Lập trường của Đức Phanxicô về chiến tranh Ukraine dù hết sức rõ ràng về ý niệm xâm luợc, nhưng không hẳn rõ ràng về ý niệm nguyên lai. Để hiểu rõ ràng hơn và đầy đủ hơn về lập trường toàn diện của ngài, Linh Mục Antonio Spadaro Dòng Tên, chủ nhiệm tạp chí Civiltà Cattolica, mà có người cho là tiếng nói bán chính thức, nếu không phải của Tòa Thánh thì ít nhất cũng của riêng Đức Phanxicô, ngày 13 tháng 6, 2022 có bài viết với tựa đề trên. Chúng tôi xin chuyển ngữ trọn bài báo này:



Khi Đức Thánh Cha Phanxicô lần đầu tiên nói về Giáo hội như một “bệnh viện dã chiến sau một trận chiến”, [1] ngài đã nghĩ đến điều mà ngài gọi là “một cuộc chiến tranh thế giới từng mảnh”. Trong thông điệp Urbi et Orbi vào Lễ Phục sinh năm 2022, ngài đã liệt kê một vài “mảnh” sau: Ukraine, Giêrusalem, Lebanon, Syria, Iraq, Libya, Yemen, Myanmar, Afghanistan, Sahel, Ethiopia, Cộng hòa Dân chủ Congo, Nam Phi. Trước đây ngài cũng đã làm như vậy, nhưng bản đồ dự tính sẽ luôn không đầy đủ.

Cuộc xâm lược Ukraine của Nga do đó là mảnh ghép bi thảm mới nhất của trò chơi ghép mảnh đẫm máu. Những người nghèo là những người phải trả giá, như mọi khi. Sau khi đọc kinh Sai Thiên Thần ngày 27 tháng 2 năm 2022, Đức Giáo Hoàng nói: “Những kẻ gây ra chiến tranh đã quên mất nhân loại. Họ không bắt đầu từ người dân; họ không nhìn vào đời sống cụ thể của người dân, mà đặt lợi ích đảng phái và quyền lực lên trước mọi sự”. Vì vậy, “họ tự tách mình ra khỏi những người dân bình thường, những người muốn hòa bình và là nạn nhân thực sự trong mọi cuộc xung đột. Họ phải trả giá cho những kẻ tham chiến trong chính làn da của họ. Tôi nghĩ đến những người già, đến những người đang tìm kiếm nơi nương tựa vào thời điểm này, những bà mẹ chạy trốn cùng con cái của họ…”

Chúng ta thấy cuộc chiến dưới dạng những hình ảnh của nó, những câu chuyện được kể bởi rất nhiều nhà báo, như chính Đức Phanxicô đã nói, ở đó “để bảo đảm thông tin” và “đặt mạng sống của họ vào rủi ro”, cho phép chúng ta “đến gần với bi kịch của dân số đó.”

Trong bài suy tư này, chúng ta sẽ thấy, giữa ánh sáng và bóng tối, một số bức tranh trong một loại phòng trưng bày phạm thánh, tức cuộc chiến này: các mảnh ghép của một trò chơi ghép mảnh trong đó các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo tương tác với nhau.

Bức tranh đầu tiên: đế quốc và chiến tranh

Vladimir Putin đã nại tới lịch sử, trong suốt vũng lầy của cuộc xâm lược mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi là tàn bạo, vô nghĩa và man rợ. Một cuộc chiến vô nghĩa bởi vì, ít nhất là bề ngoài, nó không có chiến lược. Nếu Nga "thắng", thì nó có thể thua ngay ngày hôm sau, vì thấy mình phải quản trị một "hậu quả" gây bối rối, đó là sự chiếm đóng không ai chấp nhận đối với một vùng đất rộng lớn và đông dân cư. Điều này đã xảy ra với Pháp và sự can dự của nước này vào cuộc chiến tranh Algeria từ năm 1954 đến năm 1962, và sau đó nữa. Chúng ta đang nói về một cuộc xung đột mà những người khởi xướng nó, ngay từ đầu, dường như đã không tính đến sự kháng cự anh dũng của những kẻ bị tấn công, được hỗ trợ bởi sự huy động của nhiều quốc gia, với một khó khăn khách quan trên thực địa. Đây là một cuộc chiến được một số nhà phân tích dự đoán, thấy trước, và do đó, có lẽ, có thể tránh được.

Không còn nghi ngờ gì nữa về sự vĩ đại của nền văn hóa và linh đạo Nga. Cơn cám dỗ “cấm vận” các tác phẩm của các tác giả, họa sĩ và nhà soạn nhạc vĩ đại của Nga, vốn mạnh mẽ nhưng cũng thật thiển cận. Chẳng khác nào không đọc Goethe hay Hölderlin vì Hitler, một lệnh cấm vận về trí tuệ. Mặt khác, sự vĩ đại về chính trị của Nga đã suy giảm vào năm 1991 với sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Điều này khiến giới lãnh đạo Nga định hình một câu chuyện mới, đó là “thế giới Nga”, thống nhất tất cả các nước Rus như một phần của một thực tế chính trị duy nhất: Nga, Belarus và Ukraine. Tổng thống Putin, trong bài phát biểu trước quốc gia Nga vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, đã nói rõ điều này: “Ukraine không chỉ là một quốc gia láng giềng đối với chúng ta. Nó là một phần không thể tách rời của lịch sử của chính chúng ta, văn hóa của chính chúng ta, không gian tinh thần của chính chúng ta”. Khi chính trị nói dưới chiêu bài linh đạo, nó sẽ tạo ra những mạch chập nguy hiểm.

Trình thuật đế quốc đã được nuôi dưỡng rất hay, chẳng hạn, bởi một nhà tư tưởng như Alexandr Dugin, được mệnh danh là nhà ý thức hệ của Tổng thống Putin, người vào ngày 19 tháng 3 trên Facebook - bị cấm ở Nga - đã quyết định viết bằng tiếng Anh và do đó với thế giới: “Nước Nga ở Ukraine sẽ khôi phục trật tự, công lý, thịnh vượng và các tiêu chuẩn đứng đắn của cuộc sống”. Tại sao? Đây là câu trả lời của ông ta: “Nga là quốc gia Slavic duy nhất có thể trở thành một đế quốc thế giới, tức là một cường quốc có chủ quyền tuyệt đối. Xây dựng đế quốc thế giới là nhiệm vụ của chúng tôi; chúng tôi biết làm thế nào để làm điều đó. Đó là lý do tại sao chúng tôi là Rome”. Mục tiêu có tính cách khải huyền: lật đổ “quyền toàn năng của Con Điếm Babylon (Harlot of Babylon). Chúng tôi không bao giờ có thể từ bỏ các khuôn mẫu của lịch sử thánh thiêng,” Dugin kết luận, gán đặc tính thánh thiêng cho việc xây dựng đế quốc Nga. Ông hình dung ra một Đế quốc La Mã Thần thánh mới với âm sắc đạo đức, có khả năng định hình một thế giới quan xung đột với thời hiện đại và thời kỳ của Phong trào Ánh sáng. Do đó, có mối liên hệ với một số chủ nghĩa bảo thủ nhất định ở Hoa Kỳ, một chủ nghĩa chưa bao giờ che giấu thiện cảm của họ đối với Tổng thống Putin và Chính thống giáo Nga. Do đó, đây chính là nước Nga đối mặt với vực thẳm chiến tranh.

Thế mà, Tổng Giám Mục Hilarion của Volokolamsk, chủ tịch [2] của Ban Đối ngoại của Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa, trong một buổi phát thanh ngày 29 tháng 1 trên kênh Russia 24, đã bày tỏ lo ngại về những gì đang xảy ra. Sau khi nhắc lại rằng “ở Mỹ, ở Ukraine và ở Nga, có những chính trị gia tin rằng chiến tranh là quyết định đúng đắn trong tình huống này”, ngài liệt kê những lý do tại sao ngài nói rằng ngài “tin tưởng sâu sắc rằng chiến tranh không phải là một phương pháp để giải quyết vấn đề [3] Trong một buổi phát thanh khác, ngài nhắc đến Rasputin, người đã cảnh báo Sa hoàng rằng “nếu Nga tham chiến, nó sẽ đe dọa cả đất nước với những hậu quả thảm khốc,” không chỉ dẫn đến mất mát một phần lãnh thổ Nga, mà còn chính “Nga” nữa [4]. Phải thừa nhận những lời mạnh mẽ, và ít được biết đến.

Tuy nhiên, không nên quên rằng nước Nga trước cách mạng biết rất rõ cách mô tả các cuộc chiến của nó chống lại các tư tưởng và phong trào tự do của Trung Âu bằng những lời trang trọng, hoành tráng và phổ quát. Nước Nga thời hậu cách mạng cũng có thể làm như vậy, theo các nguyên tắc của Đảng Cộng sản, với sự áp dụng phổ quát của chúng. Tuy nhiên, ngày nay, không có học thuyết triết học nào thực sự thuyết phục và “huyền bí”, có khả năng hỗ trợ sứ mệnh phổ quát của chủ nghĩa dân tộc Nga. Nỗi sợ hãi về sự dịch chuyển trí thức và ý thức hệ của các “mảnh ghép” của đế quốc - “thế giới Nga” - sang phương Tây và các giá trị của nó, một phong trào được coi là không thể chấp nhận được, vẫn còn tồn tại. Cuộc nổi dậy của người Ukraine tại Quảng trường Maidan vào tháng 2 năm 2014 được người Nga hiểu là một phần của phong trào này. Kho dự trữ thực sự duy nhất của hình ảnh bá quyền văn hóa và chính trị đầy mong muốn Nga vẫn là truyền thống linh đạo Chính thống giáo vĩ đại, mà từ đó tầm nhìn đế quốc đã rút được huyết mạch của nó.

Bức tranh thứ hai: ngai vàng và bàn thờ

Đó là ngày 18 tháng 3, khi Tổng thống Putin xuất hiện tại sân vận động Luzhniki ở Mạc Tư Khoa với tràng pháo tay lớn và một bài phát biểu ngắn gọn. Điều này liên hệ đến một sự thay đổi cách tiếp cận từ hình ảnh băng giá và xa cách mà ông ta vốn phóng chiếu trong cuộc xung đột này, đến mức đặt khoảng cách 7 mét giữa ông ta và một số người đối thoại quốc tế của ông ta.

Ngày 18 tháng 3 năm 2022, là kỷ niệm tám năm ngày sáp nhập Crimea, nhưng trước hết là sinh nhật của Fyodor Fyodorovich Ushakov, một nhân vật lịch sử và được coi là đô đốc bất khả chiến bại của thời đại Nga hoàng, được Giáo Hội Chính thống Nga tôn phong là một vị thánh vào năm 2001. Ý nghĩa biểu tượng rất rõ ràng: cuộc chiến hiện tại sẽ được đặt dưới sự bảo vệ của một vị thánh chiến binh, người, trong số những điều khác, vào năm 2005 đã được tuyên bố là vị thánh bảo trợ các máy bay ném bom hạt nhân. Vì vậy, tâm trí quay trở lại năm 2007, khi Putin, trong một cuộc họp báo, nói: “Cả đức tin truyền thống của Liên bang Nga và lá chắn hạt nhân của Nga là hai thứ củng cố vị thế nhà nước của Nga và tạo ra các điều kiện cần thiết để bảo đảm an ninh đối nội và đối ngoại của đất nước.” [5] Do đó đức tin Kitô giáo và bom hạt nhân dường như có mối liên hệ bi thảm trong việc phục vụ nhà nước và “an ninh” của nó.

Vào đầu tháng 3, Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa đã nói về cuộc xâm lược này là “một cuộc đấu tranh không có ý nghĩa vật chất mà là siêu hình.” [6] Do đó, ngài phóng chiếu cuộc tấn công quân sự chính trị lên thành kịch bản của một cuộc đấu tranh khải huyền, một cuộc đụng độ cuối cùng giữa những người tốt và kẻ ác. Do đó, thần thánh có nguy cơ trở thành hình phóng chiếu lý tưởng của quyền lực cấu thành. Quốc gia là “dân riêng”, và đức tin tự lập mình thành người chống lại những kẻ không thuộc về nó, tức là “kẻ thù” và những kẻ bất đồng chính kiến. Lời kêu gọi quân sự về ngày tận thế này luôn biện minh cho sức mạnh mà một vị thần mong muốn. Thí dụ, nó là điển hình của chủ nghĩa thánh chiến Hồi giáo [jihadism], nhưng cũng là các hình thức của chủ nghĩa tối thượng tân Thập tự chinh gần đây được thấy ở Hoa Kỳ. [7]

Trong một bài phát biểu sau đó, Đức Thượng phụ phủ nhận sự xâm lược của Nga ở Ukraine: “Chúng tôi không muốn đánh nhau với bất cứ ai. Nga chưa bao giờ tấn công bất cứ ai. Thật là ngạc nhiên khi một đất nước rộng lớn và hùng mạnh chưa từng tấn công ai; nó chỉ bảo vệ biên giới của nó.” [8]

Mặt khác, Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko, tại vị từ tháng 6 năm 2014 đến tháng 5 năm 2019, không xa rời mô hình chính trị-thần học này khi ông đưa ra khẩu hiệu “Quân đội, ngôn ngữ và đức tin”. Vào tháng 12 năm 2018, vào ngày bầu Đức Epiphanius làm tân giáo chủ của Giáo Hội Chính thống Ukraine Tự trị, chiếc ghế "hoàng gia" bên cạnh bàn thờ trong nhà thờ Thánh Sophia đã được dành cho Poroshenko. Bộ máy tôn giáo của sự ý thức dân tộc đã bắt đầu. Bốn ngày sau, Ngoại trưởng Mỹ Michael Pompeo đã chúc mừng người Ukraine, nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo đảm quyền tự do tôn giáo của họ “không có ảnh hưởng từ bên ngoài”.

Bức tranh thứ ba: pietas và potestas (lòng đạo và quyền lực)

Trong bối cảnh này, Đức Giáo Hoàng đã chọn thực hiện một cử chỉ khiêm tốn và rõ ràng mang tính tiên tri, để bác bỏ luận lý học sai lầm này. Ngài đã thánh hiến nước Nga và Ukraine cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria. Cử chỉ của ngài giữ tính liên tục với cử chỉ của Đức Piô XII vào năm 1942, trong Thế chiến thứ hai.

Để hiểu được cử chỉ dâng hiến khiêm nhường này, sẽ rất hữu ích nếu lùi lại thời gian khi Đức Phanxicô, trong một cách thức truyền giáo đầy khiêu khích, vào năm 2014, đã gọi những kẻ khủng bố Hồi giáo, bằng một cách diễn đạt vừa nặng cả việc lên án lẫn lòng trắc ẩn, là “những kẻ tội phạm đáng thương.” Kẻ thù - thậm chí kẻ khủng bố! - vẫn là “một đứa con hoang đàng,” và không bao giờ là hiện thân của ma quỷ. Ngài cũng đưa ra lời khẳng định thực sự độc đáo nhờ đó ngăn chặn kẻ gây hấn bất chính là một “quyền”, nhưng phải được phát biểu như một “quyền của kẻ gây hấn,” vốn là một quyền nghịch lý “phải được ngăn chặn để không gây tổn hại.” [9] Thực thế, tình yêu đặc trưng của Kitô hữu không phải chỉ đối với “người hàng xóm”, mà còn đối với cả “kẻ thù” nữa.

Khi chúng ta tiến tới chỗ nhìn một người thực hiện một hành động khủng khiếp, dưới ánh sáng của một số hình thức pietas (*) nào đó, thì sức mạnh mật thiết của Tin Mừng Chúa Kitô chiến thắng một cách gây xôn xao dư luận: tình yêu đối với kẻ thù. Không có điều này, Tin Mừng sẽ có nguy cơ trở thành một bài diễn văn xây dựng, chắc chắn không phải là một bài diễn văn cách mạng.

Đây là thông điệp của Hội đồng Giám mục Ukraine, khi bắt đầu cuộc xung đột - theo kiểu Tin Mừng gây xôn xao dư luận - cầu nguyện cho các nhà cầm quyền Ukraine và tất cả những người bảo vệ tổ quốc, nhưng cũng “cho những người khởi sự chiến tranh và mù quáng vì gây hấn. Chúng ta hãy bảo vệ trái tim của chúng ta khỏi sự căm ghét và tức giận đối với kẻ thù của chúng ta. Chúa Kitô chỉ dẫn rõ ràng phải cầu nguyện cho họ và chúc lành cho họ.” [10] Thông điệp này dường như đã thất lạc sau ba tháng chiến tranh, một cuộc chiến tranh chúng ta không thể tưởng tượng nổi.

Đó là lý do tại sao ngỏ lời với Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa, người mà ngài đã nói chuyện như là anh em trong một hội nghị truyền hình ngày 16 tháng 3, Đức Phanxicô nói rằng “Giáo hội không nên dùng ngôn ngữ của chính trị, mà là ngôn ngữ của Chúa Giêsu,” [11] là ngôn ngữ của hòa giải, hòa bình và tình yêu.

Vâng, của tình yêu. Chính Putin tại sân vận động Luzhniki ở Mạc Tư Khoa đã nói những lời này: "Không ai có tình yêu lớn hơn điều này: hy sinh cuộc đời của mình vì bạn bè của mình." Đó là những lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan (15:13) ở đây được sử dụng để biện minh cho một cuộc xâm lược và hận thù. Tuy nhiên, quan niệm bộ lạc về tôn giáo và tình bạn đi ngược lại Tin Mừng, vốn dựa trên việc “yêu kẻ thù của mình” (Mt 5:43). Những lời hoa mỹ về quyền lực và bạo lực trong bối cảnh tôn giáo là phạm thượng vì nó nại tới Thiên Chúa để làm hoen ố danh tính của Người, đó là tình yêu.

Chúng ta cũng đã thấy rằng Tổng thống Hoa Kỳ Biden đã không từ bỏ từ ngữ hoa mỹ tôn giáo, khi trích dẫn lời Thánh Gioan Phaolô II ở Warsaw: "Đừng sợ!" Nhưng ông đã quên phần thứ hai của lời kêu gọi đó: "Hãy mở, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!" Những lời hùng biện có nguy cơ làm chập điện Chúa Kitô, tự do và NATO không phải là Kitô giáo. Diễn ngôn tôn giáo không bao giờ được biến thành diễn ngôn chính trị. Sự leo thang truyền thông được tôn giáo thúc đẩy hệ ở việc sử dụng các thuật ngữ thần học để biện minh cho quyền lực và xung đột. Thay vào đó, Đức Phanxicô nói “thật đáng buồn biết bao, khi người ta và các dân tộc tự hào là Kitô giáo coi người khác là kẻ thù và nghĩ đến việc gây chiến với nhau!”. Thánh thiêng không bao giờ là chỗ dựa của quyền lực. Quyền lực không bao giờ là chỗ dựa của thánh thiêng.

Đức Giáo Hoàng luôn chống lại sự lôi cuốn trong việc biến Kitô giáo trở thành một bảo đảm chính trị, bất kể điều đó có thể là gì. Ngài đã cứu Kitô giáo khỏi cơn cám dỗ muốn mãi là người thừa kế của Đế quốc La Mã hoặc của Byzantium. Cơn cám dỗ với những đặc điểm dân tộc chủ nghĩa nhằm phóng chiếu những đế quốc đó thành bất cứ liên minh quân sự nào của kẻ tốt chống lại kẻ xấu đôi khi có vẻ như không thể cưỡng lại được. Phải luôn phân biệt rạch ròi về potestas [quyền lực] chính trị và auctoritas [thẩm quyền] tôn giáo: nghĩa là sức mạnh phổ quát của Công Giáo. Chiếc áo dòng trắng của Đức Giáo Hoàng đưa Kitô giáo trở về với Chúa Kitô, Đấng trước mặt những người muốn bảo vệ Người bằng thanh gươm đã hét lên hai lần "Đủ rồi!". Đức Phanxicô thậm chí không còn mặc màu đỏ, màu hoàng gia và biểu thức của imitatio imperii [bắt chước đế quốc] của giám mục Rôma.

Bức tranh thứ tư: chủ nghĩa đại kết và chủ nghĩa dân tộc

Thảm kịch Ukraine vì thế cũng là một thảm kịch của Kitô giáo. Vì lý do này, cần phải giữ cho cánh cửa đối thoại đại kết rộng mở, để có thể tác động đến tương lai chính trị của một nền hòa giải giữa hai dân tộc, vốn xa xôi đồng thời cần thiết.

Đức Phanxicô và Kirill đã gặp nhau lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 2 năm 2016, tại phòng chờ sân bay ở Havana, Cuba. Đó là một cuộc gặp lịch sử, một cuộc gặp đầu tiên đích thực. [12] Ngay lúc đó, lời lẽ cũng đã được trao đổi về cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine. Một cuộc gặp thứ hai sẽ là điều mong muốn, sớm hay muộn, nhưng khi có điều kiện làm nó khả hữu.

Chúng ta nên nhớ rằng kể từ năm 2019, có hai Giáo hội Chính thống quan trọng ở Ukraine không hiệp thông với nhau: một Giáo hội bao gồm những người đồng nhất với Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa và một Giáo hội mà tính độc lập [autocephaly] với tòa riêng của nó ở Kyiv được Thượng phụ Constantinople công nhận vào năm 2019. Autocephaly có nghĩa là quyền tự quản lý một cách độc lập. Giáo Hội độc lập không công nhận bất cứ thẩm quyền quản trị giáo hội nào bên trên vị trưởng giáo đô, tức Đức Epiphanius của nó. Với quyền độc lập, một sự chia rẽ trong giáo hội tương tự như sự chia rẽ trong chính trị, một cách nào đó, đã được tạo ra, bởi vì đối với Giáo hội Nga, người ta không thể quan niệm được việc mất liên hệ với lãnh thổ Ukraine, nơi mà từ đó nó vốn bắt nguồn. Do đó, sự hiệp thông với Constantinople bị đứt đoạn, và từ đó với Giáo hội do Epiphanius lãnh đạo.

Giáo Hội kia, vẫn hiệp thông với Mạc Tư Khoa, được điều hành bởi Trưởng Giáo đô [Metropolitan] Onofrius. Tuy nhiên, Thượng hội đồng của Giáo hội này đã tuyên bố hoàn toàn độc lập và tự chủ khỏi Mạc Tư Khoa vào ngày 27 tháng 5, nhưng vẫn không tham gia Giáo Hội độc lập. Lập trường của Epiphanius đối với cuộc chiến là rất nghiêm khắc: “Sự lên án, lời nguyền rủa và sự trừng phạt không xót thương của Đấng toàn năng đang chờ giáng xuống những kẻ sát nhân vì họ yêu cái ác và bóng tối” (20 tháng 3 năm 2022). [13] Trưởng Giáo đô, người hợp nhất với Tòa Mạc Tư Khoa, Onofrius, đã kêu gọi hòa giải nội bộ: "Vì lợi ích của quân đội và nhân dân của chúng ta, tôi yêu cầu các hiền huynh quên đi những cãi vã và hiểu lầm lẫn nhau và đoàn kết bằng tình yêu dành cho Thiên Chúa và Đất nước của chúng ta." Onofrius rõ ràng ủng hộ và tiếp tục ủng hộ chủ quyền nhà nước và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, và vào ngày 24 tháng 2, ngài cũng kêu gọi Tổng thống Putin dừng “chiến tranh huynh đệ tương tàn”. Ngài lặp lại: “Vladimir Vladimirovich, hãy làm mọi cách để chấm dứt chiến tranh trên đất Ukraine!”. Ngài nói, các dân tộc Ukraine và Nga, “đã xuất hiện từ giếng rửa tội của Sông Dnepr, và cuộc chiến tranh giữa các dân tộc này là sự lặp lại tội lỗi của Cain, kẻ đã giết chết em trai mình vì ghen tị.” [14]

Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp-Ukraine, do Đại Tổng Giám Mục Sviatoslav lãnh đạo, đã công bố một lời kêu gọi chân thành vào ngày 24 tháng 2: “Vào thời điểm lịch sử này, tiếng nói của lương tâm chúng ta kêu gọi tất cả chúng ta đoàn kết để bảo vệ nhà nước Ukraine tự do, công đồng và độc lập!” [15]

Trong Chính thống giáo Nga, một dấu hiệu quan trọng cần được ghi nhận: một nhóm khoảng 300 linh mục và phó tế đã đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ tới tất cả những người mà tùy họ mới có sự kết thúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn ở Ukraine; lời kêu gọi này yêu cầu hòa giải và chấm dứt xung đột ngay lập tức. Nhưng căng thẳng cũng đã lên đến mức một số người Ukraine có liên kết với Mạc Tư Khoa - trong số đó có Trưởng Giáo đô Sumy và Akhtyrka - đã quyết định ngừng nêu tên Thượng phụ Kirill trong các buổi phụng vụ. Một số giáo chủ của các Giáo hội độc lập cũng đã lên án chiến tranh, bao gồm Gioan của Antioch, Theophilus của Giêrusalem, Porphyry của Serbia và Neophytus của Bulgaria, những vị được biết là khá gần gũi với Mạc Tư Khoa. Hội đồng Đại kết của các Giáo hội đã viết một lá thư cho Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa, yêu cầu ngài lên tiếng để chiến tranh được chấm dứt.

Như chúng ta đã hiểu, một mặt của chủ nghĩa dân tộc là mặt tôn giáo. Ngay cả việc trục xuất Giáo hội Chính thống Nga khỏi Hội đồng Đại kết của các Giáo hội cũng đã được đề nghị. [16] Điều đó sẽ không làm gì khác hơn là bóp nghẹt Giáo hội đó nhiều hơn nữa dưới động lực giả mạo của quyền lực chính trị.

Vấn đề thực sự là, nếu các Giáo hội từ bỏ đối thoại hiệp thông - dù yếu ớt và không mấy liên quan - thì họ sẽ đầu hàng chủ nghĩa dân tộc, thể hiện lập trường phản chiếu lập trường của các chính phủ khác nhau (có thể theo kiểu cao hơn và tinh thần hơn). [17] Đó sẽ là một sự quay trở lại với chủ nghĩa thực dân, vốn đòi hỏi các Giáo hội phải tìm lại biên giới của họ qua các chia rẽ tuyên tín của họ. Nó sẽ là cái chết của phong trào đại kết.

Lập trường chung thực sự phải là lập trường của Tin Mừng, nhân chứng chung của Kitô giáo, làm việc cho hòa bình, công lý và hòa giải. Mong muốn Đức Phanxicô đến thăm Kyiv cũng là điều tốt đẹp, nhưng chuyến thăm sẽ chỉ có ý nghĩa nếu sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng có thể trở thành cơ hội để hòa giải - như đã xảy ra ở Bangui, một kết quả mà ngài cũng mong muốn đối với Juba, Nam Sudan – chứ không để nghi ngờ và chia rẽ.

Bức tranh thứ năm: Đường Thánh giá

Nhiều phản bác đã dấy lên đối với ý tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc để một phụ nữ Ukraine và một phụ nữ Nga vác thánh giá tại Trạm thứ 13 Đường Thánh Giá ở Colosseum. Cùng với nhau. Đại sứ Ukraine tại Tòa thánh cho biết trong một tweet rằng phái bộ ngoại giao của ông "hiểu và chia sẻ mối quan tâm chung ở Ukraine và nhiều cộng đồng khác."

Làm thế nào cử chỉ này có thể bị coi là "tai tiếng?" Kẻ xâm lược và người bị xâm lược đều được Đức Phanxicô kết hợp trong cùng một lời cầu nguyện, giống như đã xảy ra với việc dâng hiến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Nga và Ukraine. Ngài sử dụng ngôn ngữ của Chúa Giêsu. Ngôn ngữ này là gì? “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ mình, hầu cho các ngươi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời; vì Người làm cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, làm mưa cho người công chính và kẻ gian ác” (Mt 5: 44-45). Đức Phanxicô hành động theo tinh thần Tin Mừng, đó là tinh thần hòa giải, thậm chí chống lại mọi hy vọng hữu hình trong cuộc chiến tranh xâm lược này. Ngài quả quyết, trong một tweet, “Chúa không phân chia chúng ta thành tốt và xấu, thành bạn và thù. Đối với Người, tất cả chúng ta đều là những đứa con yêu dấu”. Như thế, tất cả đều là anh em. Tất cả đều là các con trai con gái. Do đó, tiếng kêu "Dừng lại!" được ngỏ cùng tất cả các bên.

Hai phụ nữ, Albina và Irina, vác thánh giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh. Họ không nói một lời nào. Thậm chí không có một lời cầu xin tha thứ hay bất cứ điều gì tương tự. Không một lời nào. Họ ở dưới cây thánh giá khi vác nó. Cùng nhau một cách gây xôn xao. Dấu hiệu của họ là dấu hiệu tiên tri trong khi bóng tối từng dầy đặc và vẫn còn dầy đặc. Việc họ ở bên nhau, những người con gái của Thiên Chúa và chị em trong cuộc chiến khiến họ trở thành kẻ thù của nhau, là lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa xin Người ban cho chúng ta ân sủng hòa giải. Sự hiện diện của họ cùng nhau là một lời cầu nguyện để cầu xin, không phải cầu xin để được một không tưởng đẻ non, nhưng để được một ân sủng mà theo Đức Giáo Hoàng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho. Lời tiên tri chen giữa trái tim và bóng tối của lịch sử, khiến nó nổ bùng từ bên trong như một cuộc phục sinh. Một thế giới trong đó chỉ có thể có bạn hoặc thù trước thập giá, chứ không phải anh chị em, sẽ chỉ tiết lộ sự bất liên quan của Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kytô, đưa chúng ta trở lại mô hình thần học cổ xưa về công lý không đi đôi với lòng thương xót.

Đàng Thánh giá là một nghi thức dựng lại và tưởng nhớ hành trình đau khổ của Chúa Giêsu trên đường đến nơi bị đóng đinh. Trong nghi thức này, nỗi đau khổ trong những vết thương và lần ngã xuống đất của Chúa Kitô được diễn tả, nội tâm hóa, chi tiết hóa, nhận làm của mình. Gợi lên việc hòa giải trong bóng tối đau khổ cứu được sự vô tội của các dân tộc, của “những con người bình thường, chỉ mong muốn hòa bình”.

Dấu hiệu ấy bị nhiều người ở Ukraine hiểu lầm. Trong cuộc phỏng vấn với Bruno Vespa, đích thân Tổng thống Zelensky cho biết: “Chúng tôi rất biết ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô và chúng tôi tin tưởng ngài, nhưng chúng tôi không thể chấp nhận hình ảnh hai người đi bên nhau mang theo lá cờ của Nga và Ukraine, vì đối với chúng tôi, lá cờ Nga đồng nghĩa với sự chiếm đóng; đó là lá cờ mà nhân danh nó, họ đang giết chúng tôi." Tất nhiên, điều này không bao giờ xảy ra; hai phụ nữ cầm thánh giá trần trụi, không cầm hai lá cờ.

Đức Phanxicô, bằng cách đặt với nhau dưới cây thánh giá, hai người phụ nữ đã chung tay khi chạm vào cây thánh giá đẫm máu, đã hoàn thành nhiệm vụ của ngài như một mục tử “Công Giáo”, tức có tính hoàn vũ. Bằng cách này, trong thời điểm khó khăn này, ngài đã cứu được tính Công Giáo của đức tin của ngài và của Giáo hội của ngài. Ngài cứu nó khỏi vũng lầy của chủ nghĩa duy dân tộc và khỏi các liên minh giữa ngai vàng và bàn thờ hoặc giữa các nghị viện và Giáo hội. Thật là khủng khiếp và tai tiếng. Nhưng việc này là để rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô.

Bức tranh thứ sáu: Giáo hoàng và chính sách ngoại giao

Chiến tranh càng tàn khốc, thì sông nước mắt và máu càng chảy, con đường hòa giải có thể sẽ càng quanh co. Chúng ta không bao giờ tưởng tượng rằng chúng ta sẽ rơi vào một cuộc chiến tranh giữa lòng châu Âu.

Tòa thánh đã làm phần việc của mình từ lâu. Hãy nhớ lại rằng Đức Giáo Hoàng đã ba lần gặp Tổng thống Nga Putin (2013, 2015 và 2019), một lần với Tổng thống Ukraine Poroshenko (2015) và một lần với người kế nhiệm, Tổng thống Zelensky (2020), người mà sau đó ngài đã nói chuyện qua điện thoại hai lần trong cuộc xung đột. Vào năm 2015, Đức Phanxicô đã nói chuyện với Putin về tình hình liên quan đến Ukraine; ngài nói rằng “cần phải tham gia vào một nỗ lực chân thành và lớn lao để đạt được hòa bình.” Họ “nhất trí về tầm quan trọng của việc thiết lập lại bầu không khí đối thoại và tất cả các bên nên cam kết thực hiện các thỏa thuận Minsk.” Vào năm 2020, các cuộc đàm phán với Zelensky đã được dành riêng - một thông cáo chung từ thời điểm hiện tại - “để tìm kiếm hòa bình trong bối cảnh cuộc xung đột, kể từ năm 2014, vẫn đang gây tác dụng cho Ukraine”. Về phương diện này, hy vọng chung là “tất cả các bên liên quan thể hiện sự nhạy cảm tối đa đối với nhu cầu của người dân, những nạn nhân đầu tiên của bạo lực, cũng như cam kết và nhất quán trong đối thoại.”

Nay, chúng ta biết rằng khi nhận được vũ khí, Ukraine đang chuẩn bị đối với cuộc tấn công của Nga. Thay vào đó, tại sao con đường đối thoại đã không được theo đuổi một cách kiên quyết hơn, và các cuộc đàm phán hữu hiệu được kết thúc để tránh rơi vào vực thẳm chiến tranh, trong bối cảnh mọi căng thẳng đã được biết rõ? Đức Giáo Hoàng tiếp tục nói trong cuộc xung đột: "Hãy để các cuộc đàm phán được nhắm tới thực sự và cương quyết, và các hành lang nhân đạo được duy trì hữu hiệu và an toàn."

Đức Phanxicô không cố gắng diệt trừ điều ác, vì ngài biết điều đó không thể làm được. Nó sẽ chỉ tự hiển hiện ở nơi khác, dưới những hình thức khác. Nó luôn luôn hành xử như thế. Thay vào đó, ngài tìm cách trung lập nó. Chính vì lý do đó, dưới khuôn mạo ngoại giao, ngài nhận trách nhiệm đối với những lập trường rủi ro và dễ bị hiểu lầm, đến mức thấy mình đơn độc như tiếng kêu trong sa mạc. Giống như Thánh Gioan Phaolô II vào thời điểm xảy ra các cuộc chiến tranh vùng Vịnh.

Ngoại giao của Vatican nhìn vào thời điểm hiện tại, nhưng cũng hướng tới tương lai gần. Theo nghĩa này, nó rõ ràng trong các kết án của nó, nhưng với ý định dệt và may, chứ không cắt. Không ai nên nghi ngờ về sự rõ ràng của việc lên án kẻ xâm lược. Trong số các thuật ngữ được Đức Phanxicô sử dụng là “hành động gây hấn có vũ trang không thể chấp nhận được”, “xâm lược bạo lực chống lại Ukraine”, “cuộc chiến tranh ghê tởm”, “cuộc thảm sát vô nghĩa”, “cuộc xâm lược Ukraine”, “sự man rợ” và “hành động phạm thánh”. Tuy nhiên, các vị giáo hoàng không tấn công các nhà lãnh đạo tôn giáo hoặc chính trị. Đức Phanxicô, giống như những vị tiền nhiệm của ngài, kêu gọi giải quyết xung đột và lên án các hành động và lựa chọn chính trị hoặc chiến lược xấu xa. Điều này tạo ra nhận thức sai lầm về “chủ nghĩa trung lập” về phía Đức Giáo Hoàng, người biết rằng bạo lực sinh ra bạo lực và chiến thắng phát sinh thất bại và hòa bình không ổn định và mong manh. Chính cuộc hòa bình của Versailles đã tạo ra con quái vật Đức Quốc xã. Và đã bao nhiêu lần Đức Phanxicô từng tố cáo hòa bình kiểu Yalta?

Cách tiếp cận của Đức Giáo Hoàng dựa trên sự chắc chắn này là đế quốc sự thiện không được ban cho thế giới này. Do đó cần phải đối thoại với tất cả mọi người, thực sự là tất cả mọi người. Thí dụ, chúng ta hãy nhớ lại rằng Đức Phanxicô đã làm như vậy ngay cả với Tướng Min Aung Hlaing, người đứng đầu quân đội Myanmar, chịu trách nhiệm về các chiến dịch chống lại người Rohingya thân yêu của ngài. Do đó, quyền lực thế gian hoàn toàn bị phi thánh thiêng. Và cũng chính vì lý do đó mà không ai là hiện thân của ma quỷ cả.

Nguyên tắc của Đức Piô XI vẫn còn nguyên giá trị: “Khi đặt vấn đề cứu một số linh hồn, ngăn ngừa những tổn thương lớn hơn cho các linh hồn, chúng ta cảm thấy can đảm để đương đầu với ma quỷ” (Diễn văn tại Đại học Mondragone, ngày 14 tháng 5 năm 1929).

Mặt khác, “một vị giáo hoàng không thể làm cho những người đang gây chiến tranh hiểu mình, thì làm sao ngài khác với Tổng thư ký Liên hiệp quốc được?” [18]

Sự kiện Đức Giáo Hoàng, trong một cử chỉ hoàn toàn chưa từng có, đến thăm đại sứ Nga tại Tòa thánh trong nỗ lực ngăn chặn chiến tranh, là một phần của chính sách ngoại giao này. Cũng có sự kiện này là ngài đã cử hai vị Hồng Y - Czerny và Krajewski - đến Ukraine và Đức Tổng Giám Mục Gallagher, Bộ trưởng Liên hệ với các Quốc gia. Ngài cũng kêu gọi tổ chức một ngày cầu nguyện và ăn chay vì hòa bình ở Ukraine vào Thứ Tư Lễ Tro, ngày 2 tháng 3, như ngài đã làm cho Syria vào ngày 7 tháng 9 năm 2013. Đức Giáo Hoàng cũng muốn đặc biệt đọc kinh Mân Côi vì hòa bình vào ngày 31 tháng Năm.

Nói chung, Đức Phanxicô, giống như những vị tiền nhiệm của mình, luôn làm việc cho sự hòa giải và ổn định kéo dài theo thời gian: ngài đồng hành với các tiến trình để có một không gian cho sự hòa giải, điều mà hiện tại, thật không may, dường như ngày càng xa vời, ít nhất là đối với thế hệ hiện nay. Đây là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng nói rõ ràng rằng đây không phải là một “hoạt động quân sự” - như Putin muốn gọi nó - mà là một “cuộc chiến” thực sự, một “cuộc xâm lược vũ trang không thể chấp nhận được”.

Bức tranh thứ bảy: thống trị và đàm phán

Chúng ta có kế hoạch nào để mang lại hòa bình, chung sống và an ninh tập thể ở châu Âu và thế giới? Chúng ta có ý thức đầy đủ các hậu quả mà chiến tranh có thể gây ra trên các khu vực rộng lớn của Châu Phi và Châu Á không? Vì khan hiếm ngũ cốc, trong đó Ukraine và Nga là các nhà xuất khẩu chính hoàn cầu, và các vấn đề lương thực nghiêm trọng do đó mà ra đối với hàng triệu người, các hậu quả về áp lực di cư có thể dự kiến được. Còn những hậu quả có thể xảy ra của việc thiếu hụt năng lượng thì sao? Tất cả các yếu tố đều có ở đó để “làm lung lay nhiều chế độ chính trị trên khắp thế giới. Thật khó để tưởng tượng rằng điều này sẽ củng cố các nền dân chủ.” [19]

Đức Phanxicô rất triệt để trong cách tiếp cận chính trị quốc tế, như ngài đã nói trong một buổi tiếp kiến, trong đó ngài lên án việc leo thang quân sự và chạy đua vũ khí: “Thế giới tiếp tục được điều hành như một 'bàn cờ tướng', nơi người ta nghiên cứu các động thái để mở rộng sự thống trị làm tổn hại đến người khác.” [20] Quan điểm của ngài về chiến tranh dựa trên“ các đế quốc mới ”, như ngài đã tuyên bố trong cuộc họp báo khi trở về sau chuyến tông du Malta, cũng rõ ràng không kém.

Vậy thì, có gì để hy vọng? Đức Tổng Giám Mục Gallagher, Bộ trưởng Liên hệ với các Quốc gia, người đã thực hiện chuyến đi, từ ngày 18 đến 20 tháng 5, tới Ukraine, [21] đã nhắc lại “tầm quan trọng của đối thoại để tái lập hòa bình.” Trong một cuộc phỏng vấn, ngài thừa nhận rằng "vết thương rất sâu" và việc hòa giải sẽ mất nhiều thời gian. Nhưng “phải đối mặt với một cuộc chiến vẫn tiếp diễn, cuối cùng thì phải có ngoại giao mới giải quyết được mọi việc; các bên xung đột phải đến bàn thương thảo”. Do đó, chúng ta phải “làm mới lại cam kết này, để giải quyết xung đột qua đối thoại ngoại giao và chính trị”.

Thông điệp chính mà Thủ tướng Ý, Mario Draghi, truyền đạt trong chuyến công du tới Nhà Trắng rất đáng lưu ý về mặt này. Khi bắt đầu bài phát biểu trước cuộc gặp mặt trực tiếp với nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, ông nhấn mạnh rằng cuộc chiến ở Ukraine đã khiến mối liên hệ của Hoa Kỳ với toàn châu Âu trở nên mạnh mẽ hơn. Nhưng ông cũng nói rằng “ở Ý và châu Âu, ngay bây giờ, mọi người đang hỏi làm thế nào để mang lại hòa bình cho Ukraine”; ông nhấn mạnh rằng “mọi người muốn cuộc thảm sát này, cuộc tàn sát này kết thúc”.

Draghi đề cập tới vấn đề chính là làm thế nào để xây dựng lại sự cân bằng và ổn định trong hệ thống liên hệ quốc tế. Trong chủ nghĩa hiện thực bất toàn của cuộc sống các quốc gia, đây là ý nghĩa của hòa bình. Để có được việc khôi phục lại sự cân bằng đó, cần phải bắt tay vào con đường đàm phán trong khuôn khổ quốc tế. Putin phải đối mặt với các hậu quả của việc phá vỡ hệ thống cán cân được xây dựng sau khi Liên Xô sụp đổ.

Tuy nhiên, người ta không nên mong Nga như một quốc gia bị sỉ nhục. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, khi kết thúc cuộc họp của Hội nghị về Tương lai Châu Âu tổ chức tại Strasbourg, đã tuyên bố rằng khi hòa bình trở lại trên đất Châu Âu, chúng ta sẽ phải xây dựng các cân bằng an ninh mới và “chúng ta sẽ cùng nhau không bao giờ chiều theo cơn cám dỗ gây sỉ nhục hoặc tinh thần trả thù." Macron nhớ lại những gì đã xảy ra với Hiệp ước Versailles, được ký kết sau Thế chiến thứ nhất, "được đánh dấu bằng sự sỉ nhục của nước Đức." Vì vậy, hòa bình sẽ phải được xây dựng "với Ukraine và Nga xung quanh bàn [thương thảo].” [22]

Lịch sử Thế Chiến thứ hai cho thấy không thể xây dựng một trật tự quốc tế với một cường quốc bị sỉ nhục tìm cách trả thù. Thay vào đó, người ta phải mong muốn một nước Nga [23] hòa nhập vào một viễn kiến châu Âu trải dài từ Đại Tây Dương đến Urals, viễn kiến mà Thánh Gioan Phaolô II từng mơ ước.
________________________________________

(*) Pietas có nhiều nghĩa “bổn phận”, “lòng đạo” “tác phong tôn giáo”, “lòng trung thành” hay “lòng hiếu thảo”. Có người cho rằng người có lòng pietas “thi hành mọi nhiệm vụ của mình với thần minh và anh em đồng loại một cách trọn vẹn và trong mọi khía cạnh”. Có người cho rằng “Một người Rôma có pietas không bỏ các nhiệm vụ tôn giáo của mình lại cửa đền thờ, nhưng đem chúng theo với mình đi khắp nơi, theo ý muốn của các thần minh, vào cả các thương vụ và cuộc sống hàng ngày của họ”.

Nguyên văn: DOI: La Civiltà Cattolica, En. Ed. Vol. 6, no.6 art. 12, 0622: 10.32009/22072446.0622.12

[1]. Cf. A. Spadaro, “Intervista a Papa Francesco”, in Civ. Catt. 2013 III 449-477.
[2]. Ghi chú của bản tiếng Anh: Nhận xét của Cha Spadaro đưa ra trước khi Hilarion bị thay thế trong vai trò này.
[3]. www.patriarchia.ru/db/text/5892566.html
[4]. http://interfax-religion.ru/?act=news&div=78780
[5]. http://en.kremlin.ru/events/president/transcripts/24026
[6]. www.patriarchia.ru/db/text/5906442.html
[7]. Cf. A. Spadaro, “Evangelical Fundamentalism and Catholic Fundamentalism. A surprising ecumenism”, in Civ. Catt. English Edition, July 2017, www.laciviltacattolica.com/evangelical-fundamentalism-and-catholic-integralism-in-the-usa-a-surprising-ecumenism/
[8]. www.patriarchia.ru/db/text/5922848.html
[9]. Kiểu nói này được Đức Phanxicô sử dụng khi gặp các người tỵ nạn và khuyết tật tại Nhà thờ Công Giáo Latinh ở Bethany ngày 24 tháng 5, 2014. Xem A. Spadaro, “La diplomazia di Francesco. La misericordia come processo politico”, in Civ. Catt. 2016 I 209-226; Id., “Francesco. Sfida all’apocalisse”, in Limes, No. 6, 2018.
[10]. http://kmc.media/2022/02/24/yepyskopat-ukrayiny-vidnovimo-nashe-prysvyachennya-sercyu-bogorodyci.html
[11].www.vaticannews.va/it/papa/news/2022-03/papa-videochiamata-patriarca-kirill-guerra-ucraina-pace.html
[12]. Xem “Il primo incontro tra il Vescovo di Roma e il Patriarca di Mosca”, in Civ. Catt. 2016 I 417-425.
[13]. Các phát biểu của Đức Epiphanius có thể tìm thấy tại www.pomisna.info/uk
[14]. Các phát biểu của Đức Onofrius có thể tìm thấy tại https://news.church.ua
[15]. Các phát biểu của Đức Sviatoslav có thể tìm thấy tại http://news.ugcc.ua
[16]. Xem www.churchtimes.co.uk/articles/2022/8-april/news/world/rowan-williams-adds-his-voice-to-calls-for-the-wcc-to-eject-russian-orthodox-church
[17]. Xem. A. Melloni, “Le Chiese e la guerra: perché con il conflitto in Ucraina va in frantumi anche l’ecumenismo”, in la Repubblica, April 27, 2022.
[18]. L. Manconi, “Perché papa Francesco non deve andare a Kiev”, in La Stampa, April 21, 2022.
[19]. M. Magatti, “Disarmare Putin si può”, in Avvenire, April 12, 2022.
[20]. Francis, Diễn văn với các tham dự viên cuộc gặp mặt do Trung Tâ Phụ Nữ Ý bảo trợ, 24 tháng Ba, 2022.
[21]. Ngài thăm Lviv, Kyiv và nhiều nơi khác, như Bucha, Irpin, Vorzel. Thời gian ở đó của ngài đầy những cuộc gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo, đại diện các định chế, bao gồm cả bộ trưởng ngoại gao Dmytro Kuleba, người và đại diện khuyết tật.
[22]. https://presidence-francaise.consilium.europa.eu/fr/actualites/discours-du-president-de-la-republique-a-l-occasion-de-la-conference-sur-l-avenir-de-l-europe
[23]. Một viễn kiến, có lẽ, dường như đã xuất hiện trong bài diễn văn Putin đọc tại Bundestag năm 2001, khi ông ta mơ “một mái nhà trong đó người Âu Châu không còn chia rẽ thành Đông hay Tây, Bắc hay Nam” mặc dù ông biết các chia rẽ này vẫn tồn tại, “vì chúng ta chưa bao giờ hoàn toàn tự giải thoát mình khỏi các tiên mẫu của Chiến tranh Lạnh” Xem ww.bundestag.de/parlament/geschichte/gastredner/putin/putin-196934/. Ngày nay, chúng ta không biết nên đọc nó một cách chua cay hay tiếc nuối. Tuy nhiên, hy vọng vẫn còn đó và vẫn tiếp diễn, bất chấp mọi điều, như một dấu chỉ hướng tới tương lai gần.