạy xa bay.
Nhưng số lớn người bị bắn thường là những người bị quy cho là cường hào gian ác, ác bá, ác ôn… Đây là những chức việc trong xã trong huyện, hoặc là những người đãtham gia những đảng phái khác, như Quốc Dân Đảng, Đại Việt… Cả những người trong Đảng Cộng Sản bị nghi là tả khuynh, hữu khuynh, hay là những người có tư tưởng theo đường lối xét lại. Cả những người trung thành với Đảng, mà cá nhân có uy tín, nhưng lại có vẻ không trung thành với lãnh tụ, nói khác đi, không ăn cánh với cấp trên. Tất cả đều bị coi là nguy hiểm và cần tiêu diệt ngay từ trứng nước.
Tôi biết có hai người bị tội bắn: ở Báo Đáp, một người giầu có, xưa đãđi lính cho Pháp. Một người khác ở quê tôi, làm Chánh tổng lâu năm. Số người bị bắn, không mấy làng không có, có làng bị đến 2, 3 người, và con số ở miền Bắc lên tới hàng vạn, hàng vạn người.
Những người bị tử hình hầu hết là bị bắn, hoặc bị bắn ở cánh đồng, hoặc bị treo lên cành cây. Cuộc xử bắn diễn ra trước hàng vạn người, để có tính cách răn đe. “Sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Và đúng là thế, sự sợ hãi lên tới cực điểm, tựa như có đám mây đen bao phủ toàn dân. Phải triệt để khai thác tình trạng sợ hãi này. “Không được để lọt một thằng nào”. Hiệu lệnh là thế! “Thà giết nhầm 10 thằng còn hơn để lọt một thằng”.
Các địa chủ trung bình thường bị giam. Cùng với hàng địa chủ này một số lớn cũng bị giam, đó là những người đãcộng tác với chế độ ngày trước, hoặc đã đi lính và đã có cấp bậc, hoặc về hành chính, những trí thức xem ra không thiện cảm với chế độ mới, những người đảm nhiệm công việc trong tôn giáo mà có uy tín: như Chánh Trương, Trùm Trưởng, Quản giáo. Có cả nhưng Đảng viên Cộng Sản, cả trong Uỷ Ban Nhân Dân bị nghi ngờ là không trung thành. Gần tôi như ban hành giáo xứ Kẻ Báng (Xuân Bảng), nhất là Quản giáo bị bắt giam hầu hết. Xứ Tường Loan (Ba Trại) chưa được năm trăm nhân danh mà cũng mấy người bị bắt giam. Cả đến anh Trưởng Ban hát, và một thanh niên thường. Cũng ở xã đó, anh Chủ Tịch Uỷ Ban xã mà tôi mới trình giấy tháng trước, thì tháng sau nghe nói anh đãbị bắt giam.
Trong thời gian bị giam, thường là bị cưỡng ép làm giấy thú nhận đãcó những hành vi phá hoại: như bỏ trứng sâu vào lúa, phá hoại đê điều, đầu độc người nọ người kia, và ai cũng phải làm giấy nhận tội hết. Thời gian bị giam thường là năm, bảy tháng. Có nhiều người bị ngược đãi quá, hoặc bị bệnh nặng thì được tha về, và chỉ ít lâu sau thì chết.
Các địa chủ không có tội gì, ngoài việc có máu mặt hơn trong làng xóm, hoặc được người ta kính trọng hơn, có uy tín hơn một chút, thì chỉ bị phân biệt đối xử. Không còn quyền công dân, như là bầu cử, hội họp, không được làm chức vụ gì trong xã hội, cả trong tôn giáo. Nếu là người Công giáo, có đến nhà thờ cũng phải ngồi dưới, không được ngồi lên ghế trên. Con cái không được đi học, trừ đứa nào tiến bộ, cố gắng thoát ly ra khỏi giai cấp, bằng cách đứng với bần cố nông, hăng hái đấu tố giai cấp của bố mẹ, đi đến cả đấu tố cha mẹ, thì cũng được hưởng quyền lợi đôi chút của xã hội. Chứ không bao giờ tẩy xoá được cái danh hiệu “con địa chủ”, danh hiệu cha truyền con nối. Không được cả đến cái “vinh dự” đi bộ đội, vì còn bị nghi là không trung thành, bởi đãmang cái dòng máu đối nghịch truyền đời của giai cấp.
Có những cán bộ xuất thân từ giai cấp địa chủ, tư sản, từ đầu cách mạng, đã hoàn toàn thoát ly và đã có thể giữ chức nọ kia, có thể lên chức. Nhưng khi cách mạng thành công, họ không được trọng dụng lắm, không lên chức nào, mà còn bị thất sủng là khác. Thường những Đảng viên cũng bị đưa ra đấu tố.
Những cán bộ như thế, trong thời gian hoạt động, nhất là trong thời gian cải cách, không được, nói đúng ra, không dám có một liên hệ gì đến gia đình. Có thể nói, cả đến tư tưởng cũng phải dứt khoát! Nếu không sẽ bị liệt vào hạng liên quan và bị đem ra xử lý. Không bị kết tội thì cũng bị hạ tầng công tác.
Tất cả những lãnh tụ, kể cả lãnh tụ vĩ đại nhất cũng đều xuất thân từ giai cấp địa chủ, hoặc tư sản. Ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), ba anh em ông Lê Đức Thọ lý thuyết gia của Đảng, ông Võ Nguyên Giáp, ông Phạm Văn Đồng... đều là con cái địa chủ, hoặc là tư sản. Các ông ấy là những người sáng lập, cha đẻ ra Chủ nghĩa vô sản Việt Nam, thì các ông ấy đứng trên tất cả, ai làm gì được các ông! Các ông đặt ra cái thòng lọng, lại để cho cái thòng lọng thắt cổ mình làm sao?
Giả sử các ông ấy là nông dân thường, con nhà bần cố nông, thì làm gì có cơ hội mà ăn học. Đàng này, hầu hết các ông là học trò của trường Thành Trung (Carreau) Nam Định, trường Bưởi Hà Nội… Phải là địa chủ giầu có mới đủ tiền gửi con cái lên các trường đó, có ông còn được thực dân Pháp cho đi ăn học.
Xét cho cùng, thì giới bần cố nông phải biết ơn giới địa chủ, tư sản, đãphát động phong trào cải cách để họ nâng lên vai trò lãnh đạo.
Còn các nhà cải cách phát động phong trào, tô điểm mỹ miều cho các danh từ “thoát ly” mà họ mắc vào, chứ thực ra họ là những người “phản giai cấp”. Và công luận không bao giờ cho phép xoá đi cái danh hiệu con nhà “địa chủ”, mà họ đãdầy công bắt người ta bôi nhọ bằng đủ cái xấu. Gậy ông lại đập lưng ông là thế.
Toà án nhân dân thành phần là các bần cố nông, một chữ không biết mà đứng làm quan toà, làm thẩm phán. Tôi biết một bà thẩm phán ở xứ Phú ốc, khi tôi lên làm lễ, cũng ra chào bà. Nhà bà ở gần ngay đường vào nhà thờ, toà án có khi họp phiên toà ngay nhà bà, chật chội phải chui rúc. Bà trạc gần 70, có cô con gái tiến bộ, lấy ông chủ tịch thôn ngoại giáo. Bà thật hiền lành, đạo đức, chữ nghĩa không biết, không biết ăn nói nữa. Tôi gặp bà, bà lễ phép chào tôi và chỉ cười, đúng là bà lão nhà quê, thế mà quyền sinh sát ở trong tay bà. Cũng may là làng Phú ốc chỉ có ba bốn người Công giáo bị quy lên địa chủ: Ông lang Thản, ông Chuân ngày xưa đi lính cho Pháp, ông Cố Nhụ (có hai linh mục Trinh và Thiện đi Nam) bà kế ở nhà, bị quy là địa chủ, ông Kiề u công nhân nhà máy dệt…
Có người làm việc cho nhà nước, cha mẹ anh em cũng vẫn bị quy tội như thường. Ông Chuân có con làm cán bộ, em làm hiệu trưởng trường Lục Quân, những người này hình như sợ liên quan, không dám thăm hỏi anh chị em gì cả. Chỉ có đám trẻ, gặp ông ở đường làng, ông để râu, đám trẻ đến giật râu ông và bảo: “Chào ông bà nông dân đi”. Ông Chuân cũng phải khoanh tay chào lũ trẻ: “Con chào Ông Bà nông dân ạ”. Các địa chủ khi gặp bất cứ người già hay trẻ, phải xưng hô là “con”, và thưa chào “ông” hay “bà nông dân”.
Như thế là uy thế của địa chủ đãbị hạ trong hội nghị, trong quần chúng. Cả cái tiếng địa chủ cũng do tuyên truyền, trở nên cái gì ác quái, ghê gớm, xấu xa trong đầu óc quần chúng. Phải công nhận cái tài nhồi sọ của Cộng sản.
Cùng bị hại với những người bị quy là địa chủ, còn có những người khác phải mang danh từ tội ác còn nặng nề hơn; đó là “bọn cường hào ác bá, bọn ác ôn”. Những người này là ai? Thường là những người làm việc dưới các chế độ khác như thời Pháp cai trị, hoặc thời quốc gia. Họ làm quan, là viên chức, như Chánh phó tổng, Chánh phó hương hội, Lý trưởng, Thơ ký, Thủ quỹ của hương hội. Thậm chí cả những người nào có uy tín trong quần chúng, những người nào có vẻ đạo mạo….
Quy thành địa chủ, thì phải theo tiêu chuẩn nào đó, như người đó có một số mẫu ruộng, hoặc nhà ngói gốc mít, ao cả ruộng liền, rồi thuê người làm hơn là làm lấy, như thế dễ dàng quy vào hạng bóc lột. Như vậy, việc quy lên địa chủ ở nông thôn Việt Nam, bị giới hạn nhiều, vì ít làng có nhiều người có ruộng liền ao cả. ở Việt Nam, chỉ có người có vài ba mẫu ruộng cũng bị coi là địa chủ; trong khi ở các nước khác, địa chủ là người có hàng trăm, nghìn mẫu ruộng.
Nhưng những người có uy tín, có thế lực, thậm chí được nhiều kính nể, thì tương đối nhiều hơn là con số địa chủ. Thậm chí ở xã hội ta, một xã hội có thể coi là phong kiến, những người làm việc hương lý có những hành vi tàn bạo, bất công, ức hiếp, hà lạm…con số không phải là nhỏ. Vả lại dân ta hiền lành, nên có nơi có người chẳng giữ chức vụ gì, nhưng vẫn có thể xưng hùng xưng bá, bắt nạt người khác với những hành vi tàn bạo, đốt nhà cướp của, cả làng khiếp sợ, không ai dám nho nhoe.
Tất cả những người có uy tín, hương chức có hành vi tàn ác, hoặc chỉ làm việc cho chế độ cũ (viên chức, lính tráng) đều bị quy là cường hào ác bá, ác ôn, và những nhân vật loại này còn nặng tội hơn là địa chủ, và đáng bị tiêu diệt hơn.
Thế còn những viên chức trong đạo thì sao? Cải cách ruộng đất làm ra vẻ rất tôn trọng tự do tín ngưỡng. Nhà thờ nhà xứ được bảo đảm, ngoài ra đều phải theo luật cải cách ruộng đất. Chẳng hạn nhà xứ nào có nhiều ruộng đất, cha xứ cũng phải đấu tố, xỉ vả như các người khác.
Tôi chỉ thấy có cha Thính ở Vĩnh Đà không bị đấu tố, vì ngài không dính dáng đến ruộng nương, không ăn nhờ vào ai, ngài còn tuyên bố: “Mỗi ngày tôi chỉ vài chiếc bánh đa và nước lã là đủ”.
Nhưng cha Thu, thư ký cho Đức Cha Tĩnh giáo phận Bùi Chu bị đổ cho cái tội “khoan đê”. Ngài cho lời vu khống đó là quá trẻ con, ai lại dùng chiếc khoan gỗ của thợ mộc mà khoan cho vỡ đê được. Thấy quá lố bịch ngài nhận cho xong. Thế mà thành tội thật và ngài bị đem ra xử bắn vì tội khoan đê. (cũng có người bị khép tội khoan đê như thế, người đó phải cầm cái khoan của thợ mộc, khoan vào đê, cán bộ chụp hình, làm chứng cớ tội phạm).
Hình phạt dành cho địa chủ, cường hào gian ác v.v… do Toà án nhân dân lên án. Nói đúng ra là cán bộ cải cách, chứ bà Thẩm Phán tên là Thậm ở Phú ốc nói một câu cũng không ra câu, thì lên án làm sao?
Án phạt trước hết là tịch thu nhà cửa ruộng đất. Người đó bị đuổi ra khỏi nhà, đi ở đâu thì đi. Họ dựng một cái lều ở đất hoang nào đó để độ thân, còn nhà cửa thì được chia cho ông bà nông dân, đặc biệt là bần cố nông loại nhất, nhà to thì chia cho hai ba người. Bên lương, họ không có 10 điều răn Chúa, họ dễ dàng đến ở. Trước đây ở các lều, các nhà lụp xụp, nay được mấy gian nhà ngói, làm gì mà không nhận.
Nhưng bà con Công giáo thì khác, cũng có người ép tình nhận, đến ở ít lâu, sau này có dịp trả lại. Có người không nhận, ít người vui vẻ nhận.
Khi hai ba người được một cái nhà, họ thường chia nhau, rỡ đi bán. Bán đi tiêu hết tiền, lại trở về cảnh sống nơi túp lều. Ông trùm Tứ, xứ Ba Trại có căn nhà lá ba gian, được chia cho hai người, lập tức họ chia đôi mỗi người được gian rưỡi, họ lấy cưa, cưa đôi gian giữa. Không biết rỡ về làm được gì, hoạ chăng dựng được túp lều?
Chú tôi ở Kim Lâm, tuy hai ông bà đã chết, hoặc đi Nam, có cô con gái lấy chồng cán bộ, anh Hân, cũng bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho hai người Công giáo, hai người chỉ lẫm lờ nhận, nhưng không dám ở bao giờ. Em tôi vẫn giữ mãi cho đến ngày không ở thì dâng cho họ giáo để làm nhà phòng. Cảnh nhà cửa bị tịch thu nó tương tự như thế.
Còn ao vườn ruộng đất? Dĩ nhiên là được đem chia cho nông dân hết, theo nguyên tắc chung. Đất đai là công thổ, tất cả là của nhà nước. Do đó mà ao vườn đất đai nhà thờ, nhà xứ, cũng được đem ra chia hết.
Còn bản thân những thành phần có tội với nhân dân thì sao? Từ khi cải cách được phát động, tối nào cũng họp bà con nông dân Đội cải cách nhờ chính sách “ba cùng” đãnắm bắt tình hình các hộ, đãchia ra từng thành phần: địa chủ, hay loại người tương tự, phú nông, trung nông, bần nông, cố nông. Chỉ có phú nông trở xuống mới được đi họp, và dĩ nhiên bần cố nông là nòng cốt, là lãnh đạo.
Ai mà không được đi họp, lo ngay ngáy. Số phận từ đây đãđược định đoạt, thành phần có tội, đáng bị loại trừ khỏi xã hội. Thành phần tuy đãđược đội ấn định, song để cho có vẻ “nhân dân” sẽ là các cuộc họp của nhân dân, bị vạch mặt rồi định đoạt số phận.
Có hai vòng họp, vòng họp thứ nhất thành phần xấu không được tham dự. Trong vòng họp này, bà con nông dân vạch mặt bọn “địa chủ, cường hào gian ác”. Ai cũng phải phát biểu, nói thật thì ít, bịa đặt vu khống thì nhiều, vừa nói vừa làm ra vẻ căm phẫn, vừa nói vừa xỉa xói.
Sau khi đãcho việc tố cáo là đủ, các cuộc họp chuyển sang vòng hai. Từ đây những người đãbị các cuộc hội họp tố, nay họ được triệu tập đến họp, để các thành viên khác đấu. Những cuộc đấu tố này chẳng khác gì những phiên toà lên án tội nhân. Những người bị tố trong các buổi họp trước đây, nay đãthành tội nhân mà nhân dân sẽ lên án.
Tội nhân bị tố nặng, như có nợ máu với nhân dân, có thể bị trói tay, quỳ hay ngồi trên đất ở giữa hội nghị. Những người đấu tố lần lượt kể tội. Phạm nhân bị cưỡng bức đó, chỉ còn một việc cúi đầu nhận tội. Nếu tỏ dấu thanh minh, sẽ bị coi là ngoan cố, tội càng nặng hơn, không ai được phép bào chữa. Chỉ tỏ vẻ thương cảm mà không tỏ vẻ phẫn uất, cũng rất nguy hiểm, có thể bị coi là liên quan, và chịu vạ lây. Con cái cũng không được tỏ bầy cảm tình đối với cha mẹ, còn phải đấu tố cha mẹ là khác, để may ra được ra khỏi thành phần.
Không phải người bị đấu tố nào cũng phải xử bắn, họ bị phân loại. Trên hết là địa chủ gian ác, bóc lột, có nhiều ruộng, lại bị tố cáo có những hành vi bóc lột, đánh đập người ở. ở bên Công giáo hạng này thì có ít, vì phần lớn những người giầu có, nhiều ruộng nhiều thóc, như ở Sơn Miêng, nhà giầu ở xứ Tâng (An Phú) Kẻ Vác… Họ hiểu thế nào là Cộng sản, đãmau chạy xa bay vào Nam từ năm 1954 rồi, một số đồng bào bên lương, đặc biệt là ở thành phố, cũng đãhiểu và cũng cao chạy xa bay.
Nhưng số lớn người bị bắn thường là những người bị quy cho là cường hào gian ác, ác bá, ác ôn… Đây là những chức việc trong xã trong huyện, hoặc là những người đãtham gia những đảng phái khác, như Quốc Dân Đảng, Đại Việt… Cả những người trong Đảng Cộng Sản bị nghi là tả khuynh, hữu khuynh, hay là những người có tư tưởng theo đường lối xét lại. Cả những người trung thành với Đảng, mà cá nhân có uy tín, nhưng lại có vẻ không trung thành với lãnh tụ, nói khác đi, không ăn cánh với cấp trên. Tất cả đều bị coi là nguy hiểm và cần tiêu diệt ngay từ trứng nước.
Tôi biết có hai người bị tội bắn: ở Báo Đáp, một người giầu có, xưa đãđi lính cho Pháp. Một người khác ở quê tôi, làm Chánh tổng lâu năm. Số người bị bắn, không mấy làng không có, có làng bị đến 2, 3 người, và con số ở miền Bắc lên tới hàng vạn, hàng vạn người.
Những người bị tử hình hầu hết là bị bắn, hoặc bị bắn ở cánh đồng, hoặc bị treo lên cành cây. Cuộc xử bắn diễn ra trước hàng vạn người, để có tính cách răn đe. “Sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Và đúng là thế, sự sợ hãi lên tới cực điểm, tựa như có đám mây đen bao phủ toàn dân. Phải triệt để khai thác tình trạng sợ hãi này. “Không được để lọt một thằng nào”. Hiệu lệnh là thế! “Thà giết nhầm 10 thằng còn hơn để lọt một thằng”.
Các địa chủ trung bình thường bị giam. Cùng với hàng địa chủ này một số lớn cũng bị giam, đó là những người đãcộng tác với chế độ ngày trước, hoặc đã đi lính và đã có cấp bậc, hoặc về hành chính, những trí thức xem ra không thiện cảm với chế độ mới, những người đảm nhiệm công việc trong tôn giáo mà có uy tín: như Chánh Trương, Trùm Trưởng, Quản giáo. Có cả nhưng Đảng viên Cộng Sản, cả trong Uỷ Ban Nhân Dân bị nghi ngờ là không trung thành. Gần tôi như ban hành giáo xứ Kẻ Báng (Xuân Bảng), nhất là Quản giáo bị bắt giam hầu hết. Xứ Tường Loan (Ba Trại) chưa được năm trăm nhân danh mà cũng mấy người bị bắt giam. Cả đến anh Trưởng Ban hát, và một thanh niên thường. Cũng ở xã đó, anh Chủ Tịch Uỷ Ban xã mà tôi mới trình giấy tháng trước, thì tháng sau nghe nói anh đãbị bắt giam.
Trong thời gian bị giam, thường là bị cưỡng ép làm giấy thú nhận đãcó những hành vi phá hoại: như bỏ trứng sâu vào lúa, phá hoại đê điều, đầu độc người nọ người kia, và ai cũng phải làm giấy nhận tội hết. Thời gian bị giam thường là năm, bảy tháng. Có nhiều người bị ngược đãi quá, hoặc bị bệnh nặng thì được tha về, và chỉ ít lâu sau thì chết.
Các địa chủ không có tội gì, ngoài việc có máu mặt hơn trong làng xóm, hoặc được người ta kính trọng hơn, có uy tín hơn một chút, thì chỉ bị phân biệt đối xử. Không còn quyền công dân, như là bầu cử, hội họp, không được làm chức vụ gì trong xã hội, cả trong tôn giáo. Nếu là người Công giáo, có đến nhà thờ cũng phải ngồi dưới, không được ngồi lên ghế trên. Con cái không được đi học, trừ đứa nào tiến bộ, cố gắng thoát ly ra khỏi giai cấp, bằng cách đứng với bần cố nông, hăng hái đấu tố giai cấp của bố mẹ, đi đến cả đấu tố cha mẹ, thì cũng được hưởng quyền lợi đôi chút của xã hội. Chứ không bao giờ tẩy xoá được cái danh hiệu “con địa chủ”, danh hiệu cha truyền con nối. Không được cả đến cái “vinh dự” đi bộ đội, vì còn bị nghi là không trung thành, bởi đãmang cái dòng máu đối nghịch truyền đời của giai cấp.
Có những cán bộ xuất thân từ giai cấp địa chủ, tư sản, từ đầu cách mạng, đã hoàn toàn thoát ly và đã có thể giữ chức nọ kia, có thể lên chức. Nhưng khi cách mạng thành công, họ không được trọng dụng lắm, không lên chức nào, mà còn bị thất sủng là khác. Thường những Đảng viên cũng bị đưa ra đấu tố.
Những cán bộ như thế, trong thời gian hoạt động, nhất là trong thời gian cải cách, không được, nói đúng ra, không dám có một liên hệ gì đến gia đình. Có thể nói, cả đến tư tưởng cũng phải dứt khoát! Nếu không sẽ bị liệt vào hạng liên quan và bị đem ra xử lý. Không bị kết tội thì cũng bị hạ tầng công tác.
Tất cả những lãnh tụ, kể cả lãnh tụ vĩ đại nhất cũng đều xuất thân từ giai cấp địa chủ, hoặc tư sản. Ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), ba anh em ông Lê Đức Thọ lý thuyết gia của Đảng, ông Võ Nguyên Giáp, ông Phạm Văn Đồng... đều là con cái địa chủ, hoặc là tư sản. Các ông ấy là những người sáng lập, cha đẻ ra Chủ nghĩa vô sản Việt Nam, thì các ông ấy đứng trên tất cả, ai làm gì được các ông! Các ông đặt ra cái thòng lọng, lại để cho cái thòng lọng thắt cổ mình làm sao?
Giả sử các ông ấy là nông dân thường, con nhà bần cố nông, thì làm gì có cơ hội mà ăn học. Đàng này, hầu hết các ông là học trò của trường Thành Trung (Carreau) Nam Định, trường Bưởi Hà Nội… Phải là địa chủ giầu có mới đủ tiền gửi con cái lên các trường đó, có ông còn được thực dân Pháp cho đi ăn học.
Xét cho cùng, thì giới bần cố nông phải biết ơn giới địa chủ, tư sản, đãphát động phong trào cải cách để họ nâng lên vai trò lãnh đạo.
Còn các nhà cải cách phát động phong trào, tô điểm mỹ miều cho các danh từ “thoát ly” mà họ mắc vào, chứ thực ra họ là những người “phản giai cấp”. Và công luận không bao giờ cho phép xoá đi cái danh hiệu con nhà “địa chủ”, mà họ đãdầy công bắt người ta bôi nhọ bằng đủ cái xấu. Gậy ông lại đập lưng ông là thế.