(Chúa Nhật XXXII thường niên - năm B - Mc 12,38-44)
1.- Ngữ cảnh
Giáo huấn của Đức Giêsu và lời nhắc đến các kinh sư đi với nhau, khiến chúng ta nhớ đến đoạn văn trước (Mc 12,35). Bản văn này là như bức tranh bộ đôi trong đó nổi rõ những nét tương phản. Các kinh sư khoe khoang và đạo đức giả bị chỉ trích trong đoạn văn này là hình ảnh ngược lại với hình ảnh người môn đệ của Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (12,38-40);
2) Câu truyện bà goá nghèo (12,41-44).
Hai phần này được liên kết với nhau bằng từ móc nối “bà góa” (cc. 40.42).
3.- Vài điểm chú giải
- Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa … thích … (38): Các lời cáo buộc của Đức Giêsu được nêu theo một mức độ trầm trọng tiệm tiến: xúng xính trong áo thụng, thích được chào và thích ghế danh dự. “Áo thụng” (Hl. stolê) là áo choàng các kinh sư thường mặc để cư xử trong một số trường hợp. Mt 23,5 trách là họ đã nối dài tua áo. Thật ra chính bộ áo cũng đã “thụng”, khi đi thì kéo lê sát đất. Cũng có thể đây là cử chỉ quấn mình vào trong áo khi cầu nguyện, khi tuyên một bản án hoặc khi giải gỡ các lời khấn. Dù thế nào, đây cũng là một lối khoe khoang áo xống, nhằm được tôn kính. “Ưa được chào hỏi” tại các nơi công cộng cũng là một tật xấu, cùng với tật “ưa chiếm chỗ danh dự” trong các hội đường hay các đám tiệc. Chỗ nhất trong hội đường là vị trí ở trước hòm chứa tôrah, chỗ này được dành cho những nhân vật cao trọng và các quan chức. Chỗ danh dự trong bữa tiệc là chỗ bên cạnh chủ nhà hoặc người khách đặc biệt.
- Họ nuốt hết tài sản của các bà goá (41): Bản văn Hy-lạp viết là “nuốt trửng các nhà”. Vào thời ấy, các kinh sư có thể được nhờ cậy quản lý giúp số tài sản nhỏ nhoi của các bà goá. Nhờ đó, họ có thể trục lợi. Cũng có thể là họ tư vấn về pháp luật cho các bà góa rồi đòi một thù lao cắt cổ. Dưới mắt một số chuyên pháp lý và các ngôn sứ Cựu Ước, bóc lột bà goá, người ít được luật bảo vệ nhất (vì: 1) là phụ nữ; 2) đại diện cho tình trạng nghèo túng), là một tội đặc biệt đáng ghét (Xh 22,21tt; Đnl 27,19; Is 1,7.23; 10,2; Gr 7,6; 22,3; Tv 93/94,6), còn nâng đỡ cô nhi quả phụ theo gương Thiên Chúa (Đnl 10,18t; 24,17-22; 26,12t; G 29,13; 31,16) là một việc lành được kể ở hàng đầu.
- làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: x. Mt 6,5. Đức Giêsu không kết án việc cầu nguyện lâu giờ, nhưng kết án việc cầu nguyện để cho người ta thấy. Các kinh sư đã làm hỏng hành vi tôn giáo là cầu nguyện khi nối kết nó với thái độ khoe khoang kệch cỡm của họ.
- thùng tiền (41): Từ Hy-lạp gazophylakion (do từ ngữ Ba-tư gaza = kho tàng). Đây có thể là phòng tàng trữ của cải ở bên trong khuôn viên Đền Thờ; khuôn viên này, chỉ người Do-thái mới được vào. Trong căn phòng này, có đặt mười ba hòm đựng của dâng cúng. Theo 2 Mcb 36, vào thời vua Sêlêukhô IV, phòng này đầy ứ những của cải. Theo Phl. Gioxép (Chiến tranh Do-thái 6,282), vào năm 70 sau CG, khi Đền Thờ bị thiêu hủy, phòng này đã bị thiêu rụi cùng với vàng bạc châu báu, xiêm y, tiền bạc.
- Người quan sát xem (41): Đức Giêsu ngồi đó như một khán giả xem (etheôrei) cảnh sinh hoạt. Thật ra lối mô tả của Mc không rõ ràng: Trong khi Đức Giêsu ngồi đối diện với phòng tàng trữ của cải (gazophylakion), dân chúng ném tiền vào trong các hòm của dâng cúng (gazophylakion); mà dường như người ta không được phép ngồi ở đây, nhất là lại ngồi để xem như xem trình diễn!
- đám đông bỏ tiền: “Tiền” đây dịch từ Hy-lạp chalcos, “tiền đồng”, nhưng ở đây có nghĩa là “tiền bạc” nói chung.
- một bà goá nghèo (42): Tác giả dùng từ chỉ số lượng mia (one) thay vì dùng tis (a certain), nhưng đấy là lối viết thông thường thời đó. Tuy vậy, hẳn là ngài cũng muốn lưu ý đến một sự cố đặc biệt (“một bà goá nghèo đến bỏ vào đó…”).
- hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc: Hai đồng tiền kẽm”, lepta (số đơn: lepton), bằng một kodrantês; một kodrantês bằng 1/4 as hoặc assarion; một assarion bằng 1/6 quan (một quan, denarius, là lương công nhật một người thợ).
- Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa …, bà này thì rút từ cái túng thiếu … (44): Ở đây không có một bài học luân lý nào được minh nhiên rút ra. Nhưng vì đã quen với giáo huấn của Thầy, hẳn các môn đệ Đức Giêsu có thể rút ra được nhiều bài học như: đừng phê phán ngưòi ta dựa vào dáng vẻ bề ngoài (x. Mc 12,40; Mt 23,27); những người quảng đại nhất cũng như những người đạo đức nhất không nhất thiết là những người đã tỏ ra như thế; chỉ một mình Thiên Chúa thấy trong nơi bí ẩn (x. Mt 6,4.6.18) và biết các cõi lòng (Lc 16,15; x. Cv 1,24; 15,8)…
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (38-40)
Giáo huấn của Đức Giêsu được chia thành một lời khuyến cáo mở đầu (c. 38b), một lời mô tả các kinh sư (cc. 38c-40b), và một lời kết đe dọa phán xét (c. 40c). Các kinh sư là những người “chuyên về các lời diễn tả mệnh lệnh và các thánh chỉ của Đức Chúa liên quan đến Ít-ra-en” (Er 7,11); họ được coi là có tư cách để giải thích Lề luật của Thiên Chúa và phán đoán nhưng ai không tuân giữ Lề luật. Với lời chỉ trích đầu tiên, Đức Giêsu nhắm đến sự khoe khoang của họ. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng cách mặc những áo dài đại lễ và yêu cầu được người ta cung kính chào tại các quảng trường: không chỉ là một lời chào đơn giản như shalôm, mà còn phải cúi mình trước họ và hôn tay họ chẳng hạn. Họ muốn có những chỗ danh dự trong các cử hành tôn giáo và tại bữa tiệc. Đau xót hơn, đó là lời chỉ trích thứ hai liên hệ đến sự tham lam của các kinh sư. Lối sống của họ càng đáng trách hơn nữa khi họ nối kết hành vi bóc lột với việc cầu nguyện lâu dài và giả hình.
Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc tại cuộc xử án cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời (x. Mc 10,30).
* Câu truyện bà goá nghèo (41-44)
Khung cảnh Đền Thờ, phòng tàng trữ của cải, cùng với những người giàu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nổi bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà góa, một con người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Đức Giêsu thấy được tấm lòng của bà. Lời giáo huấn Ngài ban cho các môn đệ bắt đầu bằng câu “Thầy bảo thật (amên) anh em” cho thấy rằng Đức Giêsu ở trong thế có thể thật sự lượng định giá trị của lối xử sự của loài người. Không phải là nguyên sự tự do thanh thoát đối với của cải đã đưa lại giá trị cho hành vi dâng cúng, nhưng là tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua hành vi đó.
+ Kết luận
Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), và không bị đánh lừa bởi những dáng vẻ bề ngoài, mời gọi các môn đệ đừng để bị lừa bởi một bộ mặt đạo đức che đậy sự khoe khoang, tham lam và đạo đức giả, hoặc bởi vẻ không đáng kể của những hành vi bác ái do những người nghèo và những người thất học thực hiện. Mỗi người được mời gọi ý thức về sự mỏng dòn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí của kẻ khác.
Đức Giêsu đã giới thiệu một bà góa nghèo làm gương cho các môn đệ về sự trung thực trước nhan Thiên Chúa. Hơn nữa, không như người thanh niên giàu có đã tuân giữ các giới răn, nhưng không đủ can đảm từ bỏ của cải (Mc 10,22), bà góa này “đã bỏ vào đó tất cả tài sản” (12,44). Bà đã thực hiện được một điều kiện cần và đủ để trở thành môn đệ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Lời lẽ Đức Giêsu phê phán các kinh sư có thể có phần phóng đại. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân Chúa ở các cấp vẫn cảm thấy được mời gọi đánh giá lại phong cách, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng của mình khi làm các công việc phục vụ. Đức Giêsu không “dị ứng” đối với mọi “áo xống”, nhưng Người không chấp nhận những thứ “đồng phục” để khoe khoang, gây chia rẽ người với người và thiết lập một hệ thống giai cấp.
2. Sự lừa dối đã là đáng trách, nhưng càng đáng trách hơn nữa hành vi lừa dối bằng cách vận dụng những yếu tố liên hệ đến sự thánh thiện (như đọc kinh cầu nguyện, thánh lễ, viếng nhà thờ…) để che giấu một thực trạng tiêu cực. Các kinh sư tự hào là mình đạo đức và thánh thiện để thuyết phục dân chúng hiểu rằng Thiên Chúa ở với họ. Phê phán họ, chống đối họ, từ chối kính trọng họ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa!
3. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng to lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng. “Của cho không bằng cách cho”! Cách Đức Giêsu nhận định về hành vi của bà góa mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Thế nhưng đây lại là một điểm yếu rất dễ mắc phải: ta có thiện cảm hơn với người biếu tặng cho ta nhiều hơn, chẳng hạn …
4. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa kính trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương của bà góa, không những âm thầm kín đáo làm các hành vi đạo đức, mà còn sẵn sàng giúp đỡ những người đang sống cảnh cô độc neo đơn. Một Kitô hữu chân chính thì quảng đại chia sẻ với kẻ khác “tất cả” những gì mình có. Không ai trong chúng ta nghèo đến nỗi không có gì để chia sẻ.
1.- Ngữ cảnh
Giáo huấn của Đức Giêsu và lời nhắc đến các kinh sư đi với nhau, khiến chúng ta nhớ đến đoạn văn trước (Mc 12,35). Bản văn này là như bức tranh bộ đôi trong đó nổi rõ những nét tương phản. Các kinh sư khoe khoang và đạo đức giả bị chỉ trích trong đoạn văn này là hình ảnh ngược lại với hình ảnh người môn đệ của Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (12,38-40);
2) Câu truyện bà goá nghèo (12,41-44).
Hai phần này được liên kết với nhau bằng từ móc nối “bà góa” (cc. 40.42).
3.- Vài điểm chú giải
- Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa … thích … (38): Các lời cáo buộc của Đức Giêsu được nêu theo một mức độ trầm trọng tiệm tiến: xúng xính trong áo thụng, thích được chào và thích ghế danh dự. “Áo thụng” (Hl. stolê) là áo choàng các kinh sư thường mặc để cư xử trong một số trường hợp. Mt 23,5 trách là họ đã nối dài tua áo. Thật ra chính bộ áo cũng đã “thụng”, khi đi thì kéo lê sát đất. Cũng có thể đây là cử chỉ quấn mình vào trong áo khi cầu nguyện, khi tuyên một bản án hoặc khi giải gỡ các lời khấn. Dù thế nào, đây cũng là một lối khoe khoang áo xống, nhằm được tôn kính. “Ưa được chào hỏi” tại các nơi công cộng cũng là một tật xấu, cùng với tật “ưa chiếm chỗ danh dự” trong các hội đường hay các đám tiệc. Chỗ nhất trong hội đường là vị trí ở trước hòm chứa tôrah, chỗ này được dành cho những nhân vật cao trọng và các quan chức. Chỗ danh dự trong bữa tiệc là chỗ bên cạnh chủ nhà hoặc người khách đặc biệt.
- Họ nuốt hết tài sản của các bà goá (41): Bản văn Hy-lạp viết là “nuốt trửng các nhà”. Vào thời ấy, các kinh sư có thể được nhờ cậy quản lý giúp số tài sản nhỏ nhoi của các bà goá. Nhờ đó, họ có thể trục lợi. Cũng có thể là họ tư vấn về pháp luật cho các bà góa rồi đòi một thù lao cắt cổ. Dưới mắt một số chuyên pháp lý và các ngôn sứ Cựu Ước, bóc lột bà goá, người ít được luật bảo vệ nhất (vì: 1) là phụ nữ; 2) đại diện cho tình trạng nghèo túng), là một tội đặc biệt đáng ghét (Xh 22,21tt; Đnl 27,19; Is 1,7.23; 10,2; Gr 7,6; 22,3; Tv 93/94,6), còn nâng đỡ cô nhi quả phụ theo gương Thiên Chúa (Đnl 10,18t; 24,17-22; 26,12t; G 29,13; 31,16) là một việc lành được kể ở hàng đầu.
- làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: x. Mt 6,5. Đức Giêsu không kết án việc cầu nguyện lâu giờ, nhưng kết án việc cầu nguyện để cho người ta thấy. Các kinh sư đã làm hỏng hành vi tôn giáo là cầu nguyện khi nối kết nó với thái độ khoe khoang kệch cỡm của họ.
- thùng tiền (41): Từ Hy-lạp gazophylakion (do từ ngữ Ba-tư gaza = kho tàng). Đây có thể là phòng tàng trữ của cải ở bên trong khuôn viên Đền Thờ; khuôn viên này, chỉ người Do-thái mới được vào. Trong căn phòng này, có đặt mười ba hòm đựng của dâng cúng. Theo 2 Mcb 36, vào thời vua Sêlêukhô IV, phòng này đầy ứ những của cải. Theo Phl. Gioxép (Chiến tranh Do-thái 6,282), vào năm 70 sau CG, khi Đền Thờ bị thiêu hủy, phòng này đã bị thiêu rụi cùng với vàng bạc châu báu, xiêm y, tiền bạc.
- Người quan sát xem (41): Đức Giêsu ngồi đó như một khán giả xem (etheôrei) cảnh sinh hoạt. Thật ra lối mô tả của Mc không rõ ràng: Trong khi Đức Giêsu ngồi đối diện với phòng tàng trữ của cải (gazophylakion), dân chúng ném tiền vào trong các hòm của dâng cúng (gazophylakion); mà dường như người ta không được phép ngồi ở đây, nhất là lại ngồi để xem như xem trình diễn!
- đám đông bỏ tiền: “Tiền” đây dịch từ Hy-lạp chalcos, “tiền đồng”, nhưng ở đây có nghĩa là “tiền bạc” nói chung.
- một bà goá nghèo (42): Tác giả dùng từ chỉ số lượng mia (one) thay vì dùng tis (a certain), nhưng đấy là lối viết thông thường thời đó. Tuy vậy, hẳn là ngài cũng muốn lưu ý đến một sự cố đặc biệt (“một bà goá nghèo đến bỏ vào đó…”).
- hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc: Hai đồng tiền kẽm”, lepta (số đơn: lepton), bằng một kodrantês; một kodrantês bằng 1/4 as hoặc assarion; một assarion bằng 1/6 quan (một quan, denarius, là lương công nhật một người thợ).
- Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa …, bà này thì rút từ cái túng thiếu … (44): Ở đây không có một bài học luân lý nào được minh nhiên rút ra. Nhưng vì đã quen với giáo huấn của Thầy, hẳn các môn đệ Đức Giêsu có thể rút ra được nhiều bài học như: đừng phê phán ngưòi ta dựa vào dáng vẻ bề ngoài (x. Mc 12,40; Mt 23,27); những người quảng đại nhất cũng như những người đạo đức nhất không nhất thiết là những người đã tỏ ra như thế; chỉ một mình Thiên Chúa thấy trong nơi bí ẩn (x. Mt 6,4.6.18) và biết các cõi lòng (Lc 16,15; x. Cv 1,24; 15,8)…
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (38-40)
Giáo huấn của Đức Giêsu được chia thành một lời khuyến cáo mở đầu (c. 38b), một lời mô tả các kinh sư (cc. 38c-40b), và một lời kết đe dọa phán xét (c. 40c). Các kinh sư là những người “chuyên về các lời diễn tả mệnh lệnh và các thánh chỉ của Đức Chúa liên quan đến Ít-ra-en” (Er 7,11); họ được coi là có tư cách để giải thích Lề luật của Thiên Chúa và phán đoán nhưng ai không tuân giữ Lề luật. Với lời chỉ trích đầu tiên, Đức Giêsu nhắm đến sự khoe khoang của họ. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng cách mặc những áo dài đại lễ và yêu cầu được người ta cung kính chào tại các quảng trường: không chỉ là một lời chào đơn giản như shalôm, mà còn phải cúi mình trước họ và hôn tay họ chẳng hạn. Họ muốn có những chỗ danh dự trong các cử hành tôn giáo và tại bữa tiệc. Đau xót hơn, đó là lời chỉ trích thứ hai liên hệ đến sự tham lam của các kinh sư. Lối sống của họ càng đáng trách hơn nữa khi họ nối kết hành vi bóc lột với việc cầu nguyện lâu dài và giả hình.
Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc tại cuộc xử án cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời (x. Mc 10,30).
* Câu truyện bà goá nghèo (41-44)
Khung cảnh Đền Thờ, phòng tàng trữ của cải, cùng với những người giàu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nổi bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà góa, một con người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Đức Giêsu thấy được tấm lòng của bà. Lời giáo huấn Ngài ban cho các môn đệ bắt đầu bằng câu “Thầy bảo thật (amên) anh em” cho thấy rằng Đức Giêsu ở trong thế có thể thật sự lượng định giá trị của lối xử sự của loài người. Không phải là nguyên sự tự do thanh thoát đối với của cải đã đưa lại giá trị cho hành vi dâng cúng, nhưng là tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua hành vi đó.
+ Kết luận
Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), và không bị đánh lừa bởi những dáng vẻ bề ngoài, mời gọi các môn đệ đừng để bị lừa bởi một bộ mặt đạo đức che đậy sự khoe khoang, tham lam và đạo đức giả, hoặc bởi vẻ không đáng kể của những hành vi bác ái do những người nghèo và những người thất học thực hiện. Mỗi người được mời gọi ý thức về sự mỏng dòn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí của kẻ khác.
Đức Giêsu đã giới thiệu một bà góa nghèo làm gương cho các môn đệ về sự trung thực trước nhan Thiên Chúa. Hơn nữa, không như người thanh niên giàu có đã tuân giữ các giới răn, nhưng không đủ can đảm từ bỏ của cải (Mc 10,22), bà góa này “đã bỏ vào đó tất cả tài sản” (12,44). Bà đã thực hiện được một điều kiện cần và đủ để trở thành môn đệ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Lời lẽ Đức Giêsu phê phán các kinh sư có thể có phần phóng đại. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân Chúa ở các cấp vẫn cảm thấy được mời gọi đánh giá lại phong cách, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng của mình khi làm các công việc phục vụ. Đức Giêsu không “dị ứng” đối với mọi “áo xống”, nhưng Người không chấp nhận những thứ “đồng phục” để khoe khoang, gây chia rẽ người với người và thiết lập một hệ thống giai cấp.
2. Sự lừa dối đã là đáng trách, nhưng càng đáng trách hơn nữa hành vi lừa dối bằng cách vận dụng những yếu tố liên hệ đến sự thánh thiện (như đọc kinh cầu nguyện, thánh lễ, viếng nhà thờ…) để che giấu một thực trạng tiêu cực. Các kinh sư tự hào là mình đạo đức và thánh thiện để thuyết phục dân chúng hiểu rằng Thiên Chúa ở với họ. Phê phán họ, chống đối họ, từ chối kính trọng họ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa!
3. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng to lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng. “Của cho không bằng cách cho”! Cách Đức Giêsu nhận định về hành vi của bà góa mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Thế nhưng đây lại là một điểm yếu rất dễ mắc phải: ta có thiện cảm hơn với người biếu tặng cho ta nhiều hơn, chẳng hạn …
4. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa kính trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương của bà góa, không những âm thầm kín đáo làm các hành vi đạo đức, mà còn sẵn sàng giúp đỡ những người đang sống cảnh cô độc neo đơn. Một Kitô hữu chân chính thì quảng đại chia sẻ với kẻ khác “tất cả” những gì mình có. Không ai trong chúng ta nghèo đến nỗi không có gì để chia sẻ.