THỪA SAI HẢI NGOẠI PARIS

350 năm xây dựng Giáo Hội Việt Nam (Bài 5)

Ðức Cha Lambert lên đường đi Vìệt Nam[i]



Ðược bổ nhiệm làm Ðại Diện Tông Tòa ngày 29.07.0658, hai Giám Mục Giám Quản Ðịa Phận Ðàng Trong và Ðịa Phận Ðàng Ngoài có gần hai năm để chuẩn bị hành trang. Mùa hè 1660 cuộc hành trình lên đường đã có thể nghĩ tới. Trong thực tế, Ðức cha Lambert đã tiên phong đi trước (1960); Ðức Cha Pallu đi sau (1662); Cả hai Ðức cha Lambert (1662) và Pallu (1664) đều đừng chân ở Ayuthia, Thái Lan, địa chỉ đầu tiên của Tòa Giám Mục Ðàng Trong.

1. Có hai đường đi Viễn Ðông, đường thủy do Bồ Ðào Nha kiểm soát và đường bộ qua lồi Syrie và Ba Tư. Thánh bộ Truyền Giáo rõ rệt muốn các phái đoàn thừa sai đi đường bộ. Ðức cha Pierre Lambert de la Motte là người đầu tiên lên đường.

Ðược bổ nhiệm làm giám mục hiệu tòa cùng một lúc với Ðức Cha Pallu, Ðc Lambert de la Motte, giám mục hiệu tòa Bérythe muốn tỏ ra vâng phục những chỉ dẫn về tính kín đáo của Thánh Bộ Truyền Giáo, đã rút về miền Normandie, và chỉ đã được tấn phong giám mục vào ngày 11.06.1660 tại nhà thờ Sainte-Marie, đường Saint-Antoine, Paris, do Ðức Cha Victor de Bouthillier, Tổng Giám Mục Tours, chủ phong.

2. Vài ngày sau khi được tấn phong, Ðc Lambert đã tĩnh tâm gần một tuần lễ, rồi không kèn trống, không loan báo cho bạn bè, không từ giã bà con, kín đáo bỏ Paris, ngày 18.06.1660, mang theo cha Jacques de Bourges (Gia), tiến si- thần học, và một giáo dân giúp việc là ông Nicolas Legras, lên đường.

Mười ngày sau, 28.06.1660, ba người lữ hành đến Lyon. Bất chợt Ðc Lambert bị sốt nặng. May thay, hai ngày sau, cơn sốt thuyên giảm, và vài ngày sau, ngài đã bình phục. Các ngài tới Marseille vào ngày 09.09.1660. Trong thời gian chờ đợi tầu, phái đoàn thừa sai sống trong cầu nguyện và tĩnh tâm, và được tăng cường thêm một linh mục mới. Ðó là cha François Deydier (Phan).

Hai tháng sau, ngày 27.11.1660, rời Marseille, Ðc Lambert, 36 tuổi, cùng với cha Jacques de Bourges, 30 tuổi, cha François Deydier, 26 tuổi và giáo dân giúp việc Nicolas Legras, tạo thành phái đoàn thừa sai đầu tiên xuống tầu. Bỏ Marseille, cũng như bỏ lại cả một thời tâm linh phát khởi, đang từ từ lui vào hậu trường. Nghị định 1960 cấm không được hoạt động, những hội đoàn không được ngự chỉ cho phép, trong đó có Hội Thánh Thể. Cha thánh Vincent de Paul, một trong những hội viên lừng danh, qua đời năm 1660; Mẫu hậu Anne d’Autriche, người bảo trợ quan trọng của hội, lui về Val de Grâce, rồi từ trần năm 1666; Blaise Pascal mất vào năm 1662,..; Một thời rực sáng mới đang mọc lên: Vua Mặt Trời, Vua Louis XIV, Vua Louis Cả,… trong đó, các loại đối lập đều bị thủ tiêu; tôn giáo trở thành một dụng cụ của quyền hành chính trị; công việc của các đại diện tông tòa không còn có những tâm hồn mộ đạo ủng hộ như lúc đầu nữa, mà bị các cạnh tranh quyền hành chen lấn,… sứ mệnh rao giảng tin mừng cho lương dân, tự nó đã khó, nay càng khó hơn.

3. Hai tháng sau, ngày 11.01.1661, đoàn thừa sai tới Alexandrette, sau khi đã ghé Malte và Chypre. Họ đi tiếp đến Alep, một thành phố Syrie. Ở đây họ được Lãnh Sự Pháp tiếp đón, nghỉ lại ít hôm, rồi, ngày 25.01.1661, lên đường, băng qua sa mạc, và ngày 04.03.1661 đến Bagdad. Cuộc hành trình thực là gian khổ. Cha Jacques Bourges, trong tập « Ký sự hành trình », kể rằng « Từ sáng sớm, cỡi ngựa hay lạc đà cho đến tối, dừng lại dùng bữa. Ðãy là bữa ăn duy nhất trong ngày. Mỗi người thủ sẵn ít biscuit và mấy trái cây khô, hòng nhấm nhút lúc mệt trong ngày. Chỉ đến tối, mới được dừng chân, đốt lửa, làm bếp, làm bếp theo nghĩa là nấu cơm với bơ ». Ðc Lambert thì ghi « mệt nhọc hầu như cả ngày, chỉ uống nước, ngủ ngoài trời, hầu như chẳng ăn thịt cá gì,.. » và nhớ đến việc Chúa ăn chay 40 ngày đêm trong sa mạc.

Từ đó, họ lấy thuyền dọc sông Tigre, đến Bassora, lên tới Ispahan, thủ đô nước Ba Tư, ngày 11.06.1661. Phái đoàn thừa sai nhớ đến cha thừa sai Ðắc Lộ đã từ trần ở đây, cách nay 7 tháng, ngày 05.11.1960, và cuốn sách của ngài nói về việc truyền giáo tràn đầy hy vọng ở Ba Tư. Thực tế, trước mắt, họ khám phá ra cộng đoàn công giáo ở đây, vỏn vẹn chỉ có mấy gia đình tiểu công nghệ hay buôn bán; và các thừa sai ngoại quốc ở đây, gồm dòng chiêm niệm, dòng augustinô, dòng capucinô và dòng Tên chỉ lo việc khảo cứu ngôn ngữ và khoa học, chứ không lo gì đến việc truyền giáo. Nói chuyện và nghe các thừa sai ở đây, một vấn nạn nghi nan xâm lấn tâm tư Ðc Lambert: chả nhẽ những điều các cha dòng Tên tường thuật chỉ là hoang đường, đựng lên để làm đẹp lòng những tâm hồn mộ đạo người Pháp ? Vậy thì những ký sự khác viết về Nam Việt và Bắc Việt có hoang đường giống như vậy không ? Nếu giống như vậy, thì có nên đặt lại vấn đề về sứ mệng của Ðại Diện Tông Tòa Ðàng Trong và Ðàng Ngoài không ? Thất vọng vì những khám phá sự thật này, nhưng không nản chí, vì như lời Ðc viết cho Thánh Bộ Truyền giáo « Chúng tôi quyết theo ý Chúa và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để thực hiện lệnh truyền của Tòa Thánh và của Thánh Bộ »; nhưng Ðc Lambert hiểu rõ hơn lời dặn dò của Thánh Bộ phải cẩn thận với các cha dòng Tên và rõ rệt ý thức được những nguy hiểm mà những người Bồ Ðào Nha muốn bảo vệ Chế Ðộ Bảo Trợ có thể gây nên.

Ngày 26.09.1661, rời Ispahan, nhập bọn với người Anh và theo hướng dẫn của họ, Ðc Lambert và các thừa sai đồng hành đi về Surate. Tới đây, họ được hai cha capucinô người Pháp, Ambroise de Preuilly và Gilles de Bourges, tiếp đón. Họ cũng được hai cha này cho hay rằng vào tháng sáu 1661 vừa qua, một lệnh từ thủ đô Lisbonne truyền đến Goa đòi bắt các giám mục Pháp và giải về Âu Châu. Việc cẩn trọng tránh đụng độ với các nhân viên Chế dộ Bảo trợ, dân sự hay giáo sĩ, thành ra càng khẩn thiết hơn. Ðể tránh người Bồ Ðào Nha, tốt nhất là đi với người Hòa Lan hay người Anh. Ði với người Hòa lan, thì người Bồ đào nha tránh xa, vì là địch thủ đáng gờm, nhưng họ quá tham lam thương mại, và hay mở thơ xem lén. Người Anh coi bộ lương thiện hơn và rầt lịch thiệp.

4. Ngày 25.01.1662, rời Surate, lên đường, đi vượt qua Ấn độ, từ Tây qua Ðông, qua Oletabal, Noringabal, Beder, Golconde, đến Massulipatam, ngày 06.03.1662. Bốn mươi ngày hành trình này cũng là dịp để các thừa sai gặp gỡ, khám phá và hiểu biết về tôn giáo Á châu. Trước hết, họ thán phục trí lý luận sắc bén của một số người, họ gặp được « đồng thanh, đồng khí » về những tâm tình tôn giáo, họ thấy được lòng đạo đức và việc cầu nguyện chân thành của người hồi giáo, họ chứng kiến cuộc sống khó nghèo, đơn sơ và chân thành của các sư sãi ấn giáo. Từ đó, họ thấy có nhiều thiện cảm với đời sống tôn giáo của dân chúng và các nhà sư Ấn độ. Họ bắt đầu khám phá ra tâm tình tôn giáo của người Á Ðông. Và họ phàn nàn cho cách sống đạo ngược ngạo của người công giáo âu châu ở đây: « Ðược lãnh nhận Chân lý mạc khải, người kitô hữu Âu Châu không sống đúng đức tin mà họ rao truyền; tác phong đạo đức thua kén người Á châu và như vậy chẳng những không truyền đạo, mà lại là chứng tá phản đạo ». Ở Ba Tư, họ đã thấy sự nói dối và lạm dụng lòng tin của các cha dòng Tên, ở Án Ðộ, họ chứng kiến sự buông thả luân lý và sự đầu cơ tài phiệt của các tu sĩ truyền giáo, nhất là các tu sĩ dòng Tên, vì họ chiếm số đông. Ðức cha Lambert cảm thấy thất vọng vô ngần về cuộc sống mà ngài gọi là « phản bội không thể tha thứ được » này của các cha dòng Tên.

Ngày 26.03.1662, xuống tầu qua vịnh Bengale, tới Mergui ngày 28.04.1662, rồi thẳng đường, đi vào Thái Lan

5. Ngày 19.05.1662, họ tới Tenasserim, đất Thái Lan. Ở đây họ ở trọ nhà cha Cardoso, dòng Tên, người Bồ Ðào Nha. Cha Cordoso lợi dụng dịp may, xin Ðc Lambert làm phép thêm sức cho bổn đạo của ngài. Ðc Lambert và hai cha thừa sai lợi dụng dịp này, quan sát dân tình. Về phía giáo dân, các cộng đoàn công giáo chính yếu gồm người Bồ Ðào Nha, Nhật và Việt Nam. Có khoảng 100 người ở Tamasserim và Mergui; trên dăm ba chục ở Nakon Sri Thammarat và ở Phuket. Số còn lại ở Ayuthia. Tự do tôn giáo hầu như hoàn toàn. Nhà thờ mở cửa to rộng, hát xường kinh nguyện tự do, giảng thuyết tha hồ. Về phía dân bản địa, họ gặp gỡ các nhà sư phật giáo. Tất cả các nhà sư đều thuộc quyền vương quốc. Không có trường học. Nhưng các chùa đích thực là những trung tâm giáo dục và luân lý. Ðích thân vua Phra Narai đặt để các chủ trì điều hành chùa. Trong mỗi chùa, có rất đông sư sãi, chú tiểu,.. và người giúp việc. Cha mẹ thường hay gởi con vào học trong chùa, đặc biệt học tiếng pali và phật đạo. Số sư sãi trên nước Thái Lan vào hậu bán thế kỷ XVII kể có đến cả mấy trăm ngàn.

Dừng lại đây một tháng, hơn, ngày 30.06.1662, phái đoàn thừa sai tiếp tục hành trình, lấy thuyền đi đến Tha Phrik, Kuiburi, Pranburi, Petchaburi,..

6. Ngày 22.08.1662, họ đến Ayuthia. Từ ngày rời Paris, 18.06.1660, hai năm, hai tháng, bốn ngày sau, họ đã tới Ayuthia bình an. Tạ ơn Chúa !

Ayuthia, thủ đô Thái Lan hồi ấy là một trung tâm giao thông thương mại Á châu quan trọng. Nhiều người Âu Châu không có phép vào Trung hoa hay Nhật bản, đến đây mua bán những hàng hoá đến từ hoặc gửi cho Nhật và Tầu. Cả vài chục thứ tiếng được nói, nghe ở đây. Người ngoại quốc được tiếp đón tử tế và cư ngụ trong những khu trại chung quanh thành phố. Người Tầu, người Nhật, Người Việt, người Mã lai,… ở kế cận bên người Bồ đào Nha, đến đây từ thế kỷ XVI, hay người Hòa Lan hoặc người Anh, mới đến từ năm 1610. Có cả 4, 5 người Pháp, làm thuê cho hãng « Compagnie de Hollande ».

Về phần Giáo Hội Công Giáo ở đây, thì theo lời kể của Ðc Lambert: « Chúng tôi thấy có ở đây 11 linh mục. Ba linh mục triều rất thô bạo và say đắm trong nết xấu, bốn linh mục dòng Chúa Giêsu, trong đó một vị ở riêng để dễ bề làm việc buôn bán cho cửa hiệu riêng của ông,…. nhưng ngay trong nhà dòng người ta cũng công khai làm thương mại; ngoài ra có hai cha dòng Ða Minh, mỗi người ở mỗi nhà và lo làm những việc trần tục và những việc xáu hơn và đáng cấm. Sau cùng, có hai cha Phanxicô cũng sống ngoài cộng đoàn của họ ». Còn về phần giáo dân, thì « Họ đã hư hỏng đến độ đời sống tồi tệ của họ trở thành nguy hiểm ngăn cản lương dân trở lại đạo ». Dẫu được người thủ lãnh trại Bồ Ðào Nha tiếp đón tử tế và tìm cho nhà ở cạnh nhà ông, Ðc Lambert và các thừa sai đồng hành cũng muốn tỏ ra không bằng lòng với những thói quen này của các giáo sĩ sở tại. Ngài quyết định cấm phòng 40 ngày và như vậy không liên lạc với họ trong thời gian này. Tình hình coi bộ căng thẳng với Người Bồ Ðào Nha.

7. Ngày 10.10.1662, vừa ra phòng, Ðc Lambert vội vã viết một loạt thơ để nhờ thuyền trưởng Hòa Lan mang về Âu Châu. Ðc thực tế cắt đứt liên lạc với người Bồ Ðào Nha, nhưng lại rất thân tình với người trưởng nhóm Hòa Lan. Một bữa nọ, ông mời các giáo sĩ Pháp dùng cơm và giới thiệu với họ hai người Nam Việt để dậy tiếng việt cho họ. Qua liên lạc với hai người nam việt này, các ngài bắt đầu học tiếng việt và lo làm việc tông đồ cho cộng đoàn việt nam vừa mới được thành lập trên đất Thái này.

Từ tháng giêng 1663, Một số lễ rửa tội đã được thực hiện một cách công khai, trước mắt các tu sĩ Bồ Ðào Nha, lại càng làm cho căng thẳng giữa hai nhóm thừa sai căng thêm. Từ tháng 12 1662, khi nhóm Bồ Ðào Nha nhận được lệnh từ Goa gởi tới đòi họ phải tìm đủ cách ngăn cản các giám mục Pháp. Từ đó Người Bồ Ðào Nha lại càng có lý do để tìm cách loại trừ những người tiếm vị này. Họ phao tin thất thiệt về quyền hành và về thân thế Ðức cha. Họ hạch hỏi đức cha phải trình giấy tờ chứng minh. Thậm chí họ mang lính đến bắt đức cha. May thay nhóm giáo hữu Việt Nam đã kịp đến giải vây và đưa ngài về trại của họ. Từ đó, Ðc Lambert lập địa sở thường trực ở đây và đặt tên là trại Thánh Giuse. Ta có thể bảo rằng đây là địa chỉ đầu tiên của Tòa Giám Mục Ðịa phận Ðàng Trong.

Vào tháng 10.1663, cộng đoàn công giáo (đầu tiên) sinh hoạt với các thừa sai hải ngoại Paris đếm được khoảng 150 người, mà đa số là Việt Nam và Nhật Bản.

Paris, ngày 02 tháng 02 năm 2008

Ðính chính: trong bài 3, ở cuối trang 8, xin đọc « Ngày 11-06-1660, cha Lambert được tấn phong giám mục tại Paris », thay vì « Ngày 2.6.1660,.. . »

--------------------------------------------------------------------------------

Chú thích

[i] [i] Toàn bài này đã được dựa vào 3 tài liệu chính yếu sau dây:

· VAN GRASDORFF Gilles: La belle histoire des Missions Etrangères 1658-2008, Edition PERRIN; 2007, 492 trang, tr. 60-74, 86-98.

· FAUCONNET-BUZELIN, Françoise: Aux sources des Missions Étrangères: Pierre Lambert de la Motte; Editions PERRIN, 2006, 360 trang, tr. 76-104

· Ð ÀO QUANG TOẢN, Đức cha Lambert với chế độ bảo trợ truyền giáo Bồ Đào Nha. trong

http://fr.blog.360.yahoo.com/blog-SQMu_Aw1eqlqM9wPBUMWZMI-?cq=1&bid=41&yy=2007&mm=11